Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

Kinh tế chính trị Mác – Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.8 KB, 117 trang )

CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC
1. Thông tin chung về môn học
Chuyên đề: Kinh tế chính trị Mác – Lênin
Số tín chỉ: 03
Môn học: Bắt buộc
2. Tóm tắt nội dung môn học
Chuyên đề Kinh tế chính trị được xây dựng trong chương trình đào tạo ngành sư phạm
Giáo dục chính trị. Nội dung chuyên đề góp phần làm sâu sắc thêm, những vấn đề lý luận về
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
3. Mục tiêu chung của môn học
Học xong môn này, sinh viên có được:
• Về kiến thức:
- Phân tích các phương pháp nghiên cứu phù hợp với đối tượng nghiên cứu trong hệ thống
lý luận kinh tế của Mác.
- Phát biểu được các khái niệm, các phạm trù hàng hóa, giá trị, giá cả, lợi nhuận, giá trị
thặng dư, tư bản bất biết, tư bản khả biến, tư bản cố định, tư bản lưu động, tư bản thương nghiệp,
lợi nhuận thương nghiệp, tư bản cho vay, lợi tức cho vay, ngân hàng, lợi nhuận ngân hàng, tư bản
kinh doanh nông nghiệp và địa tô…
- Giải thích, phân tích các lý luận giá trị lao động; giá trị thặng dư – lợi nhuận bình quân;
lý luận tiền công; lý luận tích luỹ tư bản; lý luận tuần hoàn chu chuyển tư bản; lý luận tái sản
xuất tư bản và khủng hoảng; lý luận tư bản kinh doanh hàng hoá và tư bản kinh doanh tiền tệ; lý
luận tư bản cho vay và lợi tức; lý luận tư bản thương nghiệp và địa tô.
- Phân tích những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn độc quyền; những
biểu hiện mới trong 5 đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền hiện đại và những
điều chỉnh của mới về kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
• Kỹ năng:
- Hình thành kỹ năng phân tích, so sánh, tổng hợp thông qua việc nghiên cứu các phạm trù,
các quy luật kinh tế chính trị;
- Khai thác, vận dụng những nguyên lý kinh tế để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
• Thái độ:


- Hình thành thế giới quan cách mạng và niềm tin sâu sắc vào cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân nhằm xóa bỏ áp bức bóc lột giai cấp và dân tộc, xây dựng xã hội mới, xã hội – xã hội
chủ nghĩa.
- Hình thành quan điểm đúng đắn về bản chất của chủ nghĩa tư bản; tin tưởng con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của cách mạng Việt
Nam.
• Các mục tiêu khác:
4. Tài liệu học tập
4.1. Tài liệu chính
1


1. Tập bài giảng học phần Chuyên đề Kinh tế chính trị, Th.S Trần Phan Hiếu, 2017
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, GS.TS Chu Văn Cấp, NXB CTQG, 2007
3. Tư bản quyển 1, quyển 2, quyển 3
4.2. Tài liệu tham khảo
4. Giới thiệu quyển 1 Bộ Tư bản của CÁC MÁC, Đ.I.Rô-Đen-Be, NXB Sự Thật, 1969
5. Giới thiệu quyển 1 Bộ Tư bản của CÁC MÁC, Đ.I.Rô-Đen-Be, NXB Sự Thật, 1971
6. Chủ nghĩa đế quốc – Giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa tư bản” V.I.Lênin toàn tập, tập
22, NXB Sự thật, Hà Nội, 1960
7. Tại sao Mác đúng?, Terry Eagleton, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội 2014
8. Những vấn đề kinh tế chính trị của CNTB đương đại, PGS.TS Nguyễn Khắc Thanh,
NXB Chính trị quốc gia, 2014.
9. Bóc lột cách nhìn và ứng xử, Lại Ngọc Hải, NXB Chính trị quốc gia, 2010.
10. Chủ nghĩa tư bản ngày nay: những nét mới từ thực tiễn Mỹ, Tây Âu, Nhật, Đỗ Lộc
Diệp, NXB Khoa học xã hội, 2002.
5. Nội dung chi tiết môn học
CHUYÊN ĐỀ 1: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC VÀ SỰ VẬN DỤNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. HÀNG HÓA

1. Định nghĩa hàng hóa
a. Hàng hóa là phạm trù kinh tế phổ biến
b. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn về nhận thức định nghĩa hàng hóa
2. Hai huộc tính của hàng hóa
a. Giá trị sử dụng của hàng hóa
b. Giá trị trao đổi (hoặc giá trị) của hàng hóa
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
3. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và ý nghĩa của phát hiện này
a. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
b. Ý nghĩa của việc phát hiện tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
c. Thực chất của giá trị hàng hóa.
4. Lượng giá trị của hàng hóa
a. Thời gian lao động xã hội cần thiết
b. Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa
II. SẢN XUẤT HÀNG HÓA, ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ TỒN TẠI CỦA SẢN XUẤT HÀNG
HÓA, CÁC LOẠI HÌNH SẢN XUẤT HÀNG HÓA
1. Sản xuất hàng hóa
2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa và ý nghĩa của chúng
3. Các loại hình sản xuất hàng hóa phổ biến trong nền kinh tế
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu điều kiện sản xuất hàng hóa
III. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ
1. Sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hóa
a. Bốn hình thái giá trị hàng hóa
b. Nguồn ngốc và bản chất của tiền
2


2. Chức năng của tiền tệ
a. Thước đo giá trị
b. Phương tiện lưu thông

c. Phương tiện thanh toán
d. Phương tiện cất trữ
e. Tiền tệ thế giới
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các chức năng tiền tệ, quy luật lưu thông tiền tệ
IV. CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CƠ BẢN CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA
1. Quy luật giá trị
a. Nội dung (yêu cầu) của quy luật giá trị
b. Cơ chế hoạt động (hình thức biểu hiện) của quy luật giá trị
c. Chức năng (tác động) của quy luật giá trị
2. Quy luật cạnh tranh, quan hệ cung cầu và giá cả hàng hóa
a. Quy luật cạnh tranh
b. Quan hệ cung cầu và giá cả hàng hóa
V. VẬN DỤNG HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Nhận thức tính tất yếu khách quan của quan hệ giá trị, giá cả tiền tệ và quy luật giá trị
a. Quan hệ hàng hóa – tiền tệ đã là quan hệ phổ biến trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
b. Thừa nhận các quy luật kinh tế khách quan của sản xuất hàng hóa
2. Những lĩnh vực hoạt động của quan hệ hàng hóa – tiền tệ chủ yếu
a. Thừa nhận kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường
b. Nắm vững biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị qua các loại hình sản xuất hàng hóa
c. Sự biểu hiện của lý luận giá trị trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh và giai đoạn tư bản
độc quyền
d. Quy luật giá trị trong bối cảnh toàn cầu hóa và gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
của Việt Nam
CHUYÊN ĐỀ 2: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC VÀ Ý NGHĨA THỜI
ĐẠI CỦA NÓ
I. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TIỀN THÀNH TƯ BẢN
1. Công thức chung của tư bản
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
3. Mua, bán hàng hóa sức lao động

II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
1. Tính chất hai mặt của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
2. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
3. Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
c. Sự giống nhau và khác nhau giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
5. Sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản
3


III. TIỀN CÔNG DƯỚI CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Bản chất của tiền công
2. Những hình thức cơ bản của tiền công
3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế. Xu hướng hạ thấp tiền công
IV. TÍCH LŨY TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
1. Các hình thái tái sản xuất
2. Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa
3. Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa. Tích lũy tư bản
4. Quy luật chung của tích lũy tư bản
a. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng
b. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng
c. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giá cả vô sản
V. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ THỜI ĐẠI CỦA HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Ý nghĩa lịch sử
2. Ý nghĩa thời đại
CHUYÊN ĐỀ 3: LÝ LUẬN CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ
BIỂU HIỆN MỚI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN, NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ CÁC QUY

LUẬT VẬN ĐỘNG
1. Nguồn gốc ra đời giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản
2. Bản chất của độc quyền và sự biến tướng của các quy luật kinh tế trong chủ nghĩa tư bản
độc quyền
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
1. Tập trung sản xuất dẫn đến ra đời các tổ chức độc quyền và sự thống trị của nó đối với
nền kinh tế
a. Ra đời và phát triển phổ biến, các tổ chức độc quyền thống trị đối với toàn bộ nền kinh tế
b. Các hình thức thống trị của các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế.
c. Vai trò của các tổ chức độc quyền đối với hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
2. Tư bản tài chính ra đời trên cơ sở hợp nhất giữa ngân hàng và công nghiệp; sự thống trị
của nó
a. Nguồn gốc của tư bản tài chính
b. Cơ chế thống trị của tư bản tài chính
c. Bản chất của tư bản tài chính
3. Xuất khẩu tư bản
b. Bản chất của xuất khẩu tư bản
c. Các hình thức xuất khẩu tư bản
4. Sự phân chia thế giới giữa các liên minh độc quyền
a. Nguyên nhân của sự phân chia thế giới bởi các liên minh độc quyền.
b. Bản chất của sự phân chia thế giới giữa các liên minh độc quyền.
c. Các hình thức phân chia thế giới giữa các liên minh độc quyền
5. Sự phân chia thế giới giữa các đại cường quốc
a. Nguyên nhân phân chia lãnh thổ thế giới giữa các cường quốc
4


b. Bản chất xâm lược của chủ nghĩa đế quốc
III. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
1. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

2. Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản nhà nước
3. Những hình thức biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
a. Sự kết hợp về con người giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản
b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước
c. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
4. Vai trò của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đối với vận mệnh lịch sử của chủ nghĩa
tư bản
IV. ĐỊA VỊ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
1. Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản độc quyền
2. Chủ nghĩa đế quốc (hay chủ nghĩa tư bản hiện đại) là chủ nghĩa tư bản ăn bám, thối nát
3. Chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản tất yếu bị thay thế bởi một chế độ xã hội cao
hơn, tiến bộ hơn
V. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA NÓ
1. Những nguyên nhân phát triển chủ yếu của chủ nghĩa tư bản đương đại
2. Những giới hạn không thể vượt qua của chủ nghĩa tư bản đương đại và triển vọng tất
yếu của chủ nghĩa xã hội
6. Hình thức tổ chức dạy học:
Học phần được triển khai trong 15 tuần. Nội dung môn học được thực hiện theo 3 hình
thức:
- Giảng lý thuyết, bài tập; Thảo luận, làm việc nhóm; Tự nghiên cứu.
Nội dung
Giờ lên lớp
Tự nghiên
Tổng số giờ
Lý thuyết
Xêmina
Bài tập
cứu
Chuyên đề 1
10

Chuyên đề 2
10
Chuyên đề 3
10
Tổng
30
Tổng số giờ tín chỉ: 45 giờ

5
5
5
15

45

Số giờ lý thuyết: 30 giờ tín chỉ
Số giờ thảo luận, làm việc nhóm: 15 giờ tín chỉ
Bài tập: 0 giờ tín chỉ
Phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá
Hình thức
Tỉ lệ
Bài tập nhóm tháng
20%
Kiểm tra giữa kỳ
20%
Thi cuối kỳ
60%
Biên soạn chương trình
Trưởng bộ môn


Hình thức
Báo cáo
Tự luận
Tự luận
Khoa phê duyệt

Th.S Trần Phan Hiếu ThS. Dương Đình Tùng

TS. Vương Thị Bích Thủy

5


CHUYÊN ĐỀ 1:
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC VÀ SỰ VẬN DỤNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
C. Mác lấy hàng hóa làm điểm xuất phát để nghiên cứu, tìm ra mầm móng,
mâu thuẫn nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phương pháp đó
thực sự khoa học. Một mặt, sản xuất hàng hóa là cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản,
mặt khác, sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất hàng hóa phát triển cao, sản phẩm
của lao động mang hình thái hàng hóa hay giá trị của hàng hóa là hình thái nguyên
tố của của cải xã hội tư bản. Lý luận về hàng hóa – tiền tệ hay lý luận giá trị - lao
động của C.Mác là cơ sở chung để hiểu lý luận giá trị thặng dư – “hòn đá tảng”
trong học thuyết kinh tế của C.Mác.
I. HÀNG HÓA

1. Định nghĩa hàng hóa
a. Hàng hóa là phạm trù kinh tế phổ biến
Hàng hóa là sản phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và được
sản xuất ra để trao đổi, để bán. Hàng hóa là một phạm trù kinh tế phản ánh những

mối quan hệ kinh tế - xã hội giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình (vật thể) như: lương thực, thực phẩm, sắt,
thép… hoặc ở dạng vô hình (phi vật thể) như những dịch vụ (sự phục vụ), vận tải,
thương mại hay sự phục vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ… Hàng hóa là khái niệm
kinh tế chung, bao quát, phổ biến cho nền kinh tế hiện đại.
b. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn về nhận thức định nghĩa hàng hóa
Hàng hóa là phạm trù kinh tế khách quan, khá trừu tượng. Phạm trù hàng hóa
không gắn cố định vào một vật thể nào cả. Trước đây khi lấy thí dụ hàng hóa
thường lấy thóc, rìu, vải… (hàng hóa vật thể). Ngày nay, hàng hóa phi vật thể,
hàng hóa dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng GDP của xã hội. Điều
đó cũng không ảnh hưởng gì đến lý luận giá trị - lao động mà C.Mác đã phân tích.
6


2. Hai huộc tính của hàng hóa
Hàng hóa có 2 thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
a. Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm mà nhờ đó có thể
thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người (nhu cầu trực tiếp như: ăn, mặc, ở, phương
tiện đi lại, nhu cầu gián tiếp như: các tư liệu sản xuất…)
Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính
công dụng đó, (tính có ích đó) làm cho nó có giá trị sử dụng. Thí dụ, gạo để ăn, áo
để mặc, nhà để ở, xe cộ để đi lại, máy móc để sản xuất…
Cơ sở của giá trị sử dụng của mỗi hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên
(vật lý, hóa học…) của vật thể hàng hóa đó quyết định. Tuy nhiên, việc phát hiện
ra từng thuộc tính tự nhiên có ích đó lại phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội, của
con người.
Xã hội càng tiến bộ, khoa học – kỹ thuật, phân công lao động xã hội và nói
chung, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng
nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày

càng cao.
Vì sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, nên giá trị sử dụng của
hàng hóa không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho
người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Chính vì vậy, giá trị sử dụng
của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa
phải luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội.
Trong xã hội hiện đại, bên cạnh những hàng hóa vật thể hữu hình còn có
những hàng hóa vô hình (phi vật thể), hàng hóa dịch vụ. Dịch vụ có những đặc
điểm sau:
- Giá trị sử dụng của dịch vụ không có hình thái vật thể (hữu hình) mà tồn tại
dưới hình thái phi vật thể.

7


- Sản xuất ra hàng hóa dịch vụ hầu hết hướng vào phục vụ trực tiếp người tiêu
dùng (chữa bệnh, dạy học, cắt tóc, chăm sóc sức khỏe, thẩm mỹ…) Và như vậy, thì
quá trình sản xuất cũng đồng thời với quá trình tiêu dùng các hàng hóa dịch vụ đó.
- Dịch vụ với tư cách là hàng hóa đang ngày càng đóng vai trò quan trọng đối
với sản xuất và đời sống hiện đại.
Trong nền sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng đồng thời cũng là vật mang giá
trị trao đổi.
b. Giá trị trao đổi (hoặc giá trị) của hàng hóa
Muốn hiểu giá trị của hàng hóa, phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là
một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ mà theo đó một giá trị sử dụng này được trao
đổi với những giá trị trao đổi khác.
Thí dụ: 1 m vải = 5kg thóc, tức 1 m vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc (tỷ lệ
1/5)
Ở đây có 2 vấn đề nảy sinh: vấn đề thứ nhất, tại sao vải và thóc lại có thể trao
đổi được với nhau; và vấn đề thứ hai là tại sao vải và thóc lại trao đổi với nhau

theo một tỷ lệ nhất định (1/5)?
Dưới đây sẽ phân tích vấn đề thứ nhất:
Hai hàng hóa khác nhau vải và thóc có thể trao đổi được với nhau, vì giữa
chúng có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng của
chúng, bởi vì, giá trị sử dụng của vải là để mặc, hoàn toàn khác với giá trị sử dụng
của thóc là để ăn. Cái chung đó là: Cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động,
đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể
trao đổi được với nhau. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là
trao đổi lao động của họ ẩn dấu trong những giá trị sử dụng của hàng hóa ấy. Chính
lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao đổi và tạo thành
giá trị của hàng hóa.
Như vậy, định nghĩa bao quát nhất về giá trị của hàng hóa là lao động của
người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi mà chúng ta
đề cập ở trên, chẳng qua là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là
8


nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa
những người sản xuất hàng hóa. Cũng chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử,
nó tồn tại trong kinh tế hàng hóa.
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
Hai thuộc tính hàng hóa (giá trị sử dụng và giá trị) có quan hệ với nhau, vừa
thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong
một hàng hóa, tức một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới là hàng hóa. Nếu
thiếu một trong hai thuộc tính đó, vật phẩm sẽ không phải là hàng hóa. Chẳng hạn,
một vật có ích (tức là có giá trị sử dụng), nhưng không do lao động tạo ra (tức là
không có kết tinh lao động, như không khí, ánh sáng tự nhiên thì sẽ không phải là
hàng hóa).
Mẫu thuẫn giữa 2 thuộc tính hàng hóa thể hiện ở chỗ: thứ nhất, với tư cách là

giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư
cách là giá trị, các hàng hóa lại đồng nhất về chất, đều là “kết tinh đồng nhất của
lao động mà thôi”, tức đều là sự kết tinh của lao động hay là lao động đã được vật
hóa; thứ hai, tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng
quá trình thực hiện, chúng lại tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian: giá
trị được thực hiện trước – trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực
hiện sau – trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó, nếu giá trị của hàng hóa không thực
hiện được, tức hàng hóa không bán được, thì giá trị sử dụng của nó cũng không
được thực hiện. Giá trị sử dụng vận động cùng chiều với sức sản xuất của lao
động, còn giá trị thì vận động ngược chiều với sức sản xuất của lao động.
3. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và ý nghĩa của phát
hiện này
a. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt: vừa mang tính chất là
lao động cụ thể, lại vừa mang tính chất là lao động trừa tượng. C.Mác là người đầu
tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
9


Lao động cụ thể: là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng
lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao
động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ dệt và lao động của
người trồng lúa là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ dệt
thì tạo ra vải, còn lao động của người trồng lúa thì tạo ra thóc. Lao động cụ thể tạo
ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Lao động trừu tượng: là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể của nó, hay đó chính là sự tiêu phí sức lao động nói chung
(tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa. Lao động trừu

tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với
nhau. Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ, chúng là hai mặt của cùng một lao động sản
xuất hàng hóa (vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng). Mặt mẫu thuẫn
thể hiện ở chỗ, với tư cách là lao động cụ thể, lao động của người sản xuất hàng
hóa đã tạo ra một giá trị sử dụng với số lượng và chất lượng nhất định cho xã hội;
nhưng với tư cách là lao động trừu tượng, sự hao phí sức lao động của người sản
xuất hàng hóa có thể không phù hợp (lớn hơn hoặc nhỏ hơn) so với mức hao phí
lao động của xã hội.
Trên cơ sở hiểu tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, đến đây cần nói
rõ hơn: giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa.
Lao động tư nhân, lao động xã hội: Trên một cách tiếp cận khác, có thể xét
lao động của người sản xuất hàng hóa vừa là lao động tư nhân, vừa là lao động xã
hội. Lao động tư nhân là lao động riêng của từng cá nhân chủ thể kinh tế, của
người sản xuất hàng hóa. Họ làm gì, làm như thế nào, hao phí bao nhiêu là hoạt
động tư nhân của họ. Nhưng đồng thời, hoạt động sản xuất của họ lại là một bộ
phận nằm trong sự phân công xã hội, do đó, lao động của họ cũng đang lao động
10


cho xã hội. Lao động xã hội là lao động được xét dưới góc độ chung của xã hội, là
sự quy đổi chung tạo ra giá trị hàng hóa. Như vậy, có thể nói đầy đủ về giá trị hàng
hóa: giá trị hàng hóa là lao động xã hội trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa. Giá trị hàng hóa là quan hệ xã hội, là phạm trù kinh tế xác
định.
b. Ý nghĩa của việc phát hiện tính hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa.
Phát hiện tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là đầu mối lý giải kinh
tế chính trị học của chủ nghĩa Mác, là một tâm điểm để chỉ ra một cách triệt để

mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản và quy luật của xã hội đó. Trước C.Mác các
nhà kinh tế chính trị học cổ điển tư sản từ W.Petty đến D. Ricardo… cũng đã từng
đề xuất quan điểm lao động sáng tạo ra giá trị hàng hóa. Nhưng lao động mà họ đề
cập là lao động chung chung, chưa nói rõ lao động xét về mặt nào. Cho nên, quan
điểm lao động sáng tạo ra giá trị của họ rất không toàn diện và không triệt để. Chỉ
có học thuyết giá trị lao động của C.Mác mới lần đầu tiên xác định được một cách
khoa học lao động nào hình thành giá trị, vì sao hình thành giá trị và hình thành giá
trị như thế nào.
Học thuyết của C. Mác về tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa cũng
đã đặt nền móng cho học thuyết giá trị thặng dư. Nhờ vận dụng học thuyết tính hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa, C.Mác đã trình bày một cách sâu sắc nguồn
gốc, bản chất của giá trị thặng dư, vạch ra bí mật thuê mướn, bóc lột công nhân của
các nhà tư bản, cuối cùng đã giải quyết vấn đề hạt nhân của học thuyết giá trị thặng
dư.
c. Thực chất của giá trị hàng hóa
Trên cơ sở phương pháp trừu tượng hóa khoa học, C.Mác đã phân tích qua
nhiều bước để đi tới hiểu bản chất của giá trị hàng hóa là: lao động – xã hội trừu
tượng, giản đơn trung bình của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị là quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau, là sự quy

11


đổi “đường vòng” sau lưng những người sản xuất trao đổi hoạt động lao động với
nhau. Từ đó, vạch ra mâu thuẫn của nền sản xuất hàng hóa.
Mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa là mẫu thuẫn giữa lao động tư
nhân và lao động xã hội. Mâu thuẫn đó còn được biểu hiện ở mâu thuẫn giữa lao
động cụ thể và lao động trừu tượng, giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa. Mâu
thuẫn đó thúc đẩy sản xuất hàng hóa vừa vận động, phát triển vừa tiềm ẩn khả năng
khủng hoảng kinh tế. Những mâu thuẫn nói trên được thể hiện rõ nhất khi bùng nổ

khủng hoảng “sản xuất thừa”.
4. Lượng giá trị của hàng hóa
Lượng giá trị hàng hóa được quyết định bởi số lượng lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra nó và được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hóa trong điều kiện sản xuất xã hội bình thường, với trình độ khéo léo và
cường độ lao động trung bình trong xã hội.
a. Thời gian lao động xã hội cần thiết
Đến đây mới có điều kiện để trả lời vấn đề thứ hai: tại sao vải và thóc lại trao
đổi được với nhau theo tỷ lệ nhất định (1/5).
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội, trừu tượng của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy lượng giá trị của hàng hóa phải tính theo lượng
lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động hao phí đó được tính
bằng thời gian lao động. Vậy, lượng giá trị phải tính theo thời gian lao động, nhưng
không phải tính theo thời gian lao động cá biệt.
Nếu như vậy, “thì người ta có thể lầm tưởng rằng người sản xuất ra hàng hóa
càng lười biếng hay càng vụng về bao nhiêu thì lượng giá trị hàng hóa của anh ta
lại càng lớn bấy nhiêu. Nhưng cái lao động tạo thành thực thể của giá trị là thứ lao
động giống nhau của con người, là chi phí của cùng một sức lao động của con
người…, nó có tính chất một sức lao động xã hội trung bình…, do đó để sản xuất
ra một hàng hóa nhất định, nó chỉ dùng một thời gian lao động trung bình cần thiết
hay thời gian lao động xã hội cần thiết”1. Lượng giá trị của hàng hóa không phải do
1 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, nxb. Chính trị Quốc gia, H. 1993, tập 23, tr 67,68,69.

12


mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được
đo bởi, (quy định) thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động để sản xuất ra một
hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất trung bình của xã hội: với một

trình độ thành thạo trung bình, với một trình độ trang thiết bị trung bình và một
cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Thực chất thời gian lao động xã hội cần thiết chính là mức hao phí lao động
xã hội trung bình (thời gian lao động xã hội trung bình) để sản xuất hoặc tái sản
xuất ra hàng hóa đó. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết được xác
định gần sát với thời gian lao động cá biệt (mức hao phí lao động cá biệt) của
người sản xuất ra hàng hóa chiếm đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.
Như vậy, chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết hay thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá
trị sử dụng ấy”1.
Thời gian lao động xã hội cần thiết lại thay đổi theo sự thay đổi trong sức sản
xuất của lao động. Sức sản xuất của lao động được quyết định bởi nhiều nhân tố,
trong đó có “trình độ khéo léo trung bình của người công nhân, mức độ phát triển
của khoa học và trình độ áp dụng của khoa học vào quá trình công nghệ, sự kết
hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và các
điều kiện thiên nhiên ”2.
Nói chung, sức sản xuất của lao động càng lớn thì thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra một vật phẩm nhất định sẽ càng ít, khối lượng lao động kết
tinh trong vật phẩm đó càng nhỏ thì lượng giá trị của vật phẩm đó càng ít và ngược
lại. Như vậy, đại lượng giá trị của một hàng hóa thay đổi theo tỷ lệ thuận với lượng
lao động kết tinh trong hàng hóa đó và tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của lao động
đó.

1 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, nxb. Chính trị Quốc gia, H. 1993, tập 23, tr 68,69.
2 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, nxb. Chính trị Quốc gia, H. 1993, tập 23, tr 68,69.

13


b. Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng

hóa
Tất cả những yếu tố nào ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất ra hàng hóa đều ảnh hưởng đến số lượng giá trị của hàng hóa đó. Để hiểu
rõ hơn các nhân tố, cần nghiên cứu những vấn đề cơ bản: năng suất lao động,
cường độ lao động và mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động.
Năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng lao động
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất
ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống, hoặc cũng trong một thời gian lao động như
vậy, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên. Do đó, khi năng suất lao
động tăng lên thì lượng giá trị của một hàng hóa giảm xuống và ngược lại. Như
vậy, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Sự
vận động trái ngược này là do tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Năng
suất lao động là kết quả hoạt động của sức sản xuất của lao động, nhưng năng suất
lao động cũng có thể là kết quả của tăng cường độ lao động, nhất là khi năng suất
lao động chưa đạt mức trung bình của xã hội hoặc do giảm bớt tiêu dùng sức lao
động một cách không sản xuất1. Như vậy, năng suất lao động là kết quả của cả sức
sản xuất của lao động và cả cường độ lao động.
Cường độ lao động:
Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương lao động trong
một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ nặng nhọc hay căng thẳng của lao động
trong một khoản thời gian nhất định.
Cường độ lao động tăng lên là mức hao phí sức lao động trong một đơn vị
thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động
tăng lên. Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa
1 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, nxb. Chính trị Quốc gia, H. 1993, tập 23, tr 494.

14



sản xuất ra tăng lên; vì tăng cường độ lao động, thực chất cũng giống như việc kéo
dài thời gian lao động, để có nhiều sản phẩm hơn, đồng thời hao phí lao động trừu
tượng (tạo ra giá trị) cũng tăng lên. Do đó, khi tăng cường độ lao động thì hầu như
lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm không đổi.
Như vậy, tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau ở
chỗ: đều dẫn đến số lượng (hoặc khối lượng) sản phẩm sản xuất ra trong một đơn
vị thời gian tăng lên; nhưng khác nhau ở chỗ: tăng năng suất lao động không chỉ
làm cho số lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng
lên, mà còn làm cho lượng giá trị của một hàng hóa giảm xuống. Tăng năng suất
lao động dựa trên cơ sở vận dụng nhiều nhân tố, do đó, nó gần như một yếu tố có
“sức sản xuất” vô hạn; còn tăng cường độ lao động là hao phí thêm lao động trừu
tượng để có số lượng sản phẩm sản xuất ra nhiều hơn. Do đó, nếu năng suất lao
động không đổi mà chỉ tăng cường độ lao động thì lượng giá trị của một hàng hóa
không giảm. Hơn nữa, tăng cương độ lao động phụ thuộc nhiều vào huy động thể
chất và tinh thần của người lao động, do đó, nó là một yếu tố “sức sản xuất” có
giới hạn nhất định. Chính vì vậy, tăng năng suất lao động có ý nghĩa tích cực hơn
đối với sự phát triển kinh tế.
Mức độ phức tạp của lao động.
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng khác nhau đến số lượng giá
trị của hàng hóa, theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao
động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động có sức khỏe
bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo, tích lũy kinh nghiệm nhiều cũng
có thể thực hiện được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành
chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian tự nhiên (phút, giờ, ngày tuần…), lao động phức tạp
tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Xét về mặt lượng giá trị, thì lao động

phức tạp là lao động giản đơn được nhân bội lên. Trong quá trình trao đổi hàng
15


hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình. Tỷ
lệ quy đổi được tiến hành một cách tự phát sau lưng những người sản xuất hàng
hóa, thông qua cạnh tranh, quan hệ cung cầu mà tự xác định trên thị trường (theo
kinh nghiệm của lịch sử.).
Đến đây, có thể hiểu giá trị hàng hóa một cách đầy đủ là: giá trị của hàng hóa
là lao động xã hội, trừu tượng, giản đơn trung bình của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa. Giá trị là quan hệ xã hội ẩn chứa, kết tinh trong hàng hóa.
Còn lượng giá trị của một hàng hóa là: Thời gian lao động xã hội cần thiết của
người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó. Lượng giá trị của một đơn vị
hàng hóa tỷ lệ thuận với thời gian lao động xã hội cần thiết và tỷ lệ nghịch với sức
sản xuất của lao động để làm ra hàng hóa đó. Lượng giá trị hàng hóa còn phải tính
đến mức độ phức tạp của lao động sản xuất ra loại hàng hóa đó.
II. SẢN XUẤT HÀNG HÓA, ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ TỒN TẠI CỦA
SẢN XUẤT HÀNG HÓA, CÁC LOẠI HÌNH SẢN XUẤT HÀNG HÓA

1. Sản xuất hàng hóa
a. Khái niệm sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi thông qua mua bán. Sản
xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất, mà trong đó sản phẩm làm ra không phải để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó, mà để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng cho người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Tính ưu việt, hạn chế của sản xuất hàng hóa. So với sản xuất tự cấp tự túc, sản
xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn đó là:
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội,
chuyên môn hóa sản xuất, do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã
hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương.

Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng càng tạo điều kiện để mỗi quốc gia khai
thác được lợi thế của mình cho phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô, tính chất tố chức sản xuất
không bị giới hạn chật hẹp mà nó được xã hội hóa ngày càng cao dựa trên cơ sở
16


ngày càng tăng nhu cầu và khả năng thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Điều
đó tạo điều kiện ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba, trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của những quy luật vốn có
của nó như quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh…, buộc người sản xuất phải
luôn luôn năng động, nhạy bén, tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Chính cạnh tranh buộc mọi chủ
thể kinh tế phải luôn thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Thứ tư, sản xuất hàng hóa phát triển trở thành một trong những điều kiện để
nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho mọi người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những
mặt tiêu cực của nó như: phân hóa những người sản xuất thành giàu nghèo; tiềm ẩn
những khả năng khủng hoảng; chạy theo lợi nhuận cục bộ; phát sinh nhiều tệ nạn
xã hội; phá hoại môi trường sinh thái, xã hội, vv…
2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa và ý nghĩa của chúng
Hai điều kiện của sản xuất hàng hóa. Để có sản xuất hàng hóa cần có hai điều
kiện:
Thứ nhất, có sự phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự
chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực
sản xuất khác nhau.
Phân công lao động xã hội làm cho mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một
hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định. Phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa
sản xuất làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm được sản xuất ra ngày

càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng trở nên phổ biến. Chính sự phân công
lao động xã hội làm cho những người sản xuất chỉ sản xuất ra một số sản phẩm,
thậm chí một chi tiết nào đó của sản phẩm, nhưng cuộc sống tự nhiên họ cần đến
nhiều thứ, do đó, họ phải sống dựa vào nhau, phụ thuộc vào nhau, có mối quan hệ
kinh tế với nhau.

17


Song, chỉ có phân công lao động xã hội không thôi thì chưa đủ điều kiện ra
đời, tồn tại của sản xuất hàng hóa. Khi nhấn mạnh phân công lao động xã hội là
điều kiện của sản xuất hàng hóa C.Mác đồng thời chỉ rõ rằng, trong các công xã ở
Ấn Độ và trong các công xưởng hiện đại, tuy lao động đã có sự phân công, nhưng
sản phẩm của lao động không trở thành hàng hóa. Vì vậy, phải có điều kiện thứ hai
nữa thì sản phẩm của lao động mới trở thành hàng hóa.
Thứ hai, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Theo C. Mác: “chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ
thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”. Người lao động tư
nhân, độc lập có thể là một người lao động cá thể, có thể là một người lao động
tổng thể (một doanh nghiệp hiệp tác, một công trường thủ công, một công xưởng,
một liên hiệp doanh nghiệp…), mà chỉ sản phẩm của cả tổng thể mới trở thành
hàng hóa. “lao động tư nhân” không đồng nhất với tư hữu. C.Mác đã từng nêu:
ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, của vua chúa như ở Châu á. Ở đây, “không
có quyền sở hữu tư nhân đối với ruộng đất, mặc dù vẫn còn quyền chiếm hữu
ruộng đất và quyền sử dụng ruộng đất, quyền này hoặc là của tư nhân hoặc là của
công cộng”1. Lênin cho rằng: “khi giả định rằng nông nghiệp sản xuất theo lối tư
bản chủ nghĩa, tất nhiên cũng bao hàm cả cái ý giả định rằng tất cả ruộng đất đều
bị các doanh nghiệp tư nhân riêng rẽ chiếm giữ: nhưng tuyệt nhiên không bao hàm
cả cái ý giả định rằng toàn bộ ruộng đất là tài sản tư hữu của những nghiệp chủ đó
hay của những người khác, hoặc giả định rằng đó là sở hữu tư nhân nói chung” 2.

Như vậy, lao động tư nhân độc lập không phụ thuộc quyền sở hữu pháp lý (tư hữu
hay công hữu) mà chỉ phụ thuộc vào quyền chiếm hữu và quyền sử dụng riêng rẽ.
Cùng là công hữu hay tư hữu, nhưng quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tách biệt,
độc lập tương đối với nhau thì muốn sử dụng sản phẩm của nhau, những người sản
xuất phải công nhận nhau là những chủ thể tư nhân đối với những vật có thể trao
đổi, chuyển nhượng hàng hóa.
1 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2002, tập 23, tr 72, 132-133.
2 V.I. Lênin: Toàn tập, nxb tiến bộ, M. 1975, t.5, trang 139

18


Theo dòng lịch sử, thoạt đầu, trao đổi hàng hóa được diễn ra giữa các bộ lạc,
về sau, cuối chế độ công xã nguyên thủy mới xuất hiện sở hữu tư nhân. Đó là một
trong những nhân tố càng làm cho lao động của người sản xuất tách biệt thành lao
động tư nhân, độc lập. Và cùng với sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu
rộng, sự tách biệt đó càng thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Theo đà phát triển
của lực lượng sản xuất này mà nảy sinh xu hướng tách biệt về mặt pháp lý với
quyền chiếm hữu, sử dụng đối với tư liệu sản xuất. C.Mác đã sớm chỉ ra sự phân
biệt sở hữu về mặt pháp lý với chiếm hữu thực tế: Ở đây, người sản xuất chỉ có thể
là người sở hữu danh nghĩa. Sự tách biệt về quyền sử dụng, tính tự chủ của các chủ
thể kinh tế đối với tư liệu sản xuất đã dẫn đến sự tách biệt về quyền chiếm hữu kết
quả sản xuất, đó là cơ sở tồn tại thứ hai của trao đổi và sản xuất hàng hóa. Về mặt
pháp lý, có thể thuộc quyền sở hữu công cộng (nhà nước, tập thể), có thể thuộc
quyền sở hữu tư hữu, song người chiếm hữu, sử dụng tư liệu sản xuất ấy vẫn có thể
độc lập với tư cách là người sản xuất hàng hóa. Thí dụ, ruộng đất thuộc sở hữu
toàn dân, nhà nước đại diện, thống nhất quản lý, nhưng giao quyền sử dụng lâu dài
cho từng chủ thể hộ nông dân, hợp tác xã, nông trường quốc doanh… đều có thể là
sản xuất hàng hóa.
Khi nghiên cứu sự chuyển biến từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa,

V.I Lênin viết: sản xuất hàng hóa chính là cách tổ chức của kinh tế xã hội, trong đó
sản phẩm đều do những người sản xuất cá thể, riêng lẻ sản xuất ra mỗi người
chuyên làm ra một thứ sản phẩm nhất định, thành thử muốn thỏa mãn nhu cầu của
xã hội thì cần có mua bán sản phẩm (vì vậy, sản phẩm trở thành hàng hóa) trên thị
trường.
Sự ra đời, tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hóa là một bước tiến lớn trong
sự phát triển xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội”,
xóa dần kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất xã hội.
3. Các loại hình sản xuất hàng hóa phổ biến trong nền kinh tế
Sản xuất hàng hóa có thể được xem xét theo các loại hình cơ bản: sản xuất
hàng hóa giản đơn, sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, sản xuất hàng hóa xã hội
19


chủ nghĩa và sự đan xem giữa các loại hình sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu điều kiện sản xuất hàng hóa
Trước đây đã từng quan niệm, hai điều kiện của sản xuất hàng hóa là phân
công lao động xã hội và chế độ tư hữu; mặt khác, lại chủ trương xóa bỏ nhanh chế
độ tư hữu ngay cả trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; do đó, đồng thời cũng
là xóa bỏ điều kiện thứ hai của kinh tế hàng hóa. Từ đó cho rằng, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cũng đồng thời là quá trình hạn chế, xóa bỏ kinh tế hàng hóa và không
thể chấp nhận kinh tế thị trường.
Trong quan niệm cải tổ kinh tế ở Liên Xô trước đây vẫn theo công thức hai
điều kiện của sản xuất hàng hóa nói trên, lại có quan điểm sai lầm muốn có kinh tế
hàng hóa, kinh tế thị trường phải tư hữu hóa triệt để chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa đã đạt được. Và kết quả là đã xóa mất nền tảng quan hệ kinh tế xã hội chủ
nghĩa, cuộc cải tổ ở Liên Xô đã thất bại.
Như vậy, cho rằng điều kiện thứ hai để có sản xuất hàng hóa là chế độ tư hữu
là cách hiểu hạn hẹp, cực đoan. Việc ngày nay, nhận thức điều kiện thứ hai để có

sản xuất hàng hóa là sự tách biệt tương đối giữa các chủ thể kinh tế chứ không phải
chế độ tư hữu là một tiến bộ về nhận thức lý luận kinh tế.
Như vậy, kinh tế hàng hóa có trước chế độ tư hữu, có cùng với chế độ tư hữu
qua nhiều phương thức sản xuất xã hội. Kinh tế hàng hóa phát triển cùng với chủ
nghĩa tư bản nhưng không phải là đặc thù riêng có của chủ nghĩa tư bản. Với nhận
thức mới về điều kiện thứ hai của kinh tế hàng hóa cho thấy, kinh tế hàng hóa còn
tồn tại và phát triển trong thời kỳ quá độ và ngay cả trong chủ nghĩa xã hội (giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản).
III. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ

1. Sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hóa
a. Bốn hình thái giá trị hàng hóa
Nếu giá trị sử dụng của hàng hóa có thể nhận biết được bằng các giác quan,
thì giá trị của hàng hóa chỉ có thể nhận biết được qua giá trị trao đổi, tức là qua các
20


hình thái giá trị. Trong lịch sử phát triển của trao đổi hàng hóa, hình thái giá trị
cũng đã từng phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, hình
thái mở rộng, hình thái giá trị chung tới hình thái tiền tệ.
Giá trị không tự bộc lộ, mà phải được thể hiện thông qua giá trị trao đổi, mua
bán giữa những người sản xuất hàng hóa. Nghiên cứu quá trình phát triển của các
hình thái biểu hiện của giá trị mới hiểu nguồn gốc, bản chất của tiền tệ. Có bốn
hình thái biểu hiện của giá trị.
 Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị
Hình thái này là những “mầm mống đầu tiên của trao đổi, khi mà các sản
phẩm của lao động chỉ biến thành hàng hóa trong những hành vi đơn nhất và ngẫu
nhiên”1.
Thí dụ: 1 cái áo = 5 đấu thóc.
Ở đây giá trị của hàng hóa này (cái áo) chỉ biểu hiện đơn nhất ở một hàng hóa

khác (thóc), và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy
hàng, tỷ lệ trao đổi cũng ngẫu nhiên được hình thành.
Hàng hóa thứ nhất (áo) đóng vai trò hình thái giá trị tương đối
Hàng hóa thứ hai (thóc) đóng vai trò hình thái vật ngang giá
- Hình thái giá trị tương đối đóng vai trò chủ động, thể hiện giá trị qua so sánh
với hàng hóa khác.
Lượng của hình thái giá trị tương đối tỷ lệ thuận với lượng giá trị của chính
hàng hóa đó và tỷ lệ nghịch với lượng giá trị của hàng hóa vật ngang giá.
- Hình thái vật ngang giá không tự nói được giá trị của nó nhưng với hình thái
giá trị sử dụng của nó, vật ngang giá lại thể hiện giá trị của hàng hóa khác so sánh
với vật ngang giá đó (đây là mầm mống của hình thái tiền tệ sau này).
Mặc dù, lúc đầu quan hệ trao đổi mang tính ngẫu nhiên, nhưng sự trao đổi đó
dần dần trở thành một quá trình xã hội đều đặn, thường xuyên thúc đẩy sản xuất
hàng hóa ra đời và phát triển. Khi đó, xuất hiện hình thái thứ hai – hình thái đầy đủ
hay mở rộng của giá trị.
1 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2002, tập 23, tr 106.

21


 Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị
Hình thái này thể hiện khi mà một sản phẩm lao động nào đó, được trao đổi
với nhiều hàng hóa khác một cách thông thường, “chứ không phải dưới hình thức
một ngoại lệ nữa”. Đây là mở rộng các loại hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá.

22


Thí dụ:
= 5 đấu thóc

1 cái áo

= 1 đấu chè
= 2 đấu cà phê
= 0,2 gam vàng

Ở đây giá trị tương đối của một hàng hóa (1 cái áo) được biểu hiện ở nhiều
hàng hóa khác nhau đóng vai trò làm vật ngang giá; nhờ đó, tỷ lệ trao đổi không
còn mang tính chất ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lượng hao phí lao động quy
định. Vì ở đây, ngay từ đầu, người ta sản xuất ra với mục đích là để trao đổi, do đó,
trong trao đổi họ phải tính toán đến mức lao động đã hao phí.
Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn, đòi hỏi phải có một vật
ngang giá chung, xuất hiện hình thái thứ ba - hình thái chung của giá trị
 Hình thái chung của giá trị
Thí dụ:
1 cái áo
1 đấu chè
2 đấu cà phê

= 5 đấu thóc

0,2 gam vàng
Ở đây giá trị tương đối của nhiều hàng hóa đều biểu hiện ở một hàng hóa
đóng vai trò làm vật ngang giá chung “vật ngang giá phổ biến” (5 đấu thóc). Lúc
này, các hàng hóa đều được đổi lấy vật ngang giá chung trước, sau đó mới mang
đổi lấy hàng hóa cần dùng, nhờ đó khắc phục được nhược điểm của hình thái trước
đây, vật ngang giá chung trở thành môi giới, mục đích thành phương tiện trong trao
đổi hàng hóa. Tuy nhiên, ở hình thái này, vật ngang giá chung chưa thật sự cố định
ở một hàng hóa nào cả và vẫn trao đổi trực tiếp, hàng đổi hàng (H – H’)
Sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn nữa thì vật ngang giá chung được

cố định, “gắn một cách vững chắc với một số loại hàng hóa đặc thù”, khi đó xuất
hiện hình thái thứ tư – hình thái tiền.

23


 Hình thái tiền tệ
Thí dụ:

1 cái áo
5 đấu thóc
1 đấu chè

= 0,2 gam vàng

2 đấu cà phê
Ở đây giá trị của tất cả mọi hàng hóa được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai
trò tiền tệ (0,2 gam vàng).
Lúc đầu, có nhiều loại hàng hóa đóng vai trò tiền tệ, và “những dân du mục là
những người đầu tiên phát triển hình thái tiền”. Nhưng dần dần vai trò tiền tệ được
chuyển sang các kim loại quý (tiền kim loại) như đồng rồi tới bạc và cuối cùng là ở
vàng.
Khi bạc và vàng cùng làm chức năng tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế
độ song bản vị. Khi chỉ còn vàng độc chiếm vai trò tiền tệ thì chế độ tiền tệ được
gọi là chế độ bản vị vàng. Tại sao vàng, bạc đặc biệt là vàng lại có vai trò tiền tệ
như vậy?
Thứ nhất, nó cùng từng là một loại hàng hóa, cũng có giá trị sử dụng và giá
trị. Giá trị sử dụng của vàng và bạc là dùng làm đồ trang sức, làm đồ mỹ nghệ, làm
thuốc… nhưng khi đóng vai trò tiền tệ thì vàng lại có một giá trị sử dụng thêm, đặc
biệt và khác với giá trị sử dụng thông thường của nó.

Còn giá trị của vàng và bạc cũng được đo bằng lượng lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra nó (để tìm kiếm, khai thác, tinh luyện…)
Thứ hai, nó có những ưu thế từ thuộc tính tự nhiên, đặc biệt thích hợp với vai
trò tiền tệ, như: thuần nhất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, dễ bảo quản, hơn nữa với
một lượng và thể tích nhỏ nhưng có giá trị lớn (vì vàng vàng bạc là những kim loại
hiếm, phải tốn nhiều công sức mới có được).
b. Nguồn ngốc và bản chất của tiền
Tiền tệ ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Tiền là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cố định cho tất cả
các hàng hóa. Đó là nguồn gốc của tiền. Hình thái tiền tệ chính là sự thể hiện
24


chung của giá trị, nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng
hóa. Đó chính là bản chất của tiền. Với sự xuất hiện của hình thái tiền tệ, thì thế
giới hàng hóa được chia làm hai: một bên là tất thảy mọi hàng hóa và dịch vụ, một
bên là tiền. Giá trị hàng hóa thể hiện bằng tiền gọi là giá cả của hàng hóa đó.
Bản chất của tiền còn được thể hiện rõ qua 5 chức năng của nó.
2. Chức năng của tiền tệ
a. Thước đo giá trị
Thực hiện chức năng này, tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các
hàng hóa khác. Để thực hiện chức năng này, chỉ cần một lượng tiền tưởng tượng,
không cần thiết phải có tiền mặt.
Khi tiền thực hiện chức năng giá trị, thì giá trị của hàng hóa được biểu hiện
bằng một lượng tiền nhất định là giá cả hàng hóa, nói cách khác, giá cả hàng hóa là
hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
Như vậy, giá trị là cơ sở của giá cả. Trong các điều kiện khác không đổi, giá
trị của hàng hóa càng cao thì giá cả của nó cũng càng cao và ngược lại.
b. Phương tiện lưu thông
Thực hiện chức năng này, tiền làm môi giới trao đổi hàng hóa.

Tiền làm phương tiện lưu thông đòi hỏi phải có tiền mặt trên thực tế (vàng
thoi, bạc nén, tiền đúc, tiền giấy, tiền tín dụng…) và khi đó, trao đổi hàng hóa vận
động theo công thức: H – T – H’. Đây chính là công thức lưu thông hàng hóa giản
đơn (H – T – H’).
Với chức năng là phương tiện lưu thông, lúc đầu tiền xuất hiện trực tiếp dưới
hình thức vàng thoi, bạc nén; sau đó là tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy ra đời.
Tiền giấy chỉ là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành và buộc xã hội công nhận.
Tiền giấy không có giá trị thực (không kể giá trị của vật liệu giấy và hao phí lao
động in tiền) mà là phù hiệu của giá trị.
Thực hiện chức năng này, tiền làm cho quá trình mua, bán diễn ra được thuận
lợi, nhưng nó cũng làm cho việc mua, bán tách rời nhau về cả không gian, thời
gian và số lượng, do đó đã bao hàm khả năng khủng hoảng kinh tế.
25


×