Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

ký văn học ký báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.57 KB, 22 trang )

ĐỀ TÀI:
CÁI TÔI TRẦN THUẬT TRONG
THỂ LOẠI KÝ THÔNG QUA
TÁC PHẨM “AI ĐÃ ĐẶT TÊN
CHO DÒNG SÔNG”

MỤC LỤC:
I.TÌM HIỂU CHUNG
1. Lý luận chung về ký
2. Tìm hiểu về tác phẩm và tác giả
- tác giả
- tác phẩm


> hoàn cảnh ra đời tác phẩm
> tóm tắt tác phẩm
II. CÁI TÔI TRẦN THUẬT TRONG TÁC PHẨM.
A. Cái tôi tác giả trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho
dòng sông”.
B. So sánh cái tôi trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho
dòng sông” với một số tác phẩm khác của ông.
C. So sánh cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường với
những nhà văn cùng thời.
III. TỔNG KẾT
1. Kết luận
2. Vai trò của cái tôi trong thể loại ký.


I/ Tìm hiểu chung:
1/ Lý luận chung về ký:
a/ Khái niệm về ký:


- Ký là loại hình có tính chất dung hợp, trung gian giữa báo chí và
văn học.
- Ký (theo từ điển ngôn ngữ báo chí): báo chí chính luận ghi lại các
sự kiện, chủ yếu là thể loại văn xuôi tự sự.
- Do hướng đến những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng, ký
cũng rất phong phú, bao gồm nhiều thể, nhiều tiểu loại: ký sự,
phóng sự, nhật ký, hồi ký, bút ký, tùy bút, du ký, kỷ hành, truyện
ký, tản văn,…
- Ngoài những thể ký phổ biến nói trên, trong thực tế còn có nhiều
thể ký khác, và trong mỗi thể nói trên cũng có thể bao gồm nhiều
tiểu thể loại. Ranh giới giữa các thể loại ký nói trên cũng không
tuyệt đối, luôn có tình trạng chuyển hóa, thâm nhập lẫn nhau.
b/ Đặc trưng của ký:
- Phản ánh chân thực, chính xác về người thật và việc thật. Tạo nên
sức hấp dẫn cho tác phẩm. Giống như người viết báo, người viết ký
phải đặc biệt tôn trọng, phải truyền đạt trung thực, chính xác những
sự kiện của đời thực với những người thực, việc thực, cảm xúc
thực. Nhà viết ký nào cũng phấn đấu theo phương châm xác thực
đến mức tối đa.
- Thể loại mà chủ yếu là dựa trên sự lựa chọn, sắp xếp, tổ chức lại
các chi tiết. Kết cấu của thể loại ký rất đa dạng và phong phú.
- Cái tôi trần thuật (chứng kiến, thẩm định, bình luận, có chứng
kiến). Tác giả phải thể hiện rõ nét cái tôi trần thuật, có nhân chứng
chứng kiến, được thẩm định, thông qua bình luận và phải có chính
kiến của tác giả. Cái tôi trần thuật thể hiện chung quy góp phần cải
tạo bộ mặt xã hội.
- Thể hiện được phong cách, cá tính sáng tạo của tác giả.
2/ Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
a/ Tác giả:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937, ông sinh ra và lớn lên tại

Huế nên ông gắn bó sâu sắc với Huế. Là người hiểu biết sâu rộng
trên nhiều lĩnh vực đặc biệt nhất là sử học, địa lý, văn hóa ở Huế.
Ông là một trong những nhà văn chuyên viết bút ký.


- Ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Ngôi sao trên đỉnh Phu
Văn Lâu, Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông,… Nét
đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trí
tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều tổng
hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa
lí…Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê
đắm và tài hoa. Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước
về văn học nghệ thuật.
b/ Tác phẩm:
- Ý nghĩa nhan đề: “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
+ Vang lên từ nhan đề ấy, trước hết là câu hỏi “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” có dáng dấp của một thoáng ngẩn ngơ rất thi sĩ của
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ thoáng ngẩn ngơ này, bao nhiêu ấn tượng
về cái đẹp của sông Hương sẽ ùa về trong tâm trí, khơi gợi mạch viết
dạt dào cảm xúc của tác giả về nhan sắc thiên phú của một dòng sông.
+ Nhà văn bằng câu hỏi làm nhan đề đã tạo nên mạch cảm hứng
lớn dẫn dắt ông đi vào lòng đọc giả. Đồng thời, Hoàng Phủ Ngọc
Tường cũng đóng vai người truyền cảm hứng cho đọc giả bộc lộ tình
yêu xử sở hết sức thiết tha của mình.
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài ký ”Ai đã đặt tên cho dòng sông” in trong
tập bút ký cùng tên. Tập sách gồm tám bài ký, viết ngay sau chiến
thắng mùa xuân 1975, đang bừng bừng cảm hứng ngợi ca chủ
nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng
yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên và
truyền thống văn hóa sâu sắc.

c/ Tóm tắt tác phẩm:
Bài bút ký đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ Huế
mơ mộng đã đi vào lòng người và với truyền thống lịch sử xứ Huế.Lúc ở
thượng nguồn, sông Hương có vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại, có nhiều
ghềnh thác đáy vực bí ẩn. Có thể xem sông Hương như bản trường ca của
rừng già.
Lúc về đồng bằng, sông Hương thơ mộng làm say đắm lòng người. Hai
bên bờ sông Hương chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên. Dòng sông mềm
như tấm lùa uốn cong, cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, hình khối
trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sửng như thành quách, cao đột ngột như
Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo. Sông hương có vẻ đẹp da màu biến ảo:
sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.Lúc qua thành phố Huế, sông Hương trôi
đi thực chậm chảy lặng lờ như điệu slow. Sông Hương đã trở thành một
người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trên sông vọng lại tiếng hát trong
một khoang thuyền nào đó. Sông Hương mang vẻ đẹp vừa trữ tình, vừa
trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của dân tộc mà trên thế giới không


có dòng sông nào như thế. Và trước về với biển sông Hương lưu luyến
tình cảm với thành phố Huế ví như nỗi vấn vươn của nàng Kiều với Kim
Trọng.

II. CÁI TÔI TRẦN THUẬT TRONG TÁC PHẨM.
A. Cái tôi tác giả trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một trong những thiên tùy bút xuất sắc
nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và của thể loại bút kí, tùy bút
trong nền văn học nước ta nói chung. Như chúng ta đã biết, ở thể loại bút
ký, sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ phụ thuộc vào những ghi chép
của tác giả với lượng tri thức phong phú, thông tin mới mẻ mà còn tùy
thuộc vào “duyên ngầm” của cái “tôi” nhà văn. Trong bút ký “Ai đã đặt

tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ cho thấy mình là
một người nghệ sĩ có năng lực khảo cứu của một nhà khoa học, nhà khoa
học mang trong mình cốt cách của một nhà thơ viết văn xuôi, một nhà
văn có tâm hồn thi sĩ. Chính sự đan cài “ hai trong một” ấy đã tạo nên
một hình tượng cái “tôi” đầy hấp dẫn, có sức mời gọi bạn đọc khám phá
tác phẩm.

1. Cái tôi mê đắm và tài hoa.
Đọc “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, ai cũng có thể thấy rằng Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã dành hết tâm sức và tình cảm của mình, thậm chí
cả tinh hoa và tinh huyết của cả một đời nhà văn để say sưa khám phá
và miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương. Nói về thủy trình của của


dòng sông từ thượng nguồn đổ xuôi về biển, ta có thể thấy nhà văn đã
say sưa và kì công “đúc câu luyện chữ” để dành tặng cho dòng sông
mà mình yêu dấu như thế nào : ở thượng nguồn, sông Hương là “bản
trường ca của rừng già”, là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”,
là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Khi rời vùng núi
để về đồng bằng, con sông hiện lên giống như “người gái đẹp nằm ngủ
mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình
mong đợi đến đánh thức”. Chảy giữa lòng thành phố yêu thương sông
Hương là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, là “người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya”, để rồi trước khi chia tay “người tình mà nó
mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương giống như nàng
Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa... Dường
như nhà văn đã dành những câu chữ đẹp nhất trong vốn liếng ngôn
ngữ của mình để gọi tên sông Hương, để định danh những vẻ đẹp vô
cùng phong phú, đa dạng và độc đáo của nó. Những lời hay ý đẹp ấy
đâu phải dễ thường mà có ngay được. Nó hẳn phải là kết tinh của tình

yêu sâu đậm, của những hiểu biết tường tận về dòng sông và của một
lối tư duy sắc bén đã được tưới tắm trong niềm xúc cảm say mê, để rồi
thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật.
Từ góc nhìn lịch sử, con sông của xứ Huế cũng hiện lên trong cảm
hứng say mê ngợi ca của nhà văn. Sông Hương là “dòng sông của thời
gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trong chiến
tranh, nó “biết cách hiến đời mình làm một chiến công”. Nhưng khi
trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm “một người con
gái dịu dàng của đất nước”. Cũng như bao con sông khác trên đất
nước Việt Nam, như con người Việt Nam, nó mang trong mình vẻ đẹp
truyền thống đã làm nên bản sắc văn hóa Việt.
Có thể thấy, trí tưởng tượng phong phú và những liên tưởng mạnh mẽ
đã cung cấp cho tác giả những cách nhìn khác nhau về sông Hương.
Trong nhữn suy cảm ấy, rất nhiều suy cảm mang vẻ đẹp đầy chất thơ
và đọc đáo, cuốn hút đến lạ thường. Chẳng hạn như khi tác giả hình
dung sông Hương ở thượng nguồn như “cô gái Digan phóng khoáng
và man dại”. Cô gái Digan là những người thích sống lang thang, tự
do và yêu ca hát. Họ mang trong mình vẻ đẹp nguyên sơ, bản năng tự
nhiên đầy quyến rũ. Ví sông Hương như cô gái Digan, tác giả đã khắc
vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang sơ nhưng
cũng rất tình tứ của con sống xứ Huế.


Sự tài hoa của cái tôi tác giả hiện hiện rõ trên từng câu chữ. Ở đây,
dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về sông Hương thì có
bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để đặc tả cho thật ấn tượng,
thật sắc, thật tinh hình hài và tâm hồn của con sông xứ Huế. Thậm chí,
từng đường đi nước bước của con sông cũng được cái kho ngôn ngữ
giàu có và tài hoa ấy làm cho thỏa mãn. Chẳng hạn như đoạn nhà văn
miêu tả con sông Hương ở thượng lưu : “rầm rộ giữa những bóng cây

đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn
lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàn và say
đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
Hay như đoạn nhà văn miêu tả sông Hương rời khỏi vùng núi xuôi về
đồng bằng chuẩn bị vào lòng thành phố Huế : “qua điện Hòn Chén,
vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi
Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về
phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần
về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua
một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh
thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.
Đây là hai trong số những đoạn văn tiêu biểu trong bài kí. Chúng cho
thấy bút lực dồi dào của nhà văn. Đó là một lối hành văn uyển chuyển,
ngôn từ đa dạng và giàu hình ảnh. Từng từ, cụm từ, từng vế trong câu
văn giống như một nét vẽ tài hoa của người họa sĩ, một động tác chạm
khắc tinh xảo của nhà điêu khắc mà sau mỗi đường cọ, mỗi động tác
nhào nặn, vẻ đẹp của sông Hương lại hiện ra một cách đặc sắc, đem
đến cảm giác bất ngờ, ngỡ ngàng cho người đọc.
Nói đến tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tác phẩm này,
không thể không nhắc đến sự tài hoa trong việc sử dụng các thủ pháp
nghệ thuật, tiêu biểu là nhân hóa và so sánh. Với nhân hóa, nhà văn đã
thổi hồn vào sông Hương, biến con sông vô tri vô giác thành một sinh
thể có tính cách, có nỗi niềm, tâm trạng như một con người. Con sông
ấy lúc thì “rầm rộ”, “mãnh liệt”, lúc thì “dịu dàng” và “say đắm”, khi
thì “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, khi thì
“vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim
Long”. Bên cạnh thủ pháp nhân hóa, nhà văn còn sử dụng rất thành
công thủ pháp so sánh. So sánh được nhà văn thực hiện trên cơ chế
liên tưởng, tưởng tượng. So sánh cái hữu hình của dòng sông với cái
vô hình của cảm xúc nội tâm con người: “đường cong ấy làm cho

dòng sông mềm mại hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói của tình
yêu”. Chưa hết, tác phẩm còn có những hình ảnh so sánh đẹp như một


hình ảnh thơ như: “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời,
nhỏ nhắn như những vầng trăng non”
Như vậy, với những gì đã đề cập trên, ta có thể khẳng định cái tôi nhà
văn trong bài kí này là một cái tôi mê đắm và tài hoa. Cái tôi ấy đã
phát huy (dường như là tối đa) trí tưởng tượng bay bổng, khả năng
liên tưởng tuyệt vời cùng kho từ vựng giàu có để tạo dựng nên một
dòng sông nghệ thuật quyến rũ trên mỗi trang văn.

2. Cái tôi uyên bác, giàu tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tỏ ra am hiểu tường tận những gì mình viết.
Với sông Hương, nhà văn không chỉ thuộc tường tận từng bước đi,
từng khúc cong, từng ngã rẽ, không chỉ nắm bắt từng chổ cuộn xoáy,
từng chổ êm ả, phẳng lặng như mặt hồ yên tĩnh… của con sông trong
từng thời gian địa lý mà còn tường tận cả chiều dài lịch sử của sông
Hương từ thuở nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi từ thời vua
Hùng. Trong cái nhìn về địa lý, lịch sử của sông Hương, bên cạnh
những tri thức đã xuất hiện đâu đó trong tài liệu, có những tri thức mà
không mấy người biết đến và nghĩ đến, ngay cả người Huế. Ấy là vai
trò to lớn của dòng sông, “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ
sở”. Sông Hương là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một không
gian địa lý và văn hóa Huế.
Nhưng thú vị nhất vẫn là những khám phá, phát hiện và miêu tả của
nhà văn về đặc điểm văn hóa của sông Hương. Dấu tích văn hóa in
đậm ở cả trên và hai bên bờ sông. Đó là cái vẻ trầm mặc như triết lí,
như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các
đời vua chúa triều Nguyễn ; là nền âm nhạc cổ điển đã được sinh

thành trên mặt nước của dòng sông này. Đó còn là dòng sông thi ca –
nơi đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao văn nghệ sĩ, nhất là các nhà
thơ. Như Hàn Mặc Tử thấy dòng “sông trăng” lung linh, thơ mộng :
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay”
Bằng những hiểu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho người đọc
một lượng thông tin lớn về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế nói chung và
sông Hương nói riêng. Vốn kiến thức văn chương sâu rộng đó hẳn
phải là kết quả của nhiều chuyến du lãm và du khảo của nhà văn suốt
dặm dài của mảnh đất cố đô.


3. Cái tôi yêu quê hương đất nước, gắn bó mật thiết với mảnh đất
xứ Huế.
Phải yêu Huế, gắn bó với sông Hương đến mức nào, Hoàng Phủ Ngọc
Tường mới có được những trang viết đầy ắp tri thức và rất đỗi tài hoa
về Hương giang như vậy. Chính con sông đã khiến trái tim ông phải
ngân rung những giai điệu yêu thương với những cung bậc khác nhau :
khi thì băn khoăn, trăn trở, e ngại con người – vì “mải mê nhìn ngắm
khuôn mặt kinh thành” của sông Hương – mà có thể “không hiểu một
cách đầy đủ bản chất” của nó, “không hiểu thấu phần tâm hồn sâu
thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ”; khi lại nhớ
đến nao lòng một nét sông Hương với “điệu chảy lững lờ” mà ông gọi
là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”; có khi “thất vọng khi
nghe nhạc Huế giữa ban ngày” bởi “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế
đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”… Những cảm
xúc ấy chỉ là một số ít trong rất nhiều những biểu hiện của tình cảm
gắn bó yêu thương đối với sông Hương mà nhà văn đã trực tiếp nói ra
và kín đáo thể hiện. Lòng yêu nhà, yêu gia đình, yêu miền quê trở
thành tình yêu tổ quốc”, tình cảm đối với sông Hương của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, xét đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng

yêu mến quê hương xứ sở nồng cháy của nhà văn.
Với kho vốn cảm xúc, kiến thức, tưởng tượng và trải nghiệm thực tế
lại cộng thêm vốn chữ nghĩa dồi dào mà rất đẹp, rất thơ, rất công phu,
trau chuốt thậm chí đôi khi còn hơi làm dáng điệu đà, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã thực sự mê hoặc được người đọc để hoàn toàn chủ
động trong việc dẫn dắt người đọc đi theo nhà văn để hào hứng
thưởng thức vẻ đẹp của một dòng sông không phải như con sông địa lí
vô tri mà như một con người- một người con gái có nhan sắc, có tâm
hồn, có sức sống và cũng đầy sức mạnh để đi hết cuộc hành trình,
sống trọn vẹn đời sống và khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh và lý tưởng
của nó.

B. So sánh cái Tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong các tác phẩm
của mình:
Hoàng Phủ Ngọc Tường, một nhà văn nhà thi sĩ tài hoa, độc đáo,
nhân hậu, đồng cảm và vô cùng đa dạng. Tài năng ấy lấp lánh trên từng


trang viết của một con người suốt một đời rong ruổi trong những năm
tháng chiến tranh, cũng như những ngày tháng hòa bình. Thật khó để
nhận định về Hoàng Phủ Ngọc Tường, dù chỉ bằng ngôn từ lý luận. Khi
cảm nhận văn thơ của ông là ta phải cảm nhận tự trái tim, với cả vốn
liếng văn hóa có sẵn ở mỗi người.
Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc loại tác giả mà những trang viết
cũng chính là những trang đời chắt lọc. Cũng hiếm có một tác giả nào thể
hiện hết mình một cái tôi vừa đa dạng vừa thống nhất trong những thể
loại mà mình sáng tác như Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu đọc ký Hoàng
Phủ Ngọc Tường, chúng ta đối diện với một cái tôi trầm tư về lẽ đời, lẽ
người thì dường như trong thơ ông là một con người khác – một cái tôi
trầm lặng trong nỗi buồn đơn độc. Và nếu trong thơ, cái tôi luôn tự mình

đối diện với bóng mình, một cái tôi ngồi tỉ mẩn lượm nhặt, ghép lắp
những – mảnh – mình – rơi – vãi
“ Dáng ai như tôi đi qua cánh đồng,
thu nhặt lại mình trên ngọn gió,
giống như con chim sẻ nọ,
thu về từng cọng vàng khô…”
( Cỏ, chim sẻ và châu chấu –
HPNT )
Thì đọc ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc lúc nào cũng
tưởng tượng rằng, có một người nghệ sĩ, một kẻ lãng du, rong ruổi hoài
giữa khói và mây, "giữa không gian mù sương giăng đầy tơ trời của mùa
thu"; hoặc giữa đêm khuya, khi "những cây ngọc lan nhả vào không
trung một mùi hương sâu thẳm và bí ẩn". Dẫu viết về đời hay viết cho
mình, dẫu có lúc lặng buồn có lúc bông đùa hoặc có khi là sử thi, lúc nào
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện mình như một "thi sĩ của thiên
nhiên".
Theo sau những bước lãng du, hay đồng điệu với những vần thơ
mang tính chất tự bạch của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nét đọng lại ở người
đọc vẫn là hình ảnh một con người hòa nhập với thiên nhiên.. Từ Ngôi
sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Bản di chúc cỏ
lau, đến Hoa trái quanh tôi, Thành phố và chim, Ngọn núi ảo ảnh, Người
hái phù dung v.v... những tín hiệu thẩm mỹ ấy đã ngầm bộc lộ con người
và nét đặc sắc của văn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phải chăng một con
người biết say đắm một chòm mây, một dáng núi, một bóng trăng là con


người biết sống và sống đẹp. Là thi sĩ của thiên nhiên, Hoàng Phủ Ngọc
Tường nhạy cảm với cỏ, hoa, ngàn thông, chim sẻ. Trong thơ của ông
xuất hiện nhiều hình ảnh hoa dại, cỏ gai, chim trời... như là biểu tượng
của thiên nhiên trong trẻo, thuần khiết. Là thi sĩ của thiên nhiên, những

trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang đến cho người đọc những
miền không gian xanh thẳm, ẩn chìm những vết trầm tích văn hóa từ thiên
nhiên.
Với thể ký Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định rõ phong cách
riêng và góp phần "bản sắc hoá" văn học một vùng đất – Huế. Chính
những trang ký này đã thực sự làm nên một Hoàng Phủ Ngọc Tường của
Huế, để tác phẩm của ông không biết tự lúc nào đã trở thành một phần
máu thịt của văn hóa và văn học Huế. Đọc những trang ký của Hoàng
Phủ Ngọc Tường cảm nhận về thể ký có sự đổi thay thú vị. Thể loại
chuyên ghi chép các sự kiện nóng bỏng, hiện thực này qua ngòi bút
Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thấm đẫm chất trầm tư, trữ tình. Rất nhiều
ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoa trái quanh tôi... chính là sản
phẩm của một phong cách ký độc đáo đến duy nhất, với những trang viết
vừa trí tuệ, vừa nặng trĩu trầm tư.
Trong Hoa trái quanh tôi, nhà văn viết: "Có lẽ thiên nhiên đã giữ
một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người
ta có thể gọi là "bản sắc Huế". Từ cái nhìn đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường
say sưa viết về những khu vườn Huế. Không có sự am tường về văn hóa
vườn, khó có thể viết được những trang thú vị về vườn Huế như thế.
Viết về Thành phố và chim, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng kêu
lên như thảng thốt ngạc nhiên "Chưa cần đến âm nhạc, Huế từ trong tâm
hồn nó đã mang sẵn một mêlôđy của riêng mình. Là thành phố vườn, Huế
tràn đầy âm do thiên nhiên ban cho: dàn đồng ca của ve sầu mùa hè, tiếng
hát trong và cao vút của ve kim như tiếng đàn viôlông mùa thu, lời nỉ non
của côn trùng trong những khu vườn mùa đông, và cả bốn mùa, ôi Huế
bốn mùa đầy tiếng chim".
Trong mẩu bút ký Khói và mây, Hoàng Phủ Ngọc Tường kỳ công
tả một tiếng ve, một thứ âm thanh có lẽ trở thành của Huế mỗi lúc mùa hạ
trở về: "Khu vườn Nhà Chung trước mặt nhà tôi đầy tiếng ve. Ve sầu kêu
rất đúng giờ, cứ cách nhau vài tiếng thì lại dấy lên cùng một lúc như một

dàn nhạc giao hưởng, khiến cho mùa hè ở Huế có một âm thanh riêng.
Đến già nửa mùa hè thì ve sầu im tiếng nhường chỗ cho tiếng ve kim. Ve
kim kêu li ri như tiếng vĩ cầm, báo hiệu mùa thu sắp đến". Nhà văn khẳng
định: "Thật hiếm có thành phố nào mà tiếng ve lại xen lẫn với tiếng xe cộ


như ở Huế. Rõ ràng Huế là một thành phố vườn. Tôi có cái thú lên chơi ở
những khu vườn ngoại ô vào dịp đầu thu. Ở đó trong ngọn gió heo may
lành lạnh, tôi còn bắt gặp trên những thân cây trong vườn những chiếc vỏ
khô của con ve sầu. Mùa hè đã đi qua song trời đất còn để lại một chút
dấu tích trên những xác ve sầu".
Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường: "Tưởng không cần nhiều hơn để
nhận ra rằng có bao nhiêu điều trong đời sống nội tâm của người Huế đã
hình thành qua tình bạn lâu dài với chim đến nỗi người ta đã mang theo
tiếng chim vào âm nhạc để cố gắng đạt tới nỗi lòng, như trong bài Lý qua
đèo".
Viết về mối quan hệ thân thiết giữa thiên nhiên và con người,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đơn cử một cách ứng xử đầy nghĩa tình của
người Huế với cây xanh. Theo ông: "Cho đến nay, người Huế vẫn còn
duy trì một phong tục cổ xưa về tình bạn cao quý đó. Khi người chủ vườn
qua đời thì những người già đem buộc băng tang vào những cây quý
trong vườn để cây khỏi tàn lụi theo, vì người ta tin rằng cây cũng vui
buồn cùng với con người". Người Huế chăm chút vườn "với tất cả ý thức
văn hóa và đã nhận lại từ cây cối những lời ngụ ngôn thầm lặng" (Hoa
trái quanh tôi)
Như tất cả những ai quan tâm đến môi trường thiên nhiên xứ Huế,
lại là nhà văn nhạy cảm với mối quan hệ giữa con người và môi trường,
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhiều lần lên tiếng báo động về sự hủy hoại
thiên nhiên trong lành của Huế. Trong mẩu ký Thành phố và chim, Hoàng
Phủ Ngọc Tường day dứt: "Bây giờ thì tất cả đã bay về phương trời nào

không biết... Bây giờ thành phố vắng bóng chim, hầu như chim chóc đã
bỏ Huế mà đi. Nguồn cơn ấy bởi vì đâu? ". Bằng nỗi trầm tư đầy tâm
huyết người thi sĩ thiên nhiên ấy đã lên tiếng đánh động về sự hủy hoại
môi trường của vùng đất kinh kỳ cũ và tìm giải pháp nhằm bảo vệ thiên
nhiên vườn Huế, để một ngày nắng ấm những cánh chim lại bay về –
"những đàn còn hoàng hôn, lũ quạ mùa mít chín, con chim ca cút kêu đò,
con chim khách lẫn vườn cau, con chim chèo bẻo lẫn cây măng vòi, và
sau cùng, cả con chim bói cá sặc sỡ bay vù qua ký ức tuổi thơ của tôi, mê
hoặc như ảo ảnh" (Thành phố và chim).
Đã từ lâu sông Hương núi Ngự đã trở thành biểu tượng gắn kết
trong thơ văn. Trong đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Huế, sông
Hương núi Ngự mang vẻ đẹp cân xứng, hài hòa. Nhà văn đã tìm thấy
trong vẻ đẹp sơn thủy hữu tình này một sự hòa nhập "văn hóa dòng
sông", và "văn hóa núi". Sông Hương đã trở thành đối tượng thẩm mỹ của


thơ ca nhạc họa, nhưng chỉ dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường,
dòng sông thi ca này mới được soi chiếu từ nhiều phía. Dòng Hương chảy
tràn trên những trang ký của ông với nhiều dáng vẻ. Có khi sông Hương
là "một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại”, có khi là "mẹ phù sa
của một vùng văn hóa xứ sở", có lúc sông Hương trở thành "một người
tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya". Đến với những trang ký của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, người đọc có dịp hiểu rõ thêm về cội nguồn sông Hương và
văn hóa Huế. Sông Hương và "văn hóa sông ngòi" ấy dường như được
Hoàng Phủ Ngọc Tường thu tóm lại trong một mẩu huyền thoại đẹp khép
lại những trang ký bộc lộ một cái tôi trầm tư và nồng cháy suy tư: "Ai đã
đặt tên cho dòng sông? Có nhiều cách trả lời cho câu hỏi ấy. Trong đó,
tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của
quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng
sông, để làn nước thơm tho mãi mãi. Tôi lĩnh hội ý của truyền thuyết ấy

như thế này: con người đã đặt tên cho dòng sông như nhà thơ chọn bút
hiệu của mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và
tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử".
Không thể kể ra hết những câu, những chữ, những tài hoa trên
những trang ký viết về sông nước thiên nhiên của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Không thể trích dẫn hết những câu vào loại "tuyệt bút" của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Trong mọi không gian và thời gian, dưới ngòi bút tài
hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế hiện ra quen thuộc mà lạ lẫm đến
bất ngờ. Bằng những con chữ có hồn anh đã góp phần làm nổi rõ bản sắc
của thiên nhiên Huế và con người Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp
cho ký Việt một tiếng nói riêng của một nhà văn rất Huế.
Thời gian qua đi thế giới ngày càng phát triển cùng với rất nhiều
cây bút ký mới ra đời thế nhưng vị thế của Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn
là không thể thay thế . Ngày nay những những tác phẩm của ông vẫn còn
nguyên giá trị. Không những vậy ông còn được người đời sau tôn sùng là
một trong ba kiền ký của làng Ký Việt Nam cùng với Nguyễn Tuân và Vũ
Bằng. Đó là tại vì sao, câu trả lời chính vì phong cách cá nhân, cái tôi
trong lối viết của ông. Xuyên suốt các tác phẩm của mình, không riêng gì
bài ký́ “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Ta có thể nhận thấy rõ ràng nét cá
tính và sự không thể nhầm lẫn của ông với bất kì một tác giả nào khác.
Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất
trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được
tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa
lý...Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và
tài hoa. Nhà thơ Ngô Minh từng nhận xét rằng: Hoàng Phủ Ngọc Tường


là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài chục năm
nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng
nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ.

Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình...Thực ra, bút ký Hoàng Phủ
Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc...thơ
Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt
triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm
người đọc. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc
Tường thấm đẫm "triết học về cái chết...thơ anh buồn mỗi nỗi buồn đứt
ruột...Đấy là thơ của cõi âm"... Đó là một nhận xét xác đáng. Trong các
tác phẩm ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, mà tiêu biểu được đề cập ở đây
như Ai đã đặt tên cho dòng sông hay các tác phẩm khác như: Bản di chúc
cỏ lau (1986); Hoa trái quanh tôi (1995).. ta đều thấy xuất hiện cái tôi tác
giả, cái tôi trần thuật minh bạch rõ ràng, đó là sự pha trộn của nhiều cái
tôi: cái tôi trần thuật, nhân chứng, chính kiến, thẩm định và cái tôi cảm
xúc. Những cái tôi này không tồn tại độc lập riêng biệt mà có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, xen kẽ một cách hài hòa và uyển chuyển, tạo nên
sức hấp dẫn cho tác phẩm của tác giả. Để rồi, từ đó những tác phẩm có
một không hai ra đời.

C. So sánh cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường với những nhà văn
cùng thời.

Bước ra từ đại gia đình ký Việt Nam, Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng với
Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, những con người đặt nền móng đầu tiên cho thể
ký. Giữa họ gặp gỡ nhau ở niềm say mê cái đẹp, cái đẹp thiên nhiên, cái
đẹp con người và cách tiếp nhận cái đẹp vô cùng độc đáo.
Cả ba nhà văn đều là những cây bút tài hoa, uyên bác, am hiểu sâu sắc
nhiều lĩnh vực và thấu hiểu một cách sâu sắc tột độ cái mà họ sẽ viết, đối
tượng mà họ sẽ đề cập trong tác phẩm của mình.
Những con người tài hoa này, đều mang trong mình một cá tính riêng
biệt, độc đáo, phong cách nghệ thuật không thể trộn lẫn với bất cứ một
nhà văn ,một người nghê sĩ nào.

Mỗi tác phẩm nghệ thuật của họ đều mang một cái nổi bật , đó chính là “
cái tôi cá nhân “ độc đáo, mà tiêu biểu ở đây là “cái tôi trần thuật”.


Điểm khác biệt của “cái tôi” giữa các nhà văn:

Hoàng
Tường

Phủ

Ngọc Nguyễn Tuân

Vũ Bằng


“Cái tôi” của Hoàng
Phủ Ngọc Tường lại thể
hiện thiên về sự lịch
lãm, uyên bác với kiến
thức sâu rộng về địa lí
lịch sử, văn hóa, thi ca
gắn liền với vùng đất cố
đô. Cái tôi mang giọng
điệu thủ thỉ, tâm tình,
say đắm mà tỉnh táo, tự
tin nhưng ko áp đặt, sắc
sảo mà giàu cảm xúc.
Tài hoa, mang một chút
đa tình, đa cảm, cái tôi

tri thức gắn bó với tình
yêu say đắm nhẹ nhàng
mà đằm thắm, lại vừa
mang nét suy tư, đậm
chất triết lí.
Người con đất Huế với
tình yêu tha thiết quê
hương, mang trong
mình cái dịu dàng đằm
thắm đậm chất Huế
thanh khiết bình yên,
mộng mơ.
Hành văn hướng nội,
ngôn ngữ đậm chất thơ,
giàu nhạc điệu.

“Cái tôi” tài hoa uyên “Cái tôi” đậm hồn văn
bác, mang đầy chất văn chương và giàu chất trữ
hóa và thẩm mỹ.
tình. Là một nhà báo,
nhà văn nên ngôn ngữ
Cá tính độc đáo, cá tính,
đa dạng, phong phú, có
hơn đời hơn người và
ý nghĩa sâu rộng. Ngôn
đặc biệt có chút “
ngữ kín đáo, giàu hình
ngông”, lãng tử, phóng
ảnh, mang đậm chất trữ
khoáng. Cũng là cái tôi

tình. Văn chương của
ngây ngất trước cái đẹp
Vũ Bằng luôn vận động
nhưng Nguyễn Tuân lại
chuyển mình không
là người thích những cái
ngừng nghỉ. Ông soi
phi thường , những tình
mình vào trời đất để viết
cảm, cảm giác mãnh
văn từ đó thể hiện tình
liệt. Cái đẹp trong tác
yêu nước da diết, yêu
phẩm của ông là cái đẹp
cảnh sắc, cái đẹp, tâm
“ vang bóng một thời”.
hồn Việt. Mỗi tác phẩm
Nguyễn Tuân đặc biệt
là lời tự thú của chính
trân trọng vẻ đẹp của
ông, những biến động
cuộc sống, của con
cuộc đời trong chính
người, đề cao cái đẹp
những nhân vật hư cấu.
theo chủ nghĩa duy mỹ
Phong cách nghệ thuật
và cái đẹp ấy được ví
độc đáo và đặc sắc
như “ chất vàng mười

trong thể loại ký cho
của thiên nhiên , của
thấy Vũ Bằng là cây bút
con người, của cuộc
tài hoa với vốn từ vựng
sống”.
phong phú.
“Cái tôi” thể hiện qua
ngòi bút sắc sảo, ngôn
ngữ điêu luyện, vốn từ
phong phú, cách miêu tả
vô cùng chính xác và
tinh tế, phong phú, sáng
tạo, giàu sức biểu hiện,
những ngôn từ sắc bén,
gọt dũa.

Ba cây bút, ba cái tôi riêng biệt, ba phong cách không thể nào trộn lẫn.
Bước ra từ gia đình tiên phong về thể loại ký họ đều là những con người


tài hoa uyên bác, song giữa hai con người gặp nhau ở điểm này, lại có nét
ấn tượng sâu đậm đó là “cái tôi” riêng rẽ, đặc biệt. Để khi người đời nhắc
đếm tên tuổi họ là Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường hay Vũ Bằng
thì không ai có thể quên họ, không ai có thể nhầm lẫn họ, không ai có thể
trộn pha với một người nghệ sĩ nào khác. Bởi “cái tôi”, cái cá tính ấy chỉ
có thể gặp được ở họ mà không phải một ai khác.

III. TỔNG KẾT
1. Kết luận

Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ký như là một cách thức để trải lòng mình
để suy nghiệm về cuộc sống thực tại cũng như những năm tháng đã trải
qua của đời sống cá nhân, của lịch sử phát triển dân tộc. Sự hòa điệu giữa
tâm hồn con người với thiên nhiên trong ký của ông cũng là một dấu ấn
đặc biệt góp phần làm nên giá trị riêng cho tác phẩm. Đứng trước thiên
nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn nhìn ngắm, chiêm nghiệm trong sự
mê đắm, cảm xúc chủ đạo của ông là niềm tự hào, ngưỡng mộ đầy thầm
kính.
Cảm hứng sử thi luôn thường trực trong trang ký khi ông viết về Tổ
Quốc, nhân dân với lòng ngưỡng mộ, biết ơn vô hạn. Hiện thực đời sống,
con người, thiên nhiên được ông tiếp cận, soi chiếu dưới nhiều góc độ
văn hóa, lịch sử, triết học,...
Tiếp cận thực tiễn cuộc sống dưới nhiều góc độ khám phá sâu sắc về đối
tượng với một thái độ nghiêm túc, tôn trọng sự thật nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá và nói rõ sự thật. Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường không
chỉ đơn thuần phản ánh sự việc và có ý nghĩa nhân văn hơn khi những tác
phẩm ấy đã vươn dài đến tận mỗi tâm hồn và khơi dậy cả xúc nơi người
đọc.

Đối với tác phẩm“ Ai đã đặt tên cho dòng sông” dựa trên vốn kiến thức
sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lý, văn học kết hợp với lý luận sắc bén,


được phô diễn trong lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa,
lịch lãm của tác giả. Ông đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp li kì, huyền ảo của con
sông Hương qua đó bộc lộ tình yêu quê hương, con người xứ Huế da diết
của mình.

2. Vai trò của cái tôi trong thể loại ký


“Cái tôi” tạo nên sự khác biệt mang tính bản chất đặc thù của tác phẩm.
Nó bao gồm cả thông tin sự kiện và thông tin lý lẽ nhưng nổi bật nhất là
ngôn ngữ giàu chất văn học nghệ thuật, nội dung chuyển tải nhiều
vấn đề trong cùng một sự kiện, hiện tượng trong một nội dung chuyển tải.

Cái tôi trần thuật đóng vai trò rất quan trọng. Đó là cái tôi vừa lôgic vừa
lý trí, giàu lý lẽ và trong chừng mực nào đó còn sử dụng sức mạnh của
cảm xúc thẩm mỹ. Trong nhiều trường hợp, cảm xúc thẩm mỹ đã trở
thành động lực để tác phẩm đạt tới những phẩm chất khác lạ. Ở một khía
cạnh khác, cái tôi trần thuật còn góp phần tạo ra giọng điệu của tác phẩm
xuất phát từ đối tượng mô tả, đem đến cho người đọc những xúc cảm
thẩm mỹ. Cái tôi giúp gián tiếp giúp cho tác giả bay bổng, thả hồ thể hiện
cảm xúc trên chính con chữ của họ. “Cái tôi” thể hiện qua ngòi bút sắc
sảo, ngôn ngữ điêu luyện, vốn từ phong phú, cách miêu tả vô cùng chính
xác. Cái tôi cá nhân thể hiện rõ phong cách, cá tính sáng tạo của tác giả,
chung quy góp phần cải tạo bộ mặt xã hội. Cái tôi tạo nên sự khác biệt
mang tính bản chất đặc thù của tác phẩm.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. />2. />
3. />

4.

/>%9Dng

5.

/>

6. />7. />%C6%B0%E1%BB%9Dng

8. />146451.html#google_vignette

NHÓM 1_16CBC2
Họ và Tên

Phần thực hiện

Bùi Hải Âu

II.A cái tôi tác giả
thông qua tác phẩm
“Ai đã đặt tên cho
dòng sông”

Hứa Phùng Thiên Chi

II.B So sánh cái tôi
trong tác phẩm “Ai đã

Xếp loại


đặt tên cho dòng sông”
với một số tác phẩm
khác của ông.

Thuyết trình
Bùi Ngọc Công


I. Tìm hiểu chung

Nguyễn Thị Diển

II.C So sánh cái tôi
của Hoàng Phủ Ngọc
Tường với những nhà
văn cùng thời.

III. Tổng kết

Tổng hợp bài Word
Phan Thị Diệp

II.C So sánh cái tôi
của Hoàng Phủ Ngọc
Tường với những nhà
văn cùng thời.

Lê Quốc Duy

II.A cái tôi tác giả
thông qua tác phẩm
“Ai đã đặt tên cho
dòng sông”

Trần Thùy Dung

II.B So sánh cái tôi

trong tác phẩm “Ai đã
đặt tên cho dòng sông”
với một số tác phẩm
khác của ông.


Làm slide



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×