Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận Vị trí của điều ước quốc tế trong pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.84 KB, 12 trang )

Vị trí của Điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam
MỞ ĐẦU
Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, các quốc gia
trên thế giới ngày càng gắn kết chặt chẽ với nhau thông qua các chương trình hợp
tác cũng như ký kết các Điều ước quốc tế với nhau. Từ khi bắt đầu công cuộc đổi
mới đất nước cho đến nay, Việt Nam luôn trú trọng vấn đề toàn cầu hóa hội nhập
quốc tế, có rất nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam đã
ký kết và trong tương lai, một điều chắc chắn rằng sẽ có nhiều hơn nữa điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Các điều ước quốc tế đã trở thành một công cụ
pháp lý quan trọng để điều chỉnh các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam với
các quốc gia trên thế giới và các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, một vấn đề thực tế
đặt ra là pháp luật quốc tế sẽ có những xung đột và mâu thuẫn nhất định với nội
luật, điều này đặt ra câu hỏi sẽ giải quyết như thế nào khi xuất hiện sự mâu thuẫn
đó hay nói cách khác đó là điều ước quốc tế có vị trí như thế nào so với nội luật.
Đây cũng là một vấn đề rất được nhiều người quan tâm và gây rất nhiều tranh cãi
hiện nay. Vì vậy, trong bài viết này tôi xin đưa ra một số phân tích và ý kiến về
vấn đề “Vị trí của điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam”.


NỘI DUNG
I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ HỆ THỐNG

PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
1. Khái niệm và đặc điểm của điều ước quốc tế.
a. Khái niệm.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Công ước viên năm 1969 về Luật điều ước
quốc tế “Điều ước quốc tế là một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản
giữa các quốc gia và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc việc thỏa
thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc hai hay nhiều văn kiện


có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi của các văn kiện đó”.
Là thành viên của Công ước viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế khái niệm
điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam cũng tương đồng với khái niệm điều
ước quốc tế trong luật quốc tế: “ Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản
được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật
quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước,
thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên
gọi khác.” (khoản 1 Điều 2 Luật điều ước quốc tế năm 2016)
b. Đặc điểm.
Từ khái niệm trên về điều ước quốc tế, ta có thể đưa ra một số đặc điểm của
điều ước quốc tế như sau:
Thứ nhất, về chủ thể của điều ước quốc tế: Chủ thể của điều ước quốc tế là chủ
thể của luật quốc tế, chính các chủ thể của luật quốc tế (cơ bản là các quốc gia) là
chủ thể đã cùng nhau thỏa thuận và xây dựng nên các điều ước quốc tế.
Thứ hai, về hình thức của điều ước quốc tế: Hình thức của điều ước quốc tế
được tồn tại dưới hình thức văn bản, tùy thuộc vào nội dung điều ước điều chỉnh,


tên gọi của điều ước quốc tế rất đa dạng, tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên
tham gia.
Thứ ba, về nội dung của điều ước quốc tế: Nội dung của điều ước quốc tế là
các điều khoản quy định những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên, phản ánh
sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, thiện chí.
2. Khái niệm và đặc điểm của hệ thống pháp luật Việt Nam.
a. Khái niệm.
Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên
tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất
với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể

hiện trong các văn bản do cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành
theo những hình thức, thủ tục nhất định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trên lãnh thổ Việt Nam1
b. Đặc điểm.
Từ khái niệm nêu trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm của hệ thống pháp luật
Việt Nam như sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể cá quy phạm pháp luật, các
nguyên tắc, định hướng của pháp luật có sự thống nhất nội tại cao.
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam được cấu thành bởi các quy phạm, chế
định và ngành luật.và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Thứ ba, hệ thống pháp luật Việt Nam có vai trò quan trọng là điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam
II.

VỊ TRÍ CỦA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM.

1 />%E1%BB%87t_Nam


1. VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
Trước khi Luật Điều ước quốc tế năm 2016 chưa được ban hành và có hiệu lực
thì pháp luật nước ta chưa quy định rõ ràng về việc điều ước quốc tế mà Việt Nam
đã ký kết hoặc gia nhập có vị trí như thế nào trong hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật trong nước. Cụ thể Khoản 1 Điều 6 Luật ký kết và gia nhập điều ước
quốc tế năm 2005 quy định: “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy
định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”.
Quy định này không rõ ràng trong việc không xác định Hiến pháp là văn bản có

giá trị pháp lý cao nhất nên có rất nhiều ý kiến cho rằng điều ước quốc tế có giá trị
pháp lý cao hơn cả Hiến pháp. Vì vậy Luật Điều ước quốc tế năm 2016 đã kịp thời
khắc phục hạn chế này thông qua việc quy định: “Trong trường hợp văn bản quy
phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thàn viên có quy định khác về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của
điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.”(khoản 1 Điều 6). Từ quy định này ta có thể
hiều rằng các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên sẽ ưu
tiên được thực thi trong trường hợp nó mâu thuẫn với pháp luật Việt Nam hoặc
trong trường hợp pháp luật Việt Nam quy định chưa đầy đủ về cùng một vấn đề.
Và việc bổ sung thêm cụm từ “trừ Hiến Pháp” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
khẳng định Hiến pháp có vị trí tối cao, Điều ước quốc tế có vị trí sau Hiến pháp
nhưng trên các văn bản luật, pháp lệnh.
Ngoài ra trong từng lĩnh vực cụ thể thì pháp luật nước ta cũng có những có quy
định cụ thể về việc áp dụng pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế. Chẳng hạn
như trong lĩnh vực dân sự, Bộ luật dân sự 2015 của nước ta có quy định: “ trường
hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì áp dụng quy
định của điều ước quốc tế” (Khoản 4 Điều 4)


Liên quan đến việc ký kết và gia nhập điều ước quốc tế, Năm 2001 Việt Nam
cũng đã gia nhập công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế. Một trong
những nguyên tắc được quy định trong Công ước này là nguyên tắc Pacta sunt
servand với nội dung “mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tha gia
điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý”. Như vậy, ta có thể nói rằng
những quy định về giá trị ưu tiên của Điều ước quốc tế so với các văn bản quy
phạm pháp luật trong nước nêu trên chính là sự cụ thể hóa của nguyên tắc này.
Từ những quy định trên ta có thể khẳng định một điều rằng điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên sẽ có vị trí pháp lý cao hơn
so với pháp luật trong nước, điều ước quốc tế chỉ có vị trí pháp lý thấp hơn Hiến

pháp.
2. ÁP DỤNG ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ.
Khoản 2 Điều 6 Luật điều ước quốc tế năm 2016 quy định: “Căn cứ vào yêu
cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ khi chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp
dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để
thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn
bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó”. Từ quy định này ta có
thể thấy, Việt Nam chấp nhận cả hai phương thực thực hiện điều ước quốc tế đó là
áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế; chuyển hóa điều ước
quốc tế vào văn bản pháp luật trong nước để áp dụng.
Về phương thức áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế, ta có thể hiểu là khi một
điều ước quốc tế có hiệu lực thì mọi tổ chức, cá nhân đều có nghĩa vụ thi hành.
Công dân hoàn toàn có quyền được quyền viện dẫn điều ước quốc tế đó trước tòa
án hay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Còn về phương thức chuyển hóa
điều ước quốc tế vào văn bản pháp luật trong nước hay còn gọi là việc áp dụng
gián tiếp được hiểu là việc Việt Nam sẽ ban hành một đạo luật để chuyển hóa các


quy định của điều ước quốc tế vào trong nội luật, thực tế đây thường là trường hợp
những điều ước quốc tế không quy định rõ ràng và cụ thể và đầy đủ để có thể áp
dụng trực tiếp hoặc trường hợp điều ước đó lại có nhiều điều khoản trái hoặc chưa
quy định trong luật quốc gia. 2
Một ví dụ cho quy định áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế đó là ngày 29 tháng
11 năm 2006 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 về việc phê
chuẩn nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới
(WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quyết định “Áp
dụng trực tiếp các cam kết của việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị
quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với tổ chức thương mại thế giới được

quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các phụ lục đính kèm và báo cáo của
ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại
thế giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với
quy định của Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và
các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập tổ chức
thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm”3
Trong vấn đề chuyển hóa điều ước quốc tế thường được thực hiện theo các
phương thức phổ biến sau:
Thứ nhất: sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện điều
ước quốc tế. Theo quy định tại Điều 79 Luật điều ước quốc tế năm 2016 thì cơ
quan đề xuất ký kết điều ước quốc tế có trách nhiệm kiến nghị hoặc ban hành, sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế. 4
Việc quy định trách nhiệm của cơ quan đề xuất có ý nghĩa trong việc tạo ra một cơ
sở pháp lý kịp thời để thực hiện đúng các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.

2 />3 Xem Nghị quyết số 71/2006/QH11 về việc phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập tổ chức
thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4 Xem khoẳn 2 Điều 79 Luật điều ước quốc tế năm 2016.jj


Thứ hai: Tiến hành chuyển hóa quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật
trong nước. Hoạt động này được hiểu là đưa nội dung các quy phạm điều ước
quốc tế vào nội dung của quy phạm pháp luật trong nước thông qua việc xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước để có nội dung pháp lý đúng
với nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết hoặc gia nhập. Mục
đích cơ bản của vấn đề chuyển hóa này là nhằm đảm bảo thuận lợi cho việc thực
hiện các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, vấn đề chuyển hóa điều ước quốc tế vào
pháp luật quốc gia theo phương thức này không phải là một vấn đề đơn giản, vấn
đề này còn phải còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tình hình chính trị, kinh tế,
xã hội của nước ta. Nhưng, việc chuyển hóa điều ước quốc tế vào nội luật là một

vấn đề quan trọng và có ý nghĩa lớn lao trong việc tạo ra sự hài hòa giữa nội luật
và điều ước quốc tế. Làm tốt hoạt động này sẽ cho thấy tinh thần trách nhiệm, thái
độ hợp tác của chúng ta trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực.
3. THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ .
Đề cập đến vấn đề thực hiện điều ước quốc tế là nói đến việc đưa ra những
biện pháp để đảm bảo thực hiện điều ước quốc tế cũng như việc thực hiện các
nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước đó trên cơ sơ tôn trọng nguyên tắc Pacta sunt
servanda. Để làm được điều này, Luật điều ước quốc tế năm 2016 đã có một
Chương quy định về việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế, cụ thể là Chương
VIII. Có thể nêu lên một số nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, về kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế: Theo khoản 4 Điều 74 Luật
điều ước quốc tế 2016, kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế gồm những nội dung
cơ bản như lộ trình thực hiện điều ước quốc tế; dự kiến phân công trách nhiệm của
của các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế; dự kiến
nội dung sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để
thực hiện điều ước quốc tế; các biện pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện


pháp cần thiết khác để thực hiện điều ước quốc tế; tuyên truyền phổ biến điều ước
quốc tế.5
Trong việc thực hiện điều ước quốc tế, xuất phát từ tình hình, hoàn cảnh cụ thể
của đất nước trong từng giai đoạn củ thể, căn cứ vào tình hình phát triển của đất
nước thì đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xây dựng được những
lộ trình cụ thể để trong việc thực hiện điều ước quốc tế. Việc dự kiến phân công
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện điều ước quốc
tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó sẽ giúp giải quyết những vấn đề phát sinh từ
điều ước quốc tế một cách nhanh chóng, tránh được sự chồng chéo trong thẩm
quyền giải quyết, qua đó điều ước quốc tế sẽ được thực thi một cách hiệu quả.
Như trên đã phân tích việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng nhưng đó

không phải là vấn đề đơn giản, do đó cần phải có những kế hoạch cụ thể, chi tiết
về vấn đề này, tránh việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy quy
phạm pháp luật không phù hợp. Ngoài ra, trong nội dung kế hoạch tổ chức thực
hiện điều ước quốc tế chúng ta cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý việc thực hiện
điều ước, quản lý nguồn tài chính, kể cả những đóng góp, tài trợ quốc tế cho việc
thực hiện điều ước quốc tế.
Thứ hai, về việc xác định những cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện điều
ước quốc tế. Luật điều ước quốc tế năm 2016 đã quy định rõ trách nhiệm của các
cơ quan trong việc thực hiện điều ước quốc tế như trách nhiệm của Thủ tướng
Chính phủ, Bộ ngoại giao, Bộ tư pháp, cơ quan đề xuất ký kết điều ước quốc tế,
cơ quan tổ chức cá nhân khác. Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, các
Bộ ngành và các cấp chính quyền có trách nhiệm đề ra kế hoạch cụ thể và biện
pháp bảo đảm khả thi các cam kết và Việt Nam đưa ra trong điều ước quốc tế.
Việc thực hiện từng loại điều ước lại phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi
Bộ, ngành. Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan trong việc thực hiện điều ước
không độc lập mà phải nằm trong mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong trường
5 Xem khoản 4 Điều 74 Luật điều ước quốc tế năm 2016.


hợp phát sinh khó khăn bất cập, Các Bộ, Ngành và cơ quan trung ương sẽ phải
phối hợp với nhau để đưa ra những biện pháp khắc phục nhằm đảm bảo cho việc
thực hiện điều ước quốc tế được thống nhất, nhanh chóng và hiệu quả.
III. THỰC TRẠNG THỰC THI ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM.
1. Những thành công.
- Nước ta đã và đang thực hiện tốt việc chuyển hóa điều ước điều ước quốc tế
vào pháp luật quốc gia, làm cho việc thực hiện điều ước quốc tế ngày càng
hiệu quả hơn.
- Nước ta đã tích cực tổ chức và tham gia vào các dự án tăng cường hiệu quả
thực thi điều ước quốc tế.
- Trong quá trình thực thi điều ước quốc tế, Việt Nam đã thường xuyên báo

cáo với các tổ chức quốc tế về tình hình thực hiện điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên, qua đó kiến nghị những khó khăn để cùng nhau khắc
phục, giải quyết.
- Việt Nam luôn khẳng định vai trò quan trọng của điều ước quốc tế, điều này
thể hiện ở nhiều hành động, có thể kể đến như không ngừng tuyên truyền và
phổ biến các điều ước quốc tế và vai trò cũng như nghĩa vụ phải nghiêm
chỉnh thực thi các điều ước quốc tế đến các cá nhân, tổ chức đặc biệt là
những chủ thể tham gia trực tiếp vào việc thực thi các điều ước quốc tế.
- Trong việc thực hiện điều ước quốc tế, để khuyến khích các cá nhân, tổ
chức có trách nhiệm cao cũng như có đóng góp hữu ích trong việc thực hiện
quốc tế thì Nhà nước ta luôn có những sự quan tâm kịp thời thông qua nhiều
hình thức, ví dụ như khen thưởng. Đồng thời, đối với những hành vi không
nghiêm chỉnh thực hiện điều ước quốc tế, hoặc có hành vi chống lại điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì Nhà nước ta cũng có những biện
pháp thích đáng để xử lý những hành vi đó.
2. Những tồn tại, hạn chế.
- Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam còn chưa đủ căn cứ để các cá nhân,
tổ chức có thể dựa vào đó để áp dụng cho việc thực thi các điều ước quốc
tế.
- Điều ước quốc tế muốn được thực thi hiệu quả thì cần phải có một cơ chế
đảm bảo thực thi hiệu quả. Tuy nhiên cơ chế đảm bảo thực thi điều ước
quốc tế ở nước ta vẫn chưa hiệu quả.


- Việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ thực hiện
chức năng này phải có trình độ cao. Tuy nhiên hiện nay đội ngũ cán bộ
nước ta nhìn chung vẫn còn hạn chế về trình độ chuyên môn và việc nhận
thức những quy định của điều ước quốc tế còn hạn chế.
- Việc thực hiện điều ước quốc tế cần phải có một nguồn kinh phí nhất định,
tuy nhiên hiện nay nguồn kinh phí cho việc thực hiện một số điều ước còn

bị thiếu hụt, khiến cho việc thực hiện điều ước quốc tế còn gặp nhiều khó
khăn.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.
Từ việc đưa ra một số hạn chế trong việc thực thi điều ước quốc tế, tôi xin đưa
ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả trong việc thực thi điều ước quốc tế như
sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý để các cá nhân tổ chức có đủ
căn cứ để áp dụng cho việc thực thi các điều ước quốc tế.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện những cơ chế đảm bảo thực thi điều ước quốc
tế, có những chế tài thích đáng đối với những hành vi không thực thi nghiêm
chỉnh điều ước quốc tế.
Thứ ba, không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ trong hoạt động ký
kết và thực hiện điều ước quốc tế.
Thứ tư, cần đảm bảo tốt nguồn kinh phí cần thiết để tiến hành những hoạt động
liên quan đến việc thực thi điều ước quốc tế.

KẾT LUẬN


Từ việc phân tích vị trí của điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam và các
vấn đề có liên quan ta có thể thấy rằng vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống
pháp luật nước ta đã được xác định rõ thông qua quy định của pháp luật. Đây là
một bước tiến quan trọng trong hoạt động lập pháp bởi xác định được vị trí của
điều ước quốc tế so với nội luật có ý nghĩa trực tiếp đến việc các cam kết quốc tế
có được thực hiện hay không. Về vấn đề thực thi điều ước quốc tế ở Việt Nam,
nhìn chung chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc đảm bảo thực thi các cam
kết quốc tế và đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn
tồn tại một số hạn chế gây ảnh hưởng đế việc thực hiện điều ước quốc tế như đã
phân tích cần phải khắc phục. Cuối cùng cần phải khẳng định rằng điều ước quốc
tế giữ một vị trí quan trọng trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Vì vậy

các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cần phải thực hiện điều
ước quốc tế mà mình là thành viên một cách tận tậm, trách nhiệm và thiện chí.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


- Giáo trình Luật quốc tế - Trường đại học Kiểm sát Hà Nội
- Luật điều ước quốc tế năm 2016.
- Luật ký kết và gia nhập điều ước quốc tế năm 2005.

Contents



×