Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận kinh tế công cộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.98 KB, 26 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây công cuộc giảm nghèo đã có những thành tựu
nhất định nhưng còn rất mong manh. Thu nhập của đại bộ phận dân cư vẫn
nằm giáp ranh mức nghèo vì vậy chỉ cần một điều chỉnh nhỏ về ngưỡng nghèo
cũng làm họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỉ lệ nghèo. Phần lớn thu
nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Bên cạnh đó nông nghiệp lại thất
thường, chịu sự ảnh hưởng lớn của thời tiết.
Đa số người nghèo sống ở khu vực khí hậu khắc nghiệt,tài nguyên thiên
nhiên nghèo nàn như vùng núi vùng sâu vùng xa hoặc các vùng Đồng Bằng
sông Cửu Long, Miền Trung do sự ảnh hưởng của thời tiết (bão, hạn hán ,lũ
lụt…) khiến cho điếu kiện sinh sống và sản xuất của nhân dân vô cùng khó
khăn. Đặc biệt sự kém phát triển của cơ sở hạ tầng của những vùng này làm
chúng càng tách biệt với các vùng khác. Năm 2000 khoảng 20-30% trong tổng
số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã , 40%
số xã chưa đủ phòng học, 5% số xã chưa có trạm y tế, 55% số xã chưa có nước
sạch, 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã, 20% chưa có chợ xã
hoặc cụm xã. Nghèo đói là hiện tượng phổ biến ở nông thôn, miền núi có đến
90% số hộ nghèo sống ở nông thôn.
Xuất phát từ những lý do trên, em xin chọn đề tài: "Thực trạng đói
nghèo ở Việt Nam và giải pháp"; Trong quá trình nghiên cứu, do hạn chế về
thời gian và kiến thức nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để bài viết hoàn thiện hơn./.
Phần 1


2

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Định nghĩa chung :


Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
2. Định nghĩa theo các trường phái:
Các công trình nghiên cứu coi nghèo là trình trạng một người trong xã hội
không có khả năng được thụ hưởng “một cái gì đó” ở mức độ tối thiểu cần
thiết. Sự khác nhau về việc xác định “cái gì đó” cho phép chúng ta có thể chia
thành ba trường phái chính trong quan niệm về nghèo:
a) Trường phái phúc lợi coi một xã hội có hiện tượng đói nghèo khi một
hay nhiều cá nhân trong xã hội đó không có được một mức phúc lợi kinh
tế được coi là cần thiết để đảm bảo một cuộc sống tối thiểu hợp lý theo
tiêu chuẩn của xã hội đó.
b) Trường phái nhu cầu cơ bản coi “cái gì đó” mà người nghèo thiếu là tập
hợp những hàng hóa và dịch vụ được xác định cụ thể mà việc thỏa mãn
chúng là điều điện tiên quyết để đẩm bảo chất lượng cuộc sống. Những
nhu cầu cơ bản đó bao gồm lương thực thực phẩm, nước sạch, điều kiện
vệ sinh, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế, và giao thông công cộng, trong đó
nhu cầu về dinh dưỡng là quan trọng nhất.
c) Trường phái năng lực cho rằng giá trị cuộc sống của con người không
chỉ phụ thuộc duy nhất vào độ thỏa dụng hay thỏa mãn các nhu cầu cơ
bản, mà đó là khả năng mà một con người có được, là quyền tự do đáng
kể mà học được hưởng, để vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn.


3

Ngày nay, hầu hết các tổ chức quốc tế như NHTG, Liên Hiệp Quốc đều đã
mở rộng khái niệm đói nghèo để bao hàm cả những khía cạnh về năng lực.
Theo đó, đói nghèo gồm những khía cạnh cơ bản như sau:
 Trước tiên và trên hết là sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo

một tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng.
 Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về
giáo dục và y tế.
 Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia
đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hoặc về sự
khỏe.
 Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người
nghèo.
3. Thước đo đói nghèo:
Để đo lường mức độ nghèo cần phải xác định ba yếu tố: (1) lựa chọn chỉ
số phúc lợi; (2) lựa chọn ngưỡng nghèo và (3) lựa chọn thước đo mức độ
nghèo.
a) Lựa chọn chỉ số phúc lợi:
Những khía cạnh cở bản của nghèo có thể được chia làm hai khía cạnh
tiền tệ và phi tiền tệ. Khía cạnh tiền tệ được phản ánh chủ yếu qua mức chi tiêu
bình quân đầu người, vì chỉ số này tổng hợp được nhiều yếu tố có thể làm cải
thiện chất lượng cuộc sống, như chi cho ăn uống, học hành và các dịch vụ y tế.
Ngoài việc sử dụng số liệu về chi tiêu, người ta còn có thể sử dụng số liệu về
thu nhập. Tuy nhiên, số liệu về chi tiêu thường được xem là tốt hơn vì hai lý
do. Thứ nhất, thu nhập chỉ làm tăng phúc lợi khi nó được sử dụng cho tiêu dùng
chú không phải tiết kiệm hay trả nợ. Điều đó có nghĩa là chi cho tiêu dùng cuar


4

hộ gia đình có liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là thu nhập. Thứ hai, số liệu
về thu nhập thường không chính xác.
Các khía cạnh phi tiền tệ của nghèo được dùng để đo tình trạng thiếu
thốn về y tế, giáo dục, các mối quan hệ xã hội, sự bất an, kém tự tin hay thiếu
quyền lực… Có thể ước tính giá trị của các chỉ số phi tiền tệ này, nhưng đa

phần phải dựa trên các đánh giá chủ quan do cá nhân tự thể hiện qua các cuộc
khảo sát.
b) Lựa chọn ngưỡng nghèo:
Ngưỡng nghèo (chuẩn nghèo) là ranh giới để phân biệt giữa người nghèo
và người không nghèo. Nó có thể là một ngưỡng tính bằng tiền (một mức tiêu
dùng hoặc thu nhập nào đó), hay phi tiền tệ (một trình độ học vấn nhất định).
Có hai cách xác định ngưỡng nghèo:
Ngưỡng nghèo tuyệt đối: là chuẩn tuyết đối về mức sống được coi là tối
thiểu cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh.
Ngưỡng nghèo tương đối: được xác định theo phân phối thu nhập hoặc
tiêu dùng chung phản ánh tình trạng của mộ bộ phận dân cư sống dưới mức
trung bình của cộng đồng.
c) Thước đo mức độ nghèo:
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, có thể tính toán một số thước đo về
qui mô, khoảng nghèo và mức độ trầm trọng của nghèo. Ba thước đo thông
dụng nhất phản ánh các khía cạnh đó lần lượt là: tỷ lệ nghèo (headcount),
khoảng nghèo (poverty gap) và mức độ nghèo (poverty severity). Các chỉ số
này có thể được tính toán qua công thức do Foster, Greer và Thorbecke (1984)
đã xây dựng:


5
α

1 q  gi 
Pα ( y , z ) = ∑ 
n i =1  z 

α


or

1 q  z − yi 
Pα ( y , z ) = ∑
 (1)
n i =1  z 

Trong đó:
n: số hộ gia đình trong cộng đồng.
q: số hộ gia đình dưới ngưỡng nghèo.
g: khoảng nghèo của hộ gia đình thứ i.
yi: chi tiêu hoặc thu nhập của hộ gia đình nghèo thứ i.
z: ngưỡng nghèo.
α ≥ 0 : đại lượng đo mức độ bất bình đẳng giữa những người
nghèo.
0

Với giá trị của α = 0, đẳng thức (1) trở thành P0 =

1 q  gi 
q

 = .

n i =1  z 
n

Khi đó, P0 là chỉ số cho biết tỷ lệ những người ở dưới ngưỡng nghèo (tỷ lệ
nghèo).
 Giá trị của α = 1, đẳng thức (1) trở thành P1 =


1 q  z − yi 
.
∑
n i =1  z 

Khi đó, P1 là chỉ số đo khoảng cách nghèo, cho biết sự thiếu hụt trong chi tiêu
của các hộ nghèo so với ngưỡng nghèo. Chỉ số này còn cho biết khoảng tiền tối
thiểu để đưa những người nghèo lên đến mức sống ngang với ngưỡng nghèo.
 Giá trị của α = 2, đẳng thức (1) trở thành P2 =

1
n

2

 z − yi 



z

i=
1 
q

.

Khi đó, P2 là chỉ số đo mức độ trầm trọng của nghèo. Những người có khoảng
nghèo lớn hơn sẽ có trọng số lớn hơn, nghĩa là mức độ nghèo của họ trầm trọng

hơn.


6

Phần 2
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM
Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam những năm qua đã nêu bật một số
đặc điểm chính sau:
1. Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo trên thế giới.
Báo cáo do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố cho thấy, dân số
Việt Nam tính đến cuối năm 2010 đạt khoảng 89 triệu người và có tổng thu
nhập quốc nội khoảng 103,6 tỷ USD, tương đương 0,37% GDP toàn cầu. Tính
trung bình thu nhập bình quân đầu người đạt 1.174 USD một năm. Con số này
được xem là một bước tiến lớn trong những năm gần đây khi giúp Việt Nam
bước vào ngưỡng thu nhập trung bình. Song Việt Nam vẫn nằm trong nhóm thu
nhập thấp nhất châu Á( theo đánh giá của IMFvà WB) cùng với Bangladesh,
Campuchia, Lào, Mông Cổ, Sri Lanka, Papua New Guinea, Nepal.
Theo tiêu chí của Ngân hàng thế giới, các quốc gia có thu nhập dưới 876
USD/người/năm thuộc nhóm “đáy”; từ 876 đến 3.465 USD là nhóm các nước
có thu nhập trung bình thấp.Như vậy ,việc Việt Nam vượt qua mốc
1000USD/năm đó là ranh giới đầu tiên để khẳng định chúng ta đã vượt nhóm
“đáy”-các nước nghèo nàn lạc hậu nhất thế giới để bước vào nhóm thứ hai
:nhóm các nước có thu nhập trung bình.
2. Nghèo đói phổ biến ở những vùng miền núi , vùng sâu, vùng xa và
những vùng đặc biệt khó khăn.
Những năm gần đây công cuộc giảm nghèo đã có những thành tựu nhất
định nhưng còn rất mong manh.Thu nhập của đại bộ phận dân cư vẫn nằm giáp
ranh mức ngheo vì vậy chỉ cần một điều chỉnh nhỏ về ngưỡng nghèo cũng làm
họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỉ lệ nghèo. Phần lớn thu nhập của



7

người nghèo là từ nông nghiệp. Bên cạnh đó nông nghiệp lại thất thường, chịu
sự ảnh hưởng lớn của thời tiết.
Đa số người nghèo sống ở khu vực khí hậu khắc nghiệt,tài nguyên thiên
nhiên nghèo nàn như vùng núi vùng sâu vùng xa hoặc các vùng Đồng Bằng
song Cửu Long,Miền Trung do sự ảnh hưởng của thời tiết (bão, hạn hán ,lũ
lụt…) khiến cho điếu kiện sinh sống và sản xuất của nhân dân vô cùng khó
khan. Đặc biệt sự kém phát triển của cơ sở hạ tầng của những vùng này làm
chúng càng tách biệt với các vùng khác. Năm 2000 khoảng 20-30% trong tổng
số 1870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã , 40%
số xã chưa đủ phòng học, 5% số xã chưa có trạm y tế, 55% số xã chưa có nước
sạch, 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã, 20% chưa có chợ xã
hoặc cụm xã. Nghèo đói là hiện tượng phổ biến ở nông thôn, miền núi có đến
90% số hộ nghèo sống ở nông thôn.
3. Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm nhanh:
Ông Zia Qurechi, đặc phái viên của Ngân Hàng thế giới khẳng định,
“Việt Nam đã có tốc độ phát triển kinh tế đáng khâm phục và trở thành một
quốc gia xuất sắc trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo”.
Đó là những nhận xét được đưa ra tại Lễ công bố báo cáo giám sát toàn cầu:
Các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và Môi trường do Ngân hàng thế giới tổ
chức.
Ước tính có khoảng 28 triệu người đã thoát nghèo trong hai thập kỷ
qua. Kết quả này đã giúp Việt Nam hoàn thành trước thời hạn một trong
những Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ quan trọng nhất và do đó đã được
cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Nhìn lại thời gian qua cho thấy những thành tựu đã đạt được trong
công cuộc giảm nghèo tại Việt Nam thực sự là rất ấn tượng.Tăng trưởng kinh

tế bền vững trên diện rộng trong suốt hai thập kỷ qua đã cải thiện chất lượng


8

cuộc sống cho hầu hết tất cả người dân. Theo tính toán của Tổng cục Thống
kê, tỷ lệ nghèo tính theo chuẩn nghèo quốc tế đã giảm liên tục từ 58% năm
1993 xuống còn

37,4% năm 1998, 28,9% năm 2002, 16% năm 2006,

14,5% năm 2008 và đến năm 2011 tỷ lệ này chỉ còn lại 12%.
Còn đây là số liệu tỉ lệ đói nghèo theo chuẩn Quốc gia do Bộ Lao động:
Năm
Tỷ lệ hộ
nghèo

199

199

0

2

31%

30%

1998

15,6
%

200
0
10%

2001*

2004

2005*

2007

17,2

8,3

26,7

14,8

%

%

%

%


200
9

2010

2011

9,45%
11%

(14,2%

11,76%

)

( Nguồn: Bộ Lao động- Thương binh và xã hội)

Căn cứ vào chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội ban hành, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ hơn 30% năm 1990, 30% vào năm
1992, 15,6% năm 1998, xuống xấp xỉ 17% vào năm 2001(2,8 triệu hộ) và 10%
năm 2000. Số hộ nghèo của năm 2004 là 1,44 triệu hộ, tỷ lệ nghèo là 8,3%, Từ
năm 1992 đến 2004, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 30% xuống còn
8,3%. Tính đến tháng 12-2004, trên địa bàn cả nước có 2 tỉnh và thành phố cơ
bản không còn hộ nghèo theo tiêu chuẩn; có 18 tỉnh tỷ lệ nghèo chiếm 3-5%;
24 tỉnh có tỷ lệ nghèo chiếm 5-10%... Đáng kể trong chương trình Xóa đói
giảm nghèo là những xã nằm trong diện 135 (xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn)
đã có những thay đổi biến chuyển rõ nét. Nếu năm 1992, có tới 60-70% số xã
nghèo trong diện 135, thì đến năm 2004 giảm xuống còn khoảng 20-25%. đến

cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ Tuy nhiên từ năm 2005,
Chính phủ áp dụng chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2006-2010, theo đó chuẩn
nghèo tăng gấp đôi, như vậy nếu áp dụng chuẩn mới thì năm 2005, tỷ lệ hộ
nghèo là 26,7% và đến năm 2007 thì giảm xuống chỉ còn 14,8%. Trong các
năm 2007-2009, cùng với sự khó khăn của nền kinh tế, tỷ lệ hộ nghèo có sự


9

giảm chậm, cho đến năm 2009 cả nước Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu hộ
nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số và đến năm 2010 là 9,45%.
4. Tốc độ giảm nghèo không đồng đều:
Theo chuẩn nghèo của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, đầu năm
2001 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả nước, chủ
yếu tập trung vào các vùng nông thôn. Các vùng nông thôn miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỷ lệ nghèo cao hơn con số trung bình
này nhiều. Có tới 64% số người nghèo tập trung ở vùng núi phía Bắc, Bắc
Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền trung. Cũng theo chuẩn nghèo quốc
gia năm 2002 còn 12,9% hộ nghèo và tỷ lệ nghèo lương thực ước lượng
10,87%.
Đơn vị: %
Năm

2004

2006

2008

2010


Khu vực thành thị.

8,6

7,7

6,7

6,9

Khu vực nông thôn.

21,2

18,0

16,1

17,4

Đồng bằng sông Hồng.

12,7

10

8,6

8,3


29,4

27,5

25,1

29,4

25,3

22,2

19,2

20,4

29,2
4,6
15,3

24,0
3,1
13

21,0
2,5
11,4

22,2

2,3
12,6

18,1

15,5

13,4

14,2

Tỷ lệ hộ nghèo phân
theo khu vực thành
thị và nông thôn.

Trung du và miền núi phía
Tỷ lệ hộ nghèo chia
theo các vùng.

Bắc.
Bắc Trung Bộ và Duyên hải
miền Trung.
Tây Nguyên.
Đông Nam Bộ.
Đồng bằng sông Cửu Long.
Cả nước.

Chuẩn nghèo qua các năm:
- Năm 2004, 170 nghìn đồng/người đối với khu vực nông thôn, 220 nghìn
đồng/ người đối với khu vực thành thị.



10

- Năm 2006, 200 nghìn đồng/người đối với khu vực nông thôn, 260 nghìn
đồng/ người đối với khu vực thành thị.
- Năm 2008, 290 nghìn đồng/người đối với khu vực nông thôn, 370 nghìn
đồng/ người đối với khu vực thành thị.
- Năm 2010, 400 nghìn đồng/người đối với khu vực nông thôn, 500 nghìn
đồng/ người đối với khu vực thành thị.
(Nguồn: Bộ Lao động-Thương binh và xã hội)

Bản đồ: Sự phân bố đói nghèo ở Việt Nam.

Mặc dù việc giảm nghèo diễn ra nhanh đối với cả hai nhóm dân cư ở
nông thôn và thành thị, song tỷ lệ nghèo ở nông thôn (66,4% năm 1993 và


11

18,7% năm 2008) vẫn cao hơn đáng kể so với tỷ lệ nghèo ở thành thị
(25,1% năm 1993 và 3,3% năm 2008). Cũng có sự chênh lệch giữa các
vùng miền, với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng là những nơi
giảm nghèo diễn ra nhanh hơn hẳn so với các vùng khác, với kết quả là tỷ
lệ nghèo giảm xuống chỉ còn một con số là 3,5% ở Đông Nam Bộ và 8,1%
ở Đồng bằng sông Hồng vào năm 2008. Giảm nghèo diễn ra chậm nhất ở
vùng Tây Bắc là nơi có nhiều người dân thuộc nhóm đồng bào người dân
tộc thiểu số sinh sống và có mức độ kết nối thấp với thị trường toàn quốc,
dẫn đến tỷ lệ nghèo vẫn còn ở mức cao là 45,7% năm 2008, giảm từ mức
81% của năm 1993. Nằm giữa hai nhóm này là các vùng Đông Bắc, Tây

Nguyên, và Bắc Trung Bộ với tỷ lệ nghèo vào năm 2008 tương tự nhau
(tương ứng là 24,3%, 24,1% và 22,6%), và đều cao hơn đáng kể so với
vùng Nam Trung Bộ (13,7%). Cũng vẫn còn có sự chênh lệch đáng kể
trong nội bộ mỗi nhóm dân cư. Cụ thể, trong nhóm đồng bào các dân tộc
thiểu số, tỷ lệ nghèo vẫn còn ở mức cao tới 83,4% đối với đồng bào Kinh,
Hoa.
Đến năm 2011, toàn quốc có 2.580.885 hộ thuộc diện hộ nghèo, bằng
11,76%; 1.530.925 hộ cận nghèo, bằng 6,98%. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo
chênh lệch khá lớn giữa các vùng: Miền núi Tây Bắc, tỷ lệ hộ nghèo là 33,02%,
cận nghèo là 12,08%; vùng núi Đông Bắc: 21,01% hộ nghèo, 9,58% hộ cận
nghèo. Trong khi đó 2 tỷ lệ này ở khu vực đồng bằng Sông Hồng tương ứng là
6,5% và 4,46%. Khu vực khu IV cũ có tỷ lệ hộ nghèo 18,28%, hộ cận nghèo
13,78%; Khu vực Duyên hải miền Trung, tỷ lệ này là 14,49% và 10,01%; Khu
vực Tây Nguyên, tỷ lệ tương ứng là 18,62% và 5,87%; Khu vực Đồng bằng
Sông Cửu Long có tỷ lệ 11,39% và 7,04%. Khu vực Đông Nam Bộ có tỷ lệ hộ
nghèo và cận nghèo thấp nhất trong cả nước với con số 1,70% và 1,78%.Cùng
với đó là sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng gia tăng.


12

5, Kết quả xóa đói giảm nghèo chưa bền vững:
Cho đến năm 2009. Theo chuẩn nghèo trên , cả nước việt nam hiện có
2tr hộ nghèo, đạt tỉ lệ 11% dân số. Tuy nhiên, trên diễn đàn quốc hội việt nam
rất nhiều đại biểu cho rằng tỉ lệ hộ nghèo giảm không phản ánh thực chất vì số
nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng do tác động của lạm phát
( khoảng 40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo đến nay) và do suy giảm kinh tế.
Chuẩn nghèo của VN hiện nay là gồm những hộ có mức thu nhập bq từ
200k>260k đồng/ người/tháng. Mặc dù vậy, nhiều hộ gia đình vừa thoát nghèo
vẫn dễ rớt trở lại vào cảnh nghèo đói. Trong thập kỉ tới đây nỗ lực của việt nam

trong việc hội nhập với nền kinh tế toàn cầu sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho sự tăng
trưởng, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức với sự nghiệp giảm nghèo. Người
dân chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống. sản xuất mà chưa có các thể chế phòng
ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn giao
thông, tai nạn lao động, thất nghiệp…
-Bất bình đẳng trong thu nhập:
Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo
của cả nước có chiều hướng tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005. Tỷ lệ
hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp,
trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng
nghèo mới ở những vùng đang đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị,
họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn
lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm gia tăng yếu tố tái nghèo và
tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng.
Chênh lệch giữa các nhóm: thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo
có xu hướng gia tăng (tỷ số Ghini giảm), trong những năm gần đây, chênh lệch
về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm nghèo từ 4,3 lần năm 1993 lên


13

8,14 lần năm 2002; chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo
nhất từ 12,5 lần năm 2002, tăng lên 13,5 lần năm 2004; Mức độ nghèo còn khá
cao, thu nhập bình quân của nhóm hộ nghèo ở nông thôn chỉ đạt 70% mức
chuẩn nghèo mới. Sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo sẽ làm cho tình trạng
nghèo tương đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm
nghèo sẽ càng khó khăn hơn.
Phần đông người nghèo ở Việt Nam sống trong hoàn cảnh bị tách biệt về
mặt địa lý, dân tộc, ngôn ngữ, xã hội và kinh tế. Kinh nghiệm của các nước

khác cho thấy rằng lợi ích thực sự của tăng trưởng kinh tế ít đến được với các
nhóm người chịu thiệt thòi này.Nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp
mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ, như giáo dục, văn hóa trường
kinh doanh thuận lợi. Mức nghèo còn là tình trạng đe dọa bị mất những phẩm
chất quý giá, đó là lòng tin và lòng tự trọng.
Báo cáo quốc gia đầu tiên của Việt Nam về tiến độ thực hiện các Mục
tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, được công bố tháng 9 năm 2005 và phân phát tại
Hội nghị Thượng đỉnh thế giới năm 2005, cho thấy tình trạng chênh lệch và bất
bình đẳng xã hội giữa các vùng, giới tính và nhóm dân cư đang ngày càng gia
tăng. Trong khi các vùng đô thị được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách cải
cách và tăng trưởng kinh tế, thì tình trạng nghèo vẫn tồn tại dai dẳng ở nhiều
vùng nông thôn của Việt Nam và ở mức độ rất cao ở các vùng dân tộc thiểu số theo Tổng cục Thống kê là 69,3% vào năm 2002.
Trong thập kỷ tới đây nỗ lực của Việt Nam trong việc hội nhập với nền
kinh tế toàn cầu sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho sự tăng trưởng, nhưng cũng đặt ra
nhiều thách thức đối với sự nghiệp giảm nghèo.
6, Tốc độ giảm nghèo của nhóm dân tộc thiểu số còn chậm:
Theo thống kê, trong khi tỉ lệ nghèo chung đã giảm đáng kể từ 14,5%
năm 2010, tốc độ giảm nghèo đáng kể ở các nhóm dân tộc thiểu số chậm hơn


14

nhiều so với các nhóm dân tộc đa số. Năm 2012, trên 50% người dân tộc thiểu
số vẫn đang sống dưới chuẩn nghèo chung, trong đó có tới 31% nghèo về
lương thực. Tiến độ giảm nghèo ở dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực giáo dục,
y tế, nước sạch, vệ sinh và nhà ở còn chậm so với mức bình quân cả nước.
Trong vòng 15 năm, tỷ lệ nghèo đói của người Kinh giảm 5 lần, so với mức
giảm chỉ 1,6 lần ở các dân tộc thiêu số. Năm 1993, 22% người nghèo thuộc
nhóm các dân tộc thiểu số không phải người Kinh; năm 2006, các dân tộc thiểu
số chiếm 44% và 59% số người đói- tức là người sống dưới chuẩn nghèo theo

thu nhập.
Bất bình đẳng về tiêu dùng ngày càng gia tăng theo thời gian. Năm 1998,
mức tiêu tiêu dùng của người Kinh cao hơn 51% so với các dân tộc khác và
khoảng cách này đã tăng lên 74% so với năm 2006. Khoảng cách này còn lớn
hơn nữa ở các nấc thang trên, những người rất giàu trước hết là người Kinh.

Phần 3


15

GIẢI PHÁP XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
Giải pháp của NHTG:
Xuất phát từ những khía cạnh cơ bản của đói nghèo như đã trình bày ở
trên, NHTG đã đề xuất một chiến lược XĐGN nhằm vào những nội dung sau:
Mở rộng cơ hội cho người nghèo: người nghèo rất cần được trao những
cơ hội vật chất như việc làm, tín dụng, đường sá, điện nước, thị trường tiêu thụ,
trường học, dịch vụ vệ sinh và y tế - vì đó là những cơ hội để tăng cường sức
khỏe, học vấn và những hĩ năng cần thiết cho cuộc sống của họ. Đồng thời cần
cso những cơ chế để tạo thêm cơ hội mới và sự đền bù cho những người bị thua
thiệt. Trong những xã hội có bất bình đẳng cao, tăng cường sự bình đẳng là yếu
tố đặc biệt quan trọng để có được tiến bộ nhanh chóng trong việc XĐGN. Điều
đó đòi hỏi chính phủ phải có những chính sách hỗ trợ việc gây dựng tài sản về
con người, đất đai hoặc KCHT mà người nghèo có khả năng tiếp cận. Những
chính sách và thể chế mà chính phủ có thể hỗ trợ cho việc mở rộng cơ hội bao
gồm:
 Khuyến khích đầu tư tư nhân có hiệu quả.
 Mở rộng sang thị trường quốc tế để tìm kiếm cơ hội lớn tạo công ăn việc
làm và tăng thu nhập.
 Gây dựng các tài sản con người, vật chất, tự nhiên và tài chính cho người

nghèo bằng cách can thiệp trên ba lĩnh vực:
 Một là, hướng đầu tư công cộng mạnh hơn vào việc phục vụ người
nghèo, mở rộng nguồn cung ứng các dịch vụ kinh tế xã hội cơ bản và
nới lỏng các quy định hạn chế cầu.
 Hai là, đảm bảo dịch vụ cung ứng dịch vụ đạt chất lượng cao.


16

 Ba là, đảm bảo người nghèo và cộng đồng nghèo được tham gia
vào việc lựa chọn, thực hiện và giám sát cung ứng dịch vụ.
 Chú trọng giải quyết bất bình đẳng về tài sản theo giới, dân tộc và địa vị
xã hội.
 Đưa KCHT và kiến thức đến các vùng nghèo ở cả thành thị và nông
thôn.
Tăng cường quyền lực cho người nghèo. Việc mở rộng cơ hội cho
người nghèo phụ thuộc rất lớn vào các thể chế nhà nước và xã hội, vì thế những
thể chế này phải rất nhạy bén và có trách nhiêm với người nghèo. Muốn vậy,
người nghèo phải có tiếng nói và quyền tham gia vào các quyết định kiên quan
đến họ, nhất là ở cấp địa phương. Để làm được điều đó, chính phủ cần:
 Xây dựng cơ sở chính trị và pháp lý cho quá trình phát triển có sự tham
gia của quần chúng.
 Xây dựng bộ máy công quyền vững mạnh, có tác dụng thúc đẩy tăng
trưởng và đảm bảo công bằng.
 Thúc đẩy quá trình phân cấp để phát huy dân chủ ở cấp cơ sở và đẩy
mạnh quá trình phát triển cộng đồng.
 Thúc đẩy bình đẳng giới.
 Khắc phục những rào cản của xã hội đang phân biệt đối xử với người
nghèo.
 Hỗ trợ vốn xã hội cho người nghèo

Tăng cường ASXH: ASXH là các chương trình giúp giảm bớt nguy cơ
người nghèo bị tổn thương trước những cú sốc kinh tế, thiên tai, ốm đau, bệnh
tật và bị ngược đãi. Muốn vậy , chính phủ phải:


17

 Xây dựng những phương thức mẫu mực để giúp người nghèo giảm bớt
rủi ro.
 Triển khai các chương trình quốc gia để phòng ngừa, chuẩn bị ứng phó
và ứng phó với các cú sốc vĩ mô, cả về kinh tế lẫn tự nhiên.
 Xây dựng hệ thống quốc gia để quản lý những rủi ro xã hội hỗ trợ cho
tăng trưởng; giải quyết các xung đột nội bộ.
 Đấu tranh với nạn dịch HIV/AIDS.
Tuy nhiên, NHTG cũng khuyến cáo rằng, từ chiến lược đến hành động là
cả một quãng đường dài và không đâu có một khuôn mẫu giản đơn và thống
nhất để thực hiện chiến lược đó. Mỗi nước cần hoạch định một hệ thống chính
sách đặc thù của riêng mình để giảm đói nghèo, và hệ thống chính sách đó phải
phản ánh được mục tiêu ưu tiên của mỗi quốc gia, đồng thời phải phù hợp với
mục tiêu chung của quốc tế. Là một trong những nước đi đầu trong công cuộc
XĐGN, từ chiến lwocj chung của thế giới, chúng ta đã cụ thể hóa thành hàng
loạt các chính sách thiết thực, phản ánh rõ nét tình tình thực tiễn của Việt Nam
và quyết tâm XĐGN của chính phủ.
Tuy nhiên, từ chiến lược đến hành động là cả một quãng đường dài và
không đâu có một khuôn mẫu giản đơn và thống nhất để thực hiện chiến lược
đó. Mỗi nước cần hoạch định một hệ thống chính sách đặc thù của riêng mình
để giảm đói nghèo và hệ thống chính sách đó phải phản ánh được mục tiêu ưu
tiên của mỗi quốc gia, đồng thời phải phù hợp với mục tiêu chung của quốc tế.
Là một trong những nước đi đầu trong công cuộc XĐGN, từ chiến lược chung
của thế giới, chúng ta đã cụ thể hóa thành hàng loạt các chính sách thiết thực,

phản ánh rõ nét tình hình thực tiễn của Việt Nam và quyết tâm XĐGN của
chính phủ.


18

Giải pháp của chính phủ Việt Nam.
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn để xóa đói giảm nghèo
trên diện rộng.
Theo số liệu từ chiến lược xóa đói giảm nghèo, sau giai đoạn đổi mới
77% dân số nước ta tập trung ở nông thôn, 70% thu nhập và đời sống phụ thuộc
vào nông nghiệp, 90% người nghèo sống ở nông thôn. Do đó việc phát triển
nông nghiệp va nông thôn là mẫu chốt của chiến lược toàn diện về tăng trưởng
kinh tế và XĐGN. Vì vậy trước mắt cần tập trung vào:
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn thông qua
nghiên cứu thị trường và các lợi thế so sánh.
a. Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến:
Theo đánh giá của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Việt Nam
có tiềm năng lớn trong lĩnh vực kinh doanh lương thực. Tuy nhiên, hầu hết các
sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo mô hình nhỏ lẻ, hộ gia đình. Một vấn
đề nữa, Việt Nam còn thiếu các tiêu chuẩn về an toàn nông sản. Vì vậy cần xây
dựng cơ sở chế biến gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng
trong vùng quy hoạch, hình thành các cụm, khu công nghiệp chế biến.
b. Nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp:
Phải bắt đầu từ khâu quy hoạch vùng sản xuất phù hợp lợi thế, nghiên cứu để
có giống mới năng suất cao, chất lượng tốt, đào tạo nghề và chuyển giao kỹ
thuật cho nông dân, hỗ trợ công cụ và thiết bị kỹ thuật để nâng cao hiệu suất
lao động
⇒ Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu để tăng thêm thu nhập cho
nông dân và cho người nghèo.

Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với các đối tượng chính
sách:


19

Tạo điều kiện cho người nghèo, người yếu thế, người bị rủi ro và ưu tiên
cho phụ nữ có nhu cầu cần được vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lí, kịp thời
và đúng thời vụ để phát triển sản xuất. Trước mắt là áp dụng chính sách lãi suất
thấp cho người nghèo, về lâu dài hệ thống tín dụng được đơn giản hóa gắn với
đào tạo để mang lại hiệu quả sử dụng vốn.

Đáp ứng nhu cầu vốn, tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho người nghèo.
Mở rộng công tác đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn:
Cần phải làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, đầu tư mạnh hơn nữa
vào cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học (đa ngành nghề) để thu hút được
thanh niên nông thôn theo học nghề. Bên cạnh đó chúng ta cần có nhiều kênh
thông tin hơn để cho thanh niên nông thôn dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu những
ngành nghề mà mình dự định theo học, cũng như việc định hướng cho họ, giúp
họ hiểu rõ hơn học xong ra trường họ sẽ làm gì. Song song với điều đó là hỗ trợ
một phần kinh phí cho các cơ sở dạy nghề để tạo điều kiện cho người nghèo đi
học.
Phát triển công nghiệp tạo việc làm và nâng cao mức sống cho người
nghèo.
Phát triển các nghành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, nghành
công nghiệp mũi nhọn, có công nghệ cao.
Theo Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách công nghiệp Việt Nam,
đối với các ngành công nghiệp mũi nhọn sẽ chú trọng vào các ngành có lợi thế
cạnh tranh để thúc đẩy XK như dệt may, da giày, thực phẩm chế biến (thị
trường Nhật rất tiềm năng). Tập trung phát triển công nghiệp nền tảng cho nền

kinh tế như năng lượng, máy móc và công nghiệp luyện kim. Ngoài ra cũng sẽ
đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp mới, trong đó có công nghiệp phần
mềm, công nghiệp vật liệu mới…


20

⇒ Thu hút nhiều lao động và tạo công ăn việc làm, góp phần cải thiện
thu nhập.
Khuyến khích người nghèo ở đô thị tự thoát nghèo với sự hộ trợ của
nhà nước và cộng đồng dân cư.
Cải thiện chất lượng ngôi nhà và đảm bảo an toàn “quyền hưởng dụng
đất”, giảm thiểu sự xuống cấp của môi trường, giảm thiểu bệnh tật và cải thiện
điều kiện y tế, cải thiện điều kiện đi lại và có phương tiện giao thông thích hợp,
quản lý đô thị tốt, phát triển khu vực dịch vụ, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
⇒ Giúp người nghèo tự tạo việc làm cho họ.
Tăng cường hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm:
Tư vấn học nghề cho người lao động về lựa chọn nghề, trình độ đào tạo, nơi
học phù hợp với khả năng và nguyện vọng; tư vấn việc làm cho người lao động
về lựa chọn công việc phù hợp với khả năng và nguyện vọng; về kỹ năng thi
tuyển; về tự tạo việc làm, tìm việc làm trong và ngoài nước; tư vấn cho người
sử dụng lao động về tuyển lao động,về quản trị và phát triển nguồn nhân lực, về
sử dụng lao động và phát triển việc làm; tư vấn về các chính sách, pháp luật lao
động cho người lao động, người sử dụng lao động.
⇒ Tạo cho người nghèo cơ hội tìm việc làm phù hợp, đáp ứng yêu cầu
của người sử dụng lao động.
Xây dựng các tiêu chuẩn quy phạm trong thiết kế quy hoạch đô thị:
Ưu tiên dành quỹ đất để xây dựng nhà ở cho người nghèo, bảo đảm điều
kiện phát triển cân bằng đô thị với yêu cầu cảnh quan vệ sinh môi trường, có
tính đến nhu cầu và khả năng chi trả của người nghèo đô thị.

Phát triển kết cấu hạ tầng tạo cơ hội cho các xã nghèo, vùng nghèo,
người nghèo tiếp cận các dịch vụ công


21

Đầu tư xây dựng phát triển mạng lưới các công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế như:
Điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các công trình kết cấu hạ
tầng xã hội như trường học, các công trình y tế, chăm sóc sức khỏe, nhà văn
hóa thể thao…Trước mắt tập trung vào KCHT thiết yếu như cấp nước sạch, y
tế, giáo dục và giao thông đường bộ đến các trung tâm xã nghèo.
Hỗ trợ vốn hoặc cho vay tín dụng với lãi suất thấp hoặc không có lãi:
Giúp các xã nghèo xây dựng các công trình KCHT và đào tạo tập huấn cán bộ
nhân viên làm nhiệm vụ quản lý và vận hành, bảo dưỡng các công trình 1 cách
có hiệu quả.
Công khai hóa quy hoạch và kế hoạch đầu tư của nhà nước
Phát huy sự tham gia của người dân ở các xã nghèo, cộng đồng nghèo nhằm
lựa chọn đúng quyết định xây dựng những công trình KCHT thiết yếu nhất.
Thực hiện nghiêm chỉnh quy chế dân chủ ở cơ sở, gắn bó quyền lợi trách
nghiệm của người dân địa phương vào đầu tư khai thác sử dụng công trình.

Xây dựng nền giáo dục công bằng hơn, chú trọng nâng cao chất
lượng giáo dục cho người nghèo
Hoàn thiện các thể chế chính sách:
Nhằm tạo điều kiện công bằng hơn trong giáo dục, đào tạo nâng cao chất
lượng giáo dục cho người nghèo và các nhóm yếu thế trong xã hội là một trong
những trọng tâm của quá trình phát triển và mang tính quyết định đối với công
cuộc XĐGN.
Đầu tư cho hệ thống giáo dục của các xã nghèo, vùng nghèo:

Xây dựng trường kiên cố cho các vùng thường xảy ra thiên tai, duy trì và
mở rộng hệ thống trường nội trú cho vùng sâu vùng xa, vùng cao để tăng số
lượng và chất lượng giáo viên, học sinh ở các vùng nghèo.


22

Miễn giảm hoặc hỗ trợ cho trẻ em các hộ gia đình nghèo trong lĩnh
vực giáo dục các khoản đóng góp mà người nghèo ít có khả năng đóng
góp:
Tiền học phí, tiền sách giáo khoa, tiền xây dựng trường, tiền ăn ở đi lại…
để giảm bớt khó khăn cho các gia đình và hạn chế tình trạng con em họ bỏ học.
Phát triển mạng lưới an sinh xã hội giúp dỡ người nghèo.
Tăng cường nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo:
Tăng tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo, đồng thời mở rộng
quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục. khuyến khích các cá nhân và tập thể đầu
tư cho giáo dục, phát triển các trung tâm giáo dục cộng đồng.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách trợ giúp của nhà nước:
Dành cho các nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không có cơ hội tự
tạo việc làm hoặc đi làm thuê để họ có thu nhập đủ nuôi sống bản thân và tham
gia các hoạt động cộng đồng.
Tăng cường mạng lưới an sinh xã hội thông qua phát triển và củng
cố các quỹ của xã hội và đoàn thể:
Trợ giúp nhân đạo thường xuyên đối với người nghèo, người không có
sức lao động và không nơi nương tựa. Triển khai hoạt động của các quỹ này tại
những cộng đồng làng xã, nơi tập trung nhiều người nghèo chú trọng trợ cấp
bằng hiện vật ( gạo, thực phẩm, quần áo…) đối với các đối tượng rơi vào hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn.
Phát triển trung tâm bảo trợ xã hội ở những vùng nghèo, vùng gặp
rủi ro thường xuyên và điều chỉnh lại cơ cấu phân bổ ngân sách:

Để nuôi dưỡng các đối tượng mất khả năng cơ hội kiếm sống và để thực
hiện các chính sách xã hội theo hướng trao quyền chủ động cho các địa
phương, đặc biệt là các xã huyện để đẩy mạnh phát triển quỹ cộng đồng ở làng
xóm và cấp xã.
Xây dựng hệ thống cứu trợ xã hội đột xuất:


23

Nhằm đảm bảo sự hoạt động hữu hiệu hơn của hệ thống: đối với người
nghèo, người dễ bị tỏn thương khi gặp rủi ro như thiên tai, tai nạn…. cần có
giải pháp giúp đỡ cứu trợ đột xuất, đồng thời phải giúp đỡ phòng chống có hiệu
quả khi gặp thiên tai; hỗ trợ một phần kinh phí để cải thiện tình trạng nhà ở
tránh báo tránh lụt.
Quy hoạch lại các vùng dân cư có kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội
không thuận lợi cho việc phòng chống và cứu trợ khi thiên tai xảy ra.

KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy, trong quá trình đổi mới,
Việt Nam đã rất cố gắng trong công cuộc đảm bảo công bằng xã hội và XĐGN.
Vấn đề này đã và đang là trọng tâm trong các chính sách phát triển của Việt
Nam. Điều đó được phản ánh rõ nét qua các mục tiêu của Chiên lược Tăng
trưởng và XĐGN. Chình phủ đã nhận thức sâu sắc rằng đây là một công cuộc
lâu dài, bền bỉ và đòi hỏi những quyết tâm rất lớn của trung ương, địa phương,
các tổ chức xã hội của người dân. Thực hiện thành công công cuộc đó là nền
tảng để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.


24


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Kinh tế công cộng – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(năm 2014)
2. World Bank, Giới thiệu chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm
nghèo
3. Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang (2001), "Nghèo đối và xóa đối giảm nghèo ở
Việt Nam"
4. Thái Phúc Thành (2009), "Giảm nghèo ở Việt Nam, cơ hội và thách thức"


25

LỜI MỞ ĐẦU

1

Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

2

1. Định nghĩa chung

2

2. Định nghĩa theo các trường phái

2

3. Thước đo nghèo


3

Phần 2: THỰC TRẠNG ĐỐI NGHÈO Ở VIỆT NAM

6

1. Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo trên thế giới

6

2. Nghèo đói phổ biến ở những vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa..

6

3. Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm nhanh

7

4. Tốc độ giảm nghèo không đồng đều

9

5. Kết quả xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững

12

6. Tốc độ giảm nghèo của nhóm dân tộc thiểu số còn chậm

14


Phần 3: GIẢI PHÁP XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

16

Giải pháp của Ngân hàng Thế giới

16

Giải pháp của Chính phủ Việt Nam

19

KẾT LUẬN

25

TÀI LIỆU THAM KHẢO

26


×