Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Vai trò của báo chí trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân – qua thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ PHI NGA

VAI TRß CñA B¸O CHÝ
TRONG VIÖC PHæ BIÕN, GI¸O DôC PH¸P LUËT CHO N¤NG D¢N QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHAN TH PHI NGA

VAI TRò CủA BáO CHí
TRONG VIệC PHổ BIếN, GIáO DụC PHáP LUậT CHO NÔNG DÂN QUA THựC TIễN TỉNH THANH HóA
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v Phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN HONG ANH

H NI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phan Thị Phi Nga


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA BÁO CHÍ TRONG
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO NÔNG DÂN .............. 8
1.1.

Báo chí và phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân .................. 8

1.1.1. Khái niệm, vai trò, chức năng của báo chí ........................................... 8
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân ..... 10

1.2.

Vai trò, đặc điểm của báo chí trong phổ biến, giáo dục pháp
luật cho nông dân ............................................................................. 19

1.2.1. Vai trò của báo chí trong phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân .... 19
1.2.2. Ưu thế của báo chí trong phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân .... 25
1.3.

Các yêu cầu và điều kiện bảo đảm vai trò của báo chí trong
phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân ................................... 35

1.3.1. Yêu cầu đối với phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân qua
báo chí ................................................................................................ 35
1.3.2. Điều kiện bảo đảm vai trò của báo chí trong phổ biến, giáo dục
pháp luật cho nông dân....................................................................... 40
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 44
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÕ CỦA BÁO CHÍ TRONG PHỔ
BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO NÔNG DÂN TỈNH
THANH HÓA ..............................................................................................45
2.1.

Bối cảnh chung của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
cho nông dân tỉnh thanh hóa qua báo chí ...................................... 45


2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa ......................... 45
2.1.2. Tình hình nông dân tỉnh Thanh Hóa .................................................. 47
2.1.3. Thực trạng hoạt động báo chí Thanh Hóa .......................................... 52
2.2.


Những thành công và hạn chế của báo chí trong vai trò phổ
biến, giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh thanh hóa ................ 62

2.2.1. Những thành công của báo chí trong phổ biến, giáo dục pháp
luật cho nông dân ............................................................................... 64
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong phổ
biến, giáo dục pháp luật cho nông dân ............................................... 78
2.2.3. Một số bài học kinh nghiệm ............................................................... 82
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 84
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÕ CỦA
BÁO CHÍ TRONG VIỆC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO NÔNG DÂN ................................................................. 85
3.1.

Quan điểm bảo đảm vai trò của báo chí trong việc phổ biến,
giáo dục pháp luật cho nông dân .................................................... 85

3.1.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân phải quán triệt sâu
sắc quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục
pháp luật ............................................................................................. 85
3.1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân phải gắn với việc phát
triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xây dựng nông thôn mới ... 88
3.1.3. Gắn phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân với giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lồng ghép với cuộc vận động toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào đấu tranh
phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội ở khu dân cư và các phong
trào thi đua, các cuộc vận động .......................................................... 92
3.1.4. Phổ biến, giáo dục pháp luật gắn với nâng cao nhận thức về mọi
mặt cho nông dân, nhất là ý thức của nông dân trong thực hiện

quy chế dân chủ cơ sở, xây dựng chính quyền vững mạnh ............... 93


3.1.5. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân phải gắn với yêu cầu
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở địa phương ........................ 95
3.2.

Các giải pháp bảo đảm vai trò của báo chí trong việc phổ
biến, giáo dục pháp luật cho nông dân ........................................... 96

3.2.1. Nâng cao năng lực phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán
bộ, phóng viên .................................................................................... 96
3.2.2.

Đổi mới nội dung, chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật cho
nông dân phù hợp với tình hình nhiệm vụ của địa phương ở từng
thời điểm cụ thể ................................................................................... 98

3.2.3. Lựa chọn và hoàn thiện hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
phù hợp cho đối tượng là nông dân .................................................. 101
3.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên phổ biến, giáo dục pháp luật .. 103
3.2.5. Bảo đảm kinh phí và các điều kiện vật chất khác cho hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân ...................................... 105
3.2.6. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân ...................................... 106
Kết luận chương 3 ....................................................................................... 108
KẾT LUẬN .................................................................................................. 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 112



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GDPL:

Giáo dục pháp luật

HĐND:

Hội đồng nhân dân

MTTQ:

Mặt trận tổ quốc

PCTN:

Phòng, chống tham nhũng

SXKD:

Sản xuất kinh doanh

TAND:

Tòa án nhân dân


UBND:

Ủy ban nhân dân

XDNTM:

Xây dựng nông thôn mới

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng
bộ, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng một xã hội trong đó mọi
người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Vì
vậy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (GDPL) có vai trò hết sức quan trọng, là
khâu đầu tiên để đưa pháp luật đi vào cuộc sống và nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống
chính trị, trong đó có cơ quan báo chí.
Để thực hiện mục tiêu này, song song với việc xây dựng và không ngừng
hoàn thiện hệ thống pháp luật, một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt
là phải đẩy mạnh công tác phổ biến, GDPL của báo chí cho mọi nhóm đối tượng,
trong đó có nông dân là đối tượng chiếm số đông trên địa bàn nông thôn. Mục đích
của phổ biến, GDPL là nhằm hình thành và mở rộng hệ thống tri thức pháp luật của
công dân; hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật; hình thành động cơ,
hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực của công dân trong đời sống xã hội.

Chỉ có nắm vững kiến thức pháp luật mỗi người dân nói chung, nông dân nói riêng
mới phát huy được tinh thần làm chủ của mình, nêu cao ý thức sống làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật.
Trên cơ sở đó, trong thời gian qua vai trò tuyên truyền, giáo dục của báo
chí cho nông dân đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, góp phần nâng cao trình độ
hiểu biết pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lý cho nhân dân nói chung, nông dân
nói riêng bước đầu tạo sự ổn định trong lối sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật ở các đối tượng cụ thể. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được ở
nước ta vẫn còn một bộ phận không nhỏ người nông dân và các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, việc vi phạm pháp luật của các chủ thể
có thể gây hại cho nền kinh tế, cho xã hội. Ở Thanh Hóa, vẫn còn một bộ phận

1


không nhỏ nông dân trình độ nhận thức pháp luật kém. Kiến thức pháp luật của
nông dân, đặc biệt những vùng nông thôn, miền núi còn rất thấp. Rất nhiều người
tham gia pháp luật mà không biết những quy định của pháp luật mặc dù nó rất gần
gũi, phổ biến trong cuộc sống. Nhiều người vi phạm pháp luật mà không nhận
thức được hành vi của mình. Các hành vi vi phạm pháp luật của nông dân đa dạng,
với các mức độ nặng nhẹ khác nhau, như các vụ tranh chấp đất đai, kiện tụng,
buôn lậu, trốn thuế, giết người…
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công tác phổ
biến, GDPL vẫn chưa thực sự được coi trọng, chưa sâu rộng và chưa hiệu quả; nhận
thức của người dân giữa các vùng, miền không đồng đều; phương pháp giáo dục
vẫn chậm đổi mới, còn dàn trải; các nghiên cứu về phổ biến, GDPL cho đối tượng
cụ thể, nhất là nông dân ở các vùng, miền khác nhau vẫn chưa được quan tâm đúng
mức, nhiều vấn đề vẫn chưa được làm rõ và thống nhất về mặt lý luận, vì vậy công
tác phổ biến, GDPL chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Do vậy, tăng cường đổi
mới công tác phổ biến, GDPL đang là một yêu cầu nhiệm vụ đặt ra hết sức cần thiết

và mang tính chiến lược ở nước ta hiện nay, trong đó có đối tượng nông dân.
Trong số các “kênh” GDPL cho nông dân, báo chí là phương tiện hữu hiệu
đưa pháp luật đến với mọi tầng lớp nhân dân, giúp người dân dễ dàng tiếp thu, nắm
bắt, tìm hiểu và nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật. Việc khai thác, sử dụng đa
dạng các hình thức: tin, bài, tọa đàm, diễn đàn, truyện ngắn, tiểu phẩm, phim truyền
hình, phim tài liệu… để phổ biến, GDPL giúp cho nông dân dễ hiểu, dễ nhớ các quy
định pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng và pháp luật nói chung, thông qua đó
hướng dẫn nông dân cách ứng xử phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Bằng việc phổ
biến, GDPL, báo chí cung cấp cho người dân những thông tin về hoạt động tư pháp,
hành pháp và lập pháp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các quy định pháp luật,
giúp cho người dân giám sát hoạt động của cán bộ làm công tác tư pháp, hành pháp
và lập pháp. Mặt khác, những thông tin mà báo chí cung cấp cũng giúp cho các cơ
quan có thẩm quyền có sự điều chỉnh hoạt động tư pháp, hành pháp và lập pháp cho
phù hợp với thực tiễn, đảm bảo cho hoạt động này ngày càng hiệu quả hơn.

2


Bản thân là một phóng viên và từ những lý do trên, nên học viên chọn đề tài
“Vai trò của báo chí trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân – qua
thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” làm luận văn thạc sĩ luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, phổ biến, GDPL là vấn đề hết sức quan trọng trong
đời sống xã hội. Việc nghiên cứu về phổ biến, GDPL dưới góc độ khoa học pháp lý
được các nhà khoa học Việt Nam rất quan tâm. Cho đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về phổ biến, GDPL của tập thể, cá nhân đã được công bố:
- Về đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước
+ Tìm kiếm mô hình phổ biến, GDPL có hiệu quả trong một số dân tộc ít
người, Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp, 1995.

+ Đổi mới GDPL trong hệ thống các Trường chính trị ở nước ta hiện nay,
Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nhà nước và pháp luật Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2000.
+ Một số vấn đề lý luận và thức tiễn về phổ biến, GDPL trong công cuộc đổi
mới, Đề tài cấp Bộ, mã số 92-98-223 ĐT của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp.
- Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ có
- GDPL qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ của Dương
Thị Thanh Mai, 1975.
+ GDPL trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta
hiện nay, Luận án Phó tiến sỹ của Đinh Xuân Thảo, 1996.
+ Ý thức pháp luật và GDPL ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sỹ luật học của
Nguyễn Đình Lộc, 1987.
+ GDPL cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay,
Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Tiến Hải, 2005.
+ GDPL cho phụ nữ nông thôn trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sỹ
luật học của Đinh Thị Hương, 2008.

3


+ GDPL hôn nhân gia đình cho nông dân trên địa bàn tỉnh Bến Tre, Luận
văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Phượng, 2008.
+ GDPL cho cư dân nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, Luận văn thạc sỹ
Hành chính của Nguyễn Tiến Hải, 2008.
+ Ý thức pháp luật và hoạt động tuyên truyền, PBGD pháp luật ở nước ta
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Như Quỳnh, 2009.
+ Phổ biến pháp luật cho người nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, Luận văn thạc sĩ Luật học của Hà
Thị Tuyến, 2011.
- Các sách và các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành có

+ Xã hội hóa công tác phổ biến, GDPL trong tình hình mới, Hồ Việt Tiệp,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000.
+ Bàn về GDPL của Phó tiến sĩ Trần Ngọc Đường - Dương Thị Thanh Mai,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
+ Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, của tác giả Đào Trí Úc, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
+ Sổ tay phổ biến pháp luật cho nông dân từ tập 1 đến tập 11, do Trung ương
Hội Nông dân Việt Nam phát hành.
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước cho thấy: Các công trình nghiên
cứu khoa học của tập thể, cá nhân, các bài viết của các tác giả từ trước đến nay về
phổ biến, GDPL đã đóng góp rất nhiều các vấn đề cơ bản cả về vấn đề lý luận và
thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau về phổ biến, GDPL. Tuy nhiên, có thể nói
rằng, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ
thống về vai trò của báo chí trong việc phổ biến, GDPL cho nông dân, đặc biệt qua
khảo sát thực tiễn ở một địa phương là tỉnh Thanh Hóa, vì vậy, việc nghiên cứu về
vấn đề này là rất cần thiết. Điều này sẽ được đề cập một cách thấu đáo trong luận
văn ở những chương tiếp theo.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn về vai trò của báo chí

4


trong công tác phổ biến, GDPL cho nông dân, luận văn đề xuất những giải pháp
mang tính hệ thống, đồng bộ nhằm nâng cao vai trò của báo chí trong công tác phổ
biến, GDPL cho nông dân trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:

- Một là, luận văn phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò của báo chí trong
công tác phổ biến, GDPL cho nông dân.
- Hai là, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác phổ biến, GDPL
cho nông dân tỉnh Thanh Hóa qua báo chí, rút ra những nguyên nhân, bài học kinh
nghiệm từ thực trạng đó.
- Ba là, luận văn đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường vai trò của
báo chí trong công tác phổ biến, GDPL cho nông dân trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về vai trò của báo chí
trong phổ biến, GDPL cho nông dân, các đặc điểm, vai trò của báo chí trong phổ
biến, GDPL cho nông dân, các yêu cầu và điều kiện bảo đảm phổ biến, GDPL cho
nông dân... từ những cơ sở nghiên cứu đó, luận văn đánh giá thực trạng thực hiện
vai trò của báo chí trong phổ biến, GDPL cho nông dân ở tỉnh Thanh Hóa và đề
xuất các giải pháp tăng cường vai trò của báo chí trong công tác phổ biến, GDPL
cho nông dân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu thực trạng vai trò của báo chí trong việc
phổ biến, GDPL cho nông dân tỉnh Thanh Hóa từ năm 2003 (khi có Chỉ thị số 32CT/TW ngày 09-12-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối, chủ trương của Đảng

5


Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về vai trò của
báo chí trong công tác phổ biến, GDPL cho nông dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng với các phương pháp chính, đó là: Lịch sử cụ thể, phân tích tổng hợp, kết hợp
lý luận với thực tiễn. Ba phương pháp này được sử dụng đồng thời để giải quyết các
vấn đề của luận văn như phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng cả ba
chương luận văn nhằm khái quát cơ sở lý luận, phân tích thực trạng và đề xuất các
quan điểm, giải pháp tăng cường vai trò của báo chí trong việc phổ biến, GDPL cho
nông dân ở Thanh Hóa hiện nay, nhất là trong chương 1; phương pháp lịch sử cụ
thể và phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn được sử dụng chủ yếu ở chương 2
và chương 3; ngoài ra trong luận văn còn sử dụng các phương pháp xã hội học,
phương pháp thống kê, so sánh...
6. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình đầu tiên, nghiên cứu tương đối có hệ thống những vấn đề
lý luận về vai trò của báo chí trong công tác phổ biến, GDPL cho nông dân trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa. Những kết quả của luận văn có những đóng góp cụ thể sau:
- Phân tích đánh giá vai trò của báo chí trong công tác phổ biến, GDPL cho
nông dân, làm sáng tỏ tính đặc thù về đối tượng, nội dung, hình thức và phương
pháp GDPL cho đối tượng đó, đồng thời xác định các yêu cầu và những điều kiện
bảo đảm GDPL cho nông dân ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác phổ biến, GDPL của báo chí cho
nông dân ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường vai trò của
báo chí trong việc phổ biến, GDPL cho nông dân.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về vai trò của báo chí trong
việc phổ biến, GDPL cho người dân nói chung, nông dân Thanh Hóa nói riêng.

6



Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ
công sức của mình trong việc làm rõ tính đặc thù của báo chí trong công tác phổ
biến, GDPL cho nông dân tỉnh Thanh Hóa.
- Luận văn có giá trị tham khảo đối với các cơ quan Nhà nước, các cơ quan
báo chí, cơ quan tư pháp, Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa, các tổ chức chính trị - xã
hội trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác phổ biến, GDPL cho nông dân.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu,
giảng dạy về vai trò của báo chí trong phổ biến, GDPL tại các cơ sở đào tạo, nghiên
cứu pháp luật.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chương, 7 đề mục.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA BÁO CHÍ TRONG PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO NÔNG DÂN
1.1. Báo chí và phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân
1.1.1. Khái niệm, vai trò, chức năng của báo chí
1.1.1.1. Khái niệm: Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối
với đời sống xã hội, báo chí ở Việt Nam gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự,
bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền
hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ
thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng
tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài.
- “Báo in" là tên gọi loại hình báo chí được thực hiện bằng phương tiện in
(báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn”).
- “Báo nói" là tên gọi loại hình báo chí thực hiện trên sóng phát thanh

(chương trình phát thanh).
- “Báo hình" là tên gọi loại hình báo chí thực hiện trên sóng truyền hình
(chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng
các phương tiện khác nhau).
- “Báo điện tử" là tên gọi loại hình báo chí thực hiện trên mạng thông tin
máy tính (Internet, Intranet).
Hiện nay, báo chí vẫn là phương tiện thông tin đại chúng nhanh nhất, hiệu quả
nhất và có nhiều công chúng nhất... Báo chí đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời
sống, trở thành một trong những động lực quan trọng cho sự phát triển của xã hội.
Báo chí có những cách thức riêng với mục đích nhằm tới nhiều tầng lớp xã
hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu không giống nhau. Công chúng
báo chí đa dạng và phức tạp. Không phải thông tin nào cũng được số đông tiếp
nhận dễ dàng.
Thông tin báo chí đề cập đến mọi mặt của đời sống một cách xác thực, cụ

8


thể, tỷ mỷ. Nó đặc biệt chú ý đến những cái mới (tính thời sự) và việc phản ánh
những cái mới đó dưới một góc nhìn thể hiện lập trường của tác giả. Nói cách khác,
đặc trưng cơ bản của thông tin báo chí được thể hiện ở ba điểm cơ bản nhất: Tính
xác thực, tiêu biểu - Tính thời sự - Tính định hướng trực tiếp [72].
1.1.1.2. Vai trò của báo chí trong đời sống xã hội
Báo chí có chức năng, vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống xã hội. Đó
là các chức năng thông tin, chức năng tư tưởng, chức năng khai sáng - giải trí, chức
năng tổ chức - quản lý, giám sát và phản biện xã hội, chức năng kinh tế - dịch vụ.
Thông tin là chức năng cơ bản, chức năng khởi nguồn của báo chí. Báo chí
ra đời là để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu thông tin giao tiếp của con người và xã hội.
Xã hội càng phát triển, con người càng văn minh thì nhu cầu thông tin giao tiếp
càng cao, càng đa dạng phong phú. Quá trình đáp ứng nhu cầu này làm cho báo chí

phát triển nhanh chóng. Một số yêu cầu của chức năng thông tin.
Chức năng tư tưởng là chức năng xuyên suốt, thể hiện tính mục đích của báo
chí. Với chức năng này, theo quan điểm của Đảng ta, báo chí là công cụ, phương
tiện quan trọng dùng để truyền bá hệ tư tưởng của Đảng, giáo dục lý luận Mác – Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và làm cho hệ tư tưởng - lý luận này trở thành chủ đạo,
chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần, tư tưởng của đông đảo nhân dân. Báo chí là
một binh chủng xung kích, đi đầu trong công tác tư tưởng của Đảng.
Chức năng khai sáng – giải trí được hiểu rằng, báo chí không chỉ là kênh
thông tin - truyền thông quan trọng cung cấp thông tin, kiến thức, mà còn là diễn
đàn trao đổi, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm phong phú nhằm nâng cao trình độ
dân trí, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững. Văn hóa là hiện tượng xã hội đặc biệt.
Hệ thống giá trị văn hóa được tồn tại và phát triển trong quá trình giao lưu và truyền
tải từ người này sang người khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng khác và từ thế
hệ này đến thế hệ khác. Báo chí là kênh quan trọng cung cấp thông tin, kiến thức,
giáo dục, giao lưu, truyền tải, tiếp biến văn hóa có hiệu quả nhất.
Giải trí là nhu cầu ngày càng đòi hỏi cao trong điều kiện kinh tế thị trường. Đó
là quá trình báo chí tham gia và tạo điều kiện giúp công chúng sử dụng thời gian rỗi

9


hợp lý, đáp ứng nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý để tái sản xuất sức lao động. Trên
các loại hình báo chí và các dạng thức truyền thông hiện đại ngày càng có nhiều
phương thức giải trí thú vị và hữu ích, nhất là truyền hình, phát thanh, báo mạng điện
tử và mạng xã hội. Giải trí cũng là cách thức phổ biến, bảo vệ hệ giá trị văn hóa.
Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội của báo chí thể hiện ở chỗ,
báo chí duy trì và phát triển mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách thể quản lý
thông qua việc duy trì và phát triển dòng thông tin hai chiều, bảo đảm cho các quyết
định quản lý được thông suốt và thực thi... Giám sát có thể được hiểu là “theo dõi,
kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”. Điều đó có nghĩa là,

giám sát bao gồm hai quá trình, theo dõi và kiểm tra. Giám sát có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động được thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu
quả tốt nhất trong điều kiện có thể, theo mục tiêu, chương trình, kế hoạch đã đề ra.
Giám sát xã hội của báo chí là quá trình báo chí bằng mọi phương thức huy
động sức lực, trí tuệ và cảm xúc của đông đảo nhân dân với tinh thần trách nhiệm
chính trị cao nhất trong việc theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm đạt được mục đích
cao nhất trong điều kiện có thể. Giám sát xã hội của báo chí bao gồm các bình diện
khác nhau, như theo dõi, kiểm tra phát hiện những nơi làm đúng, làm tốt để biểu
dương và nhân rộng; theo dõi và kiểm tra để phát hiện những nơi làm trệch, làm sai
để uốn nắn và đấu tranh, bảo đảm cho đường lối, chính sách chủ trương của Đảng,
pháp luật Nhà nước được thực thi đúng trong thực tế...
Chức năng kinh tế – dịch vụ: Vấn đề kinh tế và dịch vụ xã hội của báo chí,
truyền thông hiện nay. Chức năng này xuất phát từ đòi hỏi khách quan của hoạt
động báo chí trong nền kinh tế thị trường; đồng thời theo quan điểm chỉ đạo của các
văn kiện chính trị của Đảng và Nhà nước, như Nghị quyết TW 5 (khóa VIII), các
văn bản dưới luật...
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân
1.1.2.1. Khái niệm phổ biến, GDPL cho nông dân
Trong đời sống xã hội, phổ biến, GDPL với tính cách là một hoạt động xã
hội đã xuất hiện từ khá lâu, song quan niệm về nó lại không hoàn toàn thống nhất.

10


Hiện nay ở Việt Nam khái niệm về phổ biến, GDPL có thể hiểu là hoạt động chủ
động, có tổ chức trên cơ sở chương trình, nội dung, kế hoạch cụ thể của chủ thể
giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức
pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật hiện hành
và đòi hỏi của xã hội. Các Mác đã viết: “Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh

và giáo dục. Và do đó con người thay đổi vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo
dục thay đổi” [11, tr.20].
Từ khái niệm về phổ biến, GDPL nêu trên, trong điều kiện hiện nay khi đất
nước nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp phát triển, trong đó lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông
thôn được xem như là một giá đỡ vững chắc đảm bảo sự ổn định cho quá trình phát
triển của đất nước. Do vậy việc trang bị những tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm
và thói quen sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi công dân là rất cần
thiết, đây là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, của toàn xã hội, đặc biệt là của các cơ quan báo chí.
Nông dân Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã có những đóng góp vô cùng to
lớn cho sự nghiệp cách mạng của đất nước cả về sức người, sức của. Ngày nay,
trong công cuộc thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với
phong trào XDNTM thì nông dân được xác định là trung tâm, nòng cốt đóng vai trò
hết sức quan trọng, họ vừa là chủ thể vừa cũng vừa là đối tượng trực tiếp được
hưởng lợi. Vì thế việc không ngừng nâng cao dân trí, phát huy dân chủ trong xã hội,
nhất là thường xuyên trang bị những kiến thức nói chung và kiến thức về pháp luật
nói riêng cho đối tượng này là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu phổ biến, GDPL cho nông dân là
hoạt động chủ động, có tổ chức trên cơ sở chương trình, nội dung, kế hoạch cụ thể
lên đối tượng được giáo dục là nông dân, nhằm cung cấp cho họ những tri thức
pháp luật, tạo niềm tin tình cảm và hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật để họ
có đầy đủ khả năng tham gia vào các quan hệ xã hội.

11


1.1.2.2. Đặc điểm phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân
Phổ biến, GDPL luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, song đối

với mỗi đối tượng khác nhau, ở những địa bàn khác nhau sẽ có những nội dung,
hình thức, phương pháp khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay, nông dân là đối
tượng chủ yếu sống ở khu vực nông thôn, là đội quân chủ lực trên mặt trận nông
nghiệp, vì vậy việc thường xuyên trang bị kiến thức pháp luật để không ngừng
nâng cao hiểu hiểu biết, tôn trọng và tự giác tuân thủ pháp luật luôn là vấn đề cần
được quan tâm đúng mức. Trong quá trình phổ biến, GDPL cho nông dân cần chú
ý những đặc trưng sau đây:
a. Về mục đích phổ biến, GDPL
Mục đích của phổ biến, GDPL là một trọng những yếu tố quan trọng, là cơ
sở quy định nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, vì vậy việc xác định đúng
đắn hay sai làm mục đích phổ biến, GDPL đều ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
tốt hay không tốt của phổ biến, GDPL.
Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật thì đặc điểm về mục đích của
phổ biến, GDPL nói chung là:
Cung cấp những kiến thức pháp luật cơ bản và từng bước nâng
cao tri thức pháp luật cho công dân, để mọi người trong xã hội biết đến,
tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và nghiêm chỉnh thực hiện. Hình thành tình
cảm và lòng tin đối với pháp luật. Khi đã có lòng tin vào pháp luật con
người sẽ có những hành vi hợp pháp và thói quen xử sự theo pháp luật.
Động cơ và hành vi hợp pháp của con người được hình thành bởi nhiều
yếu tố tác động, trong đó phổ biến, GDPL là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Khi đó ý thức pháp luật của công dân ngày càng được nâng
cao, pháp chế XHCN được tăng cường [42, tr.67].
Đối với đối tượng phổ biến, GDPL là nông dân, bên cạnh những mục đích
chung nêu trên thì mục đích của phổ biến, GDPL còn có những đặc điểm riêng sau:
- Nâng cao khả năng hiểu biết và sử dụng pháp luật, tự bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của nông dân.

12



- Phổ biến, GDPL cho nông dân nhằm xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, phát huy
truyền thống văn hóa tốt đẹp của địa phương, phát huy truyền thống tốt đẹp của của
giai cấp nông dân Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Về đối tượng phổ biến, GDPL
Dưới góc độ giáo dục thì đối tượng giáo dục là những cá nhân hoặc tập thể
người đi học, trong lĩnh vực phổ biến, GDPL được hiểu là các cá nhân công dân hay
các nhóm cộng đồng dân cư được trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp nhận những tác động
của các hoạt động phổ biến, GDPL do các các cơ quan báo chí tiến hành nhằm đạt
được những mục đích đặt ra.
Mỗi nhóm đối tượng phổ biến, GDPL được chủ thể tác động bằng nhiều hình
thức, phương pháp khác nhau, điều nay phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý, nghề nghiệp,
lứa tuổi, giới tính, nhu cầu và khả năng nhận thức của từng loại đối tượng. Trong giai
đoạn hiện nay, ngoài đối tượng chung là mọi công dân, cần ưu tiên một số đối tượng
là cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, học sinh, sinh viên, các tầng lớp nhân dân
lao động, trong đó nông dân là một lực lượng lớn trên địa bàn nông thôn.
Đối tượng phổ biến, GDPL là nông dân có những đặc điểm sau
Về nghề nghiệp: Hầu hết nông dân đều là lao động nông nghiệp, trồng trọt
chăn nuôi là chủ yếu, số còn lại là những người làm dịch vụ cung cấp tiêu thụ sản
phẩm, buôn bán nhỏ, cán bộ về nghỉ chế độ tham gia sinh hoạt hội... Chính vì vậy
phần lớn trong số họ ít có điều kiện tiếp xúc rộng giải với kiến thức ngoài xã hội,
đây cũng là nguyên nhân đẫn đến sự hạn chế trong nhận thức kiến thức pháp luật
của nông dân.
Về văn hóa: So với mặt bằng chung thì đối tượng nông dân thường có trình
độ văn hóa thấp hơn, lại không đồng đều, trong đó trình độ bậc tiểu học và trung
học là phổ biến. Chính vì trình độ văn hóa không cao, không đồng đều đó đã khiến
cho nông dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp thu những kiến thức khoa học
kỷ thuật, cũng như kiến thức về pháp luật...
Đặc điểm về tâm lý, tình cảm: Đối tượng là nông dân trong đời sống, lao
động sản xuất thường coi trọng yếu tố kinh nghiệm vì thế bên cạnh những yếu tố


13


tích cực cũng bộc lộ những nhược điểm như tâm lý tự ty, an phận, ngại va chạm...
bên cạnh đó đối tượng này cũng rất dễ tin, dễ bị lợi dụng, điều này thấy rõ qua các
vụ việc khiếu kiện đông người. Tuy nhiên tâm lý, tình cảm của đối tượng này cũng
rất dễ bị thay đổi, vì vậy phổ biến, GDPL là việc trang bị cho họ những kiến thức
hiểu biết về pháp luật để họ nhận thức được trách nhiệm, thực hiện nghĩa vụ, bảo vệ
quyền lợi công dân của mình, từ đó giúp họ có thêm hiểu biết và thể hiện chính kiến
của mình trước các sự việc hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, lao động sản xuất.
c. Về nội dung phổ biến, GDPL
Cùng với việc xác định khái niệm, hình thức, phương pháp phổ biến, GDPL,
một trong những yếu tố quan trọng của quá trình phổ biến, GDPL đó là nội dung
phổ biến, GDPL. Nội dung phổ biến, GDPL được xác định trên cơ sở mục đích,
nhiệm vụ, đối tượng của phổ biến, GDPL. Nội dung phổ biến, GDPL bao gồm một
hệ thống các thông tin về pháp luật thực định, những thông tin về pháp luật chuyên
ngành, những thông tin về thực tiễn thi hành, áp dụng và bảo vệ pháp luật...
Như vậy có thể thấy rằng, tất cả những nội dung phổ biến, GDPL trên đây
chính là một hệ thống những tri thức cần thiết cho đối tượng giáo dục sử dụng để
phân tích, lý giải một cách khoa học toàn bộ những vấn đề thực tiễn mà họ thường
gặp để từ đó định hướng cho hành vi của mình. Việc lựa chọn nội dung GDPL sao
cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam theo
quan điểm của các nhà khoa học pháp lý cần phải dựa vào một số đặc điểm nhất
định cụ thể là:
- Dựa vào trạng thái động của các thông tin trong nội dung của phổ biến, GDPL.
- Dựa vào khả năng tồn tại mâu thuẫn giữa các thông tin trong nội dung phổ
biến, GDPL, giữa pháp luật trên văn bản và thực tiễn thi hành pháp luật.
Đối với phổ biến, GDPL cho nông dân, căn cứ vào đặc điểm về đối tượng
giáo dục như đã phân tích ở trên nên nội dung phổ biến, GDPL cũng phải phù hợp

với những đặc điểm đó, cụ thể là:
- Nội dung về quyền và nghĩa vụ công dân, việc thực hiện pháp luật của Nhà
nước cũng như quy tắc sinh hoạt tại cộng đồng; quyền và lợi ích hợp pháp của công

14


dân trong tiến hành các thủ tục tố tụng; trong đấu tranh với các hành vi vi phạm
phát luật để thực hiện công bằng xã hội...
- Phổ biến, giải thích các văn bản pháp luật hiện hành, nhất là những văn bản
pháp luật liên quan trực tiếp đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn như: Luật Dân
sự, Luật Hình sự, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và Gia đình... Bên cạnh đó cần lồng
ghép với các chương trình tập huấn KH-KT, đào tạo nghề, hỗ trợ vốn; vật tư cây,
con giống để nông dân phát triển sản xuất.
d. Về hình thức, phương pháp phổ biến, GDPL
* Hình thức phổ biến, GDPL
Hình thức phổ biến, GDPL có thể hiểu là những hoạt động cụ thể do các cơ
quan báo chí sử dụng hoặc tổ chức ra nhằm chuyển tải nội dung đến với đối tượng
phổ biến, GDPL.
Để đạt được mục đích của phổ biến, GDPL cần xác định đúng, đầy đủ các
hình thức phổ biến, GDPL. Dựa vào tính đa dạng, đặc thù của các hình thức phổ
biến, GDPL, có thể chia thành hai nhóm: Nhóm các hình thức phổ biến, GDPL
mang tính phổ biến, truyền thống và nhóm các hình thức phổ biến, GDPL đặc thù.
* Phương pháp phổ biến, GDPL
Phương pháp phổ biến, GDPL là tổng thể cách thức, biện pháp mà các cơ
quan báo chí sử dụng để tác động vào đối tượng giáo dục nhằm truyền đạt các kiến
thức pháp lý để đạt được những mục đích của phổ biến, GDPL đã đặt ra.
Giống như đối tượng, hình thức phổ biến, GDPL, phương pháp phổ biến,
GDPL rất đa dạng và phong phú. Do đó vấn đề đặt ra là làm sao các cơ quan báo
chí phải lựa chọn được những phương pháp phù hợp nhất với khả năng tiếp nhận

kiến thức của từng đối tượng cụ thể, nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, GDPL.
Đối với đối tượng là nông dân, do các đặc điểm như đã nêu trên nên việc lựa
chọn hình thức, phương pháp phổ biến, GDPL cũng rất đa dạng, nhưng phù hợp
hơn cả là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: báo nói, báo viết, báo
hình, báo điện tử… Những hình thức, phương pháp này được sử dụng thường xuyên
sẽ mang lại hiệu quả thiết thực đối với công tác phổ biến, GDPL.

15


1.1.2.3. Vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân
Trong đời sống xã hội, pháp luật là một trong những phương tiện quan trọng
để Nhà nước quản lý xã hội, là công cụ để công dân thực hiện các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Phổ biến, GDPL là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực
hiện pháp luật, là cầu nối chuyển tải pháp luật vào cuộc sống để tất cả các cơ quan,
tổ chức đoàn thể xã hội và công dân nắm được và sử dụng có hiệu quả công cụ,
phương tiện đó.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, Đảng ta đã liên tục khẳng định tầm
quan trọng cũng như vai trò của công tác phổ biến, GDPL: “Coi trọng công tác giáo
dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các
trường của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể nhân dân” [16, tr.04].
Tăng cường phổ biến, GDPL trong nhân dân, trước hết trong Đảng và cơ
quan Nhà nước, làm cho mọi người hiểu và làm theo pháp luật.
Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9-12-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, GDPL, nâng cao ý thức
pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định:
Phổ biến, GDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Trong những năm tới, cần tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện
thật tốt công tác này để góp phần tạo chuyển biến căn bản về ý thức tôn

trọng pháp luật của cán bộ và nhân dân... [1, tr.5].
Với nhiều góc độ khác nhau, phổ biến, GDPL nói chung thể hiện vai trò
quan trọng trên các khía cạnh sau:
a. Phổ biến, GDPL tác động vào ý thức đối tượng, góp phần hình thành và
nâng cao ý thức pháp luật của công dân
Ý thức pháp luật của mỗi cá nhân thể hiện mối quan hệ giữa con người đối
với pháp luật, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành
vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức hoạt động của các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội. Phổ biến, GDPL tác động đến ý thức của đối tượng, từ chỗ họ

16


không để ý, rồi biết, hiểu, sau đó là chấp hành và thực hiện pháp luật. Sự hiểu biết
pháp luật của nhân dân là yếu tố đầu tiên để hình thành ý thức pháp luật, pháp luật
phải trải qua nhiều hình thức khác nhau mới đến được với người dân và trở thành sự
hiểu biết về pháp luật, ý thức pháp luật.
b. Phổ biến, GDPL tác động hình thành niềm tin của nhân dân đối với pháp luật
Pháp luật thực hiện một cách nghiêm chỉnh không chỉ phụ thuộc vào sự
cưỡng chế hay sự đe dọa trừng phạt mà còn phụ thuộc vào sự giáo dục, vào sự nhận
thức về vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. Thông qua phổ biến,
GDPL người dân được nâng cao nhận thức về vai trò và sự cần thiết của pháp luật
đối với đời sống xã hội từ đó từng bước hình thành niềm tin vào pháp luật, giúp họ
nhận thức, động cơ, hành vi đúng trong thực hiện pháp luật và tích cực đấu tranh
với các hành vi vi phạm pháp luật.
c. Phổ biến, GDPL là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện
pháp luật
Trong thực tế, để quản lý xã hội theo một trật tự nhất định, Nhà nước ban
hành ra pháp luật và có những biện pháp để pháp luật đi vào cuộc sống và có khả
năng được thực thi một cách nghiêm minh. Song không phải lúc nào pháp luật cũng

được thực hiện một cách tự nguyện, vì vậy cần phải giáo dục họ, phổ biến, GDPL
giúp họ nhận thức được tính công bằng, sự cần thiết phải hành động và xử sự theo
quy định của pháp luật không phải chỉ vì lợi ích riêng của bản thân mình mà còn vì
lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của cộng đồng, từ đó có thái độ tôn trọng và
biết sử dụng công cụ pháp luật một cách có hiệu quả trong cuộc sống.
“Thực hiện pháp luật là cả một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế,
hợp pháp của chủ thể” [27, tr.116]. Thực hiện pháp luật gồm nhiều cấp độ khác
nhau, từ việc tuân thủ pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp
luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định đối với việc áp dụng pháp
luật. Nhưng dù ở cấp độ nào cũng đòi hỏi mỗi người dân phải có trình độ văn hóa
pháp lý nhất định, phổ biến, GDPL giúp cho họ có được yêu cầu đó.

17


Đối với nông dân, ngoài những vai trò chung nêu trên, phổ biến, GDPL còn
có những vai trò cụ thể được thể hiện rõ ở một số nét lớn sau:
- Một là, phổ biến, GDPL tạo tiền đề, cơ sở cho mỗi cá nhân nông dân trong
việc hiểu và nghiêm túc thực hiện pháp luật
Như đã nêu, nông dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, trình độ văn hóa
không cao, ít có điều kiện tiếp cận với pháp luật. Vì vậy, phổ biến, GDPL bằng
nhiều hình thức khác nhau đối với mỗi nhóm đối tượng khác nhau sẽ giúp cho nông
dân có được khả năng sử dụng pháp luật, sử dụng có hiệu quả những quyền mà
pháp luật trao cho mình để bảo vệ chính bản thân mình, đồng thời cũng nhận thức
được những hành vi sai trái và mạnh dạn đấu tranh với những hành vi đó.
Hai là, phổ biến, GDPL cho nông dân góp phần xây dựng “gia đình nông
dân văn hóa”
Gia đình là tế bào của xã hội, đồng thời cũng là mảnh đất hình thành nhân
cách, trí lực và nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp, trong sáng của con người.

Trong điều kiện hiện nay khi đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới và hội nhập
với thế giới thì vấn đề gia đình ngày càng được quan tâm hơn. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây
dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình
thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội” [22, tr.116].
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển
vững chắc, tạo điều kiện cho mỗi người dân, mỗi gia đình phát huy được tính năng
động, sáng tạo và trí tuệ, tài năng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy
nhiên mặt trái của cơ chế thị trường cũng đặt các gia đình Việt Nam trước những
thách thức không hề nhỏ, làm ảnh hưởng không nhỏ đến gia đình. Để ngăn chặn
những nguy cơ đó, cần phải được trang bị những kiến thức về nhiều lĩnh vực, trong
đó kiến thức và sự hiểu biết về pháp luật là vấn đề quan trọng hàng đầu cho các
thành viên trong gia đình. Có kiến thức về pháp luật thì họ mới hiểu được hành vi
nào là đúng, hành vi nào sai, những việc nào được làm, việc nào không được làm.
Như vậy chỉ có những hiểu biết nhất về các lĩnh của đời sống xã hội nói

18


×