Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Vấn đề cơ bản của Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.42 KB, 22 trang )

Câu 1: Vấn đề cơ bản của Triết học gồm có 2 mặt . Mỗi mặt trả
lời cho 1 câu hỏi lớn
+ 1. Mặt thứ nhất (Bản thể luận) : Bàn về nguồn gốc của thế
giới: vật chất có trước hay ý thức có trước, cái nào quyết
định cái nào. Có 2 cách trả lời khác nhau đã dẫn đến việc hình
thành 2 khuynh hướng triết học lớn đối lập nhau
+ a) Chủ nghĩa duy vật:
- Những người theo chủ nghĩa duy vật cho rằng và chứng minh
rằng : vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật
chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vất chất.
+ - Trong chủ nghĩa duy vật gồm 3 dạng phái khác nhau
+ + Chủ nghĩa duy vật ngây thơ : là dựa vào việc quan sát một
cách trực tiếp các sự vật hiện tượng để từ đó kết luận về nó.
Chính vì vậy mà những kết luận đưa ra thường đúng nhưng không
sâu sắc, không đầy đủ, chưa phản ánh hết sự sinh đọng của thế
giới hiện thực khách quan
+ + Chủ nghĩa duy vật siêu hình : là dựa vào phương pháp
nghiên cứu sự vật trong trạng thái tĩnh tại, không tính tới
qúa trình vận động và phát triển không ngừng của sự vật; cô
lập sự vật đó với các sự vật khác. Vì vậy những kết luận đưa
ra thường không đúng và có khi làm méo mó sự vật hiện tượng.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là dựa vào phương pháp nghiên
cứu, xem xét, đánh giá sự vật ở trong trạng thái vừa tĩnh tại
vừa luôn luôn vận động phát triển không ngừng và trong mối
quan hệ với các sự vật hiện tượng khác nhau. Chính vì vậy mà
những kết luận mà họ đưa ra phản ánh đúng sự vật hiện tượng
một cách khách quan.
+ b) Chủ nghĩa duy tâm:
- là học thuyết khẳng định rằng ý thức là cái có trước, vật
chất là cái có sau, ý thức sinh ra vật chất quyết định vật
chất.


+ - Chủ nghĩa duy tâm có 2 dạng phái:
+ + Chủ nghĩa duy tâm khách quan : cho rằng có một thế giới
tinh thần, một thế giới ý niệm tuyệt đối tồn tại trước con
người, vĩnh hằng, hoàn hảo, luôn luôn vận động và biến đổi
không ngừng. Trong quá trình vận động và biến đổi đó tha hoá
nên tạo nên thế giới hiện thực. Cũng chính vì quan điểm như
vậy mà những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng


thế giới hiện thực chỉ là cái bóng của thế giới tinh thần, bị
chi phối bởi thế giới tinh thần ấy.
+ + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan : cho rằng thế giới hiện thực
là sự phức hợp các cảm giác của con người, khi cảm giác của
con người không còn thì thế giới cũng không còn tồn tại.
+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm làm thành thuyết
“Nhất nguyên luận”
+ Bên cạnh đó còn có một thuyết “Nhị nguyên luận” : ý thức và
vật chất cùng song song tồn tại, không có cái nào quyết định
cái nào, không có cái nào sinh ra cái nào.
2. Mặt thứ hai (Nhận thức luận) : bàn về việc con người có khả
năng nhận thức hay không; những hiểu biết, những tri thức của
con người có phản ánh được đầy đủ, sâu sắc bản chất về thế
giới hiện thực khách quan hay không.
+ Trong triết học hiện đại có 2 trường phái :
+ a) Trường phái Khả tri luận:
Trường phái này gồm đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa,
tuyệt đại bộ phận các nhà triết học theo chủ nghĩa duy vật ;
khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới.
Tuy nhiên khả năng nhậ thức đó lại được hiểu khác nhau:
+ - Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng

quá trình nhận thức của con người là quá trình hồi tưởng lại
của linh hồn bất tử
- Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng tri
thức là cái có sẵn dưới dạng bẩm sinh, chủ thể nhận thức chỉ
cần tạo điều kiện cho các nhận thức ấy bùng nổ.
+ - Những người thoe chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng
nhận thức là một quá trình của con người đi từ những hiểu biết
đơn giản đến những hiểu biết phức tạp, không phải là cái có
sẵn dưới dạng bẩm sinh mà đó là kết quả của quá trình hoạt
động thực tiễn của mỗi bản thân con người. Khả năng nhận thức
của con người là hữu hạn nhưng khả năng nhận thức của loài
người là vô hạn. Về nguyên tắn cho dù thế giới khách quan có
vận đọng không ngừng thì con người hoàn toàn có khả năng nhận
thức được nó.
+ b) Trường phái Bất khả tri:
Cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới, nếu có


nhận thức được thì cũng chỉ là nhận thức được hiện tượng,
không thể nhận thức được bản chất của sự vật.
Câu 2: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa vật
chất của Lênin
- Định nghĩa vật chất của Lê nin có 3 nội dung quan trọng:
+ + Thứ nhất, khẳng định vật chất là một phạm trù triết học có
nghĩa là muốn khẳng định và phân biệt vật chất với tư cách là
một phạm trù triết học (tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ
bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và được xác
định từ góc độ giải quyết vấn dề cơ bản của triết học) với
khái niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên
ngành ( tức khái niệm dùng chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm

tính, những biểu hiện cụ thể củ thế giới vật chất, tự nhiên
hay xã hội)
+ + Khẳng định vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực
tại khách quan nghĩa là: Thực tại khách quan là thuộc tính
quan trọng nhất để phan biệt vật chất và ý thức, để khẳng định
rằng đó những cái đang tồn tại độc lập với ý thức con người
trong đời sống xã hội vật chất đó là tồn
tại XH, nó không phụ thuộc vào ý thức XH.
+ + Khẳng định vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của
nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực
tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người, ý
thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất còn vật
chất là cái được ý thức phản ánh.
- ý nghĩa phương pháp luận:
+ + Khẳng định bản chất của thế gới là vật chất, vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, ý thức chỉ
là sự phản ánh, chỉ là sản phẩm của vật chất đồng thời định
nghĩa cũng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế
giới, có khả năng chụp lại, chép lại, phản ảnh thế giới vc.
+ + Định nghĩa vật chất đã bác bỏ quan điểm xuyên tạc của CN
duy tâm về CN duy vật và khẳng định bản chất của CN duy vật
luôn được "khẳng định và tồn tại", cơ sở nền tảng của CN duy
vật vẫn tiếp tục phát triển và nó cũng bác bỏ các quan niệm
trước đây về vật chất, góp phần mở đường cho các KH tự nhiên
trong việc tìm ra các hình thức mới của vật chất để chứng minh
cho sự phong phú của cấu trúc vật chất. Vì vậy nó cung cấp thế


giới quan, phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và hoạt
động cải tạo thực tiễn.

Câu 3: Quan điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất,
kết cấu của ý thức.
3.1. Nguồn gốc của ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên:
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý
học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý
thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao
là bộ óc con người.Bộ óc con người hiện đại là sản phẩm của
quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu
tạo rất phức tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các
tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn
truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan
hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện
và không điều kiện.
Hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt
động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt
động ý thức sẽ bị rối loạn. Ý thức là chức năng của bộ óc
người, là hình ảnh tinh thần phản ánh thế giới khách quan;
nhưng ý thức không diễn ra ở đâu khác ngoài hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ óc người
.Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt
động của bộ óc, thần bí hoá hiện tượng tâm lý, ý thức.
Còn chủ nghĩa duy vật tầm thường lại đồng nhất vật chất với ý
thức.Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động
của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì
cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật
chất. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống
vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác.

Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất,
thuộc tính phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp đến
cao với nhiều hình thức khác nhau
.- Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới
vô sinh, thể hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.


- Phản ánh sinh học trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình
thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới
sinh vật:
+ Tính kích thích: Thể hiện ở thực vật, động vật bậc thấp, đã
có sự chọn lọc trước những tác động của môi trường.
+ Tính cảm ứng: Thể hiện ở động vật bậc cao có hệ thần kinh,
xuất hiện do những tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật
và cơ thể phản ứng lại. Nó hoàn thiện hơn tính kích thích, được thực hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh điều khiển
mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản
xạ không điều kiện.
+ Tâm lý động vật: Là hình thức cao nhất trong giới động vật
gắn liền với các quá trình hình thành các phản xạ có điều
kiện, thông qua các cảm giác, tri giác, biểu tượng ở động vật
có hệ thần kinh trung ương.
- Phản ánh ý thức: Gắn liền với quá trình chuyển hoá từ vượn
thành người. Đó là hình thức phản ánh mới, đặc trưng của một
dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người.
Như vậy, sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người
là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội:
Để ý thức có thể ra đời, những nguồn gốc tự nhiên là rất cần
thiết nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý
thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động,

ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
- Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải
phóng 2 tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có
ý nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ vượn thành
người, từ tâm lý động vật thành ý thức. Việc chế tạo ra công
cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về mục
đích của hoạt động biến đổi thế giới.
- Trong quá trình lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực, làm chúng bộc lộ những đặc tính và quy luật vận
động của mình qua những hiện tượng nhất định. Những hiện tượng
đó tác động vào bộ óc con người gây nên những cảm giác, tri
giác, biểu tượng. Nhưng quá trình hình thành ý thức không phải
là do tác động thuần túy tự nhiên của thế giới khách quan vào
bộ óc con người, mà chủ yếu là do hoạt động lao động chủ động
của con người cải tạo thế giới khách quan nên ý thức bao giờ


cũng là ý thức của con người hoạt động xã hội. Quá trình lao
động của con người tác động vào thế giới đã làm cho ý thức
không ngừng phát triển, mở rộng hiểu biết của con người về
những thuộc tính mới của sự vật. Từ đó, năng lực tư duy trừu
tượng của con người dần dần hình thành và phát triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau
trong mối liên hệ tất yếu, khách quan. Mối liên hệ đó không
ngừng được củng cố và phát triển đến mức làm nảy sinh ở họ một
nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó", tức là
phương tiện vật chất để biểu đạt sự vật và các quan hệ của
chúng. Đó là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất
mang nội dung ý thức. Theo Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất
của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng; không có ngôn
ngữ thì con người không thể có ý thức.

Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự
ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã
hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã
hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
3.2. Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy
nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc
người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự
phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc
con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện
thông qua hoạt động lao động. Vì vậy, ý thức ... là cái vật
chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi ở trong đó”. Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra
rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo
ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái
không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về
tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những
giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính
khái quát cao.
Tuy nhiên, sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh, bởi
vì ý thức bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
- Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về
bản chất là có tính xã hội.
3.3. Kết cấu của ý thức


Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức
tạp bao gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Có

thể chia cấu trúc của ý thức theo hai chiều:
a. Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí ..., trong đó tri thức là yếu tố
cơ bản, cốt lõi.
b. Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm
thức, vô thức.
Câu4: Nội dung và ý nghĩa của phương pháp luận của nguyên lý
mối liên hệ phổ biến và nguyên lý phát triển trong phép biện
chứng duy vật?
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
- Nội dung:
+ Tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ: Nhờ
có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận động lại là phương
thức tồn tại của vật chất, là một tất yếu khách quan, do đó
mối liên hệ cũng là một tất yếu khách quan.
+ Do mối liên hệ là phổ biến, nên nó có tính đa
dạng: Các sự vật; hiện tượng trong thế giới vật chất là đa
dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì thế, khi
nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cần phải phân loại mối liên
hệ một cách cụ thể.
+ Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên
hệ chung nhất và phổ biến nhất của thế giới khách quan. Còn
những hình thức cụ thể của mối liên hệ là đối tượng nghiến cứu
của các ngành khoa học cụ thể.
- Ý nghĩa:
+ Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển
hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối
liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn
trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.

+ Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú – sự
vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác nhau các
mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch
sử – cụ thể.
* Nguyên lý về phát triển:
- Nội dung:
+ Phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật,


hiện tượng, là khuynh hướng chung của thế giới.
+ Sự phát triển có tính chất tiến lên, kế thừa liên
tục.
+ Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp,
phải trải qua những khâu trung gian, thậm chí có lúc, có sự
thụt lùi tạm thời.
+ Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật.
Nguồn gốc của sự phát triển là do sự đấu tranh của các mặt đối
lập trong bản thân sự vật.
- Ý nghĩa:
+ Khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó
con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh
hướng chung là phát triển.
+ Nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật,
phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của
chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những
biến đổi có tính chất thụt lùi. Và phải khái quát những biến
đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
+ Phải biết phân chia quá trình phát triển của sự
vật ấy thành những giai đoạn để tìm ra phương pháp nhận thức

và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh
hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển
đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
+ Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con
người.

Câu 5: Nội dung và ý nghĩa của phương pháp luận của quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập?
* Nội dung:
Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái
ngược nhau, tức những mặt đối lập trong sự tồn tại của nó. Các
mặt đối lập của sự vật vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của
sự vật. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái
niệm: mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, sự thống nhất của các
mặt đối lập, đấu tranh của các mặt đối lập để diễn đạt mối
quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong
bản thân sự vật – tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận
động và phát triển của sự vật.


* Ý nghĩa:
+ Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động,
phát triển của sự vật và là khách quan trong bản thân sự vật
nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật bằng cách phân
tích sự vật tìm ra những mặt, những khuynh hướng trái ngược
nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng.

+ Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết
phân loại mâu thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng
mâu thuẫn.
+ Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn – phù hợp
với từng loại mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn.
Không được điều hòa mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương
tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã
chín muồi.

Câu 6: Nội dung và ý nghĩa của phương pháp luận của quy luật
chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại?
* Nội dung:
Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của 2 mặt
chất và lượng và chúng có quan hệ hữu cơ với nhau. Phép biện
chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: chất, lượng,
thuộc tính, độ, điểm nút, bước nhảy để diễn đạt mối quan hệ
giữa chất và lượng trong sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng – cách thức vận động, phát triển.
* Ý nghĩa:
+ Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích
lũy dẫn những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện
kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
+ Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy
ý chí, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước
nhảy.
+ Chống lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi
lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không thực hiện bước
nhảy.
+ Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận

thức được từng hình thức bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước
nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách
kịp thời.
+ Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước
nhảy khi hội đủ các điều kiện chin muồi.


7) Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định
của phủ định
Nội dung:
Trong quá trình vận động và phát triển, sự vật mới được ra đời
trên cơ sở khẳng định và phủ định sự vật cũ. Khi hai mặt mâu
thuẫn đấu tranh với nhau mà vượt qua giới hạn độ thì sự vật
mới ra đời, phủ định biện chứng có mặt. Thế nhưng sự vật không
dừng lại ở đó mà nó lại tiếp tục đấu tranh giữa các mặt mâu
thuẫn mới và một lần nữa cái mới đó bị cái mới hơn phủ định.
Quá trình phủ định cái phủ định của sự vật đó làm xuất hiện
những sự vật mới là kết quả tổng hợp tất cả các yếu tố tích
cực mới được bổ sung và từ những lần khẳng định và phủ định
trước đó. Quy luật phát triển liên tục, điểm kết thúc của chu
kỳ này lại là điểm bắt đầu của một chu kỳ mới. Do vậy, kết quả
phủ định cái phủ định luôn luôn bao giờ cũng có hình thức mới
hơn, có nội dung toàn diện và phong phú hơn những cái ban đầu.
Tuy nhiên, sự tiến lên của sự vật không theo con
tắp mà được diễn ra theo hình “xoắn ốc”. Bởi “sự
theo đường “xoắn ốc” là biểu thị sự rõ ràng, đầy
trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự
thừa, tính lặp lại, tính tiến lên

đường thẳng

phát triển
đủ các đặc
vật: tính kế

Khi nghiên cứu về Quy luật phủ định của phủ định chúng ta
không nên máy móc trong nhận thức.
Ý nghĩa:
- Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức được
tính đúng đắn và tất yếu của sự vật bởi phát triển là khuynh
hướng chung, do đó cái mới bao giờ cũng chiến thắng. Song, quá
trình phát triển không diễn ra theo đường đường thẳng mà con
đường xoắn ốc: quanh co, phức tạp với nhiều chu kỳ và giai
đoạn trung gian.
- Sự vật ra đời sau luôn là cái mới, cái tiến bộ hơn cái trước
thế nhưng không phải lúc nào cũng như vậy, có nhiều lúc, cái
mới lại là cái thụt lùi so với cái cũ, thế nhưng sự thụt lùi
đó là những bước thụt lùi trong quá trình phát triển chung của
nó.
- Nhận thức được quy luật này chúng ta sẽ biết cách tác động
phù hợp sao cho sự vật phát triển nhanh hay chậm, tránh được


những nhận thức sai lầm, chủ quan duy ý chí và bảo thủ trong
công việc và trong các hiện tượng xã hội. Đồng thời cần phải
chống thái độ phủ định sạch trơn hoàn toàn không có gì, coi
thường giá trị truyền thống mà cần phải biết phát hiện ra cái
mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
8) Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của các phạm trù: cái
chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, nội dung và hình
thức

a) cái chung, cái riêng
Nội dung:
Cái riêng là một phạm trù TH dùng để chỉ 1 sv, một hành động,
một quá trình riêng lẻ nhất định.
Ví dụ: một hành tinh, một cuộc cách mạng, một con người.
Cái chung là một phạm trù TH dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính, những mối quan hệ giống nhau ở nhiều sv, hiện
tượng
Ví dụ: mt, vận động, lượng, chất

Ý nghĩa:
1

2

3

Cái chung là cái bản chất, quy luật chi phối mọi cái
riêng thì trong nhận thức và thực tiễn phải biết phát
hiện cái chung và vận dụng nó để cải tạo, định hướng sự
phát triển cái riêng. Phải nâng cao trình độ lý luận thì
mới tiếp cận và phát hiện ra bản chất, quy luật của sv.
Không nắm được cái chung, lý luận sẽ rơi vào mò mẫm mù
quáng.
Áp dụng cái chung vào cái riêng phải biết cá biệt hóa,
không được tuyệt đối hóa, áp dụng cho phù hợp, nếu không
cá biệt hóa, nếu áp dụng nguyên xi cái chung sẽ rơi vào
rập khuôn giáo điều
Nếu xem thường cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng sẽ rơi
vào bệnh cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa, phép vua

thua lệ làng.

b) Nguyên nhân và kết quả
Nội dung:


Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sv,
hoặc giữa các sv với nhau gây ra sự biến đổi nhất định
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau
của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sv với nhau.
Ý nghĩa:
1

Quan hệ nhân quả là kết quả, phổ biến, không có sv nào mà
lai không có nguyên nhân, những nguyên nhân chưa tìm ra,
nhưng sẽ tìm ra đó là lý do tồn tại của các KH.

2

Có thể nhận thức và vận động quan hệ nhân quả để đạt mục
đích, nếu nhiều nguyên nhân tác động cùng chiều lên sv sẽ
tăng cường chất lượng kết quả, ngược lại nếu nguyên nhân
tác động lên sv theo những hướng khác nhau, thậm chí trái
chiều nhau thì có thể làm suy yếu hoặc triệt tiêu kết
quả.
Cần phải phân loại nguyên nhân. Vì một sự vật có nhiều
nguyên nhân sinh ra, những nguyên nhân này có vai trò
khác nhau trong việc hình thành kết quả. Những nguyên
nhân bên trong, cơ bản, trực tiếp quyết định việc hình
thành kết quả. Có thể tăng cường các nguyên nhân hình

thành kết quả nếu cần, hoặc tăng cường các nguyên nhân
trái chiều để thủ tiêu kết quả nếu cần.

3

Kết quả không tồn tại thụ động, vì vậy phải khai thác vận
dụng kết quả đạt được để thúc đẩy sv phát triển

4

Phân biệt nguyên nhân, nguyên cớ, điều kiện

c) Nội dung và hình thức
Nội dung:
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những
quá trình tạo nên sự vật.
Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển sv là trật tự
kết cấu của nội dung, là hệ thống các mối liên hệ tương đối
bền vững giữa yếu tố của nó.
Ví dụ
- Nội dung của cơ thể sống là toàn bộ các yếu tố vc tạo nên
cơ thể đó
- Hình thức cách cấu tạo, sắp xếp của TB, khí quan, quá
trình , --> là sự liên hệ giữa các quá trình sinh lý, sinh
hóa, tuần hoàn, tiêu hóa, hô hấp… trong cơ thể.


Ý nghĩa:
1


2

3

Nội dung và hình thức, gắn bó hữu cơ với nhau, thì
trong hoạt động thực tiễn cần tránh sự tách rời giữa
nội dung hình thức, không được tuyệt đối hóa mặt nào
(siêu hình)
Cùng một nội dung, trong những hoàn cảnh, điều kiện
khác nhau có thể có nhiều hình thức biểu hiện và ngược
lại, phải biết sử dụng nhiều hình thức để phục vụ cho
nhu cầu cụ thể. (kinh tế nhiều thành phần)
Xem xét sv cần quan tâm tới nội dung, căn cứ vào nội
dung, nhưng phải thấy vai trò của hình thức đối với nội
dung đó. Điều chỉnh cả nội dung và hiện thực để đạt yêu
cầu thực tiễn.

Câu 9: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất
nhận thức, quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính, thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất nhận
thức: nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở
thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khác
quan.
Nhận thức là 1 quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm
đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ nhận thức thông
thường đến trình độ nhận thức khoa học,…
Quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý

tính:
Nhận thức cảm tính và lý tính có cùng chung đối tượng phản
ánh, đó là các sự vật; cùng chung chủ thể phản ánh đó là con
người và cùng do thực tiễn quy định. Đây là hai giai đoạn hợp
thành quá trình nhận thức. Do vậy, chúng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, biểu hiện: Nhận thức cảm tính là cơ sở cung cấp
tài liệu cho nhận thức lý tính; nhận thức lý tính nhờ có tính
khái quát cao hiểu được bản chất nên đóng vai trò định hướng
cho nhận thức cảm tính để có thể phản ánh được sâu sắc hơn.
Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn lý tính thì con người
chỉ có được những tri thức về đối tượng. Còn bản thân tri thức
đó có chân thực hay không thì chưa khẳng định được. Muốn khẳng


định, nhận thức phải trở về thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu
chuẩn.
Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
Khái niệm: là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích,
mang tích lịch sử- xã hội của con người nhằm cải tiến tự nhiên
và xã hội
Vai trò:
Thực tiễn là cơ sở nguồn gốc, đông lực của nhận thức
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức
chân lý
+ Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng
vận động, phát triển của nhận thức.
+ Hoạt động thực tiễn làm cho các giác quan của con người ngày
càng được hoàn thiện, năng lực tư duy lôgic không ngừng được
củng cố và phát triển.


Câu 10.Khái niệm sản xuất vật chất và phương thức sản xuất.Vai
trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội.
- Sản xuất vật chất là một loại hình hoạt động thực tiễn với
mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu
tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Với nghĩa như
vậy, sản xuất vật chất là một loại hoạt động có tính khách
quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.
- Phương thức sản xuất là những cách thức mà con người sử dụng
để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn
lịch sử nhất định.
-Vai trò:
+ Sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội, là hoạt động nền tảng làm phát sinh,
phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó là cơ sở
của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài
người.


+ Trong quá trình sản xuất vật chất con
biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội đồng
bản thân mình.Vì vậy, sản xuất vật chất
tất yếu làm cho xã hội không ngừng phát
+ Sự thay thế và phát triển của
ánh xu hướng tất yếu khách quan
hội loài người từ trình độ thấp
phong phú, đa dạng về con đường
trong lịch sử.


người không những làm
thời làm biến đổi cả
không ngừng phát triển
triển.

các phương thức sản xuất phản
của quá trình phát triển xã
đến trình độ cao, tạo nên tính
phát triển của các dân tộc

+ Quan điểm về vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối
với trình độ phát triển của sản xuất và xã hội là cơ sở để
giải thích sự phát triển của lịch sử nhân loại, đó chính là
lịch sử phát triển thay thế của phương thức sản xuất.
+ Giúp cho chúng ta nhận thức được rằng, mọi hoạt động thực
tiễn và nhận thức phải dựa trên nền tảng sản xuất vật chất.
+ Sự biến đổi của phương thức sản xuất quyết định sự biến đổi,
phát triển của xã hội do đó để thúc đẩy xã hội phát triển cần
phải thúc đẩy sự phát triển của phương thức sản xuất.

Câu 11: Nội dung, ý nghĩa quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
-Nội dung:
+ LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn
tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách
biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của QHSX với trình
độ phát triển của LLSX, đây là quy luật cơ bản của sự vận động
và phát triển của xã hội.
+ Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến
quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản

xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết
định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, có
trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất không thích
ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
+ Quan hệ về phân
sở hữu về tư liệu
chi phối, song nó
người, nên nó tác

phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ
sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất
kích thích trực tiếp đến lợi ích của con
động đến thái độ của con người trong lao


động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm nền sản
xuất.
+ Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi
QHSX cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra
đời, khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+ LLSX quyết định QHSX, nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương
đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX. QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy LLSX
phát triển. Ngược lại, QHSX lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến”
hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của LLSX sẽ
kìm hãm sự phát triển của LLSX.
+ Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là
quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sữ
nhân loại, và là quy luật cơ bản nhất.

-Ý nghĩa:
+ Muốn thúc đẩy xã hội phát triển thì phải tạo điều kiện để
phát triển LLSX, phải nâng cao chất lượng lao động, cải tạo
công nghệ, công cụ sản xuất hay nói cách khác là phải phát
triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Phải thiết lập QHSX cho
phù hợp với sự phát triển của LLSX. Đối với Việt Nam ta là
đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở đường
cho LLSX phát triển, là nền kinh tế có đa hình thức sở hữu, đa
thành phần kinh tế.
+ Mối quan hệ mật thiết giữa phát triển LLSX với xây dựng hoàn
thiện từng bước QHSX trong thời kì quá độ là mối quan hệ biện
chứng, không tách dời nhau. Qua đó, đòi hỏi chúng ta phải đẩy
mạnh việc phát triển mạnh mẽ LLSX với một trình độ khoa học
công nghệ ngày càng cao làm cơ sở cho việc lựa chọn, vận dụng
quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX. Góp phần đưa nền
kinh tế nước ta phát triển với tốc độ nhanh, bền vững, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân
cả nước.

Câu 12: Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội.Ý nghĩa phương pháp luận.
***Khái niệm:
-Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ xã hội tạo thành kết
cấu kinh tế của một xã hội nhật định.


-Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị,
pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo,… với những thể chế
tương ứng nhà nước, đảng phái, giáo hội, đoàn thể,… được hình
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.

Như vậy cơ sở hạ tầng hình thành 1 cách khách quan trong quá
trình sản xuất vật chất xã hội, trong xã hội có giai cấp cơ sở
hạ tầng cũng có giai cấp.

***Quan hệ biện chứng:
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng ( CSHT) đối với kiền
trúc thượng tầng ( KTTT).
+ CSHT nào sinh ra KTTT ấy
+ KTTT là sự phản ánh CSHT, CSHT nào cũng có sự phát triển
KTTT tương ứng tính chất của KTTT do tính chất của CSHT quy
định.
+ Khi CSHT cũ mất đi, CSHT mới ra đời thì sớm hay muộn KTTT cũ
mất đi, KTTT mới ra đời đảm bảo sự tương ứng của nó.
+ Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế
thì chiếm địa vị thống trị tinh thần mâu thuẫn trong đời sống
kinh tế quy định tính chất, mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị
tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh
tế.
- Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT.
+ Trong bất kỳ tình huống nào KTTT cũng ra sức bảo vệ và phát
triển CSHT đã sinh ra nó trong đó nhà nước là mạnh nhất gần
CSHT nhất và bảo vệ CSHT trực tiếp nhất.
+ Trong XH có giai cấp, KTTT có vai trò định hướng cho CSHT
hoạt động theo nhu cầu, mục đích của GC
thống trị trong đó
KTTT chính trị giữ vai trò định hướng cho sự phát triển kinh
tế.
+ Các bộ phận của KTTT cũng tác động trở qua lại lẫn nhau và
đều tác động qua lại đối với CSHT nhưng các bộ phận đó chỉ
thực sự phát huy tác dụng hiệu lực thông qua nhà nước, pháp

luật và các thể chế tương ứng.
+ Sự tác động trở lại của KTTT với CSHT theo 2 hướng đó là sự
tác động phù hợp với quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy


kinh tế phát triển, CSHT phát triển. Nếu không phù hợp thì sẽ
cản trở kìm hãm sự phát triển của kinh tế thạm chí đẩy nền
kinh tế rơi vào trạng thái cải tạo khủng hoảng trầm trọng.
***Ý nghĩa:
- Khi vận dụng mối quan hệ giữa KTTT tức là quan hệ chính trị
với kinh tế chúng ta phải xuất phát từ kinh tế coi trọng chính
trị nhưng không tuyệt đối hóa mặt kinh tế co nhẹ yếu tố chính
trị sẽ dẫn đến sai lầm của chủ nghĩa duy vật tầm thường.
- Không tuyệt đối hóa yếu tố chính trị coi nhẹ hoặc hạ thấp
yếu tố kinh tế sẽ dẫn đến sai lầm của chủ nghĩa chủ quan duy ý
chí.

Câu 13: Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
- Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
thể hiện: tồn tại xã hội sinh ra ý thức xã hội, còn ý thức xã
hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội; tồn tại xã hội như thế
nào thì ý
thức xã hội như thế ấy; mỗi khi tồn tại biến đổi, nhất là
phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã
hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, văn học,
nghệ thuật v.v. sớm muộn sẽ biến đổi theo.
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là

phản ánh tồn tại xã hội, nhưng không phải bất cứ tư tưởng,
quan điểm lý luận xã hội nào, tác phẩm văn học nghệ thuật nào
cũng nhất thiết trực tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế của
thời đại, mà chỉ xét đến cùng thì các quan hệ kinh tế mới được
phản ánh bằng cách nay hay cách khác vào trong những tư tưởng
đó. Bởi vì ý thức xã hội trong sự phát triển của mình có tính
độc lập tương đối.
2. Tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội
Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định. Nhưng ý thức xã
hội không hoàn toàn thụ động, nó có tính năng động, có tính
độc lập tương đối trong sự phát triển của mình .
Tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội biểu hiện
ở những mặt dưới đây:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
- Ý thức xã hội có tính vượt trước tồn tại xã hội. Đó là những
tư tưởng tiến bộ, khoa học.
- Ý thức xã hội có nhiều hình thái khác nhau, giữa chúng có sự
tác động qua lại lẫn nhau trong sự phát triển của chúng.


- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
là biểu hiện quan trọng nhất của tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội, biểu hiện tập trung vai trò của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng xã hội đối với sự phát triển xã
hội phụ thuộc vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà
trên đó nảy sinh những tư tưởng nhất định; phụ thuộc vào vai
trò lịch sử của giai cấp giương cao ngọn cờ tư tưởng đó; phụ
thuộc vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đó đối với các
nhu cầu phát triển của xã hội, phụ thuộc vào mức độ xâm nhập

của tư tưởng đó vào quần chúng đông đảo.

"Ý nghĩa phương pháp luận"
1. Khi nghiên cưú các hiện tượng ý thức, không được dừng lại ở
các hiện tượng ý thức mà phải đi sâu phát hiện những mâu thuẫn
của đời sống xã hội là nảy sinh các hiện tượng ý thức ấy .
2. Muốn khắc phục các hiện tượng ý thức cũ – xây dựng ý thức
mới phải chú ý tạo lập được hiện thực đời sống, nó là mảnh đất
tốt nảy sinh, tồn tại phát triển các hiện tượng ý thức .
3. Coi trọng cuộc cách mạng văn hóa-tư tưởng, có tác động rất
mạnh trở lại hiện thực cuộc sống. Có ý nghĩa đối với quá trình
hình thành nền văn hóa mới con người mới .
Câu 14: Quan niệm của chử nghĩa duy vật lịch sử về cá nhân và
xã hội. Quan hệ biện chứng giũa cá nhân và xã hội. Ý nghĩa
phương pháp luận của việc ngiên cứu vẫn đề này
Vai trò sáng tạo lịch sử của cá nhân:
- Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không tách
rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là vai trò của
các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân trong
cộng đồng.
- Trong xã hội, mỗi cá nhân theo vị trí, chức năng, vai trò và
năng lực sáng tạo cụ thể đều tham gia vào quá trình sáng tạo
lịch sử của cộng đồng nhân dân.
- Trong chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm lãnh tụ thường được
dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng
của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần
chúng nhân dân.
Để trở thành lãnh tụ của quần chúng nhân dân, được quần chúng
nhân dân tính nhiệm, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất
cơ bản sau đây:

+ Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế
vận động, phát triển của lịch sử.
+ Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất
ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết
những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy những tiến bộ và phát triển
của lịch sử.
+ Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì
lợi ích của quần chúng nhân dân.
- Bất cứ một thời kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch


sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong
trào quần chúng nhân dân tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ
đáp ứng nhiệm vụ đó.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân:
- Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ
thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyệt định sự
phát triển của lịch sử trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình
phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được thể hiện ở ba
điểm chính sau đây:
+ Một là, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của
mọi xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội.
+ Hai là, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất,
quần chúng nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hay
gián tiếp sáng tạo ra giá trị tinh thần.
+ Ba là, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản
của mọi cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử.

- Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc
vào các điều kiện khách quan và chủ quan.
Mối quan hệ: Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện
chứng, tác động nhau, trong đó xã hội giữ vai trò quyết định.
Nền tảng của quan hệ này là quan hệ lợi ích. Thực chất của
việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao
cho khách thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào
các quá trình kinh tế, xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển
lên trình độ cao hơn. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là
phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân không
chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển
xã hội, của hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với
tư cách là chủ thể của lịch sử, cá nhân hành động không phải
riêng rẽ mà với tư cách là một bộ phận của tập thể xã hội (gia
đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân). Nhân dân là cộng đồng lớn
nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ thể lịch sử. Cá nhân
chỉ được hình thành phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự
tác động cá nhân và xã hội mang hình thức đặc thù tuỳ thuộc
vào các chế độ xã hội và trình độ văn minh khác nhau.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người,
có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận quan trọng sau
đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người
thì không thể chỉ dơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên
của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ
phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quuan hệ kinh tế
- xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã
hội chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy,
phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người



chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến
bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người nhằm phát huy khả năng
sáng tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng
những quan hệ kinh tế - xãhội. Trên ý nghĩa phương pháp luận
đó, có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để
các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả
năng sáng tạo lịch sử của con người. Cuộc cách mạng đó cũng
thực hiện sự nshiệp giải phóng toán nhân loại bane phương thức
xây dựng mối quan hệ kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa nhằm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do
và sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho tự do và
sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết lý
đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: "mỗi
người vì mọi người,mọi người vì mỗi người".
Câu 15: Quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về quần chúng
nhân dân và vĩ nhân (lãnh tụ). Mối quan hệ biện chứng quần
chúng nhân dân và lãnh tụ. Ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu vấn đề này
Vai trò của lãnh tụ trong lịch sử
– Lãnh tụ có vai trò định hướng, dẫn dắt, tổ chức, lãnh đạo
quần chúng nhân dân tiến hành phong trào cách mạng, thúc đẩy
sự phát triển của lịch sử.
+ Để định hướng, dẫn dắt được phong trào thì lãnh tụ phải nhận
thức và khái quát được ý chí, lợi ích, nguyện vọng của qcnd
lên tầm tư tưởng.
+ Để tổ chức và lãnh đạo thành công, thúc đẩy phong trào cách

mạng thì lãnh tụ phải là người sáng suốt, đức độ, tài năng
xuất chúng, có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào.
– Đánh giá cao vai trò của lãnh tụ, cá nhân xuất chúng, nhưng
chủ nghĩa Mác lênin kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân vì
điều đó sẽ dẫn đến tình trạng chỉ thấy được vai trò quyết định
tất cả của cá nhân người lãnh đạo, không thấy hoặc xem nhẹ vai
trò của lãnh đạo tập thể và quần chúng nhân dân.
Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
– Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính của lịch
sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Bởi vì:
+ Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội,
trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu tồn
tại và phát triển của con người, của xã hội. Đây là nhu cầu
quan trọng bậc nhât của mọi xã hội ở mọi thời đại.
+ Quần chúng nhân dân là người sáng tạo và kiểm chứng những
giá trị văn hóa tinh thần. Mọi giá trị tinh thần chỉ thực sự
có ý nghĩa khi nó phục vụ quần chúng nhân dân, được nhân dân
chấp nhận, truyền bá thành những giá trị phổ biến và vật chất
hóa các giá trị đó trong hoạt động thực tiễn.
+ Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, mọi cuộc cách mạng xã
hội chỉ thành công khi nó xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng


của qcnd, có sự tham gia đông đảo, tự giác, tích cực của quần
chúng nhân dân. Do vậy, cách mạng chính là sự nghiệp của qcnd.
– Vai trò sáng tạo của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các
điều kiện sau: trình độ phát triển của phương thức sản xuất,
trình độ nhận thức của mỗi cá nhân, giai cấp, bản chất chế độ
xã hội,…Do vậy, phải có quan điểm toàn diện, phát triển, lịch

sử cụ thể khi phân tích vai trò sáng tạo lịch sử của qcnd.
Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
– Giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ là 2 mặt của một thể
thống nhất, cả 2 đều cần có nhau. Không có phong trào cách
mạng của quần chúng nhân dân thì cũng không thể xuất hiện lãnh
tụ. Những cá nhân ưu tú, những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm
của thời đại, vì vậy, họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của phong trào quần chúng.
– Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và
lợi ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu và hành động
cách mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ
lợi ích quy định. Quan hệ lợi ích là cầu nối, là nội lực để
liên kết các cá nhân cũng như quần chúng nhân dân và lãnh tụ
với nhau thành một khối thống nhất về ý chí và hành động.
– Sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện
trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử:
+ Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển sự
phát triển của lịch sử.
+ Lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt, tổ chưc lãnh đạo phong
trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.



×