Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Triết lý nhân sinh của Đạo gia và ảnh hưởng của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV XVIII (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.96 KB, 159 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các trường phái triết học thời kỳ Tiên Tần, tư tưởng Đạo gia có nội
dung phong phú, sâu xa và uyên thâm nhất. Bởi vì lần đầu tiên trong lịch sử triết
học Trung Quốc, Đạo gia đã luận bàn về vũ trụ quan và trên cơ sở đó luận giải
các nội dung cịn lại trong hệ thống triết học của mình như nhận thức luận, phép
biện chứng và nhân sinh quan. Qua đó cho thấy tư tưởng Đạo gia là hệ thống
triết học hồn chỉnh, mang tính logic và khái qt cao. Tuy nhiên, đóng góp quan
trọng nhất của triết học Đạo gia vẫn là ở vấn đề nhân sinh, vì mục đích cuối cùng
của Đạo gia khơng chỉ luận giải những vấn đề mang tính nhận thức mà cịn
hướng con người hành động theo Đạo, theo những năng lực vốn có của Đức,
thuận theo những quy luật của tự nhiên nhằm đạt được sự tự do, tự tại, thoát khỏi
sự ràng buộc của thế giới “hữu vi” để đến với thế giới “vơ vi” nhằm bình trị xã
hội. Vì vậy, triết lý nhân sinh của Đạo gia đã bàn đến mọi mặt về con người và
xã hội một cách rất đặc sắc và phong phú, từ việc sống đến việc chết, từ việc
phải đến việc trái, đến hư tĩnh, không làm, bản chất con người, đạo làm người,
chế độ chính trị - xã hội,… Trong hệ thống triết học của Đạo gia khơng có chỗ
nào mà lại khơng luận bàn vấn đề nhân sinh. Cho nên, nghiên cứu triết lý nhân
sinh của Đạo gia để góp phần hệ thống hố triết học Đạo gia là một vấn đề mang
tính cần thiết hiện nay.
Mặt khác, triết lý nhân sinh của Đạo gia đã khơng chỉ có giá trị đối với lịch
sử tư tưởng, văn hoá Trung Quốc và một số quốc gia phương Đơng mà cịn có
giá trị lý luận và thực tiễn đối với nhân loại ngày nay. Bởi vì, thế giới mà chúng
ta đang sống là thế giới của những thay đổi lớn. Với những thành tựu phi thường
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, với sự xuất hiện nền kinh tế
tri thức, q trình tồn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng, đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội biến chuyển khơng ngừng. Tuy nhiên, loài người ngày nay cũng
đang phải đối mặt trước nhiều thử thách mang tính chất tồn cầu, như: khủng
hoảng kinh tế, chính trị, xã hội, văn hố; chiến tranh cục bộ với nhiều hình thức
sắc tộc, dân tộc, tơn giáo; nạn khủng bố, bùng nổ dân số, đói nghèo và bệnh tật,


ơ nhiễm mơi trường, biến đổi khí hậu tồn cầu, sự cạn kiệt tài nguyên, năng


2
lượng… Những hiểm hoạ đó nếu khơng giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng đến sự
tồn vong của nhân loại.
Những hậu quả đó của lồi người do đâu mà có? Dưới góc độ nhân sinh
quan của Đạo gia, có thể thấy là do con người quá “hữu vi” vào thế giới, vì lợi
ích mà con người đã hành động trái với quy luật, không thuận theo lẽ tự nhiên,
nhằm thực hiện ước mơ “chinh phục”, “làm chủ tể giới tự nhiên”, bất chấp mọi
tác hại đối với tự nhiên. Cho nên, nghiên cứu triết lý nhân sinh của Đạo gia sẽ
giúp con người văn minh hiện nay nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải sống hoà
hợp với tự nhiên, thuận theo tự nhiên và giữ gìn mơi trường sống lành mạnh cho
chính mình.
Tư tưởng Đạo gia đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm cùng một ngàn năm
đô hộ phương Bắc. Dễ nhận thấy tư tưởng Đạo gia không được giai cấp cầm
quyền phong kiến Việt Nam sử dụng làm hệ tư tưởng thống trị. Vì lẽ tư tưởng
Đạo gia thường hướng con người đến tự do theo bản ngã của cá nhân, đó là
khơng vụ lợi, khơng mưu cầu danh vọng, không đua tranh với người, với đời.
Tuy nhiên, tư tưởng Đạo gia đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều lĩnh vực trong tư
tưởng của người Việt, đặc biệt đối với tầng lớp trí thức. Vì vậy, triết lý nhân sinh
của Đạo gia đã trở thành tư tưởng đối lập với Nho gia trong sự thống trị của các
triều đại phong kiến, nó như là chuẩn mực của con người hướng đến cái chân,
thiện, mỹ. Vì vậy, triết lý nhân sinh của Đạo gia đã trở thành một trong ba tư
tưởng truyền thống đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Điều này được biểu hiện rõ nét trong lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ
XV - XVIII. Bởi vì trong giai đoạn này, xã hội diễn biến phức tạp, chế độ phong
kiến ngày càng lũng đoạn dẫn đến nền kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng, xã hội
loạn lạc, văn hoá dân tộc ngày càng xuống cấp, đời sống nhân dân lầm than cơ
cực, nỗi đau của nhân dân cứ chảy âm ỉ trong lòng xã hội vì sự xâu xé, tranh

giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra triền miên, hết đấu tranh
giữa Trịnh - Mạc rồi đến Trịnh - Nguyễn phân quyền cát cứ đã mất ngót hàng thế
kỷ. Đứng trước thời cuộc loạn lạc đó của xã hội đã khơng ít người quyết chí “dùi
mài kinh sử” theo con đường khoa bảng Nho học, bon chen chốn quan trường
với mong muốn góp phần vào khắc phục sự khủng hoảng xã hội, đưa đất nước
trở lại thời kỳ hưng thịnh. Nhưng cũng khơng ít nhà tư tưởng nhìn thấy sự mục


3
rữa, thối nát của thời đại phong kiến lúc bấy giờ nên họ đỗ đạt khoa bảng nhưng
nhất quyết không chịu ra làm quan hay một số khác lại từ quan lui về ẩn dật,
không chịu làm nô lệ cho cái phi nghĩa, vượt lên mọi đam mê, quyến rũ của danh
lợi, tìm tới đạo nhân sinh của Lão - Trang, tiêu dao cùng trời đất vạn vật. Tiêu
biểu như Nguyễn Trãi (1380 - 1442), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585),
Nguyễn Dữ, Lê Hữu Trác (1720 - 1791),…
Nhìn chung, triết lý nhân sinh của Đạo gia đã ảnh hưởng sâu rộng trong
lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII. Điều đáng tự hào là nhân dân ta
khơng có ý thức kỳ thị những tư tưởng du nhập từ bên ngồi, ngược lại ln có
tinh thần kế thừa và phát huy các giá trị tích cực và biến chúng thành tư tưởng
đặc trưng của dân tộc Việt. Cho nên, ngay cả thời kỳ Nho hoặc Phật độc tơn trên
diễn đàn chính trị và hệ tư tưởng vẫn luôn thường trực tinh thần khoan dung với
Đạo gia và xem Nho, Phật, Đạo có cùng chung một nguồn gốc, “Tam giáo đồng
nguyên”. Vì rằng, tất cả những tư tưởng đó đều muốn mưu cầu hạnh phúc, n
bình cho con người và xã hội.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này khơng chỉ có ý nghĩa nền tảng nhằm khẳng
định những ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia đối với lịch sử tư tưởng
Việt Nam trong quá khứ mà cịn giúp cho chúng ta có một cái nhìn tồn diện về
những giá trị cuộc sống và định hướng cho cuộc sống hiện nay; làm phong phú
đời sống tinh thần của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Cho nên, với những suy nghĩ trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Triết lý

nhân sinh của Đạo gia và ảnh hưởng của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt
Nam từ thế kỷ XV - XVIII” làm luận án triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những nội dung chủ yếu về triết lý nhân sinh của Đạo
gia, từ đó luận án làm rõ một số ảnh hưởng của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt
Nam từ thế kỷ XV - XVIII.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, trình bày cơ sở hình thành triết lý nhân sinh của Đạo gia.
Thứ hai, phân tích nội dung triết lý nhân sinh của Đạo gia.


4
Thứ ba, phân tích ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia đối với lịch sử
tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu triết lý nhân sinh của Đạo gia và ảnh hưởng
của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những nội dung chủ yếu triết lý nhân sinh của Đạo gia thời kỳ
Trung Quốc cổ đại với các triết gia đại biểu: Lão Tử, Dương Tử và Trang Tử.
Ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam
từ thế kỷ XV - XVIII trên các lĩnh vực cụ thể: tư tưởng về con người và đạo làm
người thông qua một số nhà tư tưởng Việt Nam tiêu biểu, như Nguyễn Trãi
(1380 - 1442), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), Nguyễn Dữ và Lê Hữu Trác
(1720 - 1791).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận án
4.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Luận án được xây dựng trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đặc biệt là nội dung quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; mối quan hệ biện chứng về tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tính độc lập
tương đối và sức mạnh cải tạo của ý thức xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp luận mácxít, nghiên cứu liên
ngành, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
gốc, các phương pháp cụ thể như lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp diễn dịch, so sánh đối chiếu, khái qt hố,…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án phân tích những nội dung triết lý nhân sinh của Đạo gia thời
kỳ Trung Quốc cổ đại trên một số lĩnh vực cụ thể: quan niệm về con người và
đạo làm người.
Hai là, luận án phân tích ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia đối với
lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII trên lĩnh vực tư tưởng về con


5
người và đạo làm người thông qua một số nhà tư tưởng Việt Nam tiêu biểu, như
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), Nguyễn Dữ và
Lê Hữu Trác (1720 - 1791).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần hồn thiện nội dung triết lý nhân sinh của Đạo gia và ảnh
hưởng của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII trên một
số lĩnh vực tư tưởng về con người và đạo làm người thông qua một số nhà tư
tưởng Việt Nam tiêu biểu, như Nguyễn Trãi (1380 - 1442), Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491 - 1585), Nguyễn Dữ và Lê Hữu Trác (1720 - 1791).
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng triết học của Đạo gia đối với lịch sử tư

tưởng Việt Nam.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy
môn triết học và các ngành học có liên quan trong nền giáo dục Đại học Việt
Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tổng quan tình
hình nghiên cứu, nội dung của luận án gồm 3 chương, 7 tiết.


6
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Đạo gia là một trường phái triết học Trung Hoa cổ đại, ra đời trong bối
cảnh lịch sử biến loạn của xã hội Xuân Thu - Chiến Quốc. Cùng với Nho gia,
Mặc gia, Pháp gia,… triết học Đạo gia đã sớm khẳng định vị thế của mình trong
lịch sử tư tưởng Trung Quốc và các quốc gia lân cận, trong đó có Việt Nam. Bởi
vì, dòng triết học tự nhiên này đã chứa đựng những triết lý nhân sinh sâu sắc,
mang trong mình những giá trị vượt thời đại và chính nó đã góp phần xây dựng
nên một nền triết học Trung Quốc đặc trưng không thể lẫn lộn với bất kỳ một
nền triết học nào khác trong lịch sử triết học của nhân loại. Mặc dù cịn nhiều
hạn chế bởi lịch sử, nhưng khơng ai có thể phủ nhận những giá trị nhân sinh của
triết học này. Vì vậy, trong chiều dài của lịch sử tư tưởng, khơng chỉ có các nhà
nghiên cứu Trung Quốc mà cịn có nhiều học giả lớn của các nước trên thế giới
luôn kế thừa, tiếp thu những mặt tích cực triết lý nhân sinh của Đạo gia vào xây
dựng và phát triển xã hội. Cho nên, nghiên cứu về Đạo gia và triết lý nhân sinh
của Đạo gia cũng như ảnh hưởng của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam nói
chung và tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII nói riêng là một vấn đề hấp
dẫn được thu hút được nhiều học giả nghiên cứu với những cơng trình lớn có giá
trị ở trong và ngoài nước.
1. Nguồn tài liệu phục vụ nghiên cứu
1.1. Nhóm tài liệu gốc

Trong q trình nghiên cứu về triết lý nhân sinh của Đạo gia và ảnh hưởng
của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII đã có nhiều học
giả nghiên cứu công phu để giới thiệu, dịch và chú giải những trước tác của các
nhà triết học Đạo gia và các nhà tư tưởng tiêu biểu của Việt Nam từ thế kỷ XV XVIII. Trong đó có một số cơng trình nổi bật sau:
1.1.1. Nhóm tài liệu gốc nghiên cứu về những trước tác của Đạo gia
Tác giả Nguyễn Hiến Lê đã biên dịch và chú giải tác phẩm Lão Tử - Đạo
đức kinh, Trang Tử - Nam hoa kinh, Liệt Tử và Dương Tử. Nguyễn Hiến Lê đã
dịch và chú giải kỹ từng nội dung trong các tác phẩm nhưng với tinh thần vẫn
giữ được cốt cách của các nhà kinh điển Đạo gia và những phần nào tối nghĩa thì
được dịch giả đưa vào hai ba cách chú giải của các học giả đi trước và tùy chỗ,


7
luận thêm ý kiến riêng của mình. Đối với Lão Tử - Đạo đức kinh [84]. Phần thứ
nhất, Nguyễn Hiến Lê đã giới thiệu cuộc đời, tác phẩm của Lão Tử và đặt ra
nhiều vấn đề mà người đời hay tự hỏi như quê quán, tên họ, chức tước, tuổi thọ,
hậu duệ, tác phẩm Đạo đức kinh ra đời khi nào và do ai ghi chép?... Phần thứ hai
là học thuyết, Nguyễn Hiến Lê đã dành nhiều công sức để phân tích về Đạo và
Đức, tính cách và quy luật của Đạo, Đạo ở đời, Đạo trị nước. Phần ba, Nguyễn
Hiến Lê đã dịch nguyên bản Đạo đức kinh với 2 thiên và 81 chương theo lối
phiên âm và dịch nghĩa.
Đối với Trang Tử - Nam hoa kinh [87], ngoài phần dịch tác phẩm, Nguyễn
Hiến Lê đã nghiên cứu khá sâu sắc để giới thiệu về tác giả, tác phẩm cũng như
đánh giá về Nội thiên và Ngoại thiên, ông đưa ra nhiều luận định để xem xét
phần chân ngụy trong tác phẩm, nội dung nào là của Trang Tử viết, nội dung nào
là do người đời sau viết thêm vào, ưu điểm và nhược điểm của tác phẩm. Phần
học thuyết, Nguyễn Hiến Lê đã phân tích nhiều nội dung trong sách của Trang
Tử như vũ trụ và căn bản luận, tri thức luận, chính trị luận, nhân sinh quan,...
Phần còn lại của tác phẩm, Nguyễn Hiến Lê đã dịch nguyên bản sách của Trang
Tử gồm có ba thiên và 33 chương, cuối mỗi chương của mỗi thiên đều có phần

nhận định của tác giả.
Cũng tương tự cách dịch trên, ngồi phần dịch và chú thích bộ Liệt Tử Dương Tử [85], gồm 8 thiên và 110 bài, Nguyễn Hiến Lê cịn bàn về tính chân,
ngụy đối với Liệt Ngự Khấu, nguồn gốc của tác phẩm Xung hư chân kinh; phân
tích tư tưởng của Liệt Tử và Dương Tử. Qua đó, Nguyễn Hiến Lê khẳng định
rằng, học thuyết của Liệt Tử và Dương Tử không sâu sắc bằng Lão, không rực rỡ
bằng Trang, vì vậy mà ít học giả quan tâm, nhưng vẫn trên nhiều triết gia khác
đương thời.
Học giả Nguyễn Duy Cần đã dịch và bình chú về Lão Tử - Đạo đức kinh và
Trang Tử - Nam hoa kinh. Cũng giống như các dịch giả khác, Nguyễn Duy Cần
đã dịch 2 thiên và 81 chương trong Đạo đức kinh [8], trên tinh thần là phiên âm
trước sau đó dịch văn, để vẫn giữ được nguyên tác của Lão Tử. Đối với Nam
hoa kinh [14, 15], Nguyễn Duy Cần chỉ dịch Nội thiên và vài chương của Ngoại
thiên chứ khơng dịch tồn bộ tác phẩm.


8
Ngồi ra, Đạo đức kinh của Lão Tử cịn có bản dịch và chú giải của Lý
Minh Tuấn, Phan Ngọc, Lê Xuân Vũ, Lưu Hồng Khang,… Nam hoa kinh của
Trang Tử có chú dịch của Nhượng Tống và Nguyễn Tơn Nhan; Liệt Tử - Xung
hư chân kinh có bản dịch của Nguyễn Tơn Nhan và Lê Thị Giao Chi. Nhìn
chung các tác giả đều trung thành với nguyên bản chữ Hán, khi dịch ln có chú
giải nhằm làm rõ nội dung của tác phẩm.
Nguyễn Tôn Nhan đã giới thiệu và dịch giải tác phẩm Hoài Nam Tử cuộc
đời, tư tưởng và toàn văn Hoài nam hồng liệt, 2 tập [112, 113]. Đây là tác phẩm
đồ sộ được biên soạn bởi Hồi Nam vương Lưu An và các tân khách mơn nhân
của ơng, hồn thành vào giai đoạn đầu nhà Hán với Hán Cảnh đế (khoảng 156 141 tr. CN). Hoài Nam Tử là sự dung hợp nhiều tư liệu tư tưởng khác nhau của
thời kỳ Tiên Tần. Cho nên về tư tưởng, Hồi Nam Tử ơm ấp một tham vọng rất
lớn, muốn đưa vào sách mọi lĩnh vực tri thức của triết học Trung Quốc. Vì vậy,
nếu coi Hồi Nam Tử là một tài liệu tư tưởng thì đây là một kho tàng tri thức quý
giá nhưng nếu xem đó là một hệ thống tư tưởng thì nó chính là một “tạp gia”. Lập

trường tư tưởng trong tác phẩm cũng không nhất quán, vừa đứng trên lập trường
Đạo gia để định hướng cho hệ thống tư tưởng tác phẩm, nhất là dựa vào tư tưởng
truyền thống của Trang Tử để truy cầu tự do, nhưng lại vừa muốn bảo vệ trật tự
Nho gia, muốn hòa hợp giữa Nho và Đạo là nguyên nhân căn bản tư tưởng hỗn
loạn trong Hoài Nam Tử. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm toàn diện thì đây là một
tác phẩm thuộc về hệ thống tư tưởng Đạo gia. Bởi vì, trong hai mươi mốt thiên
của Hoài nam hồng liệt phần lớn điều mang tinh thần triết học Đạo gia.
1.1.2. Nhóm tài liệu gốc nghiên cứu về những trước tác của các nhà tư
tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII
Do bối cảnh phức tạp của lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII nên đã có
nhiều nhà tư tưởng tiêu biểu như Nguyễn Trãi (1380 - 1442), Nguyễn Bỉnh
Khiêm (1491 - 1585), Nguyễn Dữ, Lê Hữu Trác (1720 - 1791),… ít nhiều chịu
ảnh hưởng triết học Lão - Trang, đặc biệt ở triết lý nhân sinh. Hầu như họ đã để
lại những trước tác trên nhiều lĩnh vực như văn học, lịch sử, địa lý, triết học,…
khơng chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn cho chúng ta thấy được bức tranh
sinh động về tư tưởng Việt Nam trong giai đoạn Hậu Lê. Có thể tổng quan một
số tác phẩm của họ có liên quan đến đề tài của luận án như:


9
Người mở đầu và ảnh hưởng lớn đến tư tưởng Việt Nam trong giai đoạn từ
XV - XVIII, đó là Nguyễn Trãi, cuộc đời của ông gắn liền với sự thăng trầm của
lịch sử dân tộc và ngay chính bản thân ông cũng là một câu chuyện bi hài của
lịch sử danh nhân. Tư tưởng nhân sinh của ông chịu ảnh hưởng lớn nhất là Nho
học, nhưng cũng ẩn chứa nhiều tư tưởng nhân sinh của Đạo gia. Vì vậy, nghiên
cứu tư tưởng Nguyễn Trãi đã có một số cơng trình dịch và chú giải những trước
tác của ơng.
Ủy ban Khoa học xã hội, Viện Sử học đã cho xuất bản tác phẩm Nguyễn
Trãi toàn tập [192]. Đây là bộ sách hoàn chỉnh về cuộc đời, sự nghiệp và những
trước tác của Nguyễn Trãi do hai nhà sử học lớn của Việt Nam là Đào Duy Anh

và Văn Tân dịch, phiên âm và chú thích. Trong cuốn sách này gồm có Lam sơn
thực lục; Bình ngơ đại cáo; Phú núi chí linh; Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh;
Văn bia Vĩnh Lăng; Quân Trung từ mệnh; Những văn bản mới tìm thấy của
Nguyễn Trãi; Dư, địa chí; Ức trai thi tập và Quốc âm thi tập.
Ngoài ra, phiên khảo và chú giải thơ của Nguyễn Trãi cịn có nhiều học giả
với các cơng trình tâm huyết như Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập [56] do Nguyễn
Thạch Giang phiên khảo và chú giải. Trong đó, các học giả đã dịch 254 bài thơ
Nôm của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi - Ức trai thi tập [115] do Trần Văn Nhĩ dịch,
Đinh Ninh nhuận sắc.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà Nho học, Phật học nhưng đồng
thời cũng là nhà Đạo học. Bởi vì vũ trụ quan và nhân sinh quan của Đạo gia
thường xuất hiện trong tư tưởng của Tuyết Giang Phu Tử. Cuộc đời của ơng để
lại nhiều trước tác có giá trị lớn đối với lịch sử tư tưởng dân tộc. Trong đó, có hai
tác phẩm lớn cịn lưu lại cho chúng ta ngày nay là Bạch Vân am thi tập và Bạch
Vân quốc ngữ thi tập.
Đối với Bạch Vân am thi tập, tập thơ chữ Hán, theo lời tựa của tác giả thì
gồm một ngàn bài, nhưng hiện nay còn khoảng trên dưới 300 bài, làm theo thể
Đường luật và Trường thiên cổ thể. Bạch Vân am thi tập được nhiều học giả
phiên âm và chú giải, dấu ấn có các cơng trình sau: Nguyễn Bỉnh Khiêm qua
Bạch Vân am thi tập [76] do Nguyễn Khuê nghiên cứu và tuyển dịch 102 bài thơ
chữ Hán; Bùi Văn Nguyên đã chọn dịch, chú thích và giới thiệu Thơ văn Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Tập 2 - Thơ văn chữ Hán [107].


10
Với Bạch Vân quốc ngữ thi tập có khoảng 180 bài sáng tác theo kiểu Bát cú
Hàn luật có xen Lục ngơn. Đây là một tập thơ Nơm có nhiều giá trị về ngôn ngữ
dân tộc. Nội dung chủ yếu là triết lý nhân sinh của ông đối với cõi đời loạn lạc.
Thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ trước đến nay đã có nhiều bản phiên âm
của các học giả un thâm, tiêu biểu với các cơng trình sau: Thơ văn Nguyễn

Bỉnh Khiêm [75] của Đinh Gia Khánh chủ biên, Hồ Như Sơn phiên âm giới thiệu
và tuyển chọn 161 bài thơ Nôm; Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, tập 1 - Bạch Vân
quốc ngữ thi tập [106] của Bùi Văn Nguyên phiên âm giới thiệu 177 bài thơ
Nôm; Tổng tập văn học Nôm Việt Nam, Tập 1 [116] do Nguyễn Tá Nhí chủ biên,
phần thơ Nơm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã phiên âm giới thiệu 176 bài thơ
Nôm; Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập [2], phần khảo thơ Nôm do Phạm
Văn Ánh thực hiện và giới thiệu 152 bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đại Việt sử ký toàn thư [68] là một thành tựu của nền văn hóa Đại Việt.
Cơng trình này được biên soạn bởi nhiều nhà sử học nổi tiếng của nước ta, kéo
dài từ Lê Văn Hưu đời Trần, qua Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh đời Lê
sơ, đến Phạm Công Trứ, Lê Hy đời Lê Trung Hưng. Tác phẩm này được Viện
Khoa học xã hội Việt Nam dịch đúng nguyên bản theo bản in từ ván khắc năm
Chính Hồ 18 (1697), bản in Nội các quan bản. Trong tác phẩm gồm quyển thủ
24 quyển, chia thành 2 phần: Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư gồm 5 quyển viết
từ thời kỳ Hồng Bàn đến loạn 12 sứ quân; Đại Việt sử ký bản kỷ tồn thư gồm có
19 quyển viết từ kỷ nhà Đinh đến năm 1675.
Đại Việt sử ký tục biên (1676 - 1789) [121], dịch và khảo chứng: Ngơ Thế
Long, Nguyễn Kim Hưng; Nguyễn Đổng Chi hiệu đính. Đây là bộ sử được biên
soạn bởi nhiều tác giả như: Nguyễn Hồn, Lê Q Đơn, Vũ Miên, Ngơ Thì Sĩ,
Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn, Nguyễn Sá. Nội dung cuốn lịch sử này ghi lại
những diễn biến của triều đại Hậu Lê, từ đời Lê Hy Tông (1676) đến đời ông vua
cuối cùng của triều Lê - Lê Chiêu Thống (1789). Nhiều nhà sử học cho rằng Đại
Việt sử ký tục biên là một trong ba bộ sử có giá trị của Đại Việt ta, bộ sử này như
là phần tiếp nối cuốn Đại Việt sử ký toàn thư.
Trước tác Hải Thượng y tông tâm lĩnh, 2 tập [195, 196] của Lê Hữu Trác là
tài sản vô giá của nền y học cổ truyền Việt Nam. Tác phẩm gồm 28 tập, 66
quyển, bao gồm lý, pháp, phương, dược và biện chứng luận trị về nội khoa,


11

ngoại khoa, phụ khoa, sản khoa, nhi khoa, nhãn khoa, thương khoa, cấp cứu và
cả đạo đức y học, vệ sinh yếu quyết v.v... Trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh
khơng chỉ có y học mà cịn chứa đựng nhiều tư tưởng triết học sâu sắc như về thế
giới quan, nhân sinh quan và nhận thức luận,… có cả phần giới thiệu về cuộc đời
và sự nghiệp của Lê Hữu Trác; ký sự và văn thơ của ông. Bản dịch được hiệu
đính bởi Viện Y học Dân tộc.
Sống vào thời kỳ suy đồi của nhà Lê, Nguyễn Dữ đã chứng kiến sự mục rữa
của triều đình, quan trường điên đảo, quan lại tham tàn, kết bè kéo đảng, áp bức
bóc lột nhân dân nên ơng đã “lánh đục tìm trong”, xuất xử theo triết lý nhân sinh
của Lão - Trang, sớm từ quan về ở ẩn. Cuộc đời và sự nghiệp của ông đến nay
vẫn là một dấu chấm hỏi cho các nhà nghiên cứu, chỉ biết ông để lại cho hậu thế
tuyệt tác “Thiên cổ kỳ bút” - Truyền kỳ mạn lục. Thông qua những câu chuyện
thực thực hư hư trong tác phẩm đã nói lên được tư tưởng của ông đối với hiện
thực xã hội lúc bấy giờ và cách xử thế của ông đối với cuộc đời, khơng cịn
màng đến danh lợi, ca ngợi cảnh nhàn tản, tiêu dao lạc thú với cảnh thiên nhiên
đầy thơ mộng của miền quê thôn dã. Truyền kỳ mạn lục gồm có hai mươi truyện
ngắn viết theo lối văn xi có xen những bài thơ, từ khúc. Trước tác này đến nay
có nhiều bản dịch, tiêu biểu như dịch giả Bùi Xuân Trang với bản dịch Tân biên
Truyền kỳ mạn lục [181, 182], Trúc Khê và Ngô Văn Triện với bản dịch Truyền
kỳ mạn lục [41, 42],…
Những tài liệu gốc được trình bày ở trên có giá trị lớn cho nghiên cứu sinh
trong q trình nghiên cứu luận án. Thơng qua những trước tác trên, nghiên cứu
sinh có cơ sở khách quan để nghiên cứu sự hình thành triết lý nhân sinh của Đạo
gia, cũng như nội dung triết lý nhân sinh của Đạo gia và sự ảnh hưởng của nó
đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII.
1.2. Tài liệu nghiên cứu về cơ sở hình thành triết lý nhân sinh của
Đạo gia
Đạo gia và triết lý nhân sinh của Đạo gia ra đời là một tất yếu của lịch sử,
được quy định bởi những cơ sở khách quan, một số triết gia và tác phẩm tiêu
biểu của thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Vấn đề này đã được nhiều học giả quan

tâm nghiên cứu với các cơng trình điển hình trên những nội dung sau:


12
1.2.1. Tài liệu nghiên cứu về điều kiện và tiền đề hình thành triết lý nhân
sinh của Đạo gia
Nhà triết sử Trung Quốc Hồ Thích đã nghiên cứu biên soạn công phu tác
phẩm Trung Quốc triết học sử [147]. Trong thiên II, thời kỳ thai nghén triết học
Trung Quốc và các tư tưởng đương thời. Tác giả đã làm rõ thời đại kinh tế, chính
trị - xã hội trên bốn nội dung lớn. Một là, thời đại Xuân Thu - Chiến Quốc, chiến
tranh trường kỳ làm cho nhân dân Trung Quốc tử vong táng loạn lưu ly thất sơ
thống khổ vơ cùng. Thứ hai, do sự thay đổi về chính trị - xã hội đã dẫn đến các
giai cấp trong xã hội phong kiến “dần dần tỏa diệt”. Đây chính là sự phân hóa
giai cấp quyết liệt trong xã hội lúc bấy giờ. Thứ ba, tác giả khẳng định rằng sự
“tỏa diệt” giai cấp cũ cũng đồng thời xuất hiện một giai cấp mới với đời sống
kinh tế có nhiều thay đổi, đặc biệt là sự chênh lệch giàu nghèo quá đổi đã dẫn
đến quan lại sống vô cùng xa xỉ nhưng nhân dân lao động lại cùng cực. Thứ tư,
tác giả cũng khẳng định, trừ một vài quốc gia, cịn lại là những vương triều có
nền chính trị đen tối mục nát.
Kế đến, Hồ Thích phân tích các tư trào triết học, trong đó tác giả khẳng
định rằng, chính thực tiễn của lịch sử xã hội trên đã làm xuất hiện nhiều trường
phái triết học. Mỗi tư trào ra đời đều phản ảnh hiện thực xã hội lúc bấy giờ,
nhưng có phái với tư tưởng ưu thời, có phái bất lực yếm thế; có phái túng dục,
phóng lảng; có phái kịch liệt, bất bình, phẩn nộ với hiện thực xã hội.
Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê đã biên soạn Đại cương triết học Trung Quốc,
gồm 2 tập [16, 17]. Trong tập 1, phần thứ nhất, vài nét sơ lược về sự phát triển
của triết học Trung Hoa, tác giả làm rõ sự thay đổi về điều kiện kinh tế, chính trị
- xã hội của thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã dẫn tới nhiều “phong trào lập thuyết
để cứu thế mới” xuất hiện và phát triển. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại ở phần
đại cương, phân tích chung cho sự xuất hiện các trường phái mà chưa đi sâu

phân tích riêng biệt những nguyên nhân kinh tế - xã hội để hình thành triết lý
nhân sinh của Đạo gia.
Khi nghiên cứu về sự hình thành triết lý nhân sinh của Đạo gia, chúng ta
không thể không nghiên cứu đến tác phẩm Tả truyện - Bức tranh về cuộc diện
liệt quốc [5] đã phản ảnh được một cuộc diện liệt quốc loạn lạc của thời Xuân
Thu - Chiến Quốc. Từ đó xuất hiện nhiều trường phái triết học, chính trị ra đời


13
nhằm muốn xác lập lại tôn ti trật tự xã hội. Trong các trường phái đó có trường
phái Đạo gia.
Tác phẩm Lịch sử triết học phương Đông, 5 tập [155-159] là một cơng
trình nghiên cứu đồ sộ của Nguyễn Đăng Thục. Đối với triết học Trung Hoa,
trong tập 1, chương 1, Khái luận về thời đại triết gia ở Trung Hoa, tác giả khẳng
định rằng, khởi điểm thời đại triết gia là vào thời nhà Chu (1122 - 256 tr. CN),
đặc biệt vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Mặt khác, nguyên nhân của sự phát
triển về triết học ở thời kỳ này là do những thay đổi lớn về kinh tế - xã hội; là
một giai đoạn giải phóng tồn thể, trong đó chính thể, tổ chức xã hội, cơ cấu
kinh tế, thảy đều dao động tận gốc rễ. Cho nên, những thay đổi đó dẫn đến sự
cáo chung của chế độ cũ để hình thành chế độ mới và cũng chính là điều kiện
của sự giải phóng tư tưởng làm xuất hiện “Bách gia chư tử”.
Trong chương II, tác giả cũng chỉ ra những tiền đề tư tưởng - lý luận cho sự
hình thành thời đại triết học đó là những tư tưởng triết học trước thời Khổng Tử
(551 - 479 tr. CN) dựa trên tài liệu của Tả Truyện và Quốc Ngữ. Trong chương
IV, tác giả phân tích nội dung của triết lý Hồng Phạm và ý nghĩa của quan niệm
Âm - Dương; dẫn chứng Kinh Dịch như về nguyên lai của bộ sách dịch với hệ từ
và Bát quái với Âm - Dương. Trong chương V, tác giả đã bàn đến các tư trào
manh nha đời Xuân Thu (722 - 479 tr. CN) như tư tưởng qua tài liệu Kinh Thi có
hai khuynh hướng chủ đạo là tư tưởng ưu thời mẫn thời và tư tưởng yếm thế cảm
thấy bất lực; sự tiến hóa trong tư tưởng Đơng Chu, tác giả khẳng định có ba tư

trào chính: một là, hệ thống triết học Khổng Nho đại diện cho giai tầng trung
lưu, nhập thế; hai là, hệ thống triết học Mặc gia đại diện cho quyền lợi bình dân,
nhập thế và ba là, hệ thống Dương Chu của phái ẩn dật phản đối chế độ xã hội,
có khuynh hướng cách mạng triệt để, suy tôn cá nhân tự do và thiên về thần bí,
siêu nhiên, xuất thế.
Bùi Thanh Quất với tác phẩm Lịch sử triết học [123]. Trong phần thứ hai,
chương 2, triết học Trung Quốc cổ đại - trung đại. Tác giả đã làm rõ tư tưởng
triết học phôi thai trong Hồng Phạm, tư tưởng triết học Bát quái với Âm - Dương
trong Kinh Dịch là những tiền đề tư tưởng - lý luận cho sự phát triển triết học
Trung Quốc trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Mặt khác, tác giả cho rằng,
chính trong sự chuyển biến sôi động ấy của xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc,


14
hàng loạt các vấn đề xã hội, triết học, đã được đặt ra, buộc các nhà tư tưởng
đương thời phải quan tâm dẫn đến hàng loạt các trường phái triết học ra đời và
trong đó có trường phái Đạo gia.
Với tác phẩm Các bài giảng về tư tưởng phương Đông - Tư tưởng Nho gia
và Lão - Trang [67] của Trần Đình Hượu. Tác giã cho rằng, Xuân Thu mở đầu
q trình tan rã của chế độ nơ lệ vì sự xuất hiện ruộng đất tư hữu công thương
nghiệp tư nhân, tư gia giàu có hơn cơng thất, chiến tranh kiêm tính, sự tiêu diệt
các nước nhỏ, thành lập nước lớn và xu thế cai trị kiểu mới đã dẫn đến sự ra đời
của kẻ sĩ quân tử và tư tưởng hiền nhân. Từ đó tác giả cho rằng, do đấu tranh
quyết liệt và sự phát triển tư tưởng huy hoàng thời Chiến Quốc. Đây là sự tan rã
đại quy mô của chế độ nô lệ. Chế độ phong kiến hình thành từng bước bởi vì
kinh tế phát triển với quy mô rộng lớn, sâu sắc và gấp rút; về chính trị những vấn
mới địi hỏi phải giải quyết và những biến pháp triệt để. Chính trong bối cảnh đó
làm cho tư tưởng học thuật nở rộ hình thành nên “Bách gia tranh minh”, trong đó
có trường phái Đạo gia.
Lịch sử triết học Trung Quốc [78, 79], gồm 2 tập của Phùng Hữu Lan.

Trong đó, tập 1, phần phiếm luận thời đại tử học tác giả đã cho rằng, từ Xuân
Thu (722 - 481 tr. CN) cho đến đầu đời Hán (206 tr. CN - 220 CN) là thời đại
giải phóng lớn đối với lịch sử Trung Quốc. Thời kỳ đó, các chế độ chính trị, các
tổ chức xã hội, các chế độ kinh tế đều thay đổi đến tận gốc đã dẫn đến sự tự do
tư tưởng, tự do ngơn luận và sự hình thành “Bách gia chư tử”. Đạo gia cũng ra
đời trong hoàn cảnh như vậy của thời kỳ Xn Thu - Chiến Quốc.
Dỗn Chính với tác phẩm Lịch sử triết học phương Đông [23]. Trong phần
lịch sử triết học Trung Quốc tác giả đã khái quát điều kiện lịch sử xã hội Trung
Quốc thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trên nhiều phương diện như kinh tế - xã
hội và tiền đề tư tưởng - lý luận nhằm hình thành tư tưởng triết học của nhiều
trường phái khác nhau trong thời kỳ này. Tác giả cho rằng, chính trong thời đại
lịch sử biến đổi tồn diện và sâu sắc đó đã đặt ra những vấn đề triết học, chính trị
xã hội, luân lý đạo đức, kinh tế, pháp luật, qn sự, ngoại giao… kích thích lịng
người, khiến các bậc tài sĩ đương thời quan tâm lý giải, để tìm ra các phương
pháp giải quyết “cứu đời, cứu người”, làm nảy sinh ra hàng loạt các nhà tư tưởng
nổi tiếng và các trường phái triết học lớn.


15
Ngồi ra, cịn nhiều tác giả khác nghiên cứu về sự hình thành các trường
phái triết học trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc như: Lịch sử văn minh
Trung Quốc [39] của Will Durant (Nguyễn Hiến Lê dịch); Tư tưởng phương
Đơng gợi những điểm nhìn tham chiếu [65] của nhà Đạo học Cao Xuân Huy;
Lịch sử triết học [199] của Nguyễn Hữu Vui (chủ biên); Lão Tử [172] của Ngơ
Tất Tố; Lịch sử văn hố Trung Quốc, tập 1, 2 [119, 120] của Nhiều tác giả
(Người dịch: Trần Ngọc Thuận, Đào Duy Đạt, Đào Phương Chi); Đông phương
triết học cương yếu [178] của Lý Minh Tuấn;…
1.2.2. Tài liệu nghiên cứu một số triết gia và tác phẩm tiêu biểu hình
thành triết lý nhân sinh của Đạo gia
Những tài liệu gốc của các dịch giả được trình bày ở trên đều giới thiệu về

cuộc đời và sự nghiệp cũng như trước tác của các triết gia tiêu biểu Đạo gia.
Ngoài ra cịn có nhiều tác phẩm cũng đề cập đến vấn đề này như:
Trần Văn Hải Minh đã biên soạn tác phẩm Bách gia chư tử - Các môn phái
triết học dưới thời Xuân Thu - Chiến Quốc [95]. Trong cuốn sách này, phần II,
thân thế Bách gia chư tử, tác giả đã phân tích sâu về cuộc đời và sự nghiệp của
Lão Tử, Trang Tử và những người trong phái Đạo gia. Phần IV, Lược khảo các
tác phẩm của Bách gia chư tử, ở trường phái Đạo gia tác giả đã lược khảo tác
phẩm của Lão Tử, Trang Tử, Quản Tử, Thái Cơng, Bật Tử, Văn Tử, Quan Dỗn
Tử, Liệt Tử, Hạc Quan Tử và các sách thất lạc.
Tác phẩm Sử ký [150] của Tư Mã Thiên (Phan Ngọc dịch) là bộ sách có giá
trị đặc biệt khơng chỉ đối với lịch sử dân tộc Trung Quốc mà còn có ý nghĩa lớn
đối với văn hố thế giới. Tư Mã Thiên viết Sử ký từ năm 109 - 91 Trước CN, sau
khi đã chu du khắp thiên hạ, tìm tòi những sử liệu đáng tin cậy và viết lại những
điều mà ông đã mắt thấy, tai nghe về lịch sử dân tộc Trung Quốc kéo dài hơn
2500 năm từ thời Hồng Đế thần thoại đến thời kỳ ơng sống. Vì vậy, đây là bộ
sử có tính khoa học, tính khách quan và tính khái quát rất cao, cho nên đã trở
thành bộ sử có tính hệ thống đồ sộ đầu tiên trên thế giới. Thông qua tác phẩm
này, người đời sau như nhìn thấy một bức tranh sinh động về lịch sử Trung Quốc
cổ đại, về những nhân vật khác nhau và những sự việc khác nhau, về cuộc đời,
sự nghiệp và học thuyết của những nhà tư tưởng vĩ đại trong giai đoạn này của
lịch sử Trung Quốc. Với ý nghĩa đó, khi nghiên cứu về triết học Đạo gia thì


16
chúng ta cũng tìm thấy Truyện Lão Tử và Truyện Trang Tử trong sách của Thái
sử Tư Mã Thiên.
Nhà triết sử Trung Quốc, Hồ Thích với tác phẩm Trung Quốc triết học sử
[147]. Trong thiên III, VII và IX, tác giả đã giới thiệu và phân tích cuộc đời, sự
nghiệp và trước tác của Lão Tử, Dương Chu và Trang Tử. Hồ Thích khẳng định
rằng, các triết gia Đạo học đều là những ẩn sĩ, chúng ta chỉ biết đến họ thơng qua

sách của người đời sau. Vì vậy, cuộc đời và sự nghiệp của họ đến nay vẫn còn là
cách cửa chưa được khép lại.
Tác phẩm Lịch sử triết học phương Đông, 5 tập [155-159] của Nguyễn
Đăng Thục. Trong tập 1, chương VII và trong tập 2, chương XI, XII tác giả đã
giới thiệu và phân tích về cuộc đời và sự nghiệp của Lão Tử, Dương Chu và
Trang Tử. Trong đó, Nguyễn Đăng Thục cho rằng, Dương Chu chính là người
khởi xướng triết học Đạo gia.
Lịch sử triết học Trung Quốc [78, 79], gồm 2 tập của Phùng Hữu Lan (Lê
Anh Minh dịch). Trong tập 1, tác giả đã dành nhiều nội dung như chương 7, 8 và
10 để giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp cũng như trước tác của các nhà Đạo
gia như Dương Chu, Lão Tử và Trang Tử.
Ngồi ra, cịn nhiều học giả khác nghiên cứu nội dung này như: Minh triết
Đông Phương [70] của Michael Jordan; Lịch sử văn minh Trung Quốc [39] của
Will Durant (Nguyễn Hiến Lê dịch); Đại cương triết học Trung Quốc, tập 1 [16]
của Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê; Lão Tử [172] của Ngô Tất Tố; Lịch sử triết học
[123] của Nguyễn Hữu Vui; Lịch sử triết học [199] của Bùi Thanh Quất;…
1.3. Tài liệu nghiên cứu về nội dung triết lý nhân sinh của Đạo gia
Đạo gia và triết lý nhân sinh của Đạo gia có nội dung vơ cùng phong phú
và un thâm. Vì vậy, triết học Đạo gia ln có sức hấp dẫn đối với các học giả
trong và ngoài nước nghiên cứu trên nhiều nội dung khác nhau của trường phái
triết học này.
1.3.1. Tài liệu nghiên cứu về khái niệm triết lý nhân sinh
Trần Văn Hiến Minh với tác phẩm Từ điển và danh từ triết học [97]. Đây là
cuốn từ điển rất phong phú bao gồm cả thuật ngữ của triết học cổ, triết học kinh
viện, triết học cận đại, hiện đại và đặc biệt trong phần từ điển, tác giả đã cắt
nghĩa rất nhiều danh từ triết học Đông phương (Tam giáo: Phật, Lão và Khổng).


17
Trong cuốn sách này, có các khái niệm quan trọng đối với luận án như khái niệm

về triết lý, nhân sinh và nhân sinh quan.
Cuốn Từ điển triết học [170] của Cung Kim Tiến đã được biên soạn công
phu và đồ sộ về triết học phương Tây và phương Đông. Vì vậy, ngồi phần giải
thích đúng nội hàm những khái niệm triết học thơng thường như nhân sinh là gì,
nhân sinh quan là gì,… thì tác giả cịn đi sâu giải thích một số thuật ngữ của triết
học phương Đơng như “Đạo”, “Đức”, “Vô vi”,… của trường phái Đạo gia. Mặt
khác, cũng như cuốn từ điển của Trần Văn Hiến Minh, tác giả đã làm rõ nhiều
thuật ngữ triết học cổ, triết học kinh viện, triết học cận đại và hiện đại.
Dỗn Chính đã nghiên cứu và biên soạn cơng phu tác phẩm Từ điển triết
học Trung Quốc [21]. Trong cuốn sách này, tác giả đã không chỉ làm rõ nội hàm
những khái niệm triết học Trung Quốc mà còn đi sâu phân tích những tư tưởng
của các triết gia, trường phái triết học, tác phẩm và hệ thống hóa quan điểm tư
tưởng thông qua các thuật ngữ, khái niệm, phạm trù triết học Trung Quốc theo
chiều dài phát triển lịch sử triết học từ thời cổ đại đến hiện đại của Trung Quốc.
Trong tác phẩm này, khơng ít nội dung tác giả đã giải thích những khái niệm,
danh từ, phạm trù, tư tưởng của Đạo gia như “Đạo”, “Đức”, “Đạo đức kinh”,
“Nam hoa kinh”, “Lão Tử”, “Dương Chu”, “Trang Tử”,… Tóm lại, tác giả đã
giải thích nhiều khía cạnh tư tưởng triết học Đạo gia. Cho nên, cuốn sách này
không chỉ đơn thuần là cuốn từ điển triết học mà còn là cuốn lịch sử triết học
Trung Quốc.
Trong bài viết Văn hóa, triết lý và triết học [58] của Lương Đình Hải đã
làm rõ được nội hàm khái niệm về triết lý. Tác giả cho rằng, trong các triết lý đã
thể hiện những quan niệm khác nhau về các yếu tố cơ bản và các mặt hoạt động
sống của con người: vị trí con người, các quan hệ xã hội, đời sống tinh thần và
các giá trị của cuộc sống con người. Những quan niệm ấy ẩn chứa bên trong các
nội dung, chương trình phương thức hoạt động chung của xã hội và được cụ thể
hóa bằng những quan niệm cụ thể hơn, định hướng cho hoạt động của các cá
nhân và cộng đồng.
Vũ Minh Tâm với bài viết Triết lý truyền thống ở Việt Nam về vũ trụ [133]
đã chỉ rõ vai trò của triết lý đối với đời sống của con người. Tác giả đã cho rằng,

đối với người xưa, triết lý là phương thức, công cụ hữu dụng, hiệu nghiệm để


18
nắm bắt thế giới hiện thực, đưa dẫn nhận thức có tính bách khoa, tổng hợp, khái
qt, trừu tượng và dự báo vào đời sống thực tiễn và giáo dục con người.
Từ những tác phẩm và bài viết trên kết hợp với tư tưởng triết lý nhân sinh
của Đạo gia nghiên cứu sinh sẽ làm rõ khái niệm triết lý nhân sinh.
1.3.2. Tài liệu nghiên cứu quan niệm về con người, đạo làm người
Trong thời đại ngày nay, khơng ít những cơng trình lớn của các học giả
trong và ngồi nước khảo sát, nghiên cứu về nội dung triết học Đạo gia như Hồ
Thích (1891 - 1962) đã nghiên cứu biên soạn công phu tác phẩm Trung Quốc
triết học sử [147]. Trong đó, tác giả dành nhiều thiên để nghiên cứu về triết học
Đạo gia, như thiên III, Lão Tử thiên đạo; luận về vô; danh và vô danh; vô vi và
đặc biệt phần triết học nhân sinh của Lão Tử tác giả khẳng định rằng, triết học
nhân sinh của Lão Tử cũng giống như triết học chính trị của ông là chủ trương
“vô tri vô dục”. Thiên VII, Dương Chu, tác giả luận bàn về vị ngã, bi quan và
dưỡng sinh. Thiên IX, Trang Tử, tác giả phân tích tư tưởng triết học Trang Tử
trên hai nội dung. Thứ nhất, sinh vật tiến hóa luận của thời đại Trang Tử; thứ hai,
danh học và triết học nhân sinh của Trang Tử.
Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê đã biên soạn Đại cương triết học Trung Quốc,
2 tập [16, 17]. Trong đó, tác giả đã dành nhiều nội dung ở các thiên để bàn về
triết lý nhân sinh của Đạo gia. Như tập 2, phần thứ 4 - Nhân sinh luận, thiên I Bản chất con người, chương I - Con người trong vũ trụ - Trời và người, người
với vạn vật, mục chủ trương lạc quan; chương IV - Tính, mục Tính siêu thiện ác;
chương V - Tình, mục Thuyết vơ tình; chương VI - Dục và Lý, Cùng lý, mục Vô
dục. Thiên II - Đạo làm người, chương I - Ba thái độ đối với thiên nhiên, mục
Hoàn toàn theo thiên nhiên; chương II - Vô vi, mục Trang Tử; chương IV - Ích
và tổn, Động và tĩnh; chương VII - Nghĩa và lợi, mục Nghĩa và lợi không thành
vấn đề, các tác giả trình bày tư tưởng của Đạo gia về bản chất con người. Phần
thứ 5 - Chính trị luận, chương VII - Vơ trị - Thịnh suy có thời, mục từ Lão qua

Trang rồi từ Trang qua Lão và Thịnh suy có thời; chương VIII - Vô bị, mục Chủ
trương của Lão; chương XI - Quốc gia lý tưởng, mục Lý tưởng của Mặc, Lão và
Pháp các tác giả bàn về tư tưởng chính trị, xã hội của Đạo gia.
Tác phẩm Lão Tử [172] của Ngô Tất Tố là một cơng trình chun sâu
nghiên cứu về hệ thống triết học của Lão Tử. Trong tác phẩm, ngoài phần phân


19
tích về vũ trụ quan; vơ với hữu; luật tự nhiên; chủ nghĩa vô vi của Lão Tử, tác
giả đã làm rõ nhân sinh quan của Lão Tử như: Quan niệm về nhân sinh; phép xử
thế; phép dưỡng sinh; Lão Tử với đạo đức, luân lý; Lão Tử với chiến tranh; lý
tưởng quốc gia của Lão Tử.
Lịch sử triết học phương Đơng [166] là một cơng trình nghiên cứu đồ sộ
của Nguyễn Đăng Thục. Đối với triết học Trung Hoa, tác giả đã dành nhiều
chương trong phần II - Trung Hoa thời kỳ hồn thiện triết học để trình bày triết
học Đạo gia, như chương XI - Triết lý ở Đạo đức kinh, chương XII - Trang Tử
với Lão học hoàn thành; chương XIII - Triết học Trang Tử; chương XIV - Thế
giới thuần túy kinh nghiệm; chương XV - Quan niệm về hạnh phúc; chương XVI
- Triết lý chính trị của Trang Tử.
Với tác phẩm Các bài giảng về tư tưởng phương Đông - Tư tưởng Nho gia
và Lão - Trang [67] của Trần Đình Hượu. Trong tác phẩm này, khơng ít chương
tác giả đã giảng sâu về tư tưởng triết học Lão - Trang và Dương Chu. Trong
chương 3, tiết một, tác giả phân tích tư tưởng triết học Dương Chu chống Nho
giáo với các nội dung: Từ ẩn sĩ đến Đạo gia; vị ngã chống cứu thế như quan
niệm con người của phái vị ngã, nội dung lý luận của phái vị ngã; tồn tính bảo
chân; bất dị vật luỵ hình; “vị ngã” phá hoại ý thức hệ Tây Chu. Trong tiết thứ tư,
tác giả đã phân tích về triết học Trang Tử như: Vấn đề triết học Trang Tử; Tề vật
luận; chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Trang Chu. Đặc biệt, tác giả đã phân tích
đạo làm người của Trang Tử như Thánh nhân vơ kỷ; tiêu dao du tìm tự do tuyệt
đối, với các nội dung: ly hình khứ trí, hồ với đại thơng; xử thế thuận theo đạo

trung hư; Tiêu dao du của chân nhân.
Lý Minh Tuấn với Đông phương triết học cương yếu [178] đã lược sử tư
tưởng triết học Trung Hoa qua các thời đại. Trong đó, ơng đã dành nhiều chương
để luận bàn về triết học của Lão - Trang, như chương 7 - Lão học cương yếu Lão
Tử và Đạo đức kinh; chương 8 - Vũ trụ quan của Lão Tử; chương 9 - Nhân sinh
quan của Lão Tử và chương 10 - Trang học cương yếu Trang Tử và Nam hoa
kinh. Đặc biệt Lý Minh Tuấn đã phân tích nhiều nội dung đạo làm người của Lão
- Trang như: Hạnh của thánh nhân; vô vi; nhu nhược và bất tranh; quan niệm về
chính trị; về quân sự; tự do tuyệt đối và hạnh phúc tuyệt đối; không phân biệt lớn


20
- nhỏ, quý - tiện, thọ - yểu, hữu dụng - vơ dụng; bình đẳng tuyệt đối; đạo dưỡng
sinh; đường lối giáo dục không lời (Bất ngôn chi giáo); đạo trị nước.
Tác phẩm Lược sử triết học Trung Quốc [80] của Phùng Hữu Lan đã dành
nhiều chương để phân tích tư tưởng triết học Đạo gia như chương 6, giai đoạn
đầu của Đạo gia: Dương Chu. Trong phần này tác giả đề cập đến Đạo gia Tiên
Tần và các ẩn giả; quan niệm căn bản của Dương Chu; minh họa quan niệm
Dương Chu; tư tưởng Dương Chu trong sách Lão Tử và Trang Tử; sự phát triển
Đạo gia. Ở chương 9 và 10, tác giả làm rõ những nội dung triết học căn bản của
Lão - Trang như Đạo: cái vô danh; quy luật bất biến của tự nhiên; cách xử thế;
học thuyết chính trị của Lão Tử. Cách đạt được hạnh phúc tương đối; triết học
chính trị và xã hội; tình và lý; cách đạt được hạnh phúc tuyệt đối; quan điểm hữu
hạn, tri thức ở trình độ cao hơn,… của Trang Tử.
Lịch sử triết học phương Đông [23] của Dỗn Chính. Trong phần Triết học
Trung Quốc thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc, tác giả đã trình bày về triết học Đạo
gia trên các phương diện thế giới quan, nhân sinh quan, nhận thức luận và khẳng
định rằng “Đạo vô vi” của Lão Tử xét đến cùng là những vấn đề đạo đức, nhân
sinh và chính trị xã hội; chủ nghĩa vị ngã của Dương Chu là sự phát triển triết lý
nhân sinh của Đạo gia và cốt lõi tư tưởng con người và đạo làm người ở Trang

Tử là học thuyết vô vi trong các vấn đề sống, chết, tự do, bình đẳng và hạnh
phúc tuyệt đối.
Tác phẩm Tư tưởng triết học của Trang Tử trong Nam hoa kinh [103] của
Cung Thị Ngọc đã bàn nhiều khía cạnh khác nhau về nhân sinh quan của Trang
Tử, như: Quan niệm về đời người và sự sinh tử; quan niệm về con người và xã
hội, về lý tưởng cuộc sống; phương pháp bảo toàn cuộc sống và tác giả cho rằng,
Trang Tử đã đưa ra quan niệm về bản chất của sự sống, ý nghĩa cuộc sống, sự
hữu hạn của đời người, về tự do,... rất độc đáo và nhân văn. Qua đó, ơng đã đưa
đến cho con người những triết lý cuộc đời, cách đối nhân xử thế và điều đó có ý
nghĩa nhất định trong những hồn cảnh đặc biệt của mỗi cá nhân.
Ngồi ra, cịn nhiều cơng trình lớn khác nghiên cứu về triết lý nhân sinh
của Đạo gia như, Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu [65]
của Cao Xuân Huy; Trang Tử Tinh hoa [10] của Nguyễn Duy Cần; Trang Tử
Tâm Đắc (Bản dịch của Lê Tiến Thành và Dương Ngọc Hân) [32] của Yu Dan;


21
Lịch sử triết học Trung Quốc [78, 79], gồm 2 tập của Phùng Hữu Lan (Lê Anh
Minh dịch); Lịch sử triết học [123] của Bùi Thanh Quất; Từ Lão - Trang đến
Đạo giáo [198] của Lê Xuân Vũ; Lịch sử triết học [199] của Nguyễn Hữu Vui;
Nho giáo Trung Quốc [111] của Nguyễn Tôn Nhan;…
1.4. Tài liệu nghiên cứu ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia đối
với lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII
Đứng trước thời cuộc rối ren, hôn quân loạn tặc, cường hào ác bá, mầm
mống thoái trào của xã hội phong kiến đang lớn dần và nổi đau cùng quẩn của
nhân dân cứ kéo dài trong lòng xã hội nên có khơng ít các nhà tư tưởng, nhân sĩ
trong giai đoạn lịch sử này đã “lánh đục tìm trong”, cáo quan về ở ẩn và mang
đậm tư tưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia. Vấn đề này có nhiều học giả nghiên
cứu với các cơng trình liên quan đến nội dung của luận án sau:
1.4.1. Tài liệu nghiên cứu ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia đối

với tư tưởng về con người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV XVIII
Trong tác phẩm Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm [128] của Nguyễn Hữu
Sơn tuyển chọn và giới thiệu đã có nhiều bài viết tư tưởng về con người của
Nguyễn Trãi đã ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia, như: Ảnh hưởng Đạo
gia trong thơ Nguyễn Trãi của Lã Nhâm Thìn; Thái độ của Nguyễn Trãi trong
cuộc sống của Nguyễn Thiên Thụ; Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn
Trãi của Trần Đình Sử; Về con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi của
Nguyễn Hữu Sơn; Vài nét về tư tưởng của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông của
Trần Thanh Mại;… Nhìn chung, các tác giả đều cho rằng, Nguyễn Trãi đã khơng
chỉ vận dụng tư tưởng Nho, Phật mà cịn cả học thuyết của Lão - Trang để luận
bàn các vấn đề về con người, như nguồn gốc con người, bản chất con người và
thái độ đối với sự sống chết của con người.
Ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia về con người trong tư tưởng của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, có tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập
[76] của Nguyễn Khuê. Trong tác phẩm này có nhiều nội dung: Vị thế của con
người trong trời đất; Thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Thản nhiên trước sự
sống chết, được mất, cùng thông; tuỳ thời xuất xử, tuỳ ngộ nhi an; thản nhiên
trước thị phi. Đối với xã hội quan thì ơng cho rằng phải tơn trọng quyền sống của


22
người khác. Chính trị quan thì Nguyễn Bỉnh Khiêm phê bình hiện thực như vạch
trần sự chênh lệch giàu nghèo; phản đối sự bóc lột dân lành; bất bình về tệ chính;
phê phán chiến tranh, u chuộng hồ bình.
Ngồi ra, trong tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý thế sự [127]
của Nguyễn Hữu Sơn biên soạn đã có nhiều bài viết cho rằng: khi luận bàn về
vấn đề con người và phê phán hiện thực xã hội, tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm
không chỉ chịu ảnh hưởng học thuyết của Nho, Phật mà cịn có nhân sinh của
Lão - Trang, như tác giả Bùi Duy Tân với bài Thơ Chữ Hán Nguyễn Bỉnh Khiêm;
Phạm thế Ngũ với bài Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Bạch Vân quốc ngữ thi”;

Nguyễn Huệ Chi với bài Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhìn từ một nhân cách lịch sử
đến dòng thơ thế sự; Nguyễn Lộc với bài Nhìn nhận lại thực chất thái độ phê
phán của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ văn; N. I .Niculin với bài Vấn đề lý giải
bài thơ “Tăng thử” của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Lê Trí Viễn với bài Phân tích bài
thơ “Vịnh khoai lang” và bài thơ “Khơn, đại”; Trần Đình Hượu với bài Triết lý
và thơ ở Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tác giả Nguyễn Thạch Giang với bài viết Tư tưởng sùng thượng thiên
nhiên của Đạo gia với bài Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi; Lã Nhâm Thìn với bài
Văn chương Nguyễn Trãi, nhìn từ ảnh hưởng Đạo gia và Vũ Minh Tâm với bài
Từ văn hoá Đạo gia đến triết luận Nguyễn Bỉnh Khiêm được in trong tác phẩm
Đạo gia và văn hoá [44] của Trung tâm Trung Quốc học - Đại học sư phạm Hà
Nội. Các tác giả đều cho rằng, vũ trụ quan và nhân sinh quan của Đạo gia thường
ẩn hiện trong mạng lưới tư tưởng của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ
đó, các ơng đã lý giải những vấn đề con người cũng ẩn chứa nhiều nội dung triết
lý nhân sinh của Lão - Trang.
Tư tưởng về con người của Lê Hữu Trác được thể hiện trong tác phẩm Tư
tưởng triết học về con người của đại danh y Lê Hữu Trác - Hải Thượng Lãn Ông
[114] của Phạm Công Nhất đã cho chúng ta thấy cụ thể hơn về một nhà tư tưởng
chịu ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia vào thế kỷ XVIII. Điều này được
tác giả luận bàn ở phần thứ nhất, cơ sở hình thành tư tưởng triết học về con
người của Hải Thượng Lãn Ông và phần thứ hai, một số nội dung trong tư tưởng
triết học của Hải Thượng Lãn Ơng về con người. Qua đó, tác giả cho rằng, con
người là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài trong giới tự nhiên, bản chất con


23
người trước hết cũng mang bản chất tự nhiên, vì thế mà con người phải “thuận
theo tự nhiên” để duy trì và tránh được những bệnh tật trong cuộc sống.
Tác phẩm Vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XV XVIII (Qua một số nhà tư tưởng) [30] của Nguyễn Bá Cường. Trong chương 3,
tư tưởng về sự sinh thành con người và tính người; chương 6, tư tưởng về tự

nhiên và cách ứng xử của con người với tự nhiên, tác giả đã khẳng định rằng, các
nhà tư tưởng Việt Nam tiêu biểu trong giai đoạn này, như Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm và Ngô Thời Nhậm khi luận về vấn đề con người đều vận dụng các
học thuyết của Nho, Phật, Lão và họ có nhiều tư tưởng tương đồng khi quan
niệm về nguồn gốc con người, bản tính con người và thái độ đối với sự sống chết
của con người.
Ngồi ra, cịn nhiều học giả khác cũng nghiên cứu đến nội dung này, như
Lịch sử triết học phương Đơng [23] của Dỗn Chính; Khái lược lịch sử tư tưởng
triết học Việt Nam [53] của Nguyễn Tài Đông; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập V,
VI, VII [164, 165] của Nguyễn Đăng Thục; Lịch sử tư tưởng Việt Nam [168] của
Nguyễn Tài Thư; Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1 [60] của
Nguyễn Hùng Hậu;…
1.4.2. Tài liệu nghiên cứu ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia đối
với đạo làm người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII
Trong giai đoạn lịch sử này của dân tộc, các nhà tư tưởng Việt Nam không
chỉ ảnh hưởng về đạo làm người của Nho gia, Phật gia mà còn mang nặng tư
tưởng về đạo làm người của Đạo gia. Với nội dung này đã có rất nhiều nhà
nghiên cứu với các tác phẩm tiêu biểu trên các phương diện sau:
Thứ nhất, tài liệu nghiên cứu ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia đối
với tư tưởng “vô dục”, không màng danh lợi để được ung dung tự do, tự tại và
đến với “vô vi” để thuận theo tự nhiên, hoà hợp với thiên nhiên.
Đối với tác phẩm Tư tưởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam
[45] của Võ Xuân Đàn đã chỉ rõ nguồn gốc tư tưởng Nguyễn Trãi, ngoài chủ
nghĩa yêu nước truyền thống dân tộc thì Nguyễn Trãi đã tiếp thu có chọn lọc
những yếu tố tích cực của các học thuyết Nho, Phật và Lão - Trang. Đối với tư
tưởng Lão - Trang, tác giả khẳng định rằng những yếu tố tiến bộ trong tư tưởng
của Lão Tử: “Công toại danh thối”, “Vị nhi bất thị”, “Cơng thành phất cư”, và


24

với Trang Tử: “Chí nhân vơ kỷ”, “Thần nhân vơ công”, “Thánh nhân vô danh”
đã ảnh hưởng khá mạnh đến tầng lớp Nho học thời phong kiến ở Việt Nam để rồi
triều đại phong kiến nào cũng xuất hiện những trí thức ở thời kỳ đầu hết lịng vì
dân, vì nước nhưng khi bị chế độ phong kiến làm cho phải rơi vào cảnh trầm
luân thì họ quay lại với tư tưởng về đạo làm người của Lão - Trang vào cuối đời
như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,...
Trong tác phẩm Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm [128] của Nguyễn Hữu
Sơn tuyển chọn và giới thiệu đã có nhiều bài viết chỉ rõ Nguyễn Trãi chịu ảnh
hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia về đạo làm người như: Nguyễn Thiên Thụ
với các bài: Tư tưởng của Nguyễn Trãi; Thái độ Nguyễn Trãi trong cuộc sống;
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi. Hà Như Chi với bài Luận về Nguyễn Trãi;
Miễn Trai với bài Vài suy nghĩ thêm về thơ văn Nguyễn Trãi; Trần Ngọc Vương
với bài Nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ trong Quốc âm thi tập; Trần Thanh Mại với
bài Vài nét về tư tưởng của Nguyễn Trãi qua thơ văn ơng;… Đặc biệt, Lã Nhâm
Thìn với bài Ảnh hưởng Đạo gia trong thơ Nguyễn Trãi, tác giả đã cho rằng,
Nguyễn Trãi phủ định danh lợi không chỉ bằng nhân sinh quan Nho giáo với
nhân nghĩa, đạo trung dung mà còn bằng nhân sinh quan của Đạo gia, lấy cái
huyền ảo Đạo gia để phủ định danh lợi và cái tích cực nhất trong tư tưởng Đạo
gia mà Nguyễn Trãi tiếp thu được là sống hòa hợp với tự nhiên, theo quy luật
của tự nhiên, theo lối “vơ vi” của Đạo gia mà có khi cịn xun thấm cả vào nhân
sinh quan, thế giới quan của ơng.
Cịn ảnh hưởng triết lý nhân sinh của Đạo gia đối với tư tưởng về đạo làm
người của Nguyễn Bỉnh Khiêm có tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân
am thi tập [76] của Nguyễn Khuê. Trong tác phẩm này tác giả cho rằng, quan
niệm về cuộc đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cái nhìn giống Trang Tử, cuộc đời
thật ngắn ngũi, nhân sinh chỉ là một hiện tượng trong vũ trụ, như bóng câu qua
cửa sổ. Vì vậy, đối với cụ Trạng phú quý công danh đều là mộng cả. Thái độ
sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm đó là tư tưởng chấp trung, tồn tâm dưỡng tính,
dưỡng vụng, bất tranh; thản nhiên trước sự sống chết, được mất, cùng thông; tuỳ
thời xuất xử, tuỳ ngộ nhi an; thản nhiên trước thị phi; phê bình hiện thực; phản

đối sự bóc lột dân lành; phê phán chiến tranh, u chuộng hồ bình.


25
Ngoài ra, trong tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý thế sự [127]
của Nguyễn Hữu Sơn biên soạn đã có nhiều bài viết khẳng định rằng tư tưởng
khơng màng danh lợi, vô dục, ung dung tự do, tự tại, thuận theo tự nhiên của
Nguyễn Bỉnh Khiêm mang màu sắc nhân sinh của Lão - Trang, như tác giả Bùi
Duy Tân với bài Thơ chữ Hán Nguyễn Bỉnh Khiêm; Lê Bảo với bài Một nghệ sĩ
dấu mình; Lê Trí Viễn với bài Ai muốn sống trăm tuổi như cụ Trạng và bài Vui
nhàn;… Đặc biệt, bài viết của Trần Đình Hượu với nhan đề: Triết lý và thơ ở
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khẳng định rằng, triết lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một
thứ Nho giáo mới, là một tư tưởng pha trộn Nho, Phật và Lão - Trang; Tự do, tự
tại, nhàn dật trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là khơng cịn của Phật giáo mà
được cải tạo theo hướng Lão - Trang.
Lịch sử tư tưởng Việt Nam [160-165] của Nguyễn Đăng Thục, gồm 7 tập.
Trong tập V, VI và VII, tác giả đã dành nhiều trang để phân tích sự ảnh hưởng
triết lý nhân sinh của Đạo gia đối với tư tưởng về đạo làm người của các nhà tư
tưởng Việt Nam tiêu biểu từ thế kỷ XV đến XVIII. Đối với Nguyễn Trãi, tác giả
cho rằng tư tưởng Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng bởi “Thiền thượng thừa - Từ Nho
đến Phật qua Lão”; đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ thì từ Nho - Đạo
- Thích Phật - Trời - Nhân - Thiên được thể hiện qua nhiều tác phẩm của các nhà
tư tưởng.
Nguyễn Thạch Giang với bài viết Tư tưởng sùng thượng thiên nhiên của
Đạo gia với bài Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi; Lã Nhâm Thìn với bài Văn
chương Nguyễn Trãi, nhìn từ ảnh hưởng Đạo gia và Vũ Minh Tâm với bài Từ
văn hoá Đạo gia đến triết luận Nguyễn Bỉnh Khiêm được in trong tác phẩm Đạo
gia và văn hoá [44] của Trung tâm Trung Quốc học - Đại học sư phạm Hà Nội.
Nhìn chung các tác giả đều cho rằng, đứng trước sự biến động về mọi mặt của xã
hội cho nên Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xuất xử theo triết lý nhân

sinh của Lão - Trang, cáo quan về ở ẩn, khơng cịn màng đến danh lợi, khơng
cịn lo được mất với đời nhằm ung dung tự do, tự tại theo bãn ngã của cá nhân;
vô vi, vô dục hòa đồng cùng với vạn vật trời đất.
Tư tưởng về đạo làm người của Lê Hữu Trác được thể hiện trong tác phẩm
Tư tưởng triết học về con người của đại danh y Lê Hữu Trác - Hải Thượng Lãn
Ơng [114] của Phạm Cơng Nhất. Điều này được tác giả luận bàn ở phần thứ


×