Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tieu luan kinh te cong cong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.38 KB, 31 trang )

1

MỤC LỤC

1

MỞ ĐẦU

2

Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

3

1. Vấn đề thất nghiệp

3

2. Bảo hiểm thất nghiệp

4

Phần 2: BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN

6

Phần 3: BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM

9

1. Khái quát về bảo hiểm xã hội Việt Nam



9

2. Luật và chính sách điều chỉnh vấn đề bảo hiểm thất nghiệp

12

3. Tình hình thực hiện bảo hiểm thất nghiệp

16

4. Phân tích nguyên nhân, giải pháp cho các vướng mắc gặp phải

22

Phần 4: NHÌN NHẬN VỀ TÍNH ƯU VIỆT CỦA VIỆC THỰC HIỆN

27

BHTN Ở VIỆT NAM VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG THỜI
GIAN TỚI
KẾT LUẬN

30

TÀI LIỆU THAM KHẢO

31

MỞ ĐẦU

Vào thế kỉ 19, ở một số nước Châu âu như Đức, Ý, Thụy Điển, một loại
hình bảo hiểm mới đã được triển khai nhằm bảo vệ, hỗ trợ những đối tượng
lao động thất nghiệp. Đó là bảo hiểm thất nghiệp ( BHTN ). Cho đến nay, loại


2

hình bảo hiểm này đã được thực hiện rộng rãi ở các nước phát triển với những
điều luật quy định hết sức chặt chẽ; đem lại nhiều ý nghĩa to lớn cũng như tác
dụng tích cực về mặt kinh tế xã hội. Tại Việt nam, loại hình bảo hiểm này là
vô cùng mới mẻ. Luật BHTN Việt nam mới bắt đầu có hiệu lực từ ngày
1.1.2009 và theo quy định, chính sách BHTN thực sự đi vào thực hiện từ ngày
1.1.2010. Sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thực sự là một bước tiến lớn
trong con đường phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam nói riêng và nỗ lực
đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta nói chung. Nhất là khi, sự ra
đời này lại gắn trong giai đoạn đầy khó khăn, tồi tệ của nền kinh tế Việt nam
cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải chứng kiến nhiều doanh
nghiệp phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Vậy trong một
năm qua, chúng ta đã làm được những gì, vấp phải những khó khăn gì; người
dân, nhất là đối tượng lao động, họ phản ứng thế nào với chính sách mới này
của Chính phủ ? Mong muốn tìm hiểu rõ hơn những vấn đề mới mẻ này chính
là lí do em lựa chọn đề tài “ Tìm hiểu về Bảo hiểm thất nghiệp VN”. Chúng
em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo!

Phần 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Vấn đề thất nghiệp
1.1 Khái niệm



3

Thất nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không
tìm được việc làm
1.2 Phân loại
- Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi luôn có một
số người trong giai đoạn chuyển từ chỗ làm này sang chỗ khác.
- Thất nghiệp cơ cấu: do sự không tương thích của phân bố lao động và
phân bố chỗ làm việc (khác biệt địa lý hoặc khác biệt kỹ năng). Người thất
nghiệp không muốn hoặc không thể thay đổi nơi ở hoặc chuyển đổi kỹ năng.
- Thất nghiệp chu kỳ: khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung lao
động ở giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế.
- Thất nghiệp kỹ thuật: do việc thay thế công nhân bằng máy móc hoặc
công nghệ tiên tiến hơn.
1.3 Ảnh hưởng
- Thất nghiệp có ảnh hưởng quan trọng không những đến các cá nhân
mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội và nền kinh tế.Các cá nhân khi không
có việc làm sẽ gây ra chán nản ,không có tiền, không có khả năng chi trả gây
ra trộm cắp và các tệ nạn xã hội.
- Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
thấp – các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất
thêm sản phẩm và dịch vụ.
- Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của
sản xuất theo quy mô.
- Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ
không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá
cả tụt giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít
đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn. Do đó tình



4

trạng thất nghiệp là một trong những vấn đề nan giải và hết sức bức xúc và
cần có những chính sách để giúp mọi người tìm được việc làm cũng như
những biên pháp hỗ trợ khi bị thất nghiệp để giúp cân bằng kinh tế xã hội.
2. Bảo hiểm thất nghiệp
2.1 Khái niệm :
Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền
kinh tế thị trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định
cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của
bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới
thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm
mới thích hợp và ổn định.
2.2 Đối tượng
Đối tượng được nhận bảo hiểm thất nghiệp là những người bị mất việc
không do lỗi của cá nhân họ. Họ vẫn đang cố gắng tìm kiếm việc làm, sẵn
sàng nhận công việc mới và luôn nỗ lực nhằm chấm dứt tình trạng thất
nghiệp. Những người này sẽ được hỗ trợ một khoản tiền theo tỉ lệ nhất định
so với khoản thu nhập cũ nhận trong những thời kì cụ thể. Bảo hiểm thất
nghiệp không áp dụng cho những người thất nghiệp vì tự ý bỏ việc hay những
ngưòi vừa mới ra trường và chưa tìm được công ăn vịêc làm,những người
thuộc vào diện thất nghiệp tự nhiên
2.3 Lợi ích
Nhân thức được tầm ảnh hưởng của thất nghiệp trong kinh tế xã hội thí
các hệ thống bảo hiểm thất nghiệp đã được ra đời và đã có tác dụng nhằm:
- Giúp ổn định thu nhập đời sống cho những người thất nghiệp không
tự nguyện, đáp ứng cho họ những chi tiêu ccàn thiết mà kong gây ra tình trạng
nợ nần



5

- Giúp những người thất nghiệp sớm có cơ hội tìm được việc làm,
những người có kĩ năng sẽ tìm đựơc công việc pù hợp thay vì phải làm những
công việc khác với mức lương không tương xứng
- Giúp ổn định nền kinh tế, góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc độ
cá thể và kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tìm việc làm hiệu quả
- Tạo điều kiện kết nối tốt hơn giữa cung và cầu trong thị trường lao
động. - Giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh nghiệp

Phần 2
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN
Nỗ lực đầu tiên trong việc đưa ra 1 kế hoạch về bảo hiểm thất nghiệp
bắt đầu từ TK 19 tại Đức, Italia,Thuỵ điển, sau đó đã lan rộng ra các nước
như Pháp (1905) Anh (1911) Hà lan (1916), Mỹ (1935). Hiện nay Bảo hiểm


6

thất nghiệp được thực hiện rộng rãi ở các nước phát triển với những bộ luật
qui định khá toàn vẹn và chặt chẽ.Mỗi nước đều có qui định riêng và thực
hiện dựa trên những nguyên tác của mình.
- Hệ thống bảo hiểm được thực hiện rộng rãi khắp cả nước và được
quản lý linh hoạt phù hợp với điều kiện từng quốc gia. Ngoài công đoàn ,quĩ
bảo hiểm nhà nước còn có sự tham gia của các nghiệp đoàn các khu vực tư
nhân tạo nên 1 thị trường vô cùng sôi động và có tính cạnh tranh.
- Loại hình bảo hiểm được áp dụng phong phú , đa dạng , đáp ứng đầy
đủ nhu cầu của con người
*Tại Mỹ có 7 loại hình:
• Bảo hiểm thất nghiệp trên diện rộng (Unemployment Insurance Fact

Sheet): là chương trình hỗ trợ tài chính của Liên bang đối với hầu hết người
lao động bị thất nghiệp
• Bảo hiểm thất nghiệp dành cho nhân viên liên bang (Unemployment
Compensation for Federal Employees): là chương trình hỗ trợ cho những
nhân viên của bang bị mất việc có đủ điều kiện do chính quyền từng bang
quản lý.
• Bảo hiểm thất nghiệp dành cho các cựu quân nhân (Unemployment
Compensation for Ex-Servicemembers): là chương trình hỗ trợ dành cho các
cựu quân nhân đủ điều kiện và cả những cựu nhân viên của Ban NOAA .
• Khoản lợi ích mở rộng (Extended Benefits): là chương trình của chính
quyền bang/liên bang dành cho các khu vực có tỉ lệ thất nghiệp cao
• Hỗ trợ thất nghiệp do thiên tai (Disaster Unemployment Assistance):
là chương trình đặc biệt dành cho những người lao động bị mất việc làm hoặc
đột ngột phải ngừng công việc do hậu quả của thiên tai.
• Phụ cấp ảnh hưởng thương mại (Trade Readjustment Allowances): là
khoản phụ cấp thu nhập dành cho những người lao động đã hết hưởng bồi


7

thường thất nghiệp và công việc của họ bị ảnh hưởng bởi hoạt động nhập
khẩu.
• Hỗ trợ cho hoạt động tự kinh doanh (Self Employment Assistance): là
chương trình tự nguyện đặc biệt của nhà nước ở một số vùng dành cho những
người lao động tự tổ chức hoạt động kinh doanh.
*Tại UK có 6 loại hình
• Bảo hiểm bảo vệ thu nhập (Income protection insurance): dành cho
hầu hết các đối tượng lao động làm ở doanh nghiệp
• Bảo hiểm đảm bảo trả nợ ( Payment protection insurance); dành cho
việc đảm bảo cho những người lao động có thời gian để trả nợ khi bị mất việc

• Bảo hiểm bị sa thải (Redundancy insurance): dành cho người lao đọng
mất việt vi công ty bị phá sản hay do kinh tế suy thoái mà phải cắt giảm


Bảo

hiểm

chống

thất

nghiệp

(Unemployment

protectin

insurance):dành cho những người tự kinh doanh riêng
- Đối tượng bảo hiểm bao quát và đày đủ, mức độ hưởng trung bình
giúp những người mất việc vẫn có thể chi tiêu trung bình trong thời gian tìm
việc mới
*Hệ thống nghiệp đoàn ở Thuy điển hết sức linh hoạt:
Người lao động không nhất thiết phải là công dân Thụy điển – người
lao động chỉ cần có giấy phép nhập cư và có thẻ cư trú là đủ điều kiện để
tham gia Bảo hiểm thất nghiệp. Lương thất nghiệp được chi bằng 60% lương
thực tế sau khi đã trừ đi các khoản đóng góp bắt buộc (thuế thu nhập, đóng
góp BHXH, BHYT). Trong trường hợp người lao động có ít nhất một trẻ em
phụ thuộc sẽ được nhận mức lương thất nghiệp là 67%lương thực tế. Thu
nhập từ chế độ bảo hiểm thất nghiệp không phải chịu thuế. Trong thời gian

thất nghiệp, đối tượng hưởng chế độ vẫn được tiếp tục tham gia BHYT trong
một quỹ y tế công. Cơ quan việc làm cũng đóng bảo hiểm hưu trí bắt buộc
cho người hưởng chế độ thất nghiệp.


8

Theo quy định của Liên minh châu Âu, người thất nghiệp có thể tìm
việc trong các nước Liên minh châu Âu khoảng 3 tháng và có thể lưu tại đó
trong thời gian này và sẽ tiếp tục nhận được lương thất nghiệp. Hệ thống bảo
hiểm thất nghiệp ở các nước phát triển dã được áp dụng từ lâu đời và có vai
trò to lớn trong việc đam bảo an sinh xã hội cũng như cân bằng kinh tế nước
đó.Bên cạnh sự ưu việt về hệ thống luật, sự phong phú về hình thức là một cơ
chế hợp lý giúp những người thất nghiệp nhanh chóng tìm được việc làm.
Đây là những ưu điểm mà Việt nam ta cần khéo léo học tập để vận dụng

Phần 3
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1. Khái quát về bảo hiểm xã hội Việt Nam
1.1 Các loại hình của BHXH


9

Theo quy định tại điều lệ BHXH ban hành theo quy định số 12/CP ngày
26/1/1995 của Chính phủ quy định ở nước ta bao gồm 2 loại hình BHXH bắt
buộc và BHXH tự nguyện. Đặc điểm của đối tượng của BHXH tự nguyện có
công việc nơi làm việc và thu nhập không ổn định, không có người sử dụng
lao động cụ thể hoặc ổn định để đóng thêm phí BHXH ngoài phần đóng góp
của bản thân họ. Chính vì thế mặc dù đã có trong bộ luật lao động Việt Nam

nhưng mới chỉ có điểu lệ về BHXH bắt buộc còn BHXH tự nguyện hiện nay
mới mang tính chất áp dụng thử nghiệm. Một quy định khác hoàn toàn mới
của luật BHXH là việc hình thành quỹ BHTN từ năm 2009. Khi đó người thất
nghiệp đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi
thất nghiệp sẽ được hưởng BHTN.
1.2 Các chế độ BHXH
Hiện nay ở nước ta có 5 chế dộ BHXH áp dụng cho các đối tượng bắt
buộc, đó là
▪ Trợ cấp ốm đau
▪ Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
▪ Trợ cấp thai sản
▪ Chế độ hưu trí
▪ Tiền mai tang, chế độ tuất BHXH tự nguyện gồm các chế độ sau đây
▪ Chế độ hưu trí
▪ Trợ cấp tử tuất
1.3 Tình hình thực hiện
BHXH mang lại sự đảm bảo ổn định cuộc sống cho người dân đặc biệt
là người làm công ăn lương. Cơ quan BHXH đã từng bước thực hiện cải cách
thủ tục hành chính trong quản lí và giải quyết chế độ chính sách cho người lao
động thông qua việc áp dụng công nghệ thông tn và cơ chế một cửa liên


10

thông. Với những nỗ lực trong việc triển khai thực hiện công tac thu BHXH
theo luật BHXH, số người tham gia BHXH bắt buộc được mở rộng. Trên 3
triệu lượt đối tượng đang hưởng các chế độ, chính sách BHXH được giải
quyết hưởng trợ cấp kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Luật BHXH được
Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, với 3 thời điểm hiệu
lực khác nhau: từ 1.1.2007 cho các quy định của luật nói chung, từ 1.1.2008

cho chế độ BH tự nguyện và từ 1.1.2009 cho chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Chỉ một năm sau khi đạo luật có hiệu lực, số đối tượng theo quy định tại
khoản 1 điều 2 của Luật tăng từ 6.759.723 người năm 2006 lên 8.148.123
người năm 2007 ( tăng 20,7%). Trong đó lao động ở các cơ quan hành chính
sự nghiệp tăng 4%, doanh nghiệp dân doanh tăng 25,7%, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,3%, doanh nghiệp nhà nước tăng 2. Tính
chung lại đến nay đã có khoảng 9,35 triệu người tham gia BHXH. Các tỉnh
thành phố trong cả nước đã thực hiện chi trả các chế độ BHXH với kinh phí
lên tới 33.951 tỉ đồng, trong đó chế độ hưu trí là 27.702 tỉ đồng chiếm 81,5%
tổng chi. Trong năm này, có thêm 120.315 người hưởng chế độ hàng tháng,
208.710 người hưởng chế độ một lần. Hơn 2 triệu người hưởng trợ cấp ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, 75000 người hưởng trợ
cấp dưỡng sức, và 35000 người qua đời được mai tang phí. Nhìn chung, các
chế độ bảo hiểm đã được cải tiến, hoàn thiện và được quy định rõ rang hơn.
BHXH các tỉnh thành phố đã xử lí kịp thời các chế độ chính sách theo quy
định. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc:
■BHXH bắt buộc
Tình trạng đối tượng tham gia BHXh không đóng, đóng không đúng
thời gian, không đúng mức quy định, đóng không đủ số người thuộc diện
tham gia bắt buộc còn tồn tại ở nhiều nơi. Tình trạng nợ đọng, nợ dây dưa kéo
dài BHXH còn diễn ra, có doanh nghiệp nợ lên đến hàng tỷ đồng. Cơ quan


11

quản lí thanh tra xử phạt nhưng cũng chưa được giả quyết dứt điểm, khởi kiện
doanh nghiệp ra tòa thì chậm được xủ lý. Điều này đặt ra yêu cầu phải có sự
thay đổi trong hình thức và mức độ xử phạt với doanh nghiệp Ngoài ra tồn tồn
tại khó khăn do cơ quan quản lí không nắm được tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp cũng như tình hình sử dụng lao động. Đặc biệt với

các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thực hiện nghiêm túc việc kí hợp
đồng lao động, gây khó khăn trong khâu quản lí.Nhận thức của đối tượng
tham gia BHXH cũng cần phải quan tâm. Mới chỉ có 70% số người có quan
hệ lao động tham gia BHXH. 30% còn lại chỉ yếu nằm trong khu vực ngoài
quốc doanh và hợp tác xã. Nguyên nhân nằm từ cả hai phía người lao động và
người sử dụng lao động. Nhiều người lao động chỉ lo cho cuộc sống hiện tại
mà chưa tính đến cuộc sống mai sau, thu nhập lại không cao nên họ ưu tiên
cho các khoản chi trước mắt mà không đóng BHXH. Bên cạnh đó, nhiều chủ
doanh nghiệp cũng có tâm lí trốn tránh đóng BHXH cho người lao động bằng
cách chỉ kí hợp đồng dưới 3 tháng. Sự phối hợp quản lí giữa các cơ quan Nhà
nước trong việc kiểm tra xử lí vi phạm BHXH còn thiếu đồng bộ.
■ BHXH tự nguyện
Các khó khăn gặp phải chủ yếu là: thu nhập của người lao động rất
khác nhau nên khó triển khai; Không thể thu tại các cơ quan xí nghiệp mà
phải thu từng người một nên chi phí hoạt động của bộ máy sẽ lớn. Thứ đến là
nhận thức của người dân với BHXH khi họ không bị bắt buộc phải tham gia.
Về mặt Nhà nước, khi cần thiết sẽ phải hỗ trợ quỹ BHXH tự nguyện. Do đặc
thù khác với các loại hình bảo hiểm kinh doanh khác nên quỹ BHXH tự
nguyện phải đảm bảo không bao giờ bị phá sản, điều này cần có Nhà nước
đứng ra đảm bảo cho hoạt động của quỹ.
2. Luật và chính sách điều chỉnh vấn đề bảo hiểm thất nghiệp:


12

Vấn đề bảo hiểm thất nghiệp hiện đang được điều chỉnh cơ bản bởi
Nghị định số 127/2008 NĐ – CP được Chính phủ ban hành ngày 12/12/2008
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội
về bảo hiểm thất nghiệp. Theo nghị định này:
2.1 Về người lao động tham gia BHTN ( Điều 2,Chương 1)

Là công dân Việt Nam giao kết các loại hợp đồng lao động / làm việc
không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động / làm việc xác định thời hạn
đủ từ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng. Người đang hưởng lương hưu,
trợ cấp mất sức lao động hằng tháng có giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng
làm việc với người sử dụng lao động quy định tại Điều 3 Nghị định này theo
các loại hợp đồng quy định tại khoản 1 điều này không thuộc đối tượng tham
gia BHTN.
2.2 Về người sử dụng lao động tham gia BHTN ( Điều 3, Chương 1 )
Là người sử dụng lao động có sử dụng từ mười 10 người lao động trở
lên tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp : đơn vị Nhà nước; doanh
nghiệp thành lập theo l Các chủ doanh nghiệp né tránh đóng bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động: Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng là
đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế bắt buộc. Do đó, ngoài
BHXH và BHYT đã được triển khai thực hiện từ lâu, các doanh nghiệp giờ
phải tiếp tục trích một khoản chi phí để đóng BHTN cho người lao động. Tuy
khoản chi phí này chỉ chiếm 1% quỹ tiền công, tiền lương tháng nhưng đối
với các doanh nghiệp còn khó khăn, nợ đọng BHXH kéo dài thì đây lại là một
gánh nặng không nhỏ. Điều này đã gây ra tình trạng né tránh đóng BHTN của
các chủ doanh nghiệp. Một cuộc khảo sát mới đây của Trung tâm hợp tác phát
triển nguồn nhân lực (Cϖuật Doanh nghiệp, luật Đầu tư; các hợp tác xã thành
lập theo luật Hợp tác xã; các hộ kinh doanh cá thể; các doanh nghiệp nước


13

ngoài hoạt động trển lãnh thổ Việt nam có sử dụng lao động là người Việt
nam.
2.3. Điều kiện hưởng BHTN ( Điều 15, Chương 3 )
Người lao động thất nghiệp được hưởng BHTN khi đã đóng tiền BHTN
đủ mười hai tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất

việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động / làm việc theo quy định của pháp
luật ; đã đăng ký với cơ quan lao động khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp
đồng lao động / làm việc và chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ
ngày đăng ký với cơ quan lao động
2.4. Mức trợ cấp thất nghiệp và thời gian hưởng trợ cấp ( Điều 16,
Chương 3)
Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền
lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của sáu tháng liền kề trước
khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động / làm việc.Thời gian
hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng phụ thuộc vào thời gian làm việc có
đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động và tổng thời gian được hưởng
trợ cấp thất nghiệp hằng tháng được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều
82 của Luật Bảo hiểm xã hội : 03 tháng, nếu có từ đủ 12 đến dưới 36 tháng
đóng BHTN; 06 tháng, nếu có từ đủ 36 đến dưới 72 tháng đóng BHTN; 09
tháng, nếu có từ đủ 72 đến dưới 144 tháng đóng BHTN; 12 tháng, nếu có từ
đủ một 144 tháng đóng BHTN trở lên.
2.5. Vấn đề hỗ trợ học nghề ( Điều 17, Chương 3 )
Việc tổ chức thực hiện hỗ trợ học nghề cho người lao động đang hưởng
trợ cấp thất nghiệp do cơ quan lao động thực hiện thông qua các cơ sở dạy
nghề. Mức hỗ trợ học nghề bằng mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy


14

định của pháp luật về dạy nghề. Thời gian được hỗ trợ học nghề không quá 6
tháng tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng.
2.6. Vấn đề hỗ trợ việc làm ( Điều 18, Chương 3 )
Việc tổ chức thực hiện hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho
người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp do cơ quan lao động thực hiện
thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm. Thời gian được hỗ trợ tư vấn,

giới thiệu việc làm tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất
nghiệp hằng tháng và không quá tổng thời gian mà người lao động đó được
hưởng trợ cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật BHXH.
2.7. Thời điểm hưởng bảo hiểm thất nghiệp ( Điều 20, Chương 3 )
Người lao động khi có đủ điều kiện hưởng BHTN thì được hưởng các
chế độ bảo BHTN tính từ ngày thứ 16 kể từ ngày đăng ký
2.8. Tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp ( Điều 22, Chương 3 )
Người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng sẽ bị tạm
dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp khi không thông báo hằng tháng với cơ quan
lao động về việc tìm kiếm việc làm hoặc đang bị tạm giam. Việc tiếp tục
hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng sẽ được thực hiện vào tháng tiếp theo
khi người lao động vẫn trong khoảng thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp và
tiếp tục thực hiện thông báo hằng tháng với cơ quan lao động về việc tìm
kiếm việc làm hoặc sau thời gian tạm giam, người lao động vẫn trong khoảng
thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp.
2.9. Chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp ( Điều 23, Chương 3 )
Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất
nghiệp trong các trường hợp sau: hết thời hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp; có


15

việc làm; thực hiện nghĩa vụ quân sự; hưởng lương hưu; sau hai lần từ chối
nhận việc làm do tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu mà không có lý do chính
đáng; không thông báo về tình hình việc làm với tổ chức BHXH trong ba
tháng liên tục; ra nước ngoài để định cư; chấp hành quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh
hoặc chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo; bị chết.
2.10. Nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ( Điều 25,
Chương 4)

Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN,
người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng
BHTN của những người lao động tham gia BHTN, Nhà nước hỗ trợ từ ngân
sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những người
lao động tham gia BHTN và mỗi năm chuyển một lần. Ngoài ra quỹ BHTN
còn từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ và các nguồn thu hợp pháp khác.
2.11. Việc đăng ký và thông báo về tìm việc làm với cơ quan lao động
( Điều 34, Chương 5 )
Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày bị mất việc làm hoặc chấm
dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động phải đến cơ
quan lao động để đăng ký. Trong thời gian đang hưởng trợ cấp thất nghiệp,
hằng tháng, người thất nghiệp phải đến thông báo với cơ quan lao động về
việc tìm kiếm việc làm.
3. Tình hình thực hiện bảo hiểm thất nghiệp:
3.1. Tình hình thu tiền BHTN:
Theo quy định của nghị định 127/2008 NĐ-CP thì việc tiếp nhận hồ sơ
giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp do cơ quan lao động chịu trách


16

nhiệm; việc thu chi các chế độ thất nghiệp do bên Bảo hiểm xã hội Việt nam
chịu trách nhiệm. Quy định về BHTN bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1.1.2009,
nhưng khi triển khai tại các địa phương thì còn gặp nhiều bất cập, khó khăn
cần phải điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, nên Chính phủ đã cho
phép các doanh nghiệp được lùi thời hạn thực hiện bảo hiểm thất nghiệp đến
tháng 6/2009. Theo thông tin từ BHXHVN, tính đến khoảng giữa tháng
1/2010, đã có 5,4 triệu người đăng kí đóng BHTN; cơ quan BHXH đã thu
được 3.066 tỉ đồng (bao gồm 1% hỗ trợ của Nhà nước) cho quỹ BHTN. Tuy
nhiên thực tế, việc thực hiện đóng bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn nhiều khó

khăn, phát sinh nhiều bất cập, chưa thu hút được nhiều đối tượng tham gia. Tổ
chức ActionAid tại một số địa phương công nghiệp về lao động nhập cư cho
kết quả: có trên 70% lao động nhập cư là nữ, trong đó chỉ có 28% nữ công
nhân nhập cư có hợp đồng không xác định thời hạn, trong đó Hà Nội chỉ đạt
15%, Đà Nẵng 17%. Có 10% công nhân nữ nhập cư đang ký hợp đồng
“miệng” hoặc không ký hợp đồng lao động, 24% đang ký hợp đồng với thời
hạn dưới 12 tháng ngay cả khi đang làm những công việc thường xuyên,
không có tính chất thời vụ, thậm chí có 2% lao động nữ không biết mặt mũi
hợp đồng ra sao. Tính chất bấp bênh còn thể hiện ở chỗ có tới 36% công nhân
nữ nhập cư đã từng chuyển nơi làm việc 1-5 lần trong 5 năm qua. “Chiêu” của
các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động, để
trốn tránh các khoản đóng góp thuộc về trách nhiệm xã hội cho người lao
động là ban hành quy định về việc ký hợp đồng cho lao động, trong đó phần
lớn lao động phổ thông sẽ ký hợp đồng theo trình tự: Hợp đồng lao động lần
thứ nhất (có thể có thêm hợp đồng lao động gia hạn lần 1), Hợp đồng lao
động xác định thời hạn lần 2, Hợp đồng lao động gia hạn (lần 2) rồi mới ký
hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Với quy định như vậy, số lao
động gắn bó với công ty đến khi được ký hợp đồng lao động không xác định


17

thời hạn là không nhiều. Điều 27, Bộ luật Lao động quy định không được ký
quá 2 lần hợp đồng xác định thời hạn.
Tuy nhiên, Điều 33 Luật này lại cho phép trong quá trình thực hiện hợp
đồng các bên có quyền thay đổi nội dung hợp đồng lao động (bao gồm cả thay
đổi thời hạn hợp đồng). Người lao động thiếu thông tin và thói quen chỉ lo
mưu sinh trước mắt: Lao động Việt nam phần lớn là lao động trình độ trung
bình thấp, đại trà. Họ ít có điều kiện được tiếp cận với thông tin nên không
biết sự xuất hiện của các chính sách của Chính phủ, không biết những quyền

lợi và nghĩa vụ của mình. Điều này càng tạo điều kiện cho các chủ doanh
nghiệp có những hành vi bóc lột, lách luật, không đảm bảo quyền lợi cho
người lao động. Mặt khác, thói quen chỉ lo mưu sinh trước mắt đã khiến cho
phần lớn người lao động không ý thức được vai trò của việc đóng Bảo hiểm
thất nghiệp. Những lí do này dẫn đến tình trạng không quan tâm, không thực
hiện đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động.
3.2. Tình hình chi tiền BHTN:
Từ ngày 1.1.2010, người lao động chính thức được đăng kí BHTN và
được chi trả nếu đủ điều kiện theo Luật Bảo hiểm.
Theo báo cáo về tình hình thực hiện BHTN trong tháng 1 (từ ngày
04/01/2010 đến ngày 29/01/2010) của Sở Lao động – thương binh và xã hội,
tình hình thực hiện BHTN trên toàn quốc như sau:
- Tổng số người đến đăng ký thất nghiệp
- Số người thất nghiệp đã nộp hồ sơ hưởng BHTN : 5866 người : 3221
người
- Số người thất nghiệp đã được xét duyệt hưởng : 1270 người BHTN
- Số người thất nghiệp đề nghị chuyển hưởng : 929 người BHTN
- Số người thất nghiệp có quyết định hưởng BHTN : 583 người


18

Một số địa phương có số lao động lớn đến đăng ký thất nghiệp, nộp hồ
sơ hưởng BHTN, đề nghị chuyển hưởng BHTN và được ký quyết định hưởng
BHTN: Số Số S T Đơn vị báo cáo T người đến đăng ký TN Số người thất
nghiệp đã nộp hồ sơ hưởng BHTN người thất nghiệp xét duyệt hưởng BHTN
Như vậy, tính đến hết tháng 1.2009, cả nước chưa có trường hợp nào
được nhận tiền bảo hiểm thất nghiệp. Ông Nguyễn Đại Đồng - Cục truởng
Cục việc làm cho biết sở dĩ chưa có trường hợp nào nhận được tiền trợ cấp
bảo hiểm thất nghiệp là do việc thực làm các thủ tục chứng thực thất nghiệp

có thời hạn bắt đầu thực hiện mới chỉ 10 ngày, trong khi thời gian hoàn tất thủ
tục lên tới 22 ngày nên việc chi trả chưa có truờng hợp nào nhận tiền cũng là
điều dễ hiểu. Theo quy định của luật BHTN, trong vòng 7 ngày kể từ ngày
mất việc, chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động phải đi đăng ký thất
nghiệp. Trong vòng 15 ngày sau đó, người lao động phải nộp đủ hồ sơ hưởng
trợ cấp thất nghiệp. Tổng cộng người lao động chỉ có 22 ngày để hoàn tất hồ
sơ, nếu không đăng ký kịp, người lao động sẽ bị xem như từ chối hưởng trợ
cấp thất nghiệp.
Một vấn đề nữa đã gây ra khó khăn rất lớn cho người lao động đi đăng
kí hưởng BHTN trong thời gian qua là vấn đề chốt sổ BHXH. Tính đến ngày
13.1.2010, tại các địa điểm đăng kí thất nghiệp trên địa bàn Hà nội, có 61
người đến đăng kí. Trong đó, chỉ có 1 người đủ giấy tờ để nộp hồ sơ đề nghị
hưởng BHTN, 60 người còn lại đều không đạt điều kiện do thiếu sổ BHXH
vốn bị chủ cũ lần khuất. Theo quy định, 15 ngày sau khi ĐKTN, người lao
động phải nộp sổ BHXH. Nhưng thực tế, rất nhiều doanh nghiệp tìm cách kéo
dài thời gian chốt sổ BHXH vì trước đó doanh nghiệp thường trốn, chây ì
đóng BHXH, BHTN. Và theo quy định, sau 15 ngày đăng kí mà người lao
động không nộp sổ BHTN thì không hợp lệ và không được hưởng BHTN.
Năm 2009 là năm khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt nam
cũng chịu những ảnh hưởng lớn. Nhiều doanh nghiệp phá sản, lao động thất


19

nghiệp gia tăng. Với mức thu và chi BHTN theo quy định như hiện nay, nhiều
người lo lắng đến vấn đề không đủ chi. Tuy nhiên với mức 3.066 tỉ đồng đã
thu được, ông Nguyễn Đại Đồng cũng khẳng định sẽ không thiếu tiền chi trả.
Lí do là vì gói kích cầu và các giải pháp đồng bộ của Chính phủ đã có hiệu
quả tích cực khi năm 2009, nền kinh tế vẫn có mức tăng trưởng 5%, vì vậy số
lượng lao động thất nghiệp đã không cao như kịch bản mà Bộ LĐ – TB và

XH đưa ra khi bắt đầu triển khai BHTN. Thêm nữa, trong số 5,4 triệu lao
động tham gia BHTN, có tới 1 triệu lao động đang làm việc trong các cơ quan
khối sự nghiệp. Đây là những người “ không có nguy cơ thất nghiệp”, vì vậy
có thể coi khoản thu từ số người này như một khoản “ bảo hiểm” cho quỹ
BHTN không vỡ.
3.3. Vấn đề xác định lao động thất nghiệp:
Thất nghiệp là tình trạng không có việc làm, không được thuê mướn.
Lao động thất nghiệp chỉ được hưởng BHTN khi có đầy đủ các điều kiện theo
điều 15 của Nghị định 127/2008 của chính phủ về BHTN. Thực tế tồn tại
không ít bất cập xung quanh vấn đề xác định thất nghiệp để nhận hưởng
BHTN. Nhiều người lao động đã mất việc làm tại doanh nghiệp này, đi đăng
kí hưởng BHTN nhưng sau một thời gian lại tìm được công việc mới nhưng
không thông báo cho cơ quan bảo hiểm xã hội . Vấn đề này đã gây ra khó
khăn không nhỏ cho các cơ quan bảo hiểm trong vấn đề xác định tình trạng
việc làm thực tế của người lao động, làm méo mó ý nghĩa tích cực của khoản
chi BHTN. Thậm chí có trường hợp người lao động chủ động xin thôi việc để
hưởng BHTN.
3.4.Tình hình giới thiệu việc làm cho người lao động thất nghiệp
được hưởng BHTN:


20

Theo thống kê đến tháng 12.2009 của Tổng cục thống kê Việt nam cả
nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất nghiệp, tỉ lệ thất nghiệp là 2.9%
( cao hơn mức 2.38% của năm 2008 ), trong đó tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành
thị là 4.64% , xấp xỉ năm 2008; khu vực nông thôn là 2.25%, cao hơn mức
1.53% của năm 2008. Theo Luật Bảo hiểm xã hội, lao động thất nghiệp được
hưởng BHTN ngoài số tiền trợ cấp sẽ được cơ quan lao động thông qua các
trung tâm hỗ trợ việc làm tư vấn, giới thiệu và học nghề miễn phí ( không quá

6 tháng kể từ khi hưởng BHTN hàng tháng ). Theo ông Lê Quang Trung, Phó
cục trưởng Cục việc làm, giới thiệu chỗ làm mới được tiến hành theo 3 cách:
giới thiệu công việc phù hợp với ngành đào tạo, phù hợp với chuyên môn đã
làm từ trước tới nay và giới thiệu việc làm tương tự cho lao động phổ thông.
Tuy nhiên theo quy định của Luật BHXH, nếu người lao động từ chối 2 lần
công việc do BHXH giới thiệu mà không có lí do chính đáng thì sẽ bị cắt trợ
cấp thất nghiệp.
Câu hỏi đặt ra là “ thế nào là lí do chính đáng và không chính đáng”
Điều này đã gây ra không ít khó khăn cho người lao động thất nghiệp. Nhiều
trường hợp phải chấp nhận công việc giới thiệu không phù hợp với khả năng,
hoàn cảnh hoặc phải từ chối quá 2 lần thì sẽ không được hưởng trợ cấp thất
nghiệp nữa.

3.5. Tình hình hỗ trợ đào tạo học nghề cho người lao động hưởng
BHTN:
Chính sách hưởng BHTN mới bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1.1.2010 nên
công việc tổ chức các lớp học nghề miễn phí theo quy định của Luật Bảo
hiểm cho người lao động thất nghiệp vẫn chưa được triển khai sâu rộng. Mặc
dù vậy, một thực trạng vẫn tồn tại từ nhiều năm nay khiến các tổ chức bảo


21

hiểm cần phải quan tâm là các trung tâm dạy nghề thì xuất hiện ồ ạt mà chất
lượng đào tạo cho người lao động lại thấp, không phù hợp thực tế.
Hiện nước ta có khoảng 300 trường dạy nghề và hơn 1000 trung tâm
dạy nghề của các bộ và tỉnh ; đề án đào tạo nghề đến hết năm 2010 được phép
chi tới 24 nghìn tỉ đồng kinh phí, nhưng thực trạng chung là đào tạo không
khớp với nhu cầu, và các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại.
Ví dụ như theo thống kê tại 2 thành phố Đồng Nai, Bình Dương vì vậy,

nhiều doanh nghiệp đã vận dụng quy định này để gia hạn hợp đồng, tránh ký
kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn với người lao động, mục đích
“né” nộp bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp. Đặc biệt, với quy định hợp
đồng lao động trên 12 tháng mới bắt buộc đóng về bảo hiểm thất nghiệp đã
tạo ra kẽ hở lớn cho doanh nghiệp trốn đóng về bảo hiểm thất nghiệp. , tp Hồ
Chí Minh, năm 2009 có trên 100 nghìn việc làm cần tuyển lao động nhưng số
người lao động đến đăng kí tuyển dụng chỉ chiếm 17% nhu cầu và chỉ có 6%
trong số đó là đạt yêu cầu. Như vậy việc đào tạo nghề như thế nào cho chất
lượng và phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp luôn là vấn đề rất cần
quan tâm, nhất là đối với các đối tượng lao động đang hưởng trợ cấp thất
nghiệp, để họ sẵn sàng tìm được công việc mới mà không bị áp lực tái thất
nghiệp.

4. Phân tích nguyên nhân, giải pháp cho các vướng mắc gặp phải
4.1.1 Văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ.
- Vướng mắc trong tính thời gian đóng và hưởng trợ cấp
- Vướng mắc khi so sánh với Bộ luật lao độn trước đó.
- Vướng mắc trong quy định quyền từ chối việc làm được giới thiệu
Theo Công văn số 3496/LĐTBXH-VL: Sau ngày 1-1-2009, NLĐ bị mất việc


22

làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động thì được hưởng các chế độ BHTN đối
với thời gian tham gia BHTN (sau ngày 1-1-2009) và được hưởng trợ cấp thôi
việc đối với thời gian đã làm việc cho DN trước ngày 1-1-2009 mà chưa nhận
được trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc.Tổng LĐLĐ Việt Nam cho
rằng, nội dung trả lời như trên vẫn chưa giải thích đầy đủ những băn khoăn,
thắc mắc của NLĐ, đồng thời cũng đã đặt ra một số vấn đề mới liên quan đến
trợ cấp thôi việc trong luật BHTN. Cụ thể là NLĐ có thâm niên làm việc ở

DN từ đủ 12 tháng trở lên kể từ trước ngày 1-1-2009 nhưng thời gian đóng
BHTN chưa đủ 12 tháng mà bị thất nghiệp thì có được trả trợ cấp mất việc
theo Điều 17 BLLĐ hay không? NLĐ có thâm niên làm việc tại DN từ 12
tháng trở lên trước ngày 1-1-2009 sau đó thôi việc theo điều 36, 37, 38 bộ luật
Lao động thì khoảng thời gian từ 1-1-2009 trở về trước có được trả trợ cấp
thôi việc theo Điều 42 không? NLĐ có thâm niên làm việc ở DN, sau khi đủ
điều kiện hưởng BHTN mà DN chấm dứt hoạt động hoặc giải thể một bộ
phận thì NLĐ có được hưởng trợ cấp mất việc hoặc thôi việc đối với thời gian
làm việc từ ngày 1-1-2009 trở về trước không? Theo quy định của bộ luật Lao
động, NLĐ được hưởng trợ cấp mất việc làm (Điều 17) mỗi năm làm việc
được trả một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng hai tháng lương; trong
khi NLĐ được hưởng trợ cấp thôi việc (Điều 42) mỗi năm làm việc là nửa
tháng lương. Ngoài ra, để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, người thất nghiệp
phải đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất
nghiệp. Như vậy, việc định mốc thời gian sẽ không tính được vì nếu tính từ 11-2009 thì phải đến hết ngày 31-12-2009, NLĐ mới được hưởng BHTN. Như
vậy, những trường hợp bị thôi việc, mất việc trong năm 2009 sẽ không nằm
trong khung điều chỉnh của luật, gây thiệt thòi cho người lao động về các
khoản trợ cấp thôi việc hoặc rơi vào tình trạng thất nghiệp. Ngoài ra không ít
người băn khoăn: theo quy định, người lao động sẽ được giới thiệu việc làm
sau khi đăng ký mất việc, nhưng họ hoàn toàn có quyền từ chối việc làm nếu


23

có lý do chính đáng. Tuy nhiên, nghị định số 127 lẫn thông tư 04 của Bộ Lao
động - thương binh & xã hội đều chưa nêu rõ được thế nào là lý do chính
đáng để từ chối việc làm mà các trung tâm việc làm giới thiệu mà mới chỉ
hướng dẫn từ chối việc làm không có lý do chính đáng nằm trong ba trường
hợp: không chịu làm công việc theo ngành nghề đã được đào tạo, không chịu
làm công việc đã làm trước khi thất nghiệp, là lao động phổ thông nhưng lại

từ chối những công việc dành cho lao động phổ thông. Đây là một vấn đề mà
trong quá trình thực tiễn thực hiện luật BHTN có thể sẽ xảy ra. Bởi, nhiều
người lao động nghỉ việc vì lý do mức thu nhập thấp, nếu giới thiệu cho họ
một công việc phù hợp với khả năng nhưng thu nhập thấp hơn công ty cũ thì
họ cũng không làm. Về vấn đề thiếu văn bản hướng dẫn ta thấy Nhằm hướng
dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày
12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp, ngày 22 tháng 01
năm 2009, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số
04/2009/TT-BLĐTBXH. Tuy nhiên cần phải có thêm nhiều văn bản hướng
dẫn cụ thể khác cho từng trường hợp vướng mắc cụ thể nảy sinh trong thực tế.
Ngoài ra phải liên tục tổ chức các cuộc hội thảo lấy ý kiến của doanh nghiệp
cũng như hướng dẫn thực hiện luật bảo hiểm thất nghiệp nếu có điều kiện.
Từng thành phố, tỉnh phải công khai số điện thoại , địa chỉ liên hệ thực hiện
và giải quyết các vướng mắc của luật bảo hiểm thất nghiệp để cả người lao
động và ngươì sử dụng lao động có điều kiện tìm hiểu. Sớm đưa luật vào cuộc
sống. Những lúng túng, vướng mắc ban đầu cũng đã xuất hiện và cơ bản đã
được các địa phương chủ động giải quyết.
Chẳng hạn ở TP.HCM, theo quy định, người lao động phải trực tiếp đến
đăng ký thất nghiệp trong vòng bảy ngày kể từ khi mất việc khiến cả hai phía
người lao động và trung tâm giới thiệu việc làm gặp khó. Sở LĐ-TB&XH
TP.HCM xử lý rất nhanh là cho phép người lao động được ủy quyền đăng ký,


24

làm hồ sơ. Đ ể g ỉải quyết các vướng mắc trên rất cần đến sự linh hoạt trong
việc xử lý của các cơ quan chức năng khi mà văn bản ban hành hướng dẫn
thực hiện vẫn còn chưa nắm bắt được hết các vướng mắc.
4.2 Ý thức của người lao động cũng như người sử dụng lao động

chưa cao.
Trước hết tâm lý của người lao động là không muốn bỏ tiền ra đóng
góp bất kỳ khoản gì, không muốn tham gia vì ngại những thủ tục phiền hà...
Hiện tượng còn rất nhiều doanh nghiệp cũng như người lao động không chịu
đóng bảo hiểm thất nghiệp là do h ọ rất băn khoăn về 3 câu hỏi;
1 : Họ không biết khi thất nghiệp sẽ phải đến đâu để nhận tiền trợ cấp.
Thứ 2 : Thủ tục đăng kí khá phiền hà
Thứ 3 : Nhiều lao động còn tỏ ra chủ quan khi nhận định rằng những gì
họ nhận được từ bảo hiểm thất nghiệp là quá phiền phúc và từ đó có tâm lý là
thà tranh thủ đi kiếm việc khác tốt hơn. Đó là người lao động còn người sử
dụng lao động thì ta thấy rằng trong điều kiện cạnh tranh rất gay gắt, trong
điều kiện hội nhập mà nước ta hầu hết trên 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa,
thì bất kỳ một sự gia tăng chi phí đầu vào nào dù là nhỏ cũng sẽ gây ảnh
hướng sống còn đến hoạt động, sự sống của doanh nghiệp. Vì thế xảy ra hiện
tượng chây ỳ trong việc đóng bảo hiểm thất nghiệp ở c ác doanh nghiệp đặc
biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Gỉải pháp đưa ra là cần nâng cao nhận thức
cho người sử dụng lao động về trách nhiệm của họ. Đồng thời cũng phải
tuyên truyền để người lao động được biết tự bảo vệ quyền lợi của mình bằng
cách yêu cầu chủ sử dụng lao động phải thực hiện đúng theo quy định. Hơn
nữa, bên cạnh người lao động bao giờ cũng có tổ chức công đoàn bảo vệ
quyền lợi và cũng phải kể tới các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát để
các bên thực hiện các quy định này. Để khắc phục tình trạng trên, trong kế
hoạch tổng thể về triển khai bảo hiểm thất nghiệp, ngày 05/12/2008 Bộ


25

trưởng Bộ LĐTBXH đã có công văn số 4562/LĐTBXH-CVL gửi Chủ tịch
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị triển khai tuyên truyền
và phổ biến các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội về chính sách bảo hiểm

thất nghiệp. Theo đó, Bộ LĐTBXH đề nghị UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chỉ đạo cơ quan lao động và các cơ quan có liên quan triển khai
tuyên truyền, phổ biến với nhiều hình thức phù hợp về chính sách bảo hiểm
thất nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao
động, người lao động và các doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn. Trong đó cần
tập trung tuyên truyền và phổ biến về đối tượng thực hiện chính sách bảo
hiểm thất nghiệp.
Ngoài biện pháp tuyên truyền thì cũng cần có những chính sách cụ thể
và thiết thực như để giảm bớt khó khăn của doanh nghiệp trong bối cảnh kinh
tế toàn cầu suy thoái, Chính phủ vừa cho phép doanh nghiệp được chậm nộp
1% quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người
tham gia bảo hiểm thất nghiệp và 1% phí công đoàn của 6 tháng đầu năm
2009.
4.3. Tính đa dạng của thị trường lao động nảy sinh các trường hợp
dễ giải quyết
Một trong những nguyên nhân gây ra thất nghiệp còn do những người
lao động làm những công việc mang tính chất mùa chất mùa vụ ,những làng
nghề truyền thống.Tiền lương của họ cũng phụ thuộc vào sản lượng đặt hàng
cũng như thời vụ trong năm do đó việc tính toán tièn lương chính xác để tính
phí bảo hiẻm cũng không thể rõ ràng được.Đó là chưa kể, mức độ luân
chuyển, di dời lao động ở nhiều công ty phải đến 50% mỗi năm khiến việc
theo dõi, chốt sổ bảo hiểm rất phức tạp. Giải pháp cho vấn đề này một lần nữa
lại yêu cầu các cơ quan hữu quan phải tổ chức nhiều cuộc hội thảo lấy ý kiến
của da dạng các loại hình doanh nghiệp hơn nữa. Có như vậy luật mới chặt


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×