Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC và các thủ thuật thay đổi số liệu kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.28 KB, 17 trang )

BÀI THẢO LUẬN

Nhóm 1
Đề tài : PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
VÀ CÁC THỦ THUẬT BÓP MÉO SỐ LIỆU KẾ TOÁN

GVGD: PGS.TS. TRÂN THỊ THANH TÚ
TS. TRỊNH THỊ PHAN LAN

Phần I: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH
I.

KHÁI NIỆM VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Báo cáo tài chính (BCTC) là các thông tin kinh tế được kế toán viên trình bày
dưới dạng bảng biểu, cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh
doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp (DN) đáp ứng các cầu cho những người sử
dụng chúng trong việc đưa ra các quyết định về kinh tế.
Mỗi quốc gia có hệ thống báo cáo tài chính riêng và cần tuân thủ theo Hệ thống
tiêu chuẩn tài chính quốc tế chung. Ở Việt Nam, hệ thống báo cáo tài chính bao gồm:
1. Bảng cân đối kế toán.
2. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh.
3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
4. Thuyết minh báo cáo tài chính.


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO



BCTC có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý doanh nghiệp cũng như
đối với các cơ quan chủ quản và các đối tượng quan tâm thể hiện ở những điểm sau
đây:
 BCTC là những báo cáo được trình bày hết sức tổng quát, phản ánh một cách
tổng hợp nhất về tình hình tài sản, các khoản nợ, nguồn hình thành tài sản, tình
hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
 BCTC cung cấp những thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu để đánh giá tình
hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh
nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua, giúp cho việc kiểm tra, giám sát tình hình sử
dụng vốn và khả năng huy động nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
 BCTC là căn cứ quan trọng trong việc phân tích, nghiên cứu, phát hiện những
khả năng tiềm tàng và là căn cứ quan trọng đề ra các quyết định về quản lý,
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư của chủ sở hữu, các nhà
đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.
 BCTC còn là những căn cứ quan trọng để xây dựng các kế hoạch kinh tế – kỹ
thuật, tài chính của doanh nghiệp là những căn cứ khoa học để đề ra hệ thống
các biện pháp xác thực nhằm tăng cường quản trị doanh nghiệp không ngừng
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Chính vì vậy, BCTC là đối tượng quan tâm của Hội đồng quản trị doanh
nghiệp, các nhà đầu tư (NĐT), người cho vay, các cơ quan quản lý và toàn bộ cán bộ,
công nhân viên của doanh nghiệp.

II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN BÁO
CÁO TÀI CHÍNH
Báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng với nhiều đối tượng khác nhau, ảnh
hưởng đến các quyết định đầu tư, tài trợ. Tuy nhiên báo cáo tài chính chỉ thực sự phát
huy tác dụng khi nó phản ánh một cách trung thực tình trạng tài chính doanh nghiệp,

vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác trong ngành. Muốn vậy, thông
tin sử dụng trong BCTC phải chính xác, có độ tin cậy cao. Có rất nhiều những nhân tố

1


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

ảnh hưởng đến chất lượng thông tin của BCTC mà doanh nghiệp công bố ra công
chúng, có thể kể đến như sau:
1. Chất lượng dữ liệu đầu vào
Dữ liệu đầu vào là bước đầu để tạo lập nên BCTC. Dữ liệu đầu vào là các hóa
đơn, các số liệu kế toán được thu thập theo ngày, tháng, quý, năm và được tổng hợp
tính toán để lập nên BCTC.
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng báo cáo tài chính, bởi
một khi thông tin sử dụng không chính xác, không phù hợp thì kết quả mà báo cáo tài
chính đem lại chỉ là hình thức, không có ý nghĩa gì. Vì vậy, có thể nói thông tin sử
dụng trong báo cáo tài chính là nền tảng của báo cáo tài chính
Từ những thông tin bên trong trực tiếp phản ánh tài chính doanh nghiệp đến
những thông tin bên ngoài liên quan đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp,
người phân tích có thể thấy được tình hình tài chính doanh nghiệp trong quá khứ, hiện
tại và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai.
Tình hình nền kinh tế trong và ngoài nước không ngừng biến động, tác động
hàng ngày đến điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, tiền lại có giá trị
theo thời gian, một đồng tiền hôm nay có giá trị khác một đồng tiền trong tương lai.
Do đó, tính kịp thời, giá trị dự đoán là đặc điểm cần thiết làm nên sự phù hợp của
thông tin. Thiếu đi sự phù hợp và chính xác, thông tin không còn độ tin cậy và điều
này tất yếu ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính doanh nghiệp
Nếu trong quá trình thu thập, tổng hợp và tính toán các dữ liệu này có sai sót

thì thông tin trong BCTC sẽ có sự sai lệch, không phản ánh được đầy dủ và đúng đắn
thực trạng hoạt động của doanh nghiệp. Đảm bảo chất lượng của các dữ liệu đầu vào
sẽ góp phần nâng cao chất lượng thông tin của BCTC trong doanh nghiệp.
2. Năng lực nhân viên kế toán
Vấn đề nguồn nhân lực cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong công tác kế
toán, lập và trình bày BCTC.
Có được thông tin phù hợp và chính xác nhưng tập hợp và xử lý thông tin đó
như thế nào để đưa lại kết quả báo cáo tài chính có chất lượng cao lại là điều không
đơn giản. Nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của cán bộ thực hiện phân tích. Từ các
thông tin thu thập được, các cán bộ phân tích phải tính toán các chỉ tiêu, thiết lập các
bảng biểu. Tuy nhiên, đó chỉ là những con số và nếu chúng đứng riêng lẻ thì tự chúng
sẽ không nói lên điều gì. Nhiệm vụ của người phân tích là phải gắn kết, tạo lập mối
liên hệ giữa các chỉ tiêu, kết hợp với các thông tin về điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
doanh nghiệp để lý giải tình hình tài chính của doanh nghiệp, xác định thế mạnh, điểm

2


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

yếu cũng như nguyên nhân dẫn đến điểm yếu trên. Hay nói cách khác, cán bộ phân
tích là người làm cho các con số “biết nói”. Chính tầm quan trọng và sự phức tạp của
phân tích tài chính đòi hỏi cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên môn cao.
Nếu bộ máy kế toán của doanh nghiệp không đủ chuyên môn, có vấn đề về đạo
đức sẽ tạo nên việc hiểu và diễn giải sai chính sách, ảnh hưởng lớn tới chất lượng
thông tin của BCTC.
Vì vậy, nhân viên kế toán của các doanh nghiệp cần luôn được bồi dưỡng về
đạo đức, đào tạo nâng cao năng lực để luôn giữ vững đạo đức nghề nghiệp, kịp thời
cập nhật các quy định mới của pháp luật trong lĩnh vực tài chính, góp phần làm tăng

tính chính xác, độ tin cậy của thông tin trong BCTC.
3. Bộ máy quản trị của công ty:
Trong một doanh nghiệp, nhiệm vụ của hội đồng quản trị là thay mặt các cổ
đông giám sát hoạt động của giám đốc điều hành để phát hiện ra những sai sót, gian
lận để kịp thời ngăn chặn những hành vi đi ngược lại với lợi ích của cổ đông. Một
công ty có hội đồng quản trị độc lập với giám đốc điều hành sẽ làm tăng hiệu quả
giám sát, giảm được những hành vi vì lợi ích riêng của các nhà quản lý.
Dưới sự giám sát chặt chẽ của hội động quản trị, giám đốc điều hành sẽ đưa ra
được những thông tin chi tiết, chính xác, minh bạch cho các cổ đông, không thể vì lợi
ích của bản thân mà che giấu hoặc làm sai lệch thông tin trong báo cáo, từ đó tăng số
lượng cũng như chất lượng thông tin của BCTC.
4. Mục đích của ban lãnh đạo
Trong một số trường hợp, vì mục đích riêng của ban lãnh đạo doanh nghiệp mà
thông tin trong BCTC có sự sai lệch. Các doanh nghiệp nhà nước hoặc các công ty
niêm yết thường có xu hướng luôn báo cáo có lãi. Với các doanh nghiệp nhà nước,
nếu doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, làm ăn thua lỗ thì sẽ ảnh hưởng tới
quyền lợi của các lãnh đạo công ty, làm giảm lương thưởng của ban điều hành, vì vậy
mà họ sẽ sử dụng các biện pháp làm thay đổi số liệu của BCTC, chuyển lỗ thành lãi.
Còn với các công ty đại chúng, do chịu áp lực từ các cổ đông, do muốn làm
tăng giá cổ phiếu, thu hút thêm các nhà đầu tư, ban lãnh đạo của công ty có thể bóp
méo số liệu, làm gia tăng lãi hoặc chuyển lỗ thành lãi trong BCTC. Chính điều này sẽ
làm sụt giảm nghiêm trong chất lượng thông tin cũng như độ chính xác của BCTC.
5. Áp lực từ thuế
Áp lực từ việc nộp thuế cũng có tác động đến việc đưa ra thông tin trong
BCTC. BCTC là một trong những căn cứ quan trọng để lập nên báo cáo thuế nên nếu
cơ quan thuế không kiểm tra được sự chính xác của BCTC thì báo cáo thuế cũng bị sai

3



NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

lệch đáng kể. Thuế thu nhập doanh nghiệp là khoản thuế bắt buộc với các doanh
nghiệp, nó sẽ làm giảm bớt thu nhập cuối cùng của doanh nghiệp.
Trong một số trường hợp, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một số công ty
không muốn nộp khoản thuế này khi lập báo cáo sẽ giấu đi doanh thu, làm giảm lãi
hoặc chuyển lãi thành lỗ nhằm giảm khoản thuế phải nộp hoặc để không phải nộp
thuế. Điều này làm thông tin của BCTC không còn chính xác, đủ độ tin cậy nữa.
6. Chất lượng kiểm toán
Kiểm toán là khâu quan trọng bắt buộc trong lập BCTC. Kiểm toán viên sẽ
kiểm tra và cho ý kiến xác nhận về tính chính xác, độ tin cậy của BCTC. Kiểm toán
độc lập sẽ không bị ảnh hưởng bởi công ty được kiểm toán, từ đó đưa ra được những
thông tin chính xác, khách quan hơn. Khi BCTC được kiểm toán bởi các doanh nghiệp
lớn, có uy tín, chuyên nghiệp như Big 4 (Doilotte, PWC, E&Y, KPMG) thì sẽ đảm bảo
chất lượng của thông tin được đưa ra; những ý kiến của họ đưa ra sẽ nâng cao tính
minh bạch của công ty, tăng giá trị công ty và tạo sự an tâm, niềm tin cho nhà đầu tư
và các đối tượng sử dụng thông tin.
7. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý cũng có ảnh hưởng nhất định tới chất lượng thông tin
BCTC. Hệ thống chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, luật kế toán, và các quy định
khác có liên quan càng chi tiết rõ ràng thì việc lập và trình bày BCTC càng chính xác,
thông tin đưa ra trong BCTC càng đầy đủ, minh bạch, có độ tin cậy hơn. Ngược lại,
nếu hệ thống chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán chưa hoàn thiện thì có thể tạo ra
các lỗ hổng để các công ty có thể dựa đó để lách luật, làm sai lệch thông tin, giảm chất
lượng thông tin BCTC.

4



NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

Phần II: CÁC THỦ THUẬT BÓP MÉO
SỐ LIỆU KẾ TOÁN (BAO GỒM
NGHIỆP VỤ TÀI TRỢ NGOẠI BẢNG)
I. Thủ thuật bóp méo số liệu
1. Khái niệm:
Theo kết quả nghiên cứu của Hiệp hội các nhà điều tra gian lận Mỹ (The
Association of Certified Fraud Examiners-ACFE), bóp méo số liệu của Báo cáo tài
chính (BCTC), là một hành vi gian lận khi các thông tin trên BCTC bị bóp méo, phản
ảnh không trung thực tình hình tài chính một cách cố ý nhằm lừa gạt người sử dụng
thông tin.
2. Nguyên nhân:
Thông thường, có ba nguyên nhân chính dẫn đến việc bóp méo báo cáo tài chính:
 Nguyên nhân thứ nhất do ban giám đốc có động cơ để tô vẽ báo cáo tài chính lạc
quan hơn so với thực tế, nhằm đạt được kỳ vọng của nhà đầu tư và tăng quyền lợi
được hưởng từ phía doanh nghiệp.
 Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ việc áp dụng các chuẩn mực kế toán. Các tiêu
chuẩn kế toán được thừa nhận khá linh động trong từng trường hợp. Điều này dễ
dàng để ban giám đốc tạo ra một báo cáo tài chính có lợi cho công ty để cung cấp
cho NĐT và các bên liên quan.
 Nguyên nhân thứ ba, hiếm khi việc bóp méo báo cáo tài chính bị phát hiện bởi
NĐT do mối quan hệ mật thiết của nhà kiểm toán độc lập và DN. Về nguyên tắc,
tổ chức kiểm toán làm việc như một đơn vị độc lập. Tuy nhiên, có sự phát sinh
xung đột về lợi ích do lợi nhuận thu được từ các DN mà tổ chức kiểm toán tham
gia tác nghiệp. Hậu quả là kiểm toán viên có thể linh động hóa các tiêu chuẩn kế
toán, nhằm thay đổi tình trạng tài chính của DN khiến khách hàng DN hài lòng.
Ngoài ra, đơn vị kiểm toán cũng nhận được khoản doanh thu tương đối lớn từ


5


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

khách hàng DN. Do vậy, áp lực chứng nhận tính minh bạch của báo cáo tài chính
cho DN để giữ mối khách hàng là rất lớn.

II. Một số thủ thuật bóp méo để thực hiện hành vi chi phối thu nhập
1. Thay đổi chính sách kế toán áp dụng
Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán
Việt Nam đưa ra một số phương pháp kế toán, chính sách kế toán và cho phép DN
được lựa chọn chính sách phù hợp với DN mình.
Ví dụ: Các phương pháp tính giá hàng tồn kho (nhập trước xuất trước, bình
quân gia quyền, thực tế đích danh); các phương pháp khấu hao tài sản cố định
(phương pháp khấu hao đường thẳng, phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần và
phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm),...
Tuy nhiên, khi lựa chọn chính sách kế toán nào thì phải áp dụng nhất quán, để
đảm bảo thông tin trình bày trên BCTC có khả năng so sánh được, nếu thay đổi chính
sách cần thuyết minh về sự thay đổi này. Chính việc có nhiều cơ hội lựa chọn chính
sách kế toán, nên nhà quản lý có thể đưa vào áp dụng chính sách kế toán thích hợp
nhất theo xét đoán chủ quan của nhà quản lý, để phục vụ cho các mục tiêu định trước
của DN trong từng thời kỳ.
2. Thông qua việc trích lập và hoàn nhập các khoản dự phòng tổn thất tài sản
Kế toán Việt Nam cho phép, DN thực hiện việc lập dự phòng tổn thất tài sản
liên quan đến bốn nhóm tài sản. Đó là, dự phòng giảm giá chứng khoán kinh doanh,
dự phòng tổn thất đầu tư vào đơn vị khác, dự phòng phải thu khó đòi và dự phòng
giảm giá hàng tồn kho. Để thông tin tài sản được trình bày theo giá trị thuần có thể
thực hiện được, thì trước khi lập BCTC DN cần xem xét lại giá trị các khoản mục tài

sản này. Việc xác định mức dự phòng tổn thất cần lập để tiến hành trích lập thêm hay
hoàn nhập dự phòng phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Trong đó, có yếu tố xét đoán chủ quan của nhà quản lý và người làm công tác
kế toán tại đơn vị. Một khi điều này xảy ra, sẽ tạo cơ hội cho nhà quản lý can thiệp,

6


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

tác động đến giá trị tài sản và khoản mục chi phí trình bày trên BCTC, từ đó chi phối
đến thu nhập của DN.
3. Thông qua việc lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang
Theo quy định, khi tính giá thành sản phẩm, các DN sản xuất có thể áp dụng
một trong các phương pháp xác định trị giá sản phẩm dở dang, như: Phương pháp
đánh giá theo chi phí nguyên vật liệu chính, đánh giá theo chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, đánh giá theo phương pháp ước tính sản lượng hoàn thành tương đương,... Thực
ra đây là công việc tính toán, phân bổ chi phí cho các sản phẩm chưa hoàn thành.
Công việc này trực tiếp tác động đến giá thành sản phẩm DN sản xuất ra, đồng thời
gián tiếp tác động đến khoản mục chi phí hoạt động kinh doanh trong kỳ, từ đó ảnh
hưởng đến thu nhập của DN.
Tuỳ theo đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất, tính chất của các khoản mục chi
phí, để nhà quản lý lựa chọn và sử dụng phương pháp đánh giá thích hợp. Điều này
mang đến cơ hội cho nhà quản lý, lựa chọn phương pháp đánh giá “có lợi nhất” để tác
động đến thu nhập của DN, nhằm đạt được những mục đích riêng nhất định.
4. Thông qua các khoản trích trước và phân bổ
Để đảm bảo nguyên tắc phù hợp trong kế toán, chế độ kế toán cho phép DN sử
dụng các kỹ thuật trích trước hoặc phân bổ, để xử lý các khoản mục chi phí liên quan
đến nhiều kỳ kế toán.

Ví dụ, để phản ánh các khoản phải trả cho hàng hóa, dịch vụ đã nhận được từ
người bán trong kỳ báo cáo nhưng thực tế chưa chi trả do chưa có hóa đơn hoặc chưa
đủ hồ sơ, tài liệu kế toán, quy định cho phép DN được ghi nhận vào chi phí sản xuất,
kinh doanh của kỳ báo cáo thông qua việc trích trước chi phí. Hay kỹ thuật này còn
được sử dụng để trích trước chi phí trong thời gian DN ngừng sản xuất theo mùa vụ,
trích trước chi phí để tạm tính giá vốn hàng hóa, thành phẩm bất động sản đã bán,...
Việc trích trước vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ phải được tính toán một
cách chặt chẽ và phải có bằng chứng hợp lý, tin cậy về các khoản chi phí phải trích

7


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

trước trong kỳ, để đảm bảo số chi phí phải trả này phù hợp với số chi phí thực tế phát
sinh.
Bên cạnh đó, quy định còn cho phép DN treo lại các khoản chi phí thực tế đã
phát sinh nhưng có liên quan đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều kỳ
kế toán (như chi phí trả trước về thuê cơ sở hạ tầng, chi phí thành lập DN, công cụ,
dụng cụ, bao bì luân chuyển, đồ dùng cho thuê liên quan đến hoạt động kinh doanh
trong nhiều kỳ kế toán,...) để kết chuyển các khoản chi phí này vào chi phí sản xuất
kinh doanh của các kỳ kế toán sau.
Đồng thời, quy định cũng nêu rõ việc tính và phân bổ chi phí trả trước vào chi
phí sản xuất kinh doanh từng kỳ kế toán, phải căn cứ vào tính chất, mức độ từng loại
chi phí, để lựa chọn phương pháp và tiêu thức hợp lý. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác
định cơ sở để trích trước chi phí cũng như việc lựa chọn phương pháp và tiêu thức
phân bổ hợp lý thì không giống nhau giữa các DN. Bởi điều này, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có cả sự can thiệp chủ quan của nhà quản lý. Do đó, đây cũng là một
trong những con đường dẫn tới hành vi CPTN của các DN.

5. Thông qua các khoản dự phòng phải trả
Theo quy định của Thông tư 200/2014/TT-BTC, tùy theo đặc điểm hoạt động
và cách thức tổ chức quản lý mà DN được ghi nhận các khoản dự phòng phải trả như:
dự phòng phải trả tái cơ cấu DN, dự phòng phải trả bảo hành sản phẩm, dự phòng bảo
hành công trình xây dựng. Một trong những điều kiện để ghi nhận khoản dự phòng
phải trả đó là, DN đưa ra được một ước tính đáng tin cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ đó.
Giá trị được ghi nhận của một khoản dự phòng phải trả là giá trị được ước tính hợp lý
nhất về khoản tiền sẽ phải chi, để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại, tại ngày kết thúc kỳ
kế toán năm hoặc tại ngày kết thúc kỳ kế toán giữa niên độ.
Trường hợp, số dự phòng phải trả cần lập ở kỳ kế toán này lớn hơn số dự
phòng phải trả đã lập ở kỳ kế toán trước chưa sử dụng hết, thì số chênh lệch được ghi
nhận vào chi phí sản xuất, kinh doanh của kỳ kế toán đó. Ngược lại, nếu số dự phòng
phải trả lập ở kỳ kế toán này nhỏ hơn số dự phòng phải trả đã lập ở kỳ kế toán trước

8


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

chưa sử dụng hết, thì số chênh lệch phải được hoàn nhập ghi giảm chi phí sản xuất,
kinh doanh của kỳ kế toán đó.
Việc ước tính mức dự phòng cần lập, cho phép các nhà quản lý sử dụng khả
năng xét đoán nghề nghiệp của mình, để ước tính mức dự phòng phù hợp. Điều này
không ngoại trừ khả năng tạo cơ hội cho các nhà quản lý tác động đến khoản mục chi
phí này, từ đó CPTN của DN để phục vụ cho mục tiêu định trước.
6. Việc ước tính tỷ lệ hoàn thành và ghi nhận doanh thu, chi phí đối với hợp
đồng dài hạn
Trong một số DN đặc thù như đơn vị xây lắp, việc xác định doanh thu, chi phí
có những nét đặc trưng riêng biệt. Cụ thể như trường hợp ghi nhận doanh thu hợp

đồng xây dựng, tùy theo hợp đồng quy định thanh toán theo tiến độ kế hoạch hay theo
giá trị khối lượng thực hiện, để DN xác định doanh thu, chi phí.
Trường hợp, hợp đồng xây dựng quy định nhà thầu được thanh toán theo giá trị
khối lượng thực hiện, thì khi kết quả thực hiện hợp đồng xây dựng được xác định một
cách đáng tin cậy và được khách hàng xác nhận, đơn vị sẽ ghi nhận doanh thu trên cơ
sở phần công việc đã hoàn thành được khách hàng xác nhận. Còn nếu hợp đồng quy
định nhà thầu được thanh toán theo tiến độ kế hoạch, thì khi kết quả thực hiện hợp
đồng xây dựng được ước tính một cách đáng tin cậy, đơn vị sẽ phản ánh doanh thu
tương ứng với phần công việc đã hoàn thành, do nhà thầu tự xác định tại thời điểm lập
BCTC.
Bên cạnh đó, theo hướng dẫn của Chuẩn mực hợp đồng xây dựng (VAS 15):
“Phần công việc đã hoàn thành của hợp đồng làm cơ sở xác định doanh thu” có thể
được xác định bằng nhiều cách khác nhau (Tùy thuộc vào bản chất của hợp đồng mà
có thể có 3 phương pháp xác định). Như vậy, quy định cho phép DN được sử dụng
phương pháp tính toán thích hợp, để xác định phần công việc đã hoàn thành. Điều này
có thể ảnh hưởng đến giá trị của khoản mục doanh thu, do DN xác định khối lượng
công việc hoàn thành dựa trên các căn cứ khác nhau và phụ thuộc một phần vào xét
đoán của nhà quản lý.

9


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

Ngoài một số thủ thuật như đã đề cập ở trên, còn xuất hiện một số thủ thuật
khác liên quan đến việc lựa chọn chính sách kế toán. Tuy nhiên, chúng không phổ
biến trong các DN ở Việt Nam. Mà nếu có, chỉ tồn tại ở các công ty đa quốc gia áp
dụng theo IAS /IFRS, có thể kể đến một vài thủ thuật như: áp dụng tự nguyện chuẩn
mực kế toán mới, đánh giá tổn thất tài sản, việc xác định giá trị hợp lý của tài sản, ghi

nhận chi phí lương hưu.
Nói tóm lại, dù sử dụng thủ thuật nào đi nữa thì hành vi chi phối thu nhập
(CPTN) cũng có thể gây ra những hậu quả lớn đối với các bên liên quan, các đối
tượng sử dụng thông tin kế toán do thông tin về thu nhập đã cố tình bị bóp méo vì một
động cơ nào đó.

III. Các thủ thuật gian lận trong báo cáo tài chính
1. Bóp méo doanh thu trong kỳ
Việc làm tăng doanh thu trong kỳ có thể thực hiện thông qua nhiều biện pháp.
Đầu tiên là ghi nhận vào sổ sách một nghiệp vụ bán hàng hoá hay cung cấp dịch vụ
không có thực. Kỹ thuật thường sử dụng là tạo ra các khách hàng giả mạo thông qua
lập chứng từ giả mạo nhưng hàng hóa không được giao và đầu niên độ sau sẽ lập bút
toán hàng bán bị trả lại.
Khai cao doanh thu còn được thực hiện thông qua việc cố ý ghi tăng các nhân
tố trên Hóa đơn như số lượng, giá bán... hoặc ghi nhận doanh thu khi các điều kiện
giao hàng chưa hoàn tất, chưa chuyển quyền sử hữu và chuyển rủi ro đối với hàng hoá
- dịch vụ được bán. Một cách mà cách doanh nghiệp thường làm là tạo một hoạt động
bán hàng cuối năm, xuất hóa đơn đầy đủ nhưng không thực hiện giao hàng. Sang năm
sau sẽ ghi nhận giảm trừ khoản doanh thu này. Việc làm này thực chất là cố gắng sử
dụng một phần doanh thu thực của sang năm để ghi nhận trong năm nay. Doanh thu
thực sang năm sẽ phải chịu giảm đi phần đã ghi nhận này.
Một trường hợp khác là công ty vội vàng ghi nhận doanh thu khi khách hàng
mới chỉ dùng thử sản phẩm và cỏ quyền trả lại hàng hóa nếu không hài lòng, hoặc
hàng xuất đi chỉ là hàng gửi bán mà chưa được bán ra. Đối với một số hàng hóa đặc
thù nhir hóa chất, nhiều công ty còn cho phép khách hàng là những nhà phân phối
hoàn trả lại hàng khi sắp hết hạn sử dụng. Mặc dù thường xuyên có một tỉ lệ hàng trả
lại nhất định nhưng vào cuối năm, công ty vẫn “quên” lập dự phòng cho số hàng này.
Mua hóa đơn cho những chi phí không có thật cũng là một gian lận khá phổ biến.
Ngoài việc tăng khống doanh thu nêu trên, doanh nghiệp còn có các biện pháp
để có thể tăng doanh thu trên báo cáo tài chính của mình. Một cách thường gặp là tăng

ảo doanh thu cuối kỳ thông qua các hoạt động đẩy mạnh doanh thu không bình
thường.

10


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

Ngoài ra việc tăng cường tín dụng cho đối tác, giảm giá hàng bán hoặc tăng các
ưu đãi bán hàng cuối năm cũng được nhiều doanh nghiệp sử dụng để làm tăng doanh
thu trong báo cáo tài chính năm nay. Việc này cũng gây ảnh hưởng giảm đến doanh
thu sang năm của doanh nghiệp.
Một cách khác mà doanh nghiệp có thể tăng nhanh doanh thu và lợi nhuận
trong kỳ cùa mình, đó là bán các tài sản hoặc các khoản đầu tư sinh lời của mình. Việc
này có thể làm lợi nhuận trong kỳ cùa doanh nghiệp tăng nhiều, nhưng đã làm mất đi
những lợi ích tương lai mà các tài sản hoặc khoản đầu tư này mang lại.
Ví dụ 1:
Trường hợp Công ty cổ phần Xây dựng Điện VNECO (VE1), năm 2011, từ chỗ lỗ
2,91 tỷ đồng tính đến quý III, bằng việc đã cấp một khoản tín dụng khá lớn cho khách
hàng, kết quả kinh doanh cuối năm cùa VE1 đã trở thành đạt lợi nhuận 89 triệu.
Ví dụ 2:
Công ty Cổ phần Kinh doanh Khí hóa lỏng Miền Bắc (PVG) công bố Báo cáo tài
chính hợp nhất đã kiểm toán năm 2010. Lợi nhuận ròng trên báo cáo hợp nhất sau
kiểm toán của PVG đạt 35,83 tỷ đồng, giảm 1,2 tỷ đồng so với báo cáo trước kiểm
toán. Đáng chú ý là đơn vị kiểm toán có ý kiến ngoại trừ việc ghi nhận cổ tức từ lợi
nhuận năm 2010 của Công ty cổ phần Phân phối khí thấp áp (PGD), PVG tạm ghi
nhận khoản cổ tức 9,28 tỷ đồng của PGD vào doanh thu hoạt động tài chính năm
2010. Tại ngày 31/12/2010, việc phân phối cổ tức nói trên chưa được đại hội cổ đông
của PGD phê duyệt. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 (VAS 14)-Doanh thu và

thu nhập khác, cổ tức và lợi nhuận được chia được ghi nhận khi cổ đông có quyền
nhận cổ tức. Nếu công ty áp dụng VAS 14, doanh thu từ hoạt động tài chính và lợi
nhuận trước thuế cho năm 2010 sẽ giảm một khoản tương ứng là 9,28 tỷ đồng.
2. Ghi nhận sai niên độ
Doanh thu hay chi phí được ghi nhận không đúng với thời kỳ mà nó phát sinh.
Doanh thu hoặc chi phí cùa kỳ này có thể chuyển sang kỳ kế tiếp hay ngược lại để làm
tăng hoặc giảm thu nhập theo mong muốn.
Vào những ngày cuối năm, công ty có thể ghi nhận doanh thu trước khi thực sự
xuất hàng để đạt chỉ tiêu doanh thu. Việc hạch toán doanh thu được thực hiện ngay khi
xuất hóa đơn vào ngày cuối năm trong khi sang năm mới, sau nhiều ngày, hàng mới
được xuất đi. Đối với các công ty xuất khẩu, chênh lệch thời gian nói trên thường rất
lớn, đẩy doanh thu tăng lên đáng kể.
Thủ thuật này cũng có thể dễ dàng áp dụng đối với doanh thu cung cấp dịch vụ
bằng cách thay đổi thời gian và mức độ hoàn thành dịch vụ.
Đối với chi phí, các doanh nghiệp cũng có thề ghi nhận chậm các khoản chi phí
phải được ghi nhận trong năm sang năm sau, từ đó làm tăng lợi nhuận trong kỳ cùa
công ty phương thức này thường được các công ty sử dụng để có thể đạt được chỉ tiêu
kinh doanh trong năm.
Ví dụ:

11


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

Tnrờng hợp Công ty cổ phần Địa ốc Đà Lạt (DLR) ghi nhận 31,15 tỷ đồng doanh thu
với giá vốn 27,98 tỷ đồng từ Dự án xây dựng Cụm dân cư - Khu chung cư Yersin
thành phố Đà Lạt. Theo ký kết, công ty sẽ bàn giao từng phần hạng mục công ty của
dự án sau khi hoàn thành và đủ điều kiện đề bố trí tái định cư. UBND sẽ thanh toán

cho công ty khi quyết toán dự án và đã được cơ quan độc lập kiểm toán. Tuy nhiên, tại
Báo cáo tài chính năm 2010, công ty đã ước tính và ghi nhận doanh thu, giá vốn như
trên theo số liệu hoàn thành giữa công ty và đội thi công của công ty trong khi UBND
tỉnh Lâm Đồng chưa có văn bản chỉ định UBND thành phố Đà Lạt nghiệm thu. Đơn
vị kiểm toán cho biết, ngày 22/2/2011, UBND tỉnh Lâm Đồng đã có công văn thống
nhất giao cho UBND thành phố Đà Lạt là đơn vị tiếp nhận từng hạng mục công trình
theo từng giai đoạn giá trị công trình hoàn thành để DLR ghi nhận doanh thu. Qua
đây cho thấy DRL đã ghi nhận doanh thu và giá vốn hàng bán Dự án xây dựng Cụm
dân cư – Khu chung cư Yersin thành phố Đà Lạt sai niên độ, doanh thu và giá vốn
này phải được ghi nhận ở niên độ năm 2011 nhưng đã được doanh nghiệp ghi nhận
vào năm 2010
3. Không khai báo đầy đủ thông tin
Việc không khai báo đầy đủ các thông tin nhằm hạn chế khả năng phân tích cùa
người sử dụng Báo cáo tài chính. Các thông tin thường không được khai báo đầy đủ
trong thuyết minh như nợ tiềm tàng, các sự kiện phát sinh sau ngày khóa sổ kế toán,
thông tin về bên có liên quan, các những thay đổi về chính sách kế toán, giao dịch với
công ty con, các bên liên quan.
Ví dụ:
Trường hợp Cồng ty cổ phần Container Phía Nam (VSG), kiểm toán viên lưu ý
người sử dụng đến khoản lỗ chênh lệch tỳ giá chưa thực hiện do đánh giá lại số dư có
gốc ngoại tệ cuối năm của khoản vay dài hạn với số tiền 33,16 tỷ đồng đang được ghi
nhận trên chỉ tiêu “chênh lệch tỷ giá hối đoái”. Điều này giúp cho người sử dụng
hiểu được, việc áp dụng TT 201/2009 giúp cho công ty giảm lỗ 33,16 tỷ đồng. Nếu áp
dụng VSA 10 thì chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên báo cáo tài chính của công ty năm
2010 không phải con số lỗ 40,66 tỷ đồng mà là con số lỗ 73,82 tỷ đồng. Qua đó cho
người sử dụng thấy một phần lợi nhuận được tạo ra (hoặc một phần giảm lỗ) là do sự
thay đổi cách hạch toán mà có chứ không phải do bản thân hoạt động sản xuất kinh
doanh cùa công ty tạo ra.
4. Giao dịch khống với công ty con
Giao dịch đối với công ty con, công ty mẹ hoặc các công ty liên kết khác là một

thủ thuật thường được dùng để tác động đến báo cáo tài chính của các doanh nghiệp.
Các công ty có thể dùng các tổ chức hoặc cá nhân liên quan làm công cụ hỗ trợ.
Chẳng hạn, ký các hợp đồng mua bán với số lượng cao và giá bán tốt với một số công
ty mà thực chất là công ty mẹ, công ty con hoặc các công ty trong tập đoàn, nhằm tăng
doanh số tạm thời, tạo nhu cầu và giá bán ảo cho hàng hóa của công ty.
Một thủ thuật khác thường được các công ty đa quốc gia sử dụng, đó là thực
hiện chuyển giá bằng các kê khai tăng các chi phí trong các giao dịch với công ty mẹ

12


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

hoặc các công ty trong cùng hệ thống tập đoàn. Điều này làm giảm lợi nhuận thực tế
của công ty và chuyển các khoản lợi nhuận này cho các công ty đối tác, nhằm làm
giảm phần thuế phải đóng của công ty tại địa phương.
Thực trạng thường thấy khác ở Việt Nam hiện nay là các giao dịch tài sản qua
lại giữa các công ty liên quan. Giá bán lại được định ra cao hơn nhiều so với giá mua
vào ban đầu để tạo nguồn doanh thu ảo cho công ty bán ra, mà sau đó lại mua vào với
giá cao hơn đề tạo lợi nhuận cho công ty đối tác. Các khoản chi phí tư vấn, thuê
chuyên gia từ nước ngoài cũng là một khoản mục thường hay được các công ty tác
động làm tăng chi phí của công ty con và tăng lợi nhuận công ty mẹ.
Ví dụ:
Trường hợp Công ty Coca Cola, người ta thực chất không thể xác định được giá trị
thực tế của các giao dịch nội bộ giữa công ty tại Việt Nam và công ty mẹ ở nước
ngoài. Chi phí giao dịch nội bộ quá lớn khiến Coca Cola Việt Nam báo lỗ trong nhiều
năm và tránh được khoản thuế lớn tại Việt Nam.
5. Ghi nhầm chỗ
Thường gặp nhất là việc các công ty ghi nhận các khoản thu nhập khác vào

doanh thu như thu nhập từ hoạt động tài chính và thu nhập bất thường, nhằm tăng tỷ lệ
tăng trưởng doanh thu, tạo ảo tưởng về tiềm năng phát triền cùa công ty. Các khoản
thu nhập như chiết khấu thanh toán, thanh lý tài sản cố định là ví dụ. Các chi phí cá
nhân cũng được hạch toán vào chi phí công ty. Kiểu gian lận này có thể được dùng
nhiều, khi liên quan tới bất động sản và phương tiện đi lại.
6. Che giấu giao dịch
Với nhiều mục đích khác nhau, nhiều giao dịch bị che giấu bằng cách không
hạch toán hoặc hạch toán dưới nội dung khác. Doanh thu bán phế phẩm, hoa hồng và
chiết khấu nhận từ nhà cung cấp không được ghi vào sồ sách nhằm đem lại lợi ích cho
cá nhân.
Những công ty mà hoạt động xuất khẩu là chính có thể khống xuất hóa đơn và
ghi nhận doanh thu với hàng bán trong nước nhằm trốn thuế. Những khoản chi hoa
hồng, tiền hối lộ, chi phí cho cá nhân được hợp thức hóa bằng các hợp đồng tư vấn.
Các chi phí chưa nhận được hóa đơn vẫn không được trích trước dù đã phát sinh trong
kỳ báo cáo, nhằm làm tăng lợi nhuận và giảm nợ phải trả. Thuế không được tính và kê
khai đầy đủ. Các khoản nợ xấu và hàng chậm luân chuyển, trợ cấp thôi việc không
được trích lập dự phòng...
7. Thay đổi chính sách kế toán
Các chính sách kế toán thường xuyên bị biến hóa bao gồm phương pháp xác
định giá thành sản phẩm, chính sách lập dự phòng, phương pháp khấu hao. Chi phí
sản xuất có thể không được phân bổ đủ vào thành phẩm mà treo tại chi phí sản phẩm
dở dang, dẫn đến giá vốn hàng bán giảm và lợi nhuận tăng.
Ngược lại, chi phí sản xuất có thể bị hạch toán thẳng vào giá vốn hàng bán hay
chi phí khác để làm giảm giá trị thành phẩm tồn kho và giá vốn hàng bán trong năm

13


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO


tới. Tỉ lệ nợ xấu và hàng hỏng cần lập dự phòng được giảm đi để cải thiện tình hình
lợi nhuận trong năm. Thời gian khấu hao của tài sản được kéo dài để giảm chi phí
khấu hao.
Đối với các ngành nghề khác nhau, các hình thức gian lận báo cáo tài chính
thường gặp cũng khác nhau. Thủ thuật hay được sử dụng trong ngành Ngân hàng là
phân loại sai các khoản vay theo mức độ rủi ro nhằm giảm chi phí dự phòng và tăng
thu nhập từ tiền lãi. Thủ thuật thứ hai là không lập hoặc lập dự phòng không đủ cho
các khoản đầu tư chứng khoán, đặc biệt là chứng khoán trên thị trường tự do và những
khoản đầu tư dài hạn vào các công ty. Một thủ thuật nữa là bán những khoản đầu tư
cho các bên liên quan với giá cao hơn giá thị trường nhằm đạt chỉ tiêu lợi nhuận.
Đối với các Công ty sản xuất, gian lận báo cáo tài chính phổ biến là đẩy chi
phí sản xuất vào sản phẩm dở dang nhằm tăng giá trị hàng tồn kho, giảm giá vốn hàng
bán và tăng lợi nhuận; lập dự phòng không đầy đủ đối với hàng hỏng và hàng chậm
luân chuyển; kéo dài thời gian khấu hao của tài sản cố định. Chia tách công ty để tăng
giá trị tài sản thông qua việc đánh giá lại tài sản theo giá trị thị trường cũng là một
cách gian lận.
Đối với Doanh nghiệp bán lẻ, hình thức gian lận thường gặp là không lập đủ
dự phòng cho hàng chậm luân chuyển và lỗi thời; không ghi nhận các khoản chiết
khấu được hưởng từ nhà cung cấp, không ghi nhận đủ doanh số bán hàng bằng tiền
mặt
8. Thực hiện các ước tính kế toán không phù hợp
Ước tính doanh thu chi phí trong kỳ là một hoạt động thường xuyên mà doanh
nghiệp nào cũng phải thực hiện, đồng thời dễ tác động nhằm thay đổi kết quả kinh
doanh mà nếu chỉ nhìn trên báo cáo tài chính, người đọc khó có thể nhận ra vấn đề.
Trong quá trình lập báo cáo tài chính, các công ty thường sử dụng rất nhiều các
ước tính kế toán (Accrual eamings management) có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận
trong kỳ của công ty. Vì việc thực hiện các ước tính kế toán này thường thay đổi theo
các chính sách kế toán mà doanh nghiệp cũng như khó phát hiện sự sai sót về giá trị
các ước tính này, nên nó được xem là một công cụ đắc lực để tác động đến kết quà

kinh doanh của doanh nghiệp.
Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp như tăng giảm mức khấu
hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn kho, giảm dự phòng nợ khó đói, không
ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá xuấng dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản
chi phí không đủ điều kiện...
Thủ thuật phủ phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực chất không
làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại.
Hậu quả tất yếu là lợi nhuận các năm sau sẽ bị giảm. Để tiếp tục đáp ứng kỳ vọng cùa
nhà đầu tư, báo cáo tài chính các năm tiếp theo cũng phải được thay đổi.

14


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

KẾT LUẬN
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, BCTC có vai trò và ý nghĩa
quan trọng trong việc cung cấp thông tin đối với nhà đầu tư, các tổ chức quản lý, điều
hành thị trường, là điều kiện thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển hiệu quả và
lành mạnh.
Có thể thấy, chất lượng của thông tin tài chính được quyết định bởi các yếu tố
chính sau: hệ thống kế toán mà DN đang áp dụng trong việc ghi chép giao dịch và lập
báo cáo tài chính, tính minh bạch trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Các
báo cáo tài chính được kiểm toán hoặc soát xét thường có tính minh bạch cao hơn so
với các báo cáo tài chính chưa được kiểm toán hoặc chưa được soát xét.
Nhìn chung, cần phải có sự cố gắng từ nhiều phía, chất lượng BCTC của doanh
nghiệp niêm yết từng bước được nâng cao, đáp ứng yêu cầu của người sử dụng
BCTC. Trong thời gian tới, người sử dụng BCTC có cơ sở để tin tưởng rằng, BCTC
các doanh nghiệp niêm yết sẽ ngày càng minh bạch, trung thực.


15


NHÓM 1
BM :PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NÂNG CAO

BẢN PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
TRONG NHÓM

Phụ trách Bản WORD:

VŨ PHƯƠNG CHI

Phụ trách Bản SLIDE:

MAI HỒNG ANH

Phụ trách Nội dung Phần 1: ĐOÀN MAI HOÀI ANH, NGUYỄN PHƯƠNG
ANH, DƯƠNG XUÂN ANH

Phụ trách Nội dung Phần 2: VŨ PHƯƠNG CHI, MAI HỒNG ANH, NGUYỄN
THỊ LAN ANH, NGUYỄN LÊ HƯƠNG THU

Phụ trách Thuyết trình: NGUYỄN LÊ HƯƠNG THU, NGUYỄN PHƯƠNG ANH
Phụ trách trả lời câu hỏi: MAI HỒNG ANH, DƯƠNG XUÂN ANH, ĐOÀN MAI
HOÀI ANH

16




×