Nguyễn Ai Quốc - Hồ Chí Minh
Mục đích:
Nắm đợc những kiến thức cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp, quan điểm nghệ thuật và phong cách
sáng tác của Bác.
Kiến thức cơ bản
1. Bài Nguyễn i Quốc - Hồ Chí Minh đợc đặt vào phần ba trong bộ sách giáo khoa Văn cấp
PTTH: Văn học từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhng đây là bài
học về một tác gia mà sự nghiệp văn chơng còn kéo dài tới một phần t thế kỉ sau Cách
mạng. Vì thế, trong bài này, bên cạnh việc nói về những sáng tác của Nguyễn ái Quốc - Hồ
Chí Minh trớc 1945, ngời học vẫn cần phải học tập cả về thơ văn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết trong thời gian sau đó. (Cũng nh bài về các tác gia Tố Hữu và Nguyễn Tuân tuy đợc
đặt vào phần bốn: Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975, nhng vẫn nói về
những thành tựu văn chơng của hai ngời trong thời gian trớc đó).
2. Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh là hai tên khác nhau của một con ngời duy nhất. Đó là Bác
Hồ, nhà cách mạng lớn nhất, nhà ái quốc vĩ đại nhất, danh nhân văn hóa tiêu biểu nhất và
tác gia văn học quan trọng bậc nhất trong lịch sử nớc nhà.
3. Tuy nhiên, hai tên gọi Nguyễn ái Quốc và Hồ Chí Minh lại gắn liền với hai thời kỳ khác
nhau trong cuộc đời hoạt động cực kì phong phú của Bác.
a) Nguyễn ái Quốc là tên gọi đợc biết đến và nhớ đến nhiều nhất trong số nhiều tên mà
Bác đã dùng trong những năm bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đờng giải phóng
cho Tổ quốc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Trong khi đó, tên Hồ Chí Minh chỉ
đợc Bác dùng từ sau khi trở về đất nớc để trực tiếp lãnh đạo cách mạng, kháng chiến,
và sau đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nớc nhà.
b) Riêng trong lĩnh vực sáng tác văn chơng, nói đến tác giả Nguyễn ái Quốc là nói đến
ngời đại biểu duy nhất cho văn học cách mạng vô sản Việt Nam trong những năm 20
của thế kỉ này, ngời đã viết hàng loạt những truyện ngắn và phóng sự - chính luận đặc
sắc, mà tất cả đều có thể coi là những bản án chế độ thực dân.
Còn tên tuổi của nhà thơ Hồ Chí Minh, nhà chính luận Hồ Chí Minh sẽ gợi nhớ đến:
Rất nhiều áng thơ đặc sắc, có giá trị t tởng và giá trị nghệ thuật cao, nhất là mảng thơ
trữ tình mà tập thơ Nhật ký trong tù là kết tinh ngời sáng nhất.
Rất nhiều bài văn chính luận giản dị mà sâu sắc, giàu tính chiến đấu mà vẫn
nhân hậu, khoan hòa, nhiều khi hóm hỉnh, trong đó, thành tựu có tầm vóc lớn lao
nhất là bản
4. Quan điểm nghệ thuật
a) Nhng không nên, và cũng không thể tách rời nhà văn Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh khỏi
cách mạng Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh. Bởi vì viết văn làm thơ - trớc hết là làm thơ
tuyên truyền cổ động - với Bác Hồ, cũng là một hành vi cách mạng, đợc tiến hành để phục
vụ mục đích đấu tranh cách mạng. Không vì nhiệm vụ cách mạng, nhiều tác phẩm văn ch-
ơng của Bác chắc chắn đã không đợc viết ra
Nhng khi đã vì cách mạng mà viết thì mục tiêu cách mạng cần đạt tới (viết để làm gì ?) và
đối tợng cách mạng cần tác động (viết cho ai ?) sẽ quyết định sự lựa chọn nội dung (viết
cái gì ?) và hình thức (viết nh thế nào?) của tác phẩm văn chơng. Vì thế, nếu ta thấy tác
phẩm của Bác mang dáng dấp hiện đại của phơng Tây hay hơng vị cổ điển của phơng
Đông, tìm đến hạc cũ, trăng xa cao nhã hay vẻ giản dị nh lời ăn tiếng nói thờng ngày thì
1
phải hiểu đó hoàn toàn không phải là sự tùy hứng của cá nhân mà có gốc gác từ nhu cầu
cách mạng.
b) Tuy vậy, cũng không thể hiểu một cách máy móc rằng, văn thơ của Bác chỉ đợc viết ra trực
tiếp phục vụ một nhiệm vụ cách mạng cụ thể. Cũng có khi, và không ít khi, Bác mợn việc làm thơ
để tiêu bớt tháng ngày dài (Nhật kí trong tù), hoặc làm thơ khi việc quân nớc đã tạm nhàn mà lòng
lại đang có hứng. Thơ chính là ngời. Vẻ đẹp của những bài thơ đợc viết ra trong hoàn cảnh nh thế,
trớc hết và chủ yếu, là sự phản ánh vẻ đẹp của con ngời Bác: một trí tuệ sáng láng; một tâm hồn
tràn ngập thơng yêu thiên nhiên, đất nớc, con ngời; một ý chí vững mạnh tới mức vẫn thanh thản,
ung dung giữa muôn ngàn gian khó.
5.Phong cách sáng tác
a) Nh có thể thấy ở trên, phong cách nghệ thuật của Bác Hồ vô cùng đa dạng. Trong văn học Việt
Nam hiện đại, cha từng thấy một ai có bản sắc văn chơng phong phú thế: viết văn tiếng Pháp rất
Pháp, làm thơ chữ Hán thì nhiều bài có thể đặt lẫn cùng thơ Tống thơ Đờng, tuyên truyền cổ động
nhân dân thì có thể nói nh ca dao tục ngữ, mà nghị luận trớc công luận trong nớc và quốc tế thì
chặt chẽ, tế nhị, đanh thép, hùng hồn. Viết đợc nh thế chỉ có thể là một nhà văn hội tụ đợc tinh hoa
của nhiều nền văn hóa, làm chủ đợc nhiều thủ pháp, thể tài, nhiều phong cách ngôn ngữ và loại thể
văn chơng.
b)Tuy nhiên, phong cách Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đa dạng mà vẫn thống nhất. Đó là
phong cách của một ngời hiểu rất rõ mục đích và đối tợng, một ngời mà văn phong luôn luôn cô
đúc, trong sáng và linh hoạt, một ngời luôn hớng về mặt tích cực, về sự vận động tới ánh sáng, tới
tơng lai, một ngời dù viết gì thì sự cao khiết và nhân hậu vẫn có thể cảm nhận thấy bên dới từng
hàng chữ.
Hoàn cảnh sáng tác của Vi hành
1. Giữa năm 1922, thực dân pháp đa Vua bù nhìn Khải Định sang Pháp dự cuộc triển lãm
thuộc địa Vecxây. Đây là một âm mu của chúng nhằm lừa gạt nhân dân Pháp: Vị quốc vơng An
Nam này đại diện cho 1 dân tộc lớn nhất ở Đông Dơng, sang Pháp để tỏ thái độ hoàn toàn quy
phục mẫu quốc và để cảm tạ công ơn khai hóa của mẫu quốc. Nh vậy tình hình Đông Dơng là
ổn định và tốt đẹp, nhân dân Pháp nên nhiệt tình ủng hộ cuộc đầu t lớn vào Đông Dơng để khai
thác tài nguyên giàu có ở xứ này và tiếp tục đem văn minh tiến bộ đến cho những ngời dân đợc n-
ớc Pháp bảo hộ.
2. Nguyễn ái Quốc viết Vi hành vào đầu năm 1923 để cùng với vở kịch Con rồng
tre truyện ngắn Lời than vãn của bà trng trắc bài báo Sở thích đặc biệt (Viết năm
1922) lật tẩy âm mu nói trên của thực dân Pháp. Đồng thời vạch trần tính chất bù nhìn tay
sai dơ dáy của Khải Định và tố cáo tính chất điêu trá của những danh từ Văn minh, khai
hóa của chủ nghĩa thực dân.
Kiến thức cơ bản
I. Giới thiệu chung
1. Vi hành là một truyện ngắn bằng tiếng Pháp, đợc Nguyễn Ai Quốc viết và đăng ở Pháp,
trên báo Nhân đạo ngày 19 tháng 2 năm 1923. Đây là một tác phẩm đợc viết ra vì mục
đích cách mạng. Nó nằm trong cả một hệ thống những bài văn, bài báo, vở kịch mà
Nguyễn á i Quốc đã viết để tập trung đả kích tên vua bù nhìn Khải Định khi y sang
Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Macxây năm 1922. Qua Vi hành, tác giả muốn cho
công luận trong và ngoài nớc Pháp thấy rõ rằng cái kẻ đang đợc đón tiếp rùm beng nh
là thợng khách kia, thực chất chỉ là một tên hề lố lăng, hành vi lén lút và mờ ám mà giá
trị không hơn một thứ trò giải trí rẻ tiền.
2. Nhng nội dung của Vi hành không chỉ giới hạn ở ý nghĩa phản phong. Tác phẩm còn
là một tiếng nói lên án chủ nghĩa thực dân, cái chế độ đã thông qua bọn tay sai làm cho
2
những ngời dân thuộc địa bị suy nhợc giống nòi bởi rợu cồn và thuốc phiện, đã theo
dõi, rình mò, bám lấy đế giày của những ngời chân chính bằng một chính sách mật
thám đê hèn. Chế độ thực dân, do đó, còn là nỗi tủi nhục của ngời bản xứ, là sự sỉ nhục
đối với con ngời. Nh thế, Vi hành cũng là một trong những phơng cách mà Nguyễn á
i Quốc sử dụng để đạt tới mục đích chống thực dân, đánh đổ phong kiến. Việc viết Vi
hành cũng là một hành vi cách mạng.
3. Nhng Vi hành cũng là một tác phẩm thực sự có giá trị văn chơng, một tác phẩm văn
chơng đích thực. - ở đây, mục đích làm cách mạng không ngăn trở, không gò ép, không
đối lập với sáng tạo văn chơng. Trái lại, mục đích cách mạng rất cần đến sáng tạo văn
chơng để có thêm sức mạnh. Có thể nói, ở Vi hành - và cũng không chỉ ở Vi hành -
nhiệt tình của nhà cách mạng Nguyễn á i Quốc đã thôi thúc tài năng của nhà văn
Nguyễn á i Quốc. Nguyễn á i Quốc viết Vi hành trớc hết nhằm vào độc giả ngời Pháp
dân Pari vì thế phải viết có nghệ thuật sử dụng bút pháp của châu Âu hiện đại phải đa ra
nhiều chi tiết quen thuộc với ngời Pari phải có thái độ khách quan tránh lời đả kích đao
to búa lớn. Lấy tố cáo lật tẩy làm mục đích tinh thần châm biếm đả kích phải là tinh
thần của tác phẩm. Tinh thần ấy thấm sâu vào toàn bộ tác phẩm từ giọng điệu đến mọi
tình tiết linh hoạt biến hoá để có thể đánh địch từ nhiều phía và bằng nhiều cách.
II. Phân tích: Vi hành là một tác phẩm văn chơng với nhiều thủ pháp nghệ thuật độc
đáo.
1. Trớc hết phải kể đến sự tạo ra tình huống truyện, tình huống nhầm lẫn - Cái tài của tác
giả biểu hiện ở chỗ có khả năng dồn nén một nội dung lớn lao, mãnh liệt vào trong một
h cấu nghệ thuật đơn giản đến lạ lùng: một khoảnh khắc ngắn ngủi trên một toa xe
điện. Vẻn vẹn ba nhân vật, trong đó, một ngời chỉ lặng lẽ nghe và nghĩ ngợi. Còn lại,
chỉ là một câu chuyện ríu rít của một đôi trai gái, một câu chuyện phù phiếm, bâng quơ,
nh thờng vẫn thế ở kiểu chuyện trò của các cặp tình nhân. ấ y vậy mà càng đi sâu vào
truyện thì cái cách sắp đặt tởng chừng đơn giản ấy lại càng lung linh nhiều ánh sáng bất
ngờ: - Bởi đâu vậy? Bởi tác giả đã đặt cài vào đó một loạt tình tiết thế hiểu lầm. Ban
đầu là sự nhầm lẫn của đôi tình nhân. Sau đó là sự nhầm lẫn của dân chúng Pháp và
cuối cùng chính phủ Pháp cũng không còn nhận ra vị thợng khách của mình:
Ngời biết tiếng Pháp thì bị coi là chẳng hiểu gì. Ngời chẳng phải vua thì lại cho là
Hoàng thợng. Không có Khải Định thật, mà Khải Định thật vẫn cứ hiện ra, trong một
bức biếm hoạ có một không hai về một anh vua đến thật đúng lúc, để làm một thứ trò
tiêu khiển không mất tiền, quá rẻ so với đám vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên hay s
thánh xứ Công gô , vào lúc cái kho giải trí đang cạn ráo. Đến giữa truyện, tác giả để
đôi trai gái xuống tàu. Tởng chừng với chi tiết đó, truyện không còn khả năng diến tiến.
Vậy mà hoàn toàn không phải. Hoá ra nhân vật bớt đi, đối thoại không còn, nhng tình
huống nhầm lẫn vẫn đợc giữ nguyên, và bây giờ tác giả tiếp tục khai thác nó theo cách
khác. Trớc đó, Tôi bị lầm là Hoàng đế. Bây giờ thì Hoàng đế có thể là tôi và cũng
có thể là bất cứ ngời Việt nào trên đất Pháp. Sự phê phán Khải Định cha dừng lại. Nhng
một nội dung tố cáo khác đã mở ra: sự rình mò từng bớc chân của ngời dân thuộc địa;
và từ đó, cái muôn ngàn lần cay đắng vì bị mất tự do của kiếp ngời vong quốc. Có thể
thấy, việc khéo bố trí một tình huống nhầm lẫn đã cung cấp cho cốt truyện một khả
năng biến ảo khôn lờng. Tạo ra tình huống nhầm lẫn là biện pháp nghệ thuật cơ bản
nhất. Tình huống ấy làm cho câu chuyện trở lên trớ trêu hài hớc kịch tính hơn. Bằng
tình huống nhầm lẫn Vi hành đã góp thêm vào cho kho tàng trào phúng - vốn đã khá
phong phú của dân tộc Việt Nam một tiếng cời mới mẻ. Đó là một tiếng cời trí tuệ. Nó
không giòn giã trên bề mặt mà thâm trầm ở bề sâu. Nó chỉ hiện ra, thật chua chát, mỉa
mai, sau một quá trình suy nghĩ để nhận ra cái trái tự nhiên nằm trong bản thân sự vật.
3
2. Hình thức viết th: Bên dới nhan đề Vi hành, tác giả đặt một dòng phụ đề: Trích
những bức th gửi cô em họ do tác giả dịch từ tiếng An Nam. Đây là một hình thức nghệ
thuật nhằm hớng tới đối tợng độc giả. Công chúng văn học Pháp vốn quen thuộc và yêu
thích hình thức kể chuyện dới dạng bức th (th Ba t của Mông tex kiơ, Những bức th
gửi từ cối xay gió của Aphôngxơ Đô đê). Mặt khác, sự hớng tới phơng Đông huyền bí
xứ sở của bí mật bị đánh cắp, khát khao đợc hởng thứ cảm giác lạ ở chốn xa xăm ấy
cũng là xu thế trong văn học phơng Tây không chỉ một thời. Vì thế dòng phụ đề trong
truyện sẽ đem lại ấn tợng thích hợp với khẩu vị văn chơng của công chúng Pháp. Điều
đó chứng tỏ Nguyễn á i Quốc rất trung thành với phơng châm sáng tác của mình. Phải
nhận thức rõ: viết cho ai để xác định đúng: viết cái gì và viết nh thế nào? Bởi vậy, viết
truyện dới hình thức th từ không phải là một biện pháp sáng tạo mới mẻ. Nhng trong tr-
ờng hợp Vi hành đã đạt hiệu quả thẩm mỹ độc đáo.
a) Dùng lối viết th Nguyễn á i Quốc có thể đổi giọng và chuyển cảnh linh hoạt. Th từ cho
một ngời thân trong quan hệ cá nhân là một thứ văn hết sức tự do phóng túng, nó giúp
tác giả có thể đổi giọng một cách thoải mái tự nhiên: từ giọng tự sự khách quan thuật
lại những điều mắt thấy tai nghe trên tàu điện ngầm đến giọng trữ tình thân mật khi
nhắc lại kỷ niệm thân thiết với cô em họ. Có thể chuyển cảnh rất linh hoạt: từ cảnh đi
xe điện ngầm ở Pari, chuyển thẳng tới cảnh quê nhà thuở thiếu thời, khi còn ngồi vắt
vẻo trên đầu gối của ông Bác mà nghe chuyện cổ tíchtừ truyện cải trang của ông vua
Thuấn bên Tàu, vua Pie bên Nga, đến chuyện vi hành của những ông hoàng bà chúa vì
những lý do ít cao thợng hơn.
b) Liên hệ tạt ngang so sánh thoải mái :Th là thứ văn rất chủ quan cứ phóng bút theo dòng
cảm nghĩ tự do và độc đoán của ngời viết. Nhờ thế tác giả có thể từ câu chuyện vi hành
của Khải Định mà đa ra đủ thứ phán đoán giả định những hành vi bất chính và t cách
dơ dáy của y phải chăng ngài muốn. Hay ngài muốn ai cấm đợc ngời viết th nghĩ
ngợi thoải mái nh vậy? Rồi từ chỗ đả kích Khải Định đến châm biếm mật thám Pháp và
cả Chính phủ Pháp đối với những ngời yêu nớc Việt Nam, mỉa mai chế giễu cái tính
chất bịp bợm của bọn thực dân luôn huênh hoang những công lao khai hoá của chúng
đối với dân thuộc địa. Lối viết th sử dụng một cách sáng tạo đã khiến tác phẩm trong
khuôn khổ một thiên truyện ngắn rất ngắn gọn đả kích một lúc nhiều đối tợng, đả kích
từ nhiều phía bằng nhiều giọng điệu khác nhau. Đồng thời tạo nên tính hài hớc sức hấp
dẫn đặc biệt của tác phẩm. 3. Giọng điệu trần thuật ở ngôi thứ nhất tạo độ tin cậy xác
tín. (Đây là trờng hợp thờng xuất hiện ở những tác giả có vị trí mở đầu: nh Puskin,
Khởi đầu của mọi khởi đầu nền Văn học Nga thế kỷ 19, Lỗ Tấn - ngời đặt nền móng
cho văn học vô sản Trung Hoa trong các tác phẩm đầu tay thờng sử dụng ngôn ngữ trần
thuật ở ngôi thứ nhất - Nguyễn á i Quốc viết Vi Hành những năm 1920. Đây là đại biểu
đầu tiên và duy nhất của Văn học cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ). Có thể tìm thấy
trong Vi hành nhiều giọng điệu khác nhau. Khi nghiêm trang khi cời cợt, khi vui tơi,
nhí nhảnh khi buồn nhớ mênh mông, khi lạnh lùng sắc sảotuy nhiên bao trùm lên tất
cả vẫn là giọng mỉa mai châm biếm, bề ngoài có vẻ nhẹ nhàng nhng thực chất là những
đòn đả kích sâu cay mãnh liệt. - Sử dụng lối nói ngợc nghĩa để đả kích Vi hành Phải
chăng ngài muốn Ngày nay cứ mỗi lần ra khỏi cửa thật tôi kh ông sao che dấu nỗi
niềm tự hào đợc làm ngời An Nam và sự kiêu hãnh có một vị hoàng đế. - Đặt những
chuyện vi hành bên cạnh nhau để làm nổi bật chủ đề đả kích. Ngôn ngữ đa thanh điệu,
vì vậy đa nghĩa. - Câu chuyện phù phiếm bâng quơ của một cặp tình nhân lại nhằm thể
hiện mục đích chính trị nghiêm trang. Đó là một cách thú vị để hạ bệ tên vua Khải
Định. Trở thành đối tợng cợt nhạo chế giễu rẻ tiền nhất trong một câu chuyện tầm
phào. - Tài năng nghệ thuật trần thuật của tác giả Vi hành đã đóng góp thêm cho kho
tàng trào phúng vốn khá phong phú của dân tộc Việt Nam một tiếng cời mới mẻ.
4
III.Kết luận Vi hành là một kết tinh xuất sắc thể hiện sự kết hợp giữa chính trị và văn
chơng trong sự nghiệp sáng tác của Bác. - Vi hành không phải là trờng hợp duy nhất
đã thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa chính trị và văn chơng. Sự kết hợp đó đã trở thành
một quan điểm sáng tác, một phơng châm cầm bút mà Bác đã theo đuổi suốt cuộc đời. -
Nhng về sự kết hợp đó Vi hành thực sự là một kết tinh nghệ thuật xuất sắc: - ở đây
Bác không làm văn chơng vì văn chơng. Mọi sự lựa chọn nghệ thuật (ngôn ngữ, bút
pháp, cách xây dựng tình huống, nhân vật) đều xuất phát từ nhu cầu mục tiêu cách
mạng, đều nhằm đạt tới mục tiêu đó một cách hiệu quả nhất. Nhng chính nhờ có những
lựa chọn sáng tạo nghệ thuật đó mà nội dung chính trị của tác phẩm trở nên có sức
mạnh, có sự sắc bén không gì thay thế nổi. + Song không phải vì phục vụ chính trị mà
Vi hành bị mất hoặc bị giảm chất văn chơng chính trị không hạn chế sáng tạo
văn chơng mà ngợc lại đã là nguồn nhiệt tình, nguồn cảm hứng giúp Nguyễn á i Quốc phát
huy kiến thức, tài năng làm nên những sáng tạo đột xuất độc đáo ghi dấu ấn mới mẻ đẹp đẽ
trong lịch sử văn học dân tộc.
Hoàn cảnh sáng tác của Nhật ký trong tù
1. Nhật ký trong tù là một tập nhật ký bằng thơ viết trong nhà tù. Sau một thời gian về
nớc và công tác tại Cao Bằng, tháng 8 năm 1942, Nguyễn ái Quốc lấy tên là Hồ Chí
Minh lên đờng trở lại Trung Quốc với danh nghĩa đại biểu của Việt Nam độc lập
đồng minh và Phân ban quốc tế phản xâm lợc của Việt Nam để tranh thủ sự viện trợ
của quốc tế. Sau nửa tháng trời đi bộ, đến Túc Vinh, Quảng Tây (29-8), Ngời bị
chính quyền Tởng Giới Thạch bắt giam. 14 tháng ở tù (từ mùa thu 1942 đến mùa
thu 1943), tuy bị đày ải vô cùng cực khổ ( Sống khác loài ng ời vừa bốn tháng, Tiều
tụy còn hơn mời năm trời ), lại bị giải đi quanh quẩn qua gần 30 nhà lao của 13
huyện thuộc Quảng Tây, Ngời vẫn làm thơ. Ngời đã sáng tác 133 bài thơ bằng chữ
Hán ghi trong một cuốn sổ tay mà Ngời đặt tên là Ngục trung nhật ký (tức Nhật ký
trong tù).
2. Tập Nhật ký trong tù, vì thế, vừa ghi lại đợc một cách chân thực - chân thực nhiều
khi đến chi tiết - bộ mặt đen tối và nhem nhuốc của chế độ nhà tù cũng nh của xã
hội Trung Quốc thời Tởng Giới Thạch, vừa thể hiện đợc tâm hồn phong phú, cao
đẹp của ngời tù vĩ đại. Về phơng diện này, có thể xem Nhật ký trong tù nh một bức
chân dung tự họa con ngời tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: vừa kiên cờng bất
khuất -Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao- vừa mềm mại, tinh tế, hết sức
nhạy cảm với mọi biến thái của thiên nhiên và lòng ngời; vừa ung dung tự tại, hết
sức thoải mái, nh bay lợn ở ngoài tù, vừa nóng lòng sốt ruột nh lửa đốt, khắc khoải
ngóng về tự do, mòn mắt nhìn về Tổ quốc; vừa đầy lạc quan tin tởng; luôn luôn h-
ớng về bình minh và mặt trời hồng, vừa trằn trọc lo âu, không bao giờ nguôi nỗi đau
lớn của dân tộc và nhân loại, nhiều đêm một mình đối diện đàm tâm với vầng trăng
lạnh. Tất cả bắt nguồn từ bản chất của một tâm hồn yêu nớc lớn, một tấm lòng nhân
đạo lớn, một cốt cách nghệ sĩ lớn.
Mục đích
1. Qua bài thơ học sinh thấy đợc vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh: trong bất kỳ hoàn
cảnh nào cũng tha thiết với thiên nhiên, với con ngời, tìm thấy sự đồng cảm ở ngoại
cảnh.
2. Bài thơ thể hiện phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh: cổ điển mà hiện đại. Luôn
nhìn sự vật trong sự vận động.
Kiến thức cơ bản
5
1. Mộ (Chiều tối) là bài thứ 31 trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, ghi lại
cảm xúc của nhà thơ trong một lần dừng chân nơi xóm núi sau một ngày bị giải đi
trên đờng.
2. Hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên miền sơn cớc lúc hoàng hôn:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Cảnh đẹp nhng đợm buồn. Bức tranh đợc chấm phá bằng vài hình ảnh ớc lệ, theo bút
pháp cổ điển: một cánh chim chiều, áng mây đơn chiếc. Gợi nhớ những câu thơ cổ điển
của Lý Bạch:
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Của Thôi Hiệu:
Bạch vân thiên tải không du du
Của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
Chim hôm thoi thót về rừng
Bản dịch cha diễn tả hết chữ cô trong cô vân làm cho ý thơ có phần nhẹ hơn so với
nguyên tác.
Cần lu ý rằng: cánh chim ở đây là cánh chim mỏi, chòm mây ở đây là chòm mây cô đơn
vô định. Hoá ra cảnh thiên nhiên cũng hoàn toàn phù hợp với cảnh và tâm trạng thực của
ngời tù Hồ Chí Minh: một mình nơi đất khách quê ngời, lại trải qua một ngày bị áp giải
cực nhọc trên đờng đi. Ngoại cảnh cũng là tâm cảnh.
3. Hai câu thơ sau:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Lại là bức tranh sinh hoạt sống động, ấm nóng tình ngời. Hình ảnh ngời thiếu nữ và
không khí lao động làm cho buổi chiều tối trở nên náo nhiệt, có sức sống.
Từ một bức tranh chiều tối đợc phác hoạ bằng những nét vẽ cổ điển ở hai câu thơ đầu,
đến đây (hai câu thơ sau) đã mang sắc thái hiện đại, đời thờng nhờ hình ảnh ngời phụ nữ
lao động đợc miêu tả chân thực.
4. Đặc sắc của bài thơ này còn ở bút pháp gợi tả: Hồ Chí Minh đã dùng hình ảnh chim
về tổ để nói cảnh chiều tà, dùng hình ảnh lô dĩ hồng (lò than rực hồng) để diễn tả
trời tối. Trong bài thơ không có từ tối, bản dịch thêm chữ tối vào làm mất cái
tinh vi trong nghệ thuật biểu hiện của tác giả.
5. Phải đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác của nó mới thấy hết tình yêu thiên nhiên,
tấm lòng nhân ái và nghị lực Hồ Chí Minh. Cũng phải thấy đây là bài thơ tiêu biểu
cho phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh: vừa cổ điển vừa hiện đại. Luôn nhìn
sự vật trong sự vận động theo chiều hớng tích cực.
6
Đề 1: Một nhà nghiên cứu nớc ngoài, từ khi tập Nhật kí trong tù mới xuất bản, đã nhận
thấy rằng tập thơ này là sự kết hợp hài hòa giữa một cốt cách cổ điện với những sáng tạo
hiện đại.
Anh (chị) thấy sự kết hợp ấy có đợc biểu hiện qua bài thơ Chiều tối hay không ?
Có thể dựa theo nội dung và lời lẽ của tác giả ý kiến đợc dẫn trong câu hỏi để nêu các ý
sau:
Hai câu đầu của Chiều tối giống nh một bức tranh tuyệt tác theo lối cổ điển, đợc vẽ
trên tấm lụa bằng ngôn từ, với lời thơ uyên bác, gợi ra cả một thế giới thơ của những
cô vân và quyện điểu, cái thế giới thơ mà hình ảnh những cánh chim bay trở lại rừng
vẫn quen đợc dùng để diễn tả lúc chiều buông:
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
(Lý Bạch)
Chim hôm thoi thót về rừng
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành
(Nguyễn Du)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
(Bà huyện Thanh Quan)
Trong khi đó, hai câu sau của bài thơ mang những hình ảnh thực, bình dị, mộc mạc
không thêm thắt, không dùng lối nói văn hoa, mang sức nặng của cuộc sống hàng
ngày. Nó có tính chất hiện thực của thơ văn hiện đại.
Nhng bài thơ không phải là hai mảng rời nhau. Nó gắn bó với nhau bởi tình cảm sâu
nặng đối với cuộc sống, chất nhân văn và tinh thần nâng niu tất cả, chỉ quên mình,
nói theo cách của nhà thơ Tố Hữu.
Đề 2. Lại có ngời muốn xếp Chiều tối, đặc biệt là hai câu cuối của bài thơ, vào số
những vần thơ quên mình của Bác. Anh (chị) hiểu điều đó nh thế nào ?
Nên nhớ đây không phải là một bài thơ ngoạn cảnh đợc viết trong một cảm giác thanh
nhàn th thái kiểu nh Rồi, hóng mát thuở ngày trờng....
Chiều tối là thơ của một ngời tha hơng trên quê ngời đất khách; hơn nữa, của một ngời tù
trên đờng chuyển ngục, trong cái giá rét cuối thu phơng Bắc, tận cho đến lúc đêm đã buông
mà bớc chân lu đày vẫn còn cha dừng lại.
Thế cho nên, một ánh chim về tổ, một chòm mây tự do lững thững trôi, hay một bếp lửa
của nhà ai bên xóm núi... tất cả đều dễ làm một ngời nh thế chạnh nghĩ đến cảnh ngộ, đến
nỗi xót xa cho thân phận. Dờng nh ngời đọc vẫn chờ đợi, chí ít là ở phần cuối bài thơ một
cảm giác thơng thân, nh đã có ở Tì bà hành hay Qua Đèo Ngang chẳng hạn.
Vậy mà không. Điều đó không hề xảy đến. Ta chỉ gặp trong bài thơ hình ảnh của một
con ngời quên đi nỗi đau khổ tột độ của riêng mình, để trìu mến từng cánh chim trời, từng
dáng mây trôi, để nặng tình thơng cho một kiếp sống cần lao hay chia sẻ với những niềm
vui rất đỗi bình dị của những ngời dân mà Bác không hề quen biết.
7
Đó quả là Những vần thơ quên mình của một bậc đại nhân, một con ngời sống nh trời
đất.
Đề 3: Chữ hồng ở cuối bài vẫn đợc coi nh là nhãn tự, là con mắt thơ của cả bài thơ.
Hãy viết một đoạn văn để bình về cái hay của chữ đó.
Có thể tham khảo sự phân tích của nhà thơ Hoàng Trung Thông trong đoạn viết dới
đây:
Đó là một bài thơ tứ tuyệt, một thể thơ khó làm, nhất là khó làm cho ra Đờng. Câu đầu
nói về con chim đi xa mỏi mệt về chiều đang tìm chốn ngủ (tác giả cũng thế thôi, bị giải
đi, chiều đến rồi cũng mong có chỗ nghỉ). Chòm mây giữa từng không, chòm mây che mặt
trời cũng uể oải mệt mỏi nh thế, cũng muốn tìm chỗ trú chân (ở chân trời ?!). Còn cô em
trong xóm núi (có biết xóm núi thì mới hay cánh chim mỏi và mây trôi) thì đang xay ngô,
một công việc thủ công cũng rất là nặng nhọc, và cô em cứ xay hoài cho đến khi hết, cũng
vừa lúc đó, lò than đã đỏ (báo hiệu bữa cơm chiều). Tất cả ba câu thơ trên đều miêu tả sự
mệt mỏi, vội vã, nặng nề. Giá nh chỉ dừng lại ở đó thì nhà thơ Hồ Chí Minh của chúng ta
không khác gì nhà thơ Liễu Tông Nguyên đời Đờng với bài thơ Giang tuyết hết sức tĩnh,
mở đầu bằng câu Thiên sơn điếu phi tuyệt và kết thúc bằng câu Độc điếu hàn giang
tuyết , nghĩa là một bài thơ lẻ loi quá chừng, lạnh lẽo quá chừng ! Nhng Hồ Chí Minh rất
Đờng mà lại không Đờng một tí nào ! Với một chữ hồng, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ
bài thơ, đã làm mất đi sự mỏi mệt, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu
đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ hồng trong
nghệ thuật thơ Đờng ngời ta gọi là con mắt thơ (thi nhãn), hoặc là nhãn tự (chữ mắt),
nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mơi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy
đi chăng nữa.
Đề 4: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại qua bài Chiều tối của Hồ Chí Minh. (Xem đề số 18 câu
3 trong phần đề thi và đáp án.)
Tảo giải
Yêu cầu
1. Phải thấy đợc Tảo giải là mẫu mực của sự kết hợp hài hoà giữa thép và tình, phẩm
chất chiến sĩ và cốt cách thi sĩ trong thơ Hồ Chí Minh.
2. Thấy đợc sự tinh tế, vẻ đẹp tâm hồn cũng nh tinh thần lạc quan, tin tởng vào tơng lai
tơi sáng của Bác.
Kiến thức cơ bản
1. Tảo giải là chùm thơ gồm 2 bài (bài 41 và 42) trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí
Minh. Cảm hứng của bài thơ đợc hình thành trên đờng chuyển lao: từ nhà lao Long
An đến nhà lao Đồng Chính. Trong thơ cổ điển, hiện tợng một chùm thơ gồm nhiều
bài khá phổ biến. Tảo giải gồm 2 bài vừa có vị trí độc lập, vừa bổ sung ý nghĩa cho
nhau khi đứng chung dới một nhan đề.
Bài thơ vừa có ý nghĩa tả thực về một cuộc chuyển lao, vừa thể hiện phẩm chất tâm hồn
cao đẹp của ngời tù, chiến sĩ, nghệ sĩ Hồ Chí Minh.
2. Bài I. Chất thép - t thế chiến sĩ.
a) Hai câu đầu:
8
Nhất thứ kê đề dạ vị lan
Quần tinh ủng nguyệt thớng thu san
Là bút pháp gợi tả: dùng tiếng gà gáy và những ngôi sao trên bầu trời để diễn tả thời gian
ngời tù bị giải đi từ lúc còn rất sớm. Những câu thơ thứ nhất giản dị nh một thông báo, nh
không hề bị ám ảnh bởi cái tối tăm, giá lạnh. Thiên nhiên ở câu thơ thứ hai lại sinh động,
quây quần làm thành ý thơ đẹp. Cả hai câu thơ thể hiện nghị lực và tâm hồn thơ tinh tế,
nhạy cảm với cái đẹp của Hồ Chí Minh (vì thông thờng thơ viết trên đờng đi đày, viết về
những cuộc ra đi trong khuya khoắt, sớm hôm thờng dễ hiu quạnh).
b) Hai câu sau:
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thợng
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
Cho thấy cái gian khổ của ngời tù trên đờng chuyển lao, vừa cho thấy t thế của một chiến
sĩ, đối mặt với phong ba, đạp trên gian khó, lên đờng vì đại nghĩa.
Bản dịch thơ đã bỏ mất một chữ trận, dịch cha sát ý nghênh diện của nguyên tác,
làm giảm mất cái khắc nghiệt của thời tiết, sai lệch t thế của ngời đi.
c) Cả bài I, viết về cuộc giải tù trong đêm tối, gió lạnh. Nhng ngời đọc không thấy cái
cô đơn, hiu quạnh, không thấy bóng dáng ngời tù, chỉ thấy t thế một ngời chiến sĩ
bình tĩnh, chủ động, lên đờng với trăng sao bầu bạn. Nó thể hiện chất thép Hồ Chí
Minh - chất thép của tâm hồn ung dung, thanh thản, chủ động vợt lên hoàn cảnh,
làm chủ hoàn cảnh.
3. Bài 2. Tâm hồn lãng mạn - thi sĩ.
a) Hai câu đầu:
Đông phơng bạch sắc dĩ thành hồng
U ám tàn d tảo nhất không
Là một bức tranh thiên nhiên đẹp với màu sắc tơi tắn, rực rỡ, ấm áp của chân trời lúc
rạng đông. Đến đây thiên nhiên đã có sự chuyển biến rất mau lẹ nhờ cụm từ dĩ thành
hồng và tảo nhất không nhng bản dịch đã không thể hiện đợc hết.
b) Hai câu sau:
Noãn khí bao la toàn vũ trụ
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng
Vẻ đẹp ấm áp của thiên nhiên đất trời lúc rạng đông đã làm cho hồn thơ của Hồ Chí
Minh bỗng thêm nồng nàn. Bác đã quên đi cảnh ngộ của mình để thởng ngoạn vẻ đẹp tinh
khôi của đất trời lúc rạng đông.
c) Bốn dòng thơ là bức tranh thiên nhiên tơi sáng, ấm áp, rực rỡ. Nó cho thấy tâm hồn
dạt dào thi hứng, tràn đầy tinh thần lạc quan, tin tởng vào tơng lai tơi sáng.
4. Tảo giải là mẫu mực của sự kết hợp hài hoà giữa thép và tình, phẩm chất chiến
sĩ và cốt cách thi sĩ trong con ngời Hồ Chí Minh. Mang nhan đề Tảo giải mà bài
thơ có âm hởng của một khúc hát lên đờng.
Định hớng đề, gợi ý giải
Đề 1: Phân tích bài thơ Tảo giải (Giải đi sớm) của Hồ Chí Minh (Nh hớng dẫn phân
tích)
9
Đề 2: Vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh qua bài thơ Tảo giải (Giải đi sớm).
Cần nêu đợc các ý cơ bản sau đây:
a) Giới thiệu khái quát về:
Tác giả
Vị trí của bài thơ trong tập Nhật kí trong tù
Nội dung cần phân tích
b) Vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh qua bài thơ:
Tâm hồn ung dung, thanh thản (không bận lòng vì đêm tối, gió lạnh), luôn hớng tới
những tơi vui của cuộc sống.
Tâm hồn nồng nàn tha thiết với đất trời, dạt dào cảm xúc thi ca.
Tâm hồn luôn hớng về tơng lai với một niềm tin khoẻ khoắn, một cảm quan lịch sử
tơi sáng.
c) Đánh giá:
Bài thơ Tảo giải mà không thấy ngời tù, không thấy bọn lính áp giải. Chỉ thấy một
ngời mở rộng tâm hồn giao hoà với thiên nhiên, dõi theo những vận động tơi vui của
cuộc sống.
Nó là sự kết hợp hài hoà của vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ với cốt cách chiến sĩ trong con
ngời Hồ Chí Minh.
Đề 3: Đã từng có nhiều cố gắng đi tìm ý nghĩa tợng trng của câu thơ: Chòm sao đa
nguyệt vợt lên ngàn. Có ngời cho trăng ở đây tợng trng cho Bác, còn sao là hình ảnh bọn
lính giải tù. Lại có ngời cho trăng là lãnh tụ, còn sao là quần chúng. ... Bao nhiêu vì sao
nhỏ đang công kênh ánh nguyệt, phải chăng là quần chúng giác ngộ đang ủng hộ ngời dẫn
đờng ?
Anh (chị) cho biết phải hiểu thế nào mới đúng ?
Về ý kiến thứ nhất: Sao, dẫu cho có quan niệm là nhỏ hơn trăng và bé li ti chăng
nữa, thì vẫn là hình ảnh thơ đẹp đẽ và cao quí, không thể dùng để chỉ bọn lính giải
tù.
Về ý kiến thứ hai: Cần chú ý rằng đây là bài thơ của Bác, và Bác Hồ, nh chúng ta đã
biết, không hề quan niệm nh thế về quan hệ giữa quần chúng và lãnh tụ.
Vậy thì trăng, sao và cả rặng núi mùa thu nữa, đều chỉ nên coi nh là hình ảnh của thiên
nhiên. Một cách hiểu nh thế không hề làm cho bài thơ kém phần ý nghĩa (bởi không thể
nói bài thơ đã bị mất đi cái ý nghĩa mà nó vốn không hề có). Ngợc lại, cách hiểu ấy sẽ trả
lại cho bài Giải đi sớm này một nét thơ mộng mà sự suy diễn không hợp lý trên đã làm cho
bị mờ đi. Cách hiểu ấy cũng đem lại ấn tợng về một thiên nhiên cũng đang lên đờng cùng
với sự lên đờng của con ngời nơi mặt đất. Một hòa điệu lớn lao và đẹp lạ thờng !
Đề 4 . Câu cuối cùng của bài thơ thứ nhất cũng có nhiều cách hiểu trái ngợc nhau. Có ý
kiến nói rằng câu thơ cực tả cảm giác lạnh lẽo, gian khổ mà con ngời gặp trên những dặm
đờng ngợc gió. Lại có ý kiến nói rằng câu thơ phác họa một t thế đầy kiêu hãnh: ngẩng mặt
đón gió thu.
10
Anh (chị) cho biết phải hiểu thế nào mới đúng ?
Không cách nào trong hai cách hiểu trên hoàn toàn có lí
Quá nhấn mạnh cảm giác cơ cực, khổ đau trớc làn gió rát của mùa thu thì sẽ mâu
thuẫn với một thái độ hoàn toàn chủ động, ung dung mà ta đã thấy trong câu trớc (dĩ
nhiên là thấy qua nguyên tác và lời dịch nghĩa rõ hơn nhiều so với qua bản dịch
thơ).
Ngợc lại, nếu khuyếch đại t thế kiêu hãnh ngẩng mặt lên đón gió e không hợp với
phong cách của Bác Hồ vốn là ngời không thích khoa trơng. Vả chăng, cách hiểu
này cũng không đúng với kết cấu ngữ pháp của dòng thơ (theo đó, phải hiểu là gió
thu đón lấy mặt chứ không phải là mặt đón lấy gió thu).
Vì thế, nên chỉ cảm nhận ở đây những gì mà lời chữ và tinh thần của câu thơ cho phép.
Dòng thơ ấy nói lên nỗi khổ ải mà chinh nhân đã phải chịu đựng trên những dặm chinh đồ:
Gió thu, hết trận này đến trận khác, quất ngợc sự giá buốt vào mặt ngời đi. Thiên nhiên
đem đến những thử thách gian nan, nhng không làm nản chí sờn lòng con ngời đang vững
bớc.
Đề 5. Phân tích chữ nồng đợc dùng để kết thúc chùm thơ. Tại sao tác giả không nói cảm
hứng tràn trề, lai láng... mà lại nói: - thi hứng bỗng thêm nồng ?
Đúng là ngời ta thờng hay nói cảm hứng thơ tràn trề, lai láng. Nhng trong trờng hợp này,
những chữ tràn trề, lai láng không thể thay thế nổi và cũng không thể so sánh nổi với chữ
nồng. Là bởi ở trên, tác giả đang nói đến một vũ trụ hân hoan dới làn hơi ấm. Mà chữ nồng
cũng gợi ra sự ấm áp. Nh vậy, cái đang bao trùm lên thiên nhiên thì đồng thời cũng dâng
đầy ở lòng ngời. Phải là chữ nồng ấy thì mới có thể đem đến cho ta cảm giác về sự hài hòa,
giao cảm giữa tiểu vũ trụ - tự nhiên. Và thi hứng trong lòng ngời. Do đó, cũng tơng ứng,
cộng hởng, hòa đồng với thi hứng trong lòng trời đất.
Đề 6. Tìm một vài câu văn, câu thơ nói đến tơng lai trong văn học từ đầu những năm 30
đến cách mạng tháng Tám 1945. Từ đó, anh (chị) thấy dự cảm tơng lai của Bác Hồ trong
chùm thơ Giải đi sớm có gì độc đáo ?
Có thể nghĩ đến câu quen thuộc nhất, ví nh:
Trời tối đen nh mực và nh cái tiền đồ của chị
(Ngô Tất Tố - Tắt đèn)
Dễ thấy cảm hứng của Bác Hồ gần gũi với cảm hứng của nhà thơ cách mạng Tố Hữu và
đối lập với ý tởng bi quan của Ngô Tất Tố, vào lúc bấy giờ còn cha phải là nhà văn cách
mạng. Sự khác nhau ở đây là sự khác nhau giữa hai ý thức hệ, hai quan niệm về xã hội -
nhân sinh, giữa cách mạng và không cách mạng. Nó cho thấy chỉ các nhà cách mạng mới
có khả năng nhìn nhận đúng tơng lai.
Tuy nhiên, cách cảm xúc về tơng lai của Bác Hồ, so với các thi nhân cách mạng khác,
cũng có những nét riêng. Bác nói đến tơng lai nh nó đã là hiện tại. Cái mà nhà thơ khác quả
quyết là sẽ đến thì Bác lại nh đang chứng kiến đợc rồi. Phải là ngời nắm rất chắc qui luật
vận động của lịch sử mới có thể có một thi hứng có tính chất tiên cảm, tiên tri nh thế.
Đề 7. Ngời ta vẫn thờng nói, Nhật kí trong tù tỏa ánh sáng của một trí tuệ lớn, một tâm
hồn lớn và một dũng khí lớn. Chứng minh rằng, một ánh sáng nh thế cũng có thể nhận thấy
từ chùm thơ Giải đi sớm này.
11
Bài làm nêu gồm các ý:
Giải đi sớm tỏa ánh sáng của một trí tuệ lớn. Trí tuệ ấy lớn lao tới mức đã có thể vợt
khỏi hiện tại để từ trong bóng tối dày đặc của hôm nay nhìn ra ánh sáng của ngày
mai.
Giải đi sớm tỏa ánh sáng của một tâm hồn lớn. Tâm hồn ấy bao la nh trời đất, chứa
đầy vẻ đẹp vô tận của tạo vật, của trăng sao, hòa cảm với mọi rung động trong vũ
trụ.
Giải đi sớm tỏa ánh sáng của một dũng khí lớn. Dũng khí lớn ấy đã có thể làm cho
con ngời ung dung trớc thử thách của thiên nhiên khắc nghiệt và của những gian
khổ ở đờng đời, cảm thấy tinh thần thực sự ở ngoài lao dẫu thân thể còn ở trong
vòng xiềng xích.
Yêu cầu
1. Hiểu đợc hoàn cảnh sáng tác của bài thơ và tình cảm cao đẹp, nghị lực phi thờng
của Hồ Chí Minh.
2. Thấy đợc những nét phong cách phong phú đa dạng của thơ Hồ Chí Minh:
Cổ điển và hiện đại
Hiện thực và tợng trng
Thép và tình
Kiến thức cơ bản
1. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ đợc in vào cuối tập Nhật kí trong tù nhng thực ra nó đợc làm ngoài nhà
tù. Đây cũng không phải là bài thơ kết thúc tập Nhật kí trong tù.
Hoàn cảnh sáng tác: ra khỏi nhà tù Tởng Giới Thạch sau 13 tháng bị giam cầm,
sức khoẻ giảm sút, Bác tập đi, tập leo núi rèn luyện sức khoẻ để tiếp tục hoạt
động cách mạng. Một lần leo núi, lên đến đỉnh Tây Phong Lĩnh, bác sung sớng
bồi hồi viết bài thơ này.
Cần lu ý rằng: Nếu tất cả bài thơ khác trong Nhật kí trong tù đều đợc dịch và
công bố vào năm 1960 thì Tân xuất ngục-học đăng sơn đã đến với các đồng
chí Trung ơng ngay lúc đó. Nó đợc gửi về cùng một tờ báo tiếng Trung Quốc có
ghi mấy dòng ngụ ý nhắn tin của Bác Chúc ch huynh ở nhà mạnh khoẻ và cố
gắng công tác, ở bên này vẫn bình yên.
2. Hai câu thơ đầu:
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm nh kính tịnh vô trần
Tả cảnh thiên nhiên: Bức tranh sơn thuỷ hữu tình, hài hoà, cân xứng, màu sắc tơi sáng,
đẹp vẻ đẹp cổ kính. Nó gợi nhớ cảnh thiên nhiên trong các bài thơ Đăng sơn, Cảnh khuya,
Đi thuyền trên sông Đáy
12
Hai câu thơ nói lên tâm hồn khoẻ khoắn, trong sáng, đôn hậu của nhà thơ khi nhìn cảnh
vật.
Giang tâm nh kính tịnh vô trần tả cảnh đẹp của lòng sông trong sáng, thanh khiết nhng
cũng còn có ý nghĩa ngụ tình. Đó chính là tấm lòng trong sáng, thanh bạch, không vơng
bụi của Hồ Chí Minh suốt mời ba tháng trong tù.
3. Hai câu thơ sau:
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân
Trực tiếp nói về tâm trạng nhà thơ: nỗi lòng với đất nớc quê hơng, tình bạn bè đồng chí
cảm động, cao đẹp.
Lên núi nhớ bạn là một đề tài quen thuộc của thơ ca cổ điển. Ngời ta lên núi nh một thi
sĩ, có ngời lên núi nh một ẩn sĩ. Hồ Chí Minh không rơi vào những trờng hợp này. Bác lên
núi là để hoạt động rèn luyện thân thể. Độc bộ là từ hay diễn tả đợc công việc nặng nhọc
âm thầm, kiên nhẫn của Bác cũng nh bồi hồi diễn tả đợc nhiều tâm trạng.
4. Bản dịch của Nam Trân hay, khá sát nghĩa. Tuy nhiên, dòng đầu dịch là Núi ấp ôm
mây đã làm sai lệch chỗ đứng, điểm nhìn của nhà thơ. Bụi không mờ không
đúng tinh thần của nguyên tác tịnh vô trần.
5. Mới ra tù tập leo núi là một bài thơ đặc sắc cho thấy t thế cao cả, ung dung của một
thi sĩ trớc thiên nhiên bao la, vẻ đẹp của một chiến sĩ giàu nghị lực và lòng yêu Tổ
quốc, yêu đồng bào.
Định hớng đề, gợi ý giải
Đề 1: Phân tích bài thơ Mới ra tù tập leo núi của Hồ Chí Minh.
(Xem gợi ý phân tích ở phần II)
Đề 2:
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
(Núi ấp ôm mây, mây ấp núi)
Câu đầu tiên này của bài thơ, nhất là khi đọc theo nguyên tác, gợi cho anh (chị) nhớ tới
câu thơ nào của Bác Hồ đã đợc học trong các tiết giảng văn ? Từ đó, anh (chị) có nhận xét
gì về sự rung động và cách miêu tả thiên nhiên của Bác ? Hãy cố gắng tìm thêm ví dụ để
làm rõ hơn nhận xét của anh (chị).
Gợi ý:
Câu thơ ấy chắc chắn sẽ gợi nhớ đến câu thơ cũng mong chữ ủng:
Quần tinh ủng nguyệt thớng thu san
(Chòm sao ôm ấp vầng trăng và cùng nhau vợt lên rặng núi thu).
Những câu thơ cho thấy Bác luôn nhận ra sự quấn quýt, hòa điệu trong thiên nhiên, trong
vũ trụ. Đấy là cái nhìn của một con ngời, giữa muôn vàn lao khổ vẫn không thôi trìu mến
cuộc đời. Đấy cũng là cái nhìn của con ngời làm chủ hoàn cảnh, hòa hợp cùng hoàn cảnh.
13
Một cách nhìn thiên nhiên nh thế, ta sẽ còn gặp trong nhiều câu thơ khác nữa. Ví dụ
nh:
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa
(Cảnh khuya)
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên (Sông xuân nớc lẫn màu trời thêm xuân)
(Rằm tháng giêng)
Sao đa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo
( Đi thuyền trên sông Đáy)
Đề 3. Câu thứ hai của bài thơ có bản dịch là:
Lòng sông gơng sáng bụi không mờ
Theo anh (chị), vì sao Bác lại viết là lòng sông chứ không phải dòng sông ?
Cũng theo anh (chị), dịch là bụi không mờ thì có đúng với nguyên bản hay không ? Vì
sao ? Nếu hiểu thật đúng theo nguyên bản thì câu thơ nói với ta những ý tứ đẹp đẽ gì ?
Gợi ý:
a) Bác không viết dòng sông mà viết lòng sông, có thể bởi:
Một cách viết nh thế biểu hiện rõ hơn cảm giác thẳm sâu của sông, trong một cái
nhìn từ trên cao xuống.
Mặt khác cũng phải viết nh thế thì sông mới có thể là hình ảnh của một tấm lòng.
Một nhà thơ Đờng từng ví mình nh một mảnh lòng băng trong bình ngọc. Lòng
Bác Hồ cũng trong trắng thế. Nhng lòng Bác Hồ lớn lao hơn nhiều nh thế. Vì đó là
cả một lòng sông gơng sáng đang tự giãi bày dới trời mây.
b) Bụi không mờ là còn có bụi. Nó trái với tịch vô trần là tuyệt nhiên không chút bụi
mờ. Lời dịch ấy có phần ngợc với tinh thần văn bản. Câu này, T.Lan dịch đúng hơn
nhiều:
Lòng sông sạch chẳng mảy may bụi hồng
Hiểu câu thơ đúng với tinh thần nguyên tác, ta sẽ thấy:
Hình ảnh một thiên nhiên trong sáng tuyệt vời
Hình ảnh một cõi thanh tao, cao khiết nơi con ngời, nh một bậc tiên khách, cảm
thấy mình đã lâng lâng rũ sạch bụi trần, vợt cao hơn hẳn chốn tầm thờng, ô trọc.
Hình ảnh một tấm lòng tuyệt đối sạch trong.
Đề 4. Chứng minh rằng Bác Hồ, ngay trong tập Nhật kí trong tù, vẫn coi mình là khách
tự do, khách tiên, sánh ngang với tiên khách trên trời rộng.
Còn ở bài Mới ra tù tập leo núi này, Bác không hề dùng chữ tiên khách hay tự do nhân
(ngời tự do), vậy mà vẫn thấy - nhất là câu thứ ba - tràn đầy khí vị tiên phong đạo cốt. Vì
sao vậy ?
Gợi ý:
14
a) Có thể lấy dẫn chứng từ các câu nh:
Mây ma mây tạnh, bay đi hết, Còn lại trong tù khách tự do (Vào nhà lao huyện Tĩnh
Tây)
Tự do tiên khách trên trời, Biết chăng trong ngục có ngời khách tiên. (Quá tra)
b) Mới ra tù tập leo núi không có những chữ nh tiên khách, nh khách tự do nh trong hai
bài thơ vừa dẫn. Nhng nó đã vẽ ra một thế giới lâng lâng, cao khiết, nh chỉ dành cho
các bậc khách tiên, và con ngời dạo bớc ung dung trong thế giới ấy còn có thể là ai,
nếu không phải là tiên khách, là bậc đạo cốt tiên phong ?
Đề 5: Câu thơ cuối cùng đọc lên theo nguyên tác, sẽ thấy có một âm điệu nghe rất thích:
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân
Có ngời từ câu thơ này đã liên tởng đến những câu thơ có từ thời Đờng Tống:
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ
(ở nơi xa cũng biết nơi anh em đang lên cao đấy)
Vơng Duy, thi sĩ đời Đờng
Vọng mĩ nhân hề thiên nhất phơng
(Nhớ ngời quân tử ngóng trong bên trời)
Tô Đông Pha, thi sĩ đời Tống, lời dịch của Phan Kế Bính
Sự liên tởng ấy có ý nghĩa gì không ?
Sự liên tởng đó làm cho nỗi bồi hồi trong hai câu thơ càng trở nên vô hạn vì trong nó nh
hiện về, nh mơ màng đồng vọng tiếng lòng nhớ tri kỷ của các thi nhân trên dới nghìn năm
trớc.
Đề 6: Bàn về chất thép của Nhật kí trong tù, Hoài Thanh nêu ý kiến:
... Khi Bác nói trong thơ nên có thép, ta cũng cần phải hiểu thế nào là chất thép ở trong
thơ. Có lẽ phải hiểu rất linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép,
mới là có tinh thần thép.
Bài làm nên nêu các ý:
a) Mới ra tù tập leo núi không hề có chữ thép, càng không hề lên giọng thép.
b) Nhng dù có thế, hay đúng hơn, chính vì thế, mà bài thơ mang chất thép tuyệt vời. Là
bởi:
Chữ thép ở đây đợc dùng để chỉ sức mạnh của tinh thần.
Một hoàn cảnh khó khăn nh của Bác Hồ lúc ấy, phải có một tinh thần gang thép
mới có thể vợt qua. Nhng ngời ta, nếu có thể vợt qua, thì hẳn sẽ phải coi sự vợt
qua đó xứng đáng là một chiến công lớn lao, đáng để mình kiêu hãnh.
Chất thép trong con ngời Bác phi thờng chính vì Bác đã vợt qua những gian khổ
phi thờng đến thế mà vẫn ung dung nh không, vẫn không tỏ ra phải có một cố
15
gắng nào, không cần vận dụng đến một sức mạnh đặc biệt nào. Vì thế, càng
không lên giọng thép, bài thơ càng mang chất thép.
Tâm t trong tù
Mục đích yêu cầu:
Qua Tâm t trong tù của Tố Hữu, cảm nhận đợc một phơng diện rất đẹp của tâm
hồn ngời cách mạng trẻ tuổi: gắn bó với cuộc đời bằng những tình cảm thiết tha
trong sáng. Đồng thời hiểu đợc, từ những lời thơ chân thật của Tố Hữu cuộc sống
quanh thật vô cùng giản dị và quen thuộc, nhng khi thiếu vắng và xa cách nó mới
thấy đẹp biết bao, quý biết bao.
Cảm nhận đợc tâm hồn tinh tế của nhà thơ khi lắng nghe những âm thanh của cuộc
sống hàng ngày; thấy đợc khả năng của thơ ca, từ những chi tiết rất khó cũng đã tạo
ra đợc những hình ảnh, những vần điệu có sức lay động lòng ngời.
Bài thơ gồm 3 phần: Phần thứ nhất (từ câu 1 đến câu 24); cuộc sống bên ngoài nhà
tù đợc gợi lên từ những âm thanh và tài tởng tợng của nhà thơ. Phần thứ hai (từ câu
tiếp theo đến câu 36): cuộc biện luận bên trong của nhà thơ về mối quan hệ thống
nhất giữa hoàn cảnh và số phận nhân dân trong xã hội. Phần ba (đoạn còn lại) là lời
hứa quyết tâm giữ gìn sự trong sáng của lơng tâm cách mạng và tinh thần chiến đấu
đến cùng cho lý tởng.
Trong quá trình ôn tập bài này, học sinh cần nắm vững phần thứ nhất (từ đầu đến câu:
Hớng tự do thơm ngát cả ngàn ngày) đây là phần kết tinh nghệ thuật đặc sắc nhất của bài
thơ, phần còn lại chỉ yêu cầu đọc thêm.
Kiến thức cơ bản
I. Về tác giả Tố Hữu, tập thơ Từ ấy và hoàn cảnh ra đời của bài thơ Tâm t trong
tù.
Tác giả Tố Hữu: (chỉ nắm nhận xét chính liên quan đến tác phẩm) ông sinh năm
1920 tại Thừa Thiên Huế, thuở nhỏ học trờng Quốc học Huế. Bớc vào tuổi thanh
niên Tố Hữu đã có sự gặp gỡ may mắn và đẹp đẽ với lí tởng cách mạng. Đợc lôi
cuốn vào phong trào đấu tranh, trở thành ngời lãnh đạo chủ chốt của Đoàn thanh
niên Dân chủ ở Huế. Cũng thời kỳ này ông bắt đầu làm thơ. Con đờng thơ ca của
Tố Hữu gần nh đồng thời với con đờng hoạt động cách mạng.
Tập thơ Từ ấy bao gồm các sáng tác trong khoảng 10 năm (từ 1937- 1946) của
Tố Hữu. Từ ấy ghi lại khoảnh khắc đẹp đẽ nhất, ấn tợng sâu đậm nhất của một
tâm hồn trẻ khao khát lẽ sống đã gặp ánh sáng của lý tởng và quyết tâm dâng
hiến cuộc đời mình cho lý tởng ấy.
Từ ấy đã đa đến cho cuộc đời một kiểu ngời, một mẫu ngời mới: Mẫu ngời đợc chân lý
soi sáng, sống có ý thức, có mục đích, tâm hồn phong phú đậm đà, gắn bó với tập thể nhng
không tan biến vào số đông vẫn là tôi.
Hoàn cảnh hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên ở Huế từ năm 1938,
vào Đảng năm đó. Giai đoạn này, Tố Hữu làm nhiều thơ lu truyền trong học sinh
sinh viên, tạo ra đợc một d luận tốt. Tố Hữu bị theo dõi và tháng 4/1939 bị mật
thám Pháp bắt và giam ở nhà lao Thừa Thiên.
16
Đọc những dòng cuối cùng ghi phía dới bài thơ: Xà lim số 1, lao Thừa Thiên 29/4/1939,
ta biết đợc địa điểm, thời gian cụ thể tác giả đã viết bài thơ. Nhng địa điểm và thời gian ấy
còn nói với ta nhiều điều khác nữa. Khi viết bài thơ này, Tố Hữu còn rất trẻ - một chàng
trai còn rất trẻ, lòng đầy nhiệt huyết, tuổi 20 là tuổi bùng nổ của những ớc mơ và khát
vọng, của niềm tin tởng say mê và bồng bột, đậm màu sắc lãng mạn. Bài thơ ghi lại những
cảm xúc, tâm trạng của tuổi trẻ ấy, tâm hồn ấy khi đột ngột bị ném vào bốn bức tờng ngục
tối, chịu cảnh tù đầy. Bị tù đày trên chính quê hơng, khi ngoài kia là bạn bè, là phong trào
cách mạng, là tất cả cỏ cây và đất trời quen thuộc
II. Phân tích
1. Phần 1
Khi đứng lại sau cánh cửa xà lim khép chặt, có lẽ thấm thía nhất, ấn tợng
nhất trong lòng ngời tù là nỗi cô đơn. ở ngời tù trẻ tuổi này cũng vậy, phần
đầu bài thơ tập trung khắc họa tâm trạng cô đơn bằng một bút pháp lãng mạn
đặc sắc.
Cô đơn thay là cảnh thân tù !
Một tiếng kêu than nh vậy đứng đầu hai khổ thơ liên tiếp, cho ta hiểu ngời tù đang rất cô
đơn. Càng cô đơn hơn khi mà ở ngoài kia là tiếng đời lăn náo nức; là vui sớng biết bao
nhiêu. một thế giới khác, một không gian khác hoàn toàn tơng phản.
Nếu so sánh với một ngời cùng cảnh ngộ là Hồ Chí Minh lúc bị giam trong nhà lao
của bọn Tởng Giới Thạch thì Tố Hữu lúc ấy cha có đợc cái bình tĩnh ung dung của
tác giả Nhật ký trong tù. Tuy nhiên, điều đó cũng thật dễ chấp nhận khi ta đi vào
tìm hiểu nguyên nhân của tâm trạng này.
Tuổi hai mơi là tuổi của ớc mơ và khát vọng, lòng phơi phới yêu đời, bao nhiêu dự
định, bao nhiêu hoài niệm, bao nhiêu bạn bè thân từng ngày vui chung, đồng chí
anh em kề vai chiến đấu.Thế mà nay, trái tim trẻ trung đó bị giam vào bốn bức t -
ờng, tách biệt, cách ly hẳn với đời sống. Vì vậy mà nó cảm thấy cô đơn, cái cô đơn
của một con ngời bị tách khỏi cuộc sống sôi nổi, chứ không phải cái cô đơn của con
ngời bế tắc, không tìm thấy sự xẻ chia trong đồng loại. Chính vì vậy, cảm giác cô
đơn ở đây cũng phần nào thể hiện sự gắn bó tha thiết với cuộc sống, với cuộc đời và
với phong trào cách mạng.
Nỗi cô đơn trong cảm xúc lại đợc không gian nhà tù ảm đạm, với lạnh lẽo của t-
ờng vôi khắc khổ và sàn lim manh ván ghép sầm u làm tăng thêm.
Hoàn cảnh này dễ dẫn lòng ngời đến chỗ chán nản, chìm đắm trong nỗi cô đơn của
mình. Nhng không phải, lòng chàng thi sĩ trẻ vừa bị tách ra khỏi cuộc đấu tranh, dẫu
có cô đơn nhng vẫn ngập tràn niềm hớng vọng về cuộc đời, yêu cuộc đời bằng một
tình yêu mãnh liệt. Đọc kỹ cả mấy đoạn thơ ta thấy có cảm giác cô đơn nhng hình t-
ợng vững chắc nhất, nổi bật nhất trong hai khổ thơ lại là hình tợng ngời trai trẻ.
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Mở rộng và lắng nghe - hai hành động đi cùng với nhau, nó thể hiện tình yêu mãnh
liệt của ngời tù với cuộc sống bên ngoài.
Trong hoàn cảnh này, phơng diện duy nhất để tiếp xúc với cuộc sống bên ngoài là
thính giác, vì cuộc sống bên ngoài dội vào bằng một lối duy nhất là những âm thanh
vọng qua lỗ cửa nhỏ, của gian xà lim: 9 động từ nghe lặp đi lặp lại trong 24 câu thơ
17
động của đời. Trong bài thơ này, cảm xúc thính giác đã đợc huy động một cách tối
đa. Bằng sự lắng nghe hết mình, thi sĩ đã lắng nghe đợc những âm thanh rất giản dị
của đời sống bên ngoài.
Khổ thơ thứ 2 và thứ 3 diễn tả cụ thể những gì anh đã nghe. ở khổ thơ thứ 2
Tiếng chim:
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Không phải một tiếng chim đơn lẻ mà là một tiếng chim reo trong gió mạnh lên triều,
hình ảnh thơ thật mạnh mẽ và dữ dội. Tiếng chim reo trong gió mạnh chính là biểu tợng
niềm khát khao tự do một cách mãnh liệt trong lòng tác giả.
Tiếng dơi:
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Tiếng dơi vội vã đập cánh trong chiều gợi nên vẻ đẹp thi vị và gợi nhiều nỗi niềm xao
xác.
Tiếng lạc ngựa:
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Câu thơ thể hiện sự tinh tế nhạy cảm và sức mạnh của tởng tợng: Từ một tiếng lục lạc
vang lên nhà thơ hình dung thấy chú ngựa thấm lạnh cuối ngày, đứng bên giếng rùng mình
rất khẽ, từ cái rùng mình đó làm rung lên một tiếng lục lạc. Câu thơ cũng hàm chứa tâm
trạng ngời viết: Thấm thía cái lạnh của sự cô đơn.
Tiếng guốc:
Dới đờng xa nghe tiếng guốc đi về
Đây là âm thanh duy nhất gần gũi với con ngời, mang hơi hớng con ngời. Câu thơ không
có chút dụng công nghệ thuật gì nhng lại có sức lay động lớn. Nó gợi lên không khí vắng
vẻ của một đờng phố cạnh nhà lao. Có vắng vẻ thì tiếng guốc mới vọng lên nh thế. Có thể
hình dung những bớc chân đi qua, xa dần theo tiếng guốc nhỏ dần vọng lại, rồi có những b-
ớc chân trở vềTiếng guốc là biểu tợng của cuộc đời bình dị, của cuộc sống thờng ngày,
của những gì thân thơng về cuộc sống. Câu thơ bộc lộ một tấm lòng khát khao hớng về
cuộc sống, một tâm hồn nhạy cảm rung động trớc những âm thanh bình dị nhất của cuộc
đời.
Cùng thời gian này cũng có một thi sĩ lãng mạn trẻ có cái nghiêng tai kỳ diệu:
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng, dặm mòn lẻ loi
Tiếng chân ngời trong thơ của thi sĩ lãng mạn chỉ gợi lên sự chia lìa: nghe đi nên tất cả
đều là buồn, cô đơn chỉ thấy những chân xa vắng, chỉ thấy những dặm mòn lẻ loi. Bớc chân
ngời đợc cảm nhận qua tâm hồn ngời chiến sĩ cách mạng thì có cả đi và về, có ra đi mà
cũng có xum họp, đầm ấm thân thơng.
Trong 4 chi tiết trên hành động lắng nghe không chỉ hiểu theo nghĩa thông thờng, ở
đây tác giả còn nghe bằng cả tâm tởng, tởng tợng, bằng ký ức và bằng cả hoài
18
niệm Vì vậy, những gì nghe đợc vừa cụ thể, lại cũng rất mơ hồ, tính mơ hồ ngày
một tăng cao hơn trong khổ thơ thứ ba:
Tôi mơ hồ nghe tất cả bên ngoài
Đang ríu rít giữa một trời rộng rãi
Nhà thơ nói là nghe tất cả mà thực ra không nghe cụ thể một âm thanh gì, bởi tất cả
trong tâm hồn tác giả là một bản hòa âm về sự sống vui vẻ, hân hoan, đầy hạnh phúc thân
ái và phấn chấn.
Nghe gió xối trên cành cây ngọn lá
Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài
Cảnh vật trở nên rực rỡ, dạt dào, bừng nở và tơi sáng, vạn vật chan hòa trong cuộc sống
đầy mật ngọt:
Đang hút mật của đời cây hoa trái
Hơng tự do thơm ngát cả ngàn ngày
Đợc tận hởng đời cây hoa trái và hơng tự do thơm ngát trong thoáng chốc thôi, ngời
ta đã đủ hàm ơn cuộc sống, nhng ở đây lại là cả ngàn ngày - con số tợng trng cho sự vô
tận, vĩnh hằng. Hạnh phúc ấy lớn lao biết bao nhiêu, lại diễn ra trong hiện tại: đang hút
mật. Sự đối lập giữa cuộc đời và chốn lao tù dâng lên cao độ thể hiện khát vọng hớng về
cuộc đời, lớn lao đến khắc khoải của ngời chiến sĩ, thi sĩ trẻ tuổi.
2. Phần hai và ba:
Diễn tả sự chuyển biến trong tâm hồn tác giả: đang phiêu diêu theo những ảo t-
ởng của hồn ngây tâm hồn ấy đã trở về với thực tại, ngời tù đã đi đến nhận thức
sâu sắc về xã hội, về số phận cá nhân trong số phận muôn ngời:
Tôi chỉ một con chim non bé nhỏ
Vứt trong lồng con giữa một lồng to
Lồng con: chỉ nhà tù thực dân; lồng to chỉ chế độ thực dân đang đè nén, đọa đày, giam
hãm bao đồng bào đồng chí ở bên ngoài song sắt. Trong chế độ thực dân khi đó, không ai
đợc hởng tự do, thi sĩ chỉ là một giữa muôn ngời đau khổ, thì nỗi cô đơn nào có nghĩa gì.
Nhận thức đợc số phận cá nhân trong số phận muôn ngời, nhà thơ đồng thời cũng
nhận thức đợc vị trí của mình trong cuộc chiến đấu chung:
Tôi chỉ một con trong muôn ngời chiến đấu.
Để đi tới một lời thề hành động quyết liệt nh dao chém đá, không gì lay chuyển nổi.
Tôi cha chết nghĩa là cha hết hận
Nghĩa là cha hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc
Câu thơ cuối cùng: Có một tiếng còi xa trong gió rúc, nh một sự tập hợp, khái
quát ở cấp độ cao tất cả những tâm t tình cảm, mơ ớc, quyết tâm ở trên. Tiếng còi
nh một biểu tợng của tự do, tung hoành; tiếng còi ấy là tiếng còi xung trận, tiếng còi
tập hợp đội ngũ, tiếng còi mở ra một thế giới, một tơng lai tốt đẹp.
Định hớng ra đề và gợi ý giải:
19
Đề 1: Phân tích tâm trạng và cảm xúc của nhân vật trữ tình ngời thanh niên cách mạng
trong đoạn thơ sau ở bài Tâm t trong tù của Tố Hữu:
Cô đơn thay là cảnh thân tù
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
ở ngoài kia vui sớng biết bao nhiêu !
Đây âm u đôi ánh lạt ban chiều
(....)
Hơng tự do thơm ngát cả ngàn ngày
Gợi ý: Sử dụng toàn bộ nội dung phân tích phần một của bài thơ trong phần kiến thức cơ
bản ở trên.
Đề 2. Anh (chị) hãy phân tích hai câu thơ dới đây trong bài Tâm t trong tù của nhà thơ
Tố Hữu:
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dới đờng xa nghe tiếng guốc đi về
Gợi ý:
Đây có thể coi là hai câu thơ hay nhất trong bài thơ, thể hiện tâm hồn nhạy cảm tinh tế,
sức tởng tợng phong phú của nhà thơ.
Câu thơ đầu: Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh có âm thanh (tiếng lạc ngựa) có
hình ảnh (con ngựa rùng chân bên giếng) và có cả cảm giác về sự lạnh lẽo của một buổi
chiều buồn.
Câu thứ hai: Dới đờng xa nghe tiếng guốc đi về cũng nói đến âm thanh (tiếng guốc).
Âm thanh này nh gợi đợc vẻ vắng lặng, không khí lặng lẽ của thành phố Huế cổ kính. Vì
lặng lẽ nên tiếng guốc lúc xa, lúc gần mới vang vọng nh thế. Đó chính là biểu tợng quen
thuộc của cuộc sống thờng nhật.
Hai câu thơ trên khiến ngời đọc liên tởng đến hình ảnh của ngời thanh niên bị giam hãm
trong bốn bức tờng lạnh lẽo của nhà tù. Vì khao khát đợc tự do, gắn bó với cuộc sống, ngời
thanh niên này thấm thía nỗi buồn cô đơn tập trung trí lực chăm chú lắng nghe, đón nhận
tất cả những âm thanh của cuộc sống bên ngoài có thể lọt vào trong tù. Tình cảm thiết tha
chân thành cộng với sự tinh tế của tác giả khiến cho hai câu thơ có sức lay động tâm hồn
ngời đọc.
Tuyên ngôn độc lập.
Hoàn cảnh sáng tác của Tuyên ngôn độc lập
1. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân, Ngày 26 tháng
8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội.
Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang. Ngời biên soạn bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày
2.9.1945, tại quảng trờng Ba Đình, Hà Nội, Ngời thay mặt Chính phủ lâm thời nớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trớc hàng chục vạn đồng
bào.
20
2. Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: tuyên bố chấm dứt chế
độ thực dân, phong kiến ở nớc ta và mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do của dân
tộc. Tuyên ngôn Độc lập là một bài văn chính luận ngắn gọn, lập luận chặt chẽ đanh
thép, lời lẽ hùng hồn và đầy sức thuyết phục.
Kiến thức cơ bản
I. Giới thiệu chung
1. Thể loại: Khác Vi hành, Nhật ký trong tù, Tuyên ngôn độc lập thuộc loại văn chính
luận mẫu mực, nó thuyết phục ngời đọc bằng những lí lẽ đanh thép, những chứng cớ
không ai có thể chối cãi và hệ thống lập luận chặt chẽ.
2. Hoàn cảnh sáng tác
Tuyên ngôn độc lập đợc viết trong một hoàn cảnh đặc biệt khác thờng: Đất nớc đã giành
đợc độc lập nhng bọn đế quốc thực dân - đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le quay trở lại.
ở miền Nam, thực dân Pháp đợc sự hà hơi tiếp sức của quân đội Anh tiến vào Đông Dơng
với danh nghĩa đại diện phe Đồng minh vào giải giáp vũ khí phát xít Nhật. ở miền Bắc 20
vạn quân Tàu Tởng mợn oai của đế quốc Mỹ đang áp sát biên giới. Điều cực kỳ nguy hiểm
là chúng âm mu cớp lại đất nớc của chúng ta nhân danh phe Đồng minh chiến thắng với
chiêu bài: lấy lại mảnh đất bảo hộ đã bị bọn Phát xít nhật chiếm đóng trong chiến tranh.
Chúng ta nhất thiết phải chống Thực dân Pháp - một thành viên chủ chốt của phe Đồng
minh nhng lại nhất thiết không thể chống Đồng minh. Đây là một vấn đề cực trọng yếu và
cũng cực kỳ tinh tế đòi hỏi sự khôn khéo và sáng suốt và bản lĩnh của ngời lãnh đạo.
3. Đối tợng: Tuyên ngôn độc lập hớng tới không chỉ đồng bào trong cả nớc mà còn là
nhân dân trên thế giới, trớc hết là nhân dân tiến bộ ở Pháp và Mỹ. Nó không nhằm
chỉ khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn bao hàm một
cuộc tranh luận ngầm nhằm vạch trần luận điệu xảo quyệt của kẻ thù trớc công
luận.
4. ý nghĩa
Đây là một văn kiện lịch sử, chính trị hết sức quan trọng có ý nghĩa vô cùng to lớn. Văn
kiện ấy đã trang trọng tuyên ngôn về nền độc lập của tổ quốc Việt Nam sau ngót trăm năm
phải sống dới xiềng xích thực dân. Văn kiện ấy còn tuyên bố sự cáo chung của chế độ quân
chủ đã tồn tại mấy mơi thế kỉ.
Tuyên ngôn độc lập là lời tuyên bố trịnh trọng và hùng hồn về sự chấm dứt kỷ
nguyên bóc lột, áp bức và mở ra một kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc.
Tuyên ngôn độc lập là phát súng mở màn cho phong trào đấu tranh giải phóng ở các
nớc thuộc địa trên toàn thế giới.
II. Phân tích
1. Giá trị nội dung: Tuyên ngôn độc lập không những là văn kiện chính trị có ý nghĩa
lịch sử to lớn mà còn là tác phẩm văn học, là đỉnh cao của văn học chính luận trong
văn học Việt Nam.
Với t cách là một tác phẩm văn học chính luận thì Tuyên ngôn độc lập là áng
văn yêu nớc lớn của thời đại, là tác phẩm chứa đựng t tởng nhân văn: (Yêu nớc
21
trong tiếng nói của một chiến sĩ cách mạng, một nhà ái quốc vĩ đại. Nhân văn
trong tiếng nói của một nhà nhân đạo chủ nghĩa).
a. Tuyên ngôn độc lập là áng văn yêu nớc lớn của thời đại.
T tởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là t tởng độc lập dân tộc, nguyện vọng
thiêng liêng cao cả này của nhân dân Việt Nam xuyên thầm trong toàn bộ các phần của tác
phẩm.
ở phần mở đầu tác giả đã khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở công lí pháp lý,
trên những lẽ phải không thể chối cãi.
Ngay từ những dòng đầu tiên Bác đã dẫn lời 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ
và của Pháp. Bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776): Tất cả mọi ngời đều sinh
ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
đợc. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) cũng đã khẳng
định: Ngời ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi.... Hai bản tuyên ngôn
này khẳng định những lẽ phải không thể chối cãi về nhân quyền.
Trí tuệ tầm vóc lớn lao của Hồ Chí Minh là ở chỗ. Từ những lẽ phải về nhân quyền ngời
suy rộng ra lẽ phải về quyền dân tộc. Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sung sớng và quyền tự do.
Cống hiến lớn lao này của Bác đã đợc chính một chính khách nớc ngoài khẳng định: Cống
hiến nổi tiếng của Hồ Chí Minh là ngời đã phát triển quyền của con ngời thành quyền của
dân tộc. Nh vậy có nghĩa là: tất cả mọi dân tộc đều có quyền quyết định lấy vận mệnh của
mình. Bản tuyên ngôn của Bác khẳng định quyền dân tộc bởi lẽ. Vận mệnh dân tộc là vấn
đề then chốt, vấn đề cơ bản nhất đối với nhân dân ta. Lúc bấy giờ ở một nớc thuộc địa thì
trớc khi nói đến quyền con ngời, phải đòi lấy quyền dân tộc. Dân tộc có độc lập thì nhân
dân mới tự do hạnh phúc. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện nhân quyền.
Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết
Cách lập luận ấy khôn khéo bởi vì: Ngời vẫn tôn trọng những danh ngôn những
chân lý dù đó là của Mỹ hay của Pháp. ở đây không hề có sự lầm lẫn giữa nhân
dân Mỹ, dân tộc Pháp với bọn xâm lợc Mỹ, Pháp.
Tác giả đã sử dụng thủ phát nghệ thuật gậy ông đập lng ông. Trong tranh luận
không gì thú vị hơn, không gì thuyết phục là dùng chính lời lẽ của đối phơng để
khoá miệng đối phơng. Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ
nhận chính âm mu xâm lợc của hai cờng quốc này. Ngời viết đã sử dụng cây gậy
độc lập dân tộc để đập vào lng kẻ đi xâm lợc mà miệng vẫn rêu rao tự do, bình
đẳng, bác ái.
Khi dẫn lời hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ tác giả đã có ý đặt ngang hàng
cuộc cách mạng tháng Tám của ta với hai cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ. Quả
thật hai cuộc cách mạng nói trên mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển của
lịch sử xã hội loài ngời thì cuộc cách mạng tháng Tám của ta cũng mở ra một kỷ
nguyên mới. Đó là kỷ nguyên dành độc lập dân tộc ở các nớc thuộc địa, là kỷ
nguyên sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Cách lập luận của Bác khôn khéo nhng vẫn kiên quyết dờng nh tác giả đã ngầm
cảnh cáo nếu Pháp xâm lợc Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống
tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ
vấy bẩn lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái mà cha ông họ từng dơng cao.
Với đoạn mở đầu tác giả đã tạo cơ sở lý luận vững chắc để triển khai lập luận ở phần sau
22
* Phần tiếp theo của tác phẩm lòng yêu nớc, nguyện vọng độc lập dân tộc của nhân dân
ta lại đợc khẳng định chắc chắn trên cơ sở thực tiễn. Thực tiễn về phía Pháp và thực tiễn về
phía Việt Nam.
Bản Tuyên ngôn đã phủ nhận quyền của Pháp đối với Việt Nam - cách dựng lên bản
cáo trạng đanh thép của tác phẩm.
Nếu Pháp nêu chiêu bài Pháp có công khai hoá đối với Việt Nam, Việt Nam vốn là
thuộc địa của Pháp thì bản Tuyên ngôn vạch rõ: Pháp chính là kẻ xâm lợc, gây bao
tội ác. Bản Tuyên ngôn tố cáo một cách toàn diện tội ác này về chính trị, kinh tế.
Về chính trị: Chúng tuyệt đối không cho dân tộc ta chút quyền tự do dân chủ nào,
chúng chia nớc ta thành ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Mục đích là chia rẽ tình
đoàn kết dân tộc, ngăn cản sự nghiệp thống nhất đất nớc của nhân dân ta. Chúng
đàn áp những ngời yêu nớc thơng nòi, tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những
bể máu. Chúng thực hiện chính sách ngu dân, lập nhà tù nhiều hơn trờng học.
Chúng đầu độc nhân dân ta bằng rợu cồn và thuốc phiện để ta suy kiệt giống nòi.
Về kinh tế: Chúng cớp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, bóc lột sức lao động,
chúng thực hiện chính sách thuế hà khắc, vô nhân đạo khiến mọi tầng lớp nhân dân không
ngóc đầu lên đợc.
Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp và phát xít Nhật là đã gây ra thảm hoạ nạn đói
năm 1945 làm 2 triệu ngời chết đói.
Tác giả còn tố cáo tội ác của Pháp đã đầu hàng Nhật một cách nhục nhã, bán rẻ nớc
ta cho Nhật để phủ nhận chiêu bài của Pháp có công đứng về phe Đồng minh chống
phát xít bảo vệ Việt Nam. Bản Tuyên ngôn chỉ rõ: chỉ trong vòng 5 năm mà đã hai
lần Pháp quỳ gối mở cửa nớc ta rớc Nhật. Tố cáo hành động này của Pháp một lần
nữa bản tuyên ngôn đã phủ nhận quyền của Pháp đối với Việt Nam.
Đoạn văn tố cáo tội ác thực dân Pháp là một điển hình mẫu mực về văn chơng chính
luận. Những dẫn chứng đa ra đều có sự chọn lọc. Đặc biệt lời văn vừa xúc tích vừa
truyền cảm Bác không viết chúng đàn áp các cuộc khởi nghĩa của ta một cách dã
man mà viết: chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Hành động
đàn áp đã đợc diễn đạt bằng hình tợng tắm. Mức độ dã man đã đợc hình tợng hoá
thành bể máu. Cách diễn đạt hình tợng này vừa lột trần đợc bộ mặt quỷ sứ khát
máu ngời của bọn thực dân, vừa diễn tả đợc nỗi đau thê thảm của nhân dân ta,
những ngời dân vô tội đang quằn quại trong vòng tử địa (Đờng Kách mệnh).
Đúng là t tởng chính trị đã đợc thể hiện bằng một câu văn miêu tả tuyệt vời có sức
lay động mạnh mẽ cả nhận thức và tình cảm của ngời đọc.
Độc lập dân tộc còn đợc khẳng định trên cơ sở thực tiễn về phía Việt Nam. ở đây
Tuyên ngôn đã khẳng định Việt Nam có quyền và thực tế đã là một nớc giành đợc
tự do độc lập.
Thực tế Việt Nam có quyền hởng tự do độc lập bởi vì chính nhân dân Việt Nam chứ
không phải ai đã đứng về phe đồng minh chống phát xít: Một dân tộc đã gan góc
chống ách đô hộ của thực dân Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe đồng minh chống phát xít Nhật suốt mấy năm nay, dân tộc đó phải đợc tự
do, dân tộc đó phải đợc độc lập. Trong một đoạn văn ngắn hai lần xuất hiện từ gan
góc, bốn lần dùng từ dân tộc. Hai đoạn văn của bản Tuyên ngôn lặp lại nh hai nhát
dao chém xuống mỗi lúc một mạnh hơn. Ngời đòi quyền cho dân tộc nên 20 lần
nhắc tới chủ quyền trong những câu văn hào hùng đanh thép.
23
Không những khẳng định quyền mà bản Tuyên ngôn còn khẳng định thực tế Việt
Nam đã giành đợc độc lập. Cách lập luận của tác giả ở đây cũng thật chặt chẽ, sắc
sảo Bác chỉ rõ Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ Việt
Nam cho Nhật. Nớc ta cũng không còn là thuộc địa của Nhật vì sau khi Nhật đầu
hàng đồng minh thì nhân dân ta đã giành lại nớc từ tay Nhật. Hơn nữa Việt Nam đã
có Chính phủ lâm thời đại diện chân chính cho nhân dân Việt Nam. Để khẳng định
sự thật này. Ngời viết Tuyên ngôn độc lập láy đi láy lại hai lần chữ sự thật. Sự
thật là, sự thật là và cuối cùng thì Nớc Việt Nam có quyền hởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nớc tự do độc lập. Đây là những điệp khúc tiếp nối nhau
tăng thêm âm hởng hùng biện của bản tuyên ngôn.
Phần kết thúc bản tuyên ngôn tác giả tiếp tục khẳng định lòng yêu nớc, nguyện
vọng độc lập dân tộc của nhân dân ta vừa trên cơ sở công lý vừa trên cơ sở thực tiễn.
Về mặt công lý, nếu tác giả đã công nhận quyền độc lập dân tộc tự quyết tại hai hội
nghị: Tê hê răng (1943) và Cựu Kim Sơn (1945) thì họ nhất định sẽ phải công nhận
quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Nếu không thì nhân dân ta sẽ phát huy truyền
thống yêu nớc bất khuất để giữ vững quyền tự do độc lập ấy: Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyền tự do độc lập ấy.
Bản Tuyên ngôn đã kết thúc bằng câu văn khẳng định lòng yêu nớc bằng lời thề quyết tử
cho tổ quốc quyết sinh. Đặt trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam thì Tuyên
ngôn độc lập là đỉnh cao của văn học yêu nớc từ Nam quốc sơn hà đến Bình ngô đại
cáo đến Tuyên ngôn độc lập là những chặng đờng khác nhau của cùng một chân lý
Không có gì quý hơn độc lập tự do.
b. Tuyên ngôn độc lập không những là áng văn yêu nớc mà còn chứa đựng t tởng
nhân văn cao đẹp.
Mặc dù bản tuyên ngôn không trực tiếp nói đến nhân quyền, nhng yếu tố nhân quyền vẫn
thấm trong toàn bộ tác phẩm. Ngời viết Tuyên ngôn tố cáo tội ác của thực dân Pháp vừa
đứng trên lập trờng dân tộc để đòi độc lập tự do, vừa xuất phát từ quyền con ngời để khẳng
định những giá trị nhân văn chân chính để lên án hành động chà đạp lên con ngời trái hẳn
với lẽ phải và nhân đạo. Bản tuyên ngôn khẳng định độc lập dân tộc nhng trong chiều sâu
của nó cũng là đòi vấn đề nhân quyền bởi vì ở một nớc nh Việt Nam thì độc lập dân tộc sẽ
là điều kiện tiên quyết để thực hiện nhân quyền.
Bản Tuyên ngôn độc lập không những khẳng định truyền thống yêu nớc bất khuất mà
còn đề cao truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam. Mặc dù bọn thực dân xâm lợc
gây bao tội ác đối với đồng bào ta nhng nhân dân Việt Nam vẫn giữ một thái độ khoan
hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động 9/3, Việt Nam đã giúp cho nhiều ngời Pháp chạy
qua biên thuỳ, lại cứu cho ngời Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản
của họ.
Nêu cao truyền thống đạo lý nhân nghĩa, bản Tuyên ngôn độc lập đã phát huy truyền
thống nhân đạo của nhân dân Việt Nam trong bản Thiên cổ hùng văn BNĐC:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cờng bạo.
2. Giá trị nghệ thuật
a. Bản Tuyên ngôn độc lập có kết cấu chặt chẽ lập luận đanh thép.
Tác phẩm gồm 3 phần có mối quan hệ hữu cơ bổ sung cho nhau: phần 1 nêu
cơ sở pháp lý, đặt cơ sở lý luận: phần 2 soi sáng chứng minh bằng thực tiễn:
24
phần cuối rút ra kết luận. Các phần còn lại liên hệ với nhau bằng những liên
từ, những cụm quan hệ từ chặt chẽ nh những mắt xích. Kết thúc phần đầu
chuyển sang phần hai, tác giả sử dụng liên từ Thế mà nh để báo trớc những
hành động Pháp đợc dẫn ra tiếp theo sẽ trái hẳn lẽ phải và nhân đạo. Kết thúc
phần II chuyển sang phần 3 tác giả sử dụng cụm liên từ bởi thế cho nên nh
để khẳng định hai phần trên là nguyên nhân còn phần cuối là kết quả.
Cách lập luận của tác giả là dùng lời lẽ của đối phơng để bác bỏ đối phơng và luôn có sự
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
b. Giọng văn thay đổi linh hoạt phù hợp với đối tợng và nội dung.
Nói với công luận quốc tế thì giọng văn uyên bác, thể hiện một trí tuệ sắc sảo
dẫn những lời tuyên ngôn nổi tiếng là cơ sở cho lập luận.Viết với đồng bào
cả nớc thì lời văn tình cảm thiết tha. Về điều này Chế Lan Viên đã nhận xét
thật chính xác: Vì nói với đồng bào lời văn của bản Tuyên ngôn xiết bao
xúc độngsau 13 chữ quyền là 14 câu, câu nào cũng có chữ chúng Mở
đầu nặng nh búa tạ: Chúng tuyệt đối không cho, chúng thi hành những
luật pháp dã man, chúng cớp không ruộng đất và mỗi chữ chúng ấy nh
xiết xuống chữ ta làm xúc động lòng ngời: chúng cớp đất nớc ta, áp bức
đồng bào ta, tuyệt đối không cho nhân dân ta chút quyền tự do dân chủ nào
cả. Khi khẳng định độc lập, tự do thì lời văn trang trọng thiêng liêng.
Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố khi tố cáo tội ác kẻ thù thì giọng văn bi
thiết. Khi nêu cao truyền thống yêu nớc thì giọng văn hào hùng sảng khoái.
c. Ngôn ngữ hình tợng nghệ thuật vừa chính xác vừa gợi cảm, truyền cảm. Vì là văn kiện
chính trị nên mỗi chữ mỗi lời cần phải chính xác tuyệt đối. Vì là tác phẩm văn học nên mỗi chữ
mỗi lời lại có sức mạnh gợi cảm truyền cảm lớn lao.
Khi tác giả viết: chúng tuyệt đối không cho dân ta chút quyền tự do dân chủ nào thì hai chữ
tuyệt đối vừa nhấn mạnh vừa làm chính xác thêm ý văn. Chỉ bằng chín chữ : Pháp chạy, Nhật
hàng, Vua Bảo Đại thoái vị mà câu văn đã khái quát đợc những sự kiên chính trị, những biến cố
quan trọng nhất của lịch sử lúc bấy giờ. Những sự kiện này đặt liên tiếp cạnh nhau trong câu văn
ngắn gọn đem đến sự cảm nhận về sự thất bại thảm hại, nhanh chóng của kẻ thù và khí thế thần tốc
của cách mạng tháng Tám.
Những t tởng chính trị đợc diễn đạt bằng những hình tợng vừa gợi cảm vừa truyền cảm tác giả
không viết. Pháp đầu hàng Nhật một cách nhục nhã mà viết thực dân Pháp quỳ gối mở cửa nớc ta
rớc Nhật. Câu văn hình tợng đã diễn tả đợc thái độ hèn nhát và tự ti nô lệ của Pháp trớc Nhật.
Tuyên ngôn độc lập là đỉnh cao của văn học yêu nớc, đỉnh cao của văn chính luận. Trong cả cuộc
đời, làm văn viết văn của Bác thì hai lần ngời cảm thấy sung sớng và sảng khoái nhất khi đặt bút
viết đó là lần viết Bản án chế độ thực dân Pháp để lại bản cáo trạng đanh thép kết tội
chúng và lần viết Tuyên ngôn độc lập để tuyên bố cáo chung chế độ thực dân ấy.
Định hớng đề gợi ý giải
Đề 1. Hãy xác định ranh giới và mối quan hệ giữa các phần lớn trong bản Tuyên ngôn
độc lập
Gợi ý
Phần thứ nhất của bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch - phần nêu chân lí - kết thúc
ở câu: Đó là những lẽ phải không ai chối cãi đợc.
Phần thứ hai của bản Tuyên ngôn nối liền với phần trên bằng hai chữ Thế mà. Trong
tiếng Việt, chữ mà đợc dùng để biểu thị quan hệ không phù hợp cùng nhau, trái ngợc với
25