KHỐI 10
KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ BẰNG TRANH:
NGƯỜI ANH HÙNG ÁO VẢI- QUANG TRUNG
1.Thời gian thực hiện
Thực hiện trong 1 tiết, sau bài 23: Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất
đất nước, bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII.
2. Thiết bị và vật tư
- Sách giáo khoa Lịch sử lớp 10, tài liệu tham khảo.
- Giấy A0, A4, bút chì, bút màu, thước kẻ.
- Máy tính có kết nối Internet.
3. Hình thức hoạt động
Làm việc theo nhóm:
- Nhóm 1: sưu tầm (vẽ) tranh chân dung Nguyễn Huệ, tìm tư liệu và trình bày về tiểu
sử của nhân vật này.
- Nhóm 2: Sưu tầm (vẽ) lược đồ, tranh ảnh, tìm tư liệu về giai đoạn hoạt động buổi
đầu của nghĩa quân Tây Sơn cho tới kháng chiến chống quân Xiêm.
- Nhóm 3: Sưu tầm (vẽ) lược đồ, tranh ảnh, tìm tư liệu về giai đoạn hoạt động từ sau
kháng chiến chống Xiêm đến kháng chiến chống quân Thanh.
- Nhóm 4: Tìm hiểu các hoạt động ghi nhớ công lao của nhân dân ta...
4. Mục tiêu
- Xây dựng được câu truyện lịch sử bằng tranh về anh hùng áo vải Quang Trung.
- Giúp HS hứng thú với bộ môn Lịch sử.
- Hình thành các năng lực khai thác, tìm kiếm thông tin, làm việc nhóm, trình bày... thể
hiện sự tự tin của HS.
5. Tiến trình thực hiện
HĐ1: Tìm kiếm thông tin
* Thông tin từ SGK.
Cá nhân đọc các bài về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến chống ngoại xâm từ
thế kỉ XVI – XVIII trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 10. Sau khi đọc xong, cả nhóm
thống nhất lựa chọn nhân vật tiêu biểu trong các thế kỉ XVI - XVIII để xây dựng
truyện tranh.
* Thông tin từ các nguồn khác.
- Nhóm trưởng phân công các thành viên trong nhóm tìm kiếm thông tin trên Internet:
tranh ảnh, tư liệu, vi deo... hình ảnh 1 nhân vật lịch sử trong giai đoạn từ thế kỉ XVIXVIII.
- Mỗi thành viên lưu lại những thông tin cần thiết phục vụ cho việc dựng truyện tranh
về nhân vật lịch sử (truyện kể, tranh vẽ, đoạn video, sơ đồ, lược đồ trận đánh...) vào
một thư mục trong máy tính.
- Mở rộng nguồn tìm kiếm thông tin về nhân vật lịch sử đã chọn thông qua sách, báo,
tạp chí, truyện... ở nhà, thư viện...
HĐ2: Xử lí thông tin
B1: Nhóm trưởng yêu cầu các thành viên trình bày kết quả tìm kiếm được.
B2: Cả nhóm thống nhất lựa chọn thông tin, hình ảnh để xây dựng sơ đồ tư duy về
nhân vật đã chọn theo các nội dung sau: tên nhân vật, tiểu sử, hoạt động, hoạt động ghi
nhớ công lao của nhân dân ta...
B3: Nhóm thống nhất viết lời dẫn, người đại diện kể chuyện.
HĐ 3: Xây dựng cốt truyện cho truyện tranh về nhân vật lịch sử
B1: Các nhóm thống nhất xây dựng cốt truyện cho truyện tranh về nhân vật đã chọn,
bao gồm các nội dung:
- Tiểu sử của nhân vật (bối cảnh lịch sử gắn với nhân vật, năm sinh, gia đình, quê
quán...).
- Hoạt động của nhân vật (gắn với cuộc khởi nghĩa/kháng chiến nào; vai trò, công lao
của nhân vật trong khởi nghĩa/kháng chiến đó; Hoạt động của nhân vật đó sau cuộc
khởi nghĩa/kháng chiến...).
- Các hoạt động của nhân dân ta để ghi nhớ công lao của nhân vật.
B2: Sắp xếp các thông tin thu thập theo nội dung cốt truyện
HĐ4 : Thiết kế và vẽ truyện tranh về nhân vật lịch sử
B1: Chọn bố cục trình bày.
Nhóm trưởng thống nhất với các thành viên để chọn bố cục trình bày của truyện
tranh trên giấy A0.
B2: Phác họa chân dung nhân vật
- Dựa và cốt truyện, lựa chọn các nhân vật điển hình liên quan đến nhân vật chính.
- Dựa vào thông tin, hình ảnh đã tìm được, nhóm trưởng phân công phác họa chân
dung nhân vật chính và các nhân vật khác có liên quan.
B3: Vẽ, sưu tầm tranh minh họa từng nội dung của câu truyện.
Với từng nội dung, mỗi thành viên được phân công vẽ nhân vật với biểu cảm,
hành động phù hợp, kết hợp vẽ bối cảnh xung quanh, tô màu để tạo thành bức tranh
hoàn chỉnh.
B4: Viết lời thuyết minh
Viết riêng lời thuyết minh cho từng bức tranh ra giấy A4.
HĐ5 : Báo cáo, trình bày sản phẩm
- Ghép lời thuyết minh cho các bức tranh thành câu truyện để hoàn chỉnh.
- Trình bày kết hợp tranh vẽ và lời kể theo trật tự nội dung cốt truyện.
- Dự kiến sản phẩm:
Nhóm 1:
THỜI NIÊN THIẾU
Tại một làng quê có tên phú lạc (thuộc xã Bình An, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình
Định ngày nay), có một gia đình họ Nguyễn có ba người con trai tên: Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1752 - tuy là em út, nhưng vóc dáng
cao lớn, luôn sẵn lòng giúp gia đình, các anh làm được nhiều việc. Nguyễn Huệ đã
sớm tỏ ra là một con người thông minh, mưu trí, nhân từ...
Tuổi thơ, Huệ giúp gia đình thả bò đi ăn ở mạn Nam sông Côn; thường hay bày
trò "đánh giặc giả" với đám chăn bò trong các làng lân cận. Phe của Huệ luôn giành
phần thắng, nên lũ trẻ rất thích... theo phe Huệ!
Theo truyền thuyết dân làng kể lại, một lần nọ, có một người lạ mặt tìm đến đám
chăn bò, có ý thuê một đứa giúp ông một việc: Lặn xuống đáy một hồ nước cạnh chân
núi, bỏ một chiếc hộp vào miệng một khe đá là miệng của một con rồng. Ông sẽ
thưởng cho mười lạng bạc! Nguyễn Huệ sớm biết mưu đồ, thâm ý của ông, nên tuy
không có đứa nào dám nhận lời - Huệ cương quyết lãnh nhận. Nguyễn Huệ lặng sâu
xuống đáy vực, theo lời dặn dò, Huệ tìm thấy miệng hang của một con rồng. Ông
không bỏ chiếc hộp vào, mà tìm một khe đá khác nhét hộp vào. Nguyễn Huệ trồi lên
mặt nước, lên bờ - người đàn ông vui mừng trao cho Nguyễn Huệ mười lạng bạc!
Người đàn ông lạ một ấy là một thầy địa lý nổi tiếng, ông muốn tìm long huyệt, để
chôn hài cốt của cha mình, sau này ông và con cháu sẽ có mạng Đế Vương, quan to,
hay giàu có. Ông đã không ngờ được một cậu bé chăn bò đã hiểu thâm ý, đánh lừa ông
dễ như chơi.
Người anh cả của Nguyễn Huệ ngoài việc đồng áng, trồng trọt, còn có nghề đi
buôn. Ông chèo thuyền lên mạn ngược, tìm mua trầu lá của các làng người dân tộc
Bana, Rađê; rồi xuống thuyền về An Thái (xã Nhơn Phúc) để bán. Nguyễn Huệ cũng
được anh nhờ theo hộ tống ghe thuyền, vì dọc đường có thể bị cướp.
Ba anh em theo học chữ với thầy Nguyễn Văn Hiến - thường gọi là thầy giáo
Hiến - ở An Thái. Thầy giáo Hiến là người rất giỏi văn chương, lại rất đạo đức; được
dân chúng ca ngợi. Chính ông đã đặt vào tâm hồn Nguyễn Huệ lòng yêu quý văn thơ;
đặt nền móng cho những ước mơ xây dựng nền văn học chữ Nôm sau này của Nguyễn
Huệ.
Người thầy dạy võ đầu tiên cho ba anh em Nguyễn Nhạc, là ông Đinh Văn
Nhưng - tục gọi ông Chãng. Cả ba anh em phải khăn gói, mang gạo thóc xuống tận
Phương Danh (xã Đập Đá - huyện An Nhơn) để tầm sư học võ. Ông Chãng có tướng
người to con, thô kệch, rất giỏi võ nghệ, tính tình cương trực, nóng nảy. Ông cũng là
một trong số rất ít gia đình có công khai hoang, lập ấp, xây dựng làng ấp; mở rộng bờ
cõi cho An Nhơn...
Trong ba người học trò này, ông thường ngợi khen Nguyễn Huệ là người rất
mưu trí, không những thông thuộc các thế hệ võ ông đã dạy, mà còn có nhiều sáng
kiến, biến hoá riêng. Ông cũng thường để Nguyễn Huệ ra thử đấu với ông, để thử tài
cao thấp. Lần nào Nguyễn Huệ cũng được ông nể phục.
Nước Nam lúc bấy giờ đã bị phân chia làm hai miền, lấy Sông Gianh làm giới
tuyến: Họ Nguyễn hùng cứ phương Nam - gọi là Đàng trong (hay Nam Hà). Họ Trịnh
tự xưng chúa phương Bắc - Đang ngoài (Bắc Hà). Trên tuy còn có Vua Lê, nhưng
quyền hành thuộc cả vào tay hai chúa Trịnh - Nguyễn. Trong nước đã có Vua, lại có
chúa, nên Vua chẳng phải là Vua, tôi không phải là tôi: Nước Nam đang ở vào thời
nhiễu loạn, phân hoá trầm trọng.
Về sau, Đàng Trong có đại thần Trương Phúc Loan chuyên quyền, làm bậy
Đàng Ngoài, có kiêu binh chúa Trịnh làm loạn, giết hại các quan đại thần trung tín với
nhà lê. Vua phải hạ mình, nhún nhường chịu phục; còn đình thần phải khoanh tay im
lặng: Nước Nam đang ở vào thời đại loạn.
Trước tình cảnh ấy, ba anh em Nguyễn Huệ quyết định khởi binh, phát xuất từ
ấp Phú Lạc (Tây Sơn) vào năm 1771 - tiến đánh các huyện An Khê, An Nhơn, Tuy
Viễn... Đoàn quân tấn công ở đâu, đều được dân chúng ủng hộ, giúp đỡ, xin gia nhập
vào nghĩa binh ngày một đông. Đến năm 1773 - đội quân hùng mạnh của Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã chiếm được thành Qui Nhơn - làm căn cứ địa vững
chắc cho cuộc khởi nghĩa...
Nhóm 2:
NGUYỄN HUỆ ĐÁNH NAM - DẸP BẮC
Sau một thời gian cũng cố thế lực, chuẩn bị quân lương - đội quân Tây Sơn đã
tạo được nhiều thanh thế lừng lẫy qua các trận đánh đều thắng lợi, quần chúng tin theo
rất đông. Nhận thấy ở Đàng Trong loạn thần Trương Phúc Loan chuyên quyền hà hiếp,
cướp bóc, giết hại dân lành, chế độ nhà Nguyễn thối nát, dân tình rất cực khổ. Nguyễn
Huệ đã cùng các anh là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ tiến quân vào Nam, Nguyễn Huệ đã
dốc sức giúp anh chiến thắng vẻ vang, nhưng sau đó đều rút quân về Qui Nhơn, chỉ
lưu lại một võ tướng và vài đạo binh để trấn giữ thành... Vì vậy, tàn quân của Chúa
Nguyễn - các con cháu lưu lạc, có cơ hội tập hợp binh mã, nổi lên chống cứ lại quân
Tây Sơn hòng chiếm lấy thành Gia Định, dựng lại nghiệp chúa như xưa.
Sau nhiều lần bại trận trước quân Tây Sơn, các tướng nhà Nguyễn đã lập Nguyễn Ánh
làm chúa,chiếm lại được thành Gia Định. Dưới sự giúp sức của Pháp, Bồ Đào Nha,
Xiêm La, quân Nguyễn Ánh nhiều lần giao chiến với quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ
chỉ huy nhưng đều thất bại, Nguyễn Ánh phải cầu cứu vua Xiêm.
Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), vua Xiêm cử hai tướng là Chiêu Tăng và Chiêu
Sương dẫn 2 vạn thủy quân cùng 300 chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Ánh. Ngoài ra
còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp nhằm tạo gọng kìm phía tây, chờ cơ hội tiêu
diệt quân Tây Sơn. Quân Xiêm nhanh chóng lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn,
Mân Thít, Sa Đéc, ra tay cướp phá bừa bãi. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh
vào chống giữ. Sau một vài lần giao tranh, Nguyễn Huệ quyết định bố trí trận địa ở
Rạch Gầm và Xoài Mút (thuộc tỉnh Tiền Giang) để đánh một trận lớn tiêu diệt quân
Xiêm.
Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút
Trận thủy chiến tại Rạch Gầm - Xoài Mút diễn ra trong một ngày đã tiêu diệt
gần như hoàn toàn 2 vạn quân Xiêm, số còn sống sót chỉ được vài nghìn tên chạy trốn
về nước. Cánh quân bộ nghe tin thất trận cũng tan rã và tháo chạy. Hai tướng Chiêu
Tăng, Chiêu Sương chạy theo đường bộ về Xiêm; còn Nguyễn Ánh phải chạy ra đảo
Thổ Chu sau đó sang Xiêm. Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút đã khiến cho vua
Xiêm khiếp sợ, uy thế nhà Tây Sơn được nâng cao và khẳng định tài cầm quân xuất
chúng của Nguyễn Huệ.
Mặt trận Đàng Trong đã tạm yên, Nguyễn Huệ tức tốc đem binh ra Bắc Hà "hỏi
tội lộng quyền, bức hiếp đình thần, truất quyền của Vua Lê, lại xâm hại dân chúng"
của chúa Trịnh. Với lá cờ thêu bốn chữ vàng "Phù Lê, diệt Trịnh"; Nguyễn Huệ đã
được đông đảo quan quân, dân chúng nhiệt tình ủng hộ.
Chỉ trong một tháng, quân Tây Sơn đã đánh chiếm đến thành Phú Xuân - các đội
quân thuỷ bộ thẳng đường tiến ra Bắc Hà. Quân của Chúa Trịnh chống cự lại quyết
liệt. Nguyễn Huệ luôn đi đầu hàng quân, tiến đánh như vũ bảo; quân sĩ một lòng trung
kiên dưới cờ "Phù Lê, diệt Trịnh" của Nguyễn Huệ; tấn công quân Trịnh, chiếm giữ
nhiều cứ điểm quan trọng.
Quân Tây Sơn lần lượt tiến chiếm Thuận Hoá, đến tận sông Gianh, rồi chiếm
Nghệ An, Thanh Hoá... khiến cho họ Trịnh hốt hoảng, cố ngăn giữ đoạn sông chảy qua
Sơn Nam. Nguyễn Huệ đã dùng mưu, lợi dụng đêm tối, ông cho năm chiếc thuyền chở
đầy rơm, người nộm bằng rơm, tiến về phía địch. Quân Trịnh bắn ra tới tấp. Đạn hết.
Nguyễn Huệ mới bắt đầu mở cuộc tấn công thực sự. Ông toàn thắng. "Đường đến kinh
đô đã mở..."
Chúa Trịnh chạy lên Tây Sơn, giữa đường ông ta bị dân chúng vây bắt, và lúc
sắp bị nộp cho quân Tây Sơn thì ông tự tử chết. Chế độ Chúa Trịnh đã bị tiêu diệt, sau
240 năm trời tồn tại (1545 - 1786). Nguyễn Huệ tiến vào thành Thăng Long giữa tiếng
reo hò, chúc mừng vang dậy. Tấm chiến bào ông đang mặc đã xám đen thuốc súng, đất
bụi của cuộc chiến chinh.
Làm chủ được kinh thành, Nguyễn Huệ thực hiện một kỷ luật nghiêm minh
trong quân và lập lại trật tự bằng một sự công bằng nhanh gọn. Đúng vào hôm sau kéo
quân vào thành Thăng Long, Nguyễn Huệ đến yết kiến Vua Lê Hiển Tông - vị vua lên
ngôi từ năm 1740 dưới lòng họ Trịnh, bây giờ đã gần 70 tuổi. Nhà Vua tiếp Nguyễn
Huệ ở cung Vạn Thọ. Ông ta đã cho Nguyễn Huệ đến ngồi bên cạnh mình. Nguyễn
Huệ biểu hiện lòng trung thực với nhà Vua: Ông đến đây nhằm bảo vệ triều đại nhà
Lê, muốn nhìn thấy nhà Lê hưng thịnh mà thôi...
Ngày 7 tháng 7 âm lịch, ngày lành - giữa rừng cờ tung bay trước gió, và những
tiếng trống cồng vang động, Nguyễn Huệ cùng một số tướng lĩnh đến điện Kinh Thiên,
có đủ bá quan văn võ nhà Lê tham dự... Lạy xong năm lạy, Nguyễn Huệ dâng lên Vua
Lê những sổ binh và sổ hộ, với ý nghĩa triều Lê đã nắm lại thực quyền. Hiển Tông
phong cho ông chức tướng, tước Uy Quốc Công và gả công chúa Ngọc Hân cho
Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ kéo quân về đóng ở Phú Xuân, chỉ giao cho Nguyễn Hữu Chỉnh ở
lại Bắc Hà, trợ giúp Vua Lê xây dựng lại triều chính, đất nước. Vua Lê Hiển Tông
băng hà, cháu là Lê Chiêu Thống lên nối ngôi. Sự yếu đuối, bất tài của Lê Chiêu
Thống không vực dậy được một triều đại đã tan rã, kiệt quệ... Ngay tháng sau đó, họ
Trịnh đã quay trở lại dùng vũ lực thiết lập lại những đặc quyền, đặc lợi của mình. Sự
lấn át quyền hành của họ Trịnh nặng nề đến mức nhà Vua phải mất công sai người đến
cầu cứu với Nguyễn Hữu Chỉnh.
Gặp dịp thuận lợi cho ý đồ mưu phản, mong chiếm trọn Bắc Hà, Nguyễn Hữu
Chỉnh vội vã kéo một vạn quân về Thăng Long đánh bại quân của Trịnh Bồng, rồi nắm
lấy mọi quyền hành, tự xem mình là chủ đất Bắc.
Theo lời khuyên đầy thâm ý của Chỉnh, Vua Chiêu Thống đã nhẹ dạ, khiếp
nhược cử phái đoàn vào Nam xin lại đất Nghệ An; mà sẽ đem lại mối lợi lớn cho
Chỉnh sau này. Nguyễn Huệ được tin Nguyễn Hữu Chỉnh tạo phản, đang nổ lực xây
dựng thanh thế ở Bắc Hà, hòng tiến đánh Tây Sơn, chiếm ngôi nhà Lê; liền sai Võ Văn
Nhậm ra Bắc trị tội Chỉnh...
Viên tướng Tây Sơn đã đánh tan quân Bắc Hà, tiến vào kinh thành và nhà Vua
đã bỏ chạy... Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt, và bị hành hình; Lê Chiêu Thống phải phiêu
bạt, lẫn trốn nhiều nơi. Về sau, Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu phải chạy sang
Tàu, cầu cứu nhà Thanh... Trong lúc đó, Võ Văn Nhậm say men chiến thắng, lại được
triều thần nhà Lê sũng ái, có nhiều quyền lực trong tay, nên bắt đầu chuyên quyền và
lại muốn tạo phản. Lần này, chính Nguyễn Huệ cầm quân ra Bắc Hà dẹp loạn. Quân
Võ Văn Nhậm thua trận.Võ Văn Nhậm bị bắt và hành hình vì tội phản nghịch. Nguyễn
Huệ triệu tập các viên chức nhà Lê, cho phục hồi chức vị; ông không nỡ diệt nhà Lê,
nên sau khi lập lại trật tự, ông giao việc cai quản Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, rồi trở về
Phú Xuân... Từ đất Quảng Ngãi trở ra đến Sông Gianh, thuộc quyền cai quản của
Nguyễn Huệ - Nguyễn Nhạc đã phong cho ông là Bắc Bình Vương. Ông hùng cứ ở
Phú Xuân, ngày đêm lo việc quân binh, chăm lo đời sống của dân chúng về mọi mặt...
Nhóm 3:
VUA QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN THANH
Vua Lê Chiêu Thống đã mấy lần toan khôi phục lại nhà Lê nhưng không được,
phải nương náu ở Lạng Giang. Bà Hoàng Thái Hậu thì đem Hoàng tử sang Long Châu
kêu van với quan Tàu xin binh cứu viện. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quãng là Tôn Sĩ
Nghị dâng biểu lên Vua Càn Long nhà Thanh rằng: "... Họ Lê là cống thần nước Tàu,
nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương. Và
nước Nam vốn là đất cũ của Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê và lấy được đất An
Nam, thật là lợi cả đôi đường”. Vua Càn Long nghe lời tấu ấy, sai Tôn Sĩ Nghị khởi
binh bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu, Vân Nam đem sang đánh Tây
Sơn...
Tướng Tây Sơn giữ Thăng Long là Ngô Văn Sở được tin quân Tàu đã sang, sợ
thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thuỷ bộ về đóng giữ từ núi Tam Điệp ra đến bờ
biển, rồi sai người về Phú Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị Kéo đại binh
vừa đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Lê Chiêu Thống vội ra chào mừng rồi theo quân
Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa bãi về mé nam sông Nhị Hà, cho bắc
cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia quân ra đóng giữ các mặt. Ngày hôm sau,
Sĩ Nghị làm lễ tuyên đọc tờ sắc của Vua nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An
Nam Quốc Vương. Vua Chiêu Thống tuy được thụ phong nhưng các tờ văn thư đều
phải để “niên hiệu Càn Long”. Mỗi khi buổi chầu xong lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu
chực việc cơ mật, quân quốc. Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, xử với vua rất khinh bạc.
Người bấy giờ bàn với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế Vương đến giờ, không
thấy Vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm Vua, mà phải theo niên hiệu Vua Tàu, việc
gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc Sĩ Nghị, thế là có khác gì đã là nội thuộc, nô lệ
rồi không?". Vua và triều thần bấy giờ việc gì cũng trông vào Tôn Sĩ Nghị, ngày đêm
lo việc báo ân, báo oán, giết hại những người trước đã theo Tây Sơn. Sĩ Nghị thì ngày
càng kêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả binh ra cướp phá dân làng, làm
lắm sự nhũng nhiễu...
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ được tin quân nhà Thanh đã sang đóng ở Thăng
Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh; các tướng đều xin
Nguyễn Huệ hãy chính ngôi tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi binh. Nguyễn Huệ bèn
sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, phía nam thành Phú Xuân, ngày 25 tháng 1 năm Mậu Thân
(1778), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là Quang Trung. Sắc phong cho Công
chúa Ngọc Hân làm Hoàng Hậu; con trai là Nguyễn Quang Toản làm Thái tử.
Hoàng đế Quang Trung tự mình thống lĩnh thuỷ bộ đại binh lên đường tiến ra
Bắc Hà. Đến Nghệ An, cho quân nghỉ dưỡng 10 ngày, để chọn lấy thêm binh. Cả thảy
được 10 vạn quân, và hơn 100 con voi.
Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ thủ bảo mọi người phải cố gắn
đánh giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Để cuộc hành quân được nhanh chóng,
đúng như dự tính. Vua sai bảo đem theo võng: Hai người khiên một, sau đó lại đổi chỗ
nghỉ cho nhau để bảo vệ sức khoẻ. Ngày 20 tháng chạp, Mậu Thân - 1788, đoàn quân
đã đến núi Tam Điệp: Các tướng Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm đều ra tạ tội, kể chuyện
quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui về, giữ chỗ hiểm yếu chờ lệnh
nhà Vua.
Vua Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này làm vua cái chết
đó thôi. Ta ra chuyến này, đích thân coi việc quân đánh giữ, đã định sách lược mưu kế
rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước
lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu
báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế! Vậy
đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhậm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc
chiến tranh. Đợi mười năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không
cần phải sợ chúng nữa!"
Hoàng Đế Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước, để đến
hôm trừ tịch (tối 30 tháng chạp) thì hành quân đi. Nhà Vua quyết định ngày Mồng Bảy
Tết sẽ vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Vua Quang Trung tuyên bố trước tướng sĩ:
"Trước hết, ta hãy ăn tết cho thoả thuê, rồi ta sẽ ra Thăng Long vào ngày Mồng Bảy tiếp tục vui xuân. Các khanh hãy nhớ lấy lời ta!". Nói rồi vua Quang Trung truyền
lệnh: "Đại tư mã Sở, Nội hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem
quân đi đốc chiến. Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thuỷ quân vượt
qua bể vào sông Lục Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé
sông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phương Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân
Tàu chạy về. Đại đô đốc Bảo, Đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tướng mã đi đường
núi ra đánh phía tây. Mưu thì xuyên qua huyện Chương Đức (nay là Chương mỹ) tiện
đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì; đánh quân Điều Châu; Bảo thì
thống xuất quân thượng mã theo đường huyện Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện
Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả...".
Năm cánh quân được lệnh truyền của Hoàng Đế, đều thu xếp, chuẩn bị thật chu
đáo, chờ đến hôm 30 tháng chạp đều xuất phát lên đường... Sáng sớm ngày 30, các
đoàn quân đều khua trống chiêng vang động, náo nức tiến ra Bắc. Năm đoàn quân cờ
xí rợp trời, mỗi đoàn một hướng, rầm rộ hành quân theo lệnh đã truyền như một ngày
Hội lớn... Khi đoàn quân tiến sang sông Giảng Thuỷ (giáp giới tỉnh Ninh Bình và Hà
Nam), cánh quân của nhà Lê tan vỡ, bỏ chạy cả. Vua Quang Trung đích thân đốc các
quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên, bắt sống được hết toán quân Tàu đóng ở đấy,
không một người nào chạy thoát được. Vì thế nên không có tin báo về, đám quân Tàu
đóng ở làng Hà Nội và làng Ngọc Hồi không biết được tin tức gì cả.
Nửa đêm mồng 3 Tết năm Kỷ Dậu (1789) quân Vua Quang Trung đến làng Hà
Nội vây kín đồn giặc, rồi bắt loa lên gọi, các cánh quân dạ rầm cả lên có hàng muôn
người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi, hoang mang, đều xin hàng. Bởi thế lấy
được hết cả quân lương và khí giới. Sáng tinh sương ngày mồng Năm, quân Tây Sơn
tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung sai
người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ thấm nước quấn ở
ngoài, rồi truyền sai quân kiêu dũng, cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt
theo một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới đi theo sau. Vua Quang Trung cỡi
voi đi đầu đốc chiến, quân ta vào đến gần nửa đồng, bỏ ván xuống đất rút dao ra, xông
vào chém. Quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao
tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Tây Sơn thừa thế đánh tràn đi như vũ bão, lấy
được hết các đồn bót, giết quân nhà Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy
như tháo nước.
Các đạo quân khác cũng báo tin về được toàn thắng: Quan nhà Thanh là Đề đốc
Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Sĩ Long, Tả dực Thượng Duy Thăng đều bị tử trận
cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống ở Đống Đa (ở cạnh Thái Hà ấp, gần Hà
Nội) bị quân Tây Sơn vây đánh, cũng thắc cổ tự vẫn... Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nửa đêm
được tin báo, hốt hoảng không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáp, đem mấy tên kỵ mã
chạy qua sông sang Bắc, trốn về nước. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã
chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một lát sau cầu gãy đổ, sa cả xuống sông chết đuối,
sông Nhị Hà đầy những thây người chết...
Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với bà Hoàng Thái
Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu. Đạo quân Vân Nam và Quý Chân đang ở
miền Sơn Tây (trước đất Phú Thọ, Vĩnh Yên thuộc địa hạt tỉnh Sơn Tây) nghe tin quân
Sĩ Nghị đã thua to, cũng rút quân trốn chạy về nước...
Vua QuangTrung tiến vào Thăng Long (Nguồn:Bảo tàng Quang Trung Bình Định)
Ngày hôm ấy, Vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, xông pha trận mạc, áo ngự
bào bị thuốc súng bắng vào đen như mực. Đến trưa, thì vào thành Thăng Long, sai
tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa ải Nam Quan mới dừng lại. Hoàng
Đế Quang Trung vào thành Thăng Long hạ lệnh chiêu an, vãn hồi trật tự; những người
lính Tàu thú tội đều được cấp cho quần áo và lương ăn. Vua Quang Trung còn bắt
được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong các giấy tờ thu được có cả tờ mật dụ của
Vua Càn Long gửi cho Sĩ Nghị. Vua Quang Trung xem trong tờ mật dụ bảo với Ngô
Thì Nhiệm: "Ta xem tờ chiếu của Vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để
lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận dữ dội, tất là lấy làm xấu hổ, chắc
không chịu để yên. Hai nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói
khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà ngươi chủ trương thực hiện cho
mới được".
Công cuộc đánh dẹp, bình định ở Bắc Hà xong; Vua Quang Trung đem quân về
Nam; lưu lại Ngô Văn Sở và Phan Văn Long trông coi các việc quốc quân. Còn những
việc từ lệnh giao thiệp với nước Tàu thì uỷ thác cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích
cho được tự do sử lý, thực hiện. Nếu không có việc hệ trọng, thì cũng không cần tâu
báo lại làm gì.
Đời sống, sinh hoạt của người dân ở Bắc Hà đã trở lại an bình, hưng phấn. Nhất
là dân chúng ở kinh thành Thăng Long thì rất đỗi vui mừng, vì từ nay sẽ không còn bị
lệ thuộc, áp bức, lầm than. Nước nhà đã thống nhất, đã được độc lập; sống thời thái
bình, hạnh phúc...
Nhóm 4:Các hoạt động ghi nhớ công lao của nhân dân ta...
Để kỷ niệm chiến thắng vang dội của dân tộc, tưởng nhớ
công tích lẫy lừng của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và tưởng niệm các chiến sĩ
vong trận trong đại chiến thắng Đống Đa, hàng năm vào ngày mùng 5 tết Nguyên Đán,
nhân dân lại tưng bừng mở Hội gò Đống Đa tại gò Đống Đa, phường Quang Trung,
quận Đống Đa, Hà Nội.
Việc dâng hương tưởng nhớ Anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ mỗi dịp Tết đến,
Xuân về là một hoạt động thể hiện lòng thành kính, tri ân và tôn vinh công lao to lớn của phong
trào Tây Sơn và người anh hùng dân tộc “áo vải cờ đào” Quang Trung; đồng thời, khơi dậy niềm
tự hào, giáo dục và phát huy truyền thống yêu nước vẻ vang của dân tộc đối với lớp lớp thế hệ
con cháu hôm nay và mai sau.
Đền thờ hoàng đế Quang Trung (Núi Dũng Quyết, TP. Vinh). Ảnh: Sỹ Minh.
6. Đánh giá sản phẩm
* Tiêu chí đánh giá.
- Về sản phẩm:
+ Cốt truyện sát với nội dung lịch sử được trình bày trong SGK; có đủ thông tin bằng
tranh vẽ về các nội dung đã nêu trong cốt truyện có phần thuyết minh bằng lời kèm
theo mỗi tranh vẽ.
+ Trong các bức tranh đều có nhân vật và bối cảnh; các nhân vật giống hoặc gần giống
với miêu tả về nhân vật trong SGK (nếu có), trang phục phù hợp với thời kì kịch sử,
bối cảnh trong tranh phù hợp với bối cảnh lịch sử.
+ Truyện tranh được vẽ trên giấy A0 có phân chia bố cục, trình bày theo nội dung cốt
truyện.
- Về hoạt động:
+ Tất cả các thành viên trong nhóm đều đóng góp vào sản phẩm truyện tranh nhân vật
lịch sử.
+ Giữa các thành viên có sự thảo luận, tranh luận để xây dựng nội dung cốt truyện và
phác họa chân dung nhân vật.
+ Các thành viên trong nhóm phối hợp ăn ý, nhịp nhàng với nhau trong khi thực hiện
các công việc được phân công.
* Phiếu đánh giá hoạt động
- Cá nhân tự đánh giá/đánh giá đóng góp của các thành viên trong nhóm theo các mức độ 0, 1, 2, 3, 4.
Họ và tên thành
viên
Mức độ đóng góp
- Cả nhóm thống nhất tự đánh giá các nội dung bằng cách khoanh tròn vào các mức độ A, B, C, D.
Nội
dung
Mức độ
Tinh thần làm việc nhóm
A
B
C
D
Hiệu quả làm việc của
nhóm
A
B
C
D
Trao đổi thảo luận trong
nhóm
A
B
C
D