Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Mặt trận tổ quốc việt nam trong việc tham gia xây dựng chính quyền ở thành phố hải phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.1 KB, 118 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC
TRONG VIỆC THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN Ở
VIỆT NAM

9

1.1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Mặt trận
9

1.2.

Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây dựng chính quyền
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong việc tham gia xây dựng
chính quyền ở địa phương hiện nay

20

Chương 2: THỰC TRẠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM THAM
GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN Ở THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG HIỆN NAY

34


2.1.

Khái quát về đặc điểm tình hình của Mặt trận Tổ quốc Việt
34

2.2.

Nam thành phố Hải Phòng
Những mặt đạt được của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành

39

2.3.

phố Hải Phòng trong việc tham gia xây dựng chính quyền
Một số hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của Mặt trận
Tổ quốc trong việc tham gia xây dựng chính quyền ở Hải Phòng

56

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG
VIỆC THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN Ở HẢI
PHÒNG

64

3.1.

Những nhân tố tác động đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả hoạt động

64

3.2.

của Mặt trận Tổ quốc trong việc tham gia xây dựng chính quyền
Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây dựng chính quyền

73

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

103
106


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt những chặng đường lịch sử của cách mạng Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc luôn thể hiện được vai trò, vị trí của mình. Ngày nay, trong công
cuộc đổi mới và hội nhập Quốc tế, vai trò của Mặt trận càng phải được thể
hiện rõ hơn, nhất là trong việc tham gia xây dựng, củng cố chính quyền vì đây
là nhiệm vụ trọng tâm, là “xương sống” của công tác Mặt trận.
Ở nước ta, Mặt trận Tổ quốc là một bộ phận hợp thành của hệ thống
chính trị. Trong hệ thống chính trị đó có Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân.

Đảng có trong sạch vững mạnh, Nhà nước hoạt động có hiệu quả hay
không, một phần lớn phụ thuộc vào cơ sở xã hội của Đảng, của Nhà nước có
lành mạnh hay không. Từ đây nên đặt ra một cách tiếp cận mới là cùng với
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực hoạt động của Nhà nước trong
quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta cần chú ý đặc biệt đến vai trò
của Mặt trận Tổ quốc, trong đó cần đặc biệt coi trọng đến công tác tham gia
xây dựng chính quyền. Đây là vấn đề từ trước đến nay chúng ta còn chưa chú
ý đúng mức, vì thế Mặt trận Tổ quốc chưa thực hiện đúng chức năng, vai trò
tiềm năng của mình một cách đầy đủ và cũng là một trong những nguyên
nhân chủ yếu làm cho quá trình xây dựng Đảng, cải cách hoạt động của bộ
máy Nhà nước gặp không ít khó khăn.
Ngày nay, xu hướng biến đổi mạnh mẽ và nhanh chóng của cơ cấu xã
hội do tác động của kinh tế thị trường, hội nhập Quốc tế trong bối cảnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang đặt ra yêu cầu, đòi hỏi Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam phát huy vai trò của mình trong việc tham gia xây
dựng chính quyền, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa


2
đất nước và hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu
mạnh vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” mà Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ.
Tuy nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ tham gia xây dựng chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc từ Trung ương đến cơ sở phải hoạt động như thế
nào? Vai trò của nó trong quá trình hoạt động đó phải thực sự ra sao? Trên
thực tế Mặt trận Tổ quốc đã làm được đến đâu? Những gì là cản trở đối với
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
chính trị - xã hội của mình? Và những giải pháp cụ thể nào nhằm xây dựng
chính quyền đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đổi mới hiện nay?
Đó là những câu hỏi đặt ra cần có những giải đáp cụ thể, thỏa đáng. Để

góp phần giải đáp những câu hỏi đó cần có những nghiên cứu tổng thể,
nghiên cứu chuyên biệt, thậm chí khảo sát Mặt trận Tổ quốc thực hiện vai trò,
chức năng nhiệm vụ của mình ở một nội dung cụ thể, ở một địa phương cụ
thể. Do điều kiện nghiên cứu quy định, đề tài luận văn tập trung nghiên cứu
Mặt trận Tổ quốc ở một địa phương cụ thể (Hải Phòng) và trong việc thực
hiện một nhiệm vụ chính trị cụ thể (tham gia xây dựng chính quyền).
Tham gia xây dựng chính quyền là yêu cầu cần thiết khách quan và có
tính lịch sử, cụ thể của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam gắn bó mật thiết với nhiệm vụ chính trị từng giai đoạn cách
mạng, gắn với quá trình đổi mới của đất nước. Trải qua quá trình hình thành
và phát triển lâu dài từ những năm 30, 40 của thế kỷ XX, Mặt trận vận động
toàn dân đứng lên đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân, với những
tên gọi khác nhau gắn liền với những giai đoạn lịch sử của đất nước, Mặt trận
luôn phát huy vị trí và vai trò quan trọng của mình.
Trải qua các kỳ Đại hội khác nhau, Mặt trận Tổ quốc ngày càng
khẳng định vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện
ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, góp sức xây dựng


3
Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng đã chỉ rõ:
Mặt trận Tổ quốc phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp; xây dựng chủ trương, chính sách pháp
luật, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác và đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ
quan nhà nước; giải quyết những mâu thuẫn chủ yếu trong nội bộ
nhân dân [9, tr.130].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng một lần nữa nhấn mạnh:
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp ủy
đảng và cấp chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với
nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước những vấn đề mà nhân
dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật.
Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quy chế dân chủ ở
mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia
xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị [12, tr.124].
Điều 9 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(1992) quy định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống
đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân
dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi


4
hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà
nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước [34, tr.2].
Thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng, Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Hướng dẫn số 09/HD-MTTWBTT ngày 25 tháng 02 năm 2010 “Hướng dẫn công tác tham gia xây dựng
chính quyền của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương năm 2010”, trong đó chỉ rõ những nhiệm vụ trọng tâm công tác
Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương năm 2010.
Tham gia xây dựng chính quyền được thực hiện trên phạm vi toàn

quốc cũng như ở từng địa phương, nhưng mỗi địa phương do đặc điểm của
mình nên ngoài những nét chung còn có cách thức triển khai và thực hiện
mang những sắc thái riêng cần nghiên cứu tổng kết. Trên tinh thần đó, chúng
tôi chọn vấn đề “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây dựng
chính quyền ở thành phố Hải Phòng hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Công tác Mặt trận có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng ta. Thời gian qua, trải qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đã
chỉ rõ và nhấn mạnh vai trò, vị trí, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tại các văn kiện Đại hội Toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII,
IX, X và các Nghị quyết như: Nghị quyết số 23-NQ/TW Hội nghị lần thứ
Bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh (ngày 12/03/2003)…
Từ những quan điểm, đường lối của Đảng về công tác Mặt trận nói
chung đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng nghiên cứu về công tác Mặt
trận tham gia xây dựng chính quyền nói riêng chưa được quan tâm nhiều,


5
mới chỉ có một số tác giả đề cập tới, có thể kể một số công trình nghiên cứu
có liên quan như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ (2009), KX.10.03/06-10: Mô hình đổi mới,
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị xã hội trong hệ thống chính trị giai đoạn 2010 - 2015 do Thang Văn Phúc
chủ nhiệm và đã xuất bản thành sách.
- Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã
hội trong hệ thống chính trị Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2008)
do Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên)

- Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị Việt
Nam hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2009) do Nguyễn Hữu Đổng
chủ biên.
- Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở. Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội (2002) do Phan Xuân Sơn chủ biên
Và một số bài viết có liên quan như:
- Đặng Đình Tân, “Về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Mặt trận, số 12/2007
- Nguyễn Thọ Ánh, “Lại bàn về chức năng giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận, số 6/2009
- Nguyễn Văn Pha, “Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội, góp phần xây dựng Đảng và
Nhà nước trong sạch, vững mạnh”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009
- Tô Vĩ, Xuân Trường, “Nhìn lại 4 năm công tác tham gia xây dựng
chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận số 1/2009.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến công tác Mặt
trận ở một số góc độ, khía cạnh khác nhau. Một số công trình nêu được mô
hình đổi mới hoạt động của Mặt trận và mối quan hệ giữa Mặt trận với Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể; một số công trình đã đề cập đến một số nội dung


6
của công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền như giám sát và phản
biện xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở…Tuy nhiên, các công trình mới chỉ ra
nhiệm vụ công tác Mặt trận nói chung hay một vài nội dung của công tác xây
dựng chính quyền mà chưa nghiên cứu sâu sắc toàn bộ nội dung, các góc độ,
khía cạnh của công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền, và từ đó chỉ
ra được thực trạng cũng như giải pháp để xây dựng chính quyền trong sạch,
vững mạnh.
Nghiên cứu vấn đề: Mặt trận Tổ quốc trong việc tham gia xây dựng

chính quyền là một vấn đề khá rộng. Tuy nhiên, ở thành phố Hải Phòng chưa
có tài liệu nào bàn về vấn đề này một cách hệ thống, đó cũng sẽ là những khó
khăn cho tác giả khi triển khai nghiên cứu đề tài. Nhưng với tâm huyết của
người cán bộ, mong muốn góp một phần nhỏ bé vào công tác Mặt trận trong
thời kỳ mới, tác giả hy vọng những kết quả của luận văn sẽ có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác Mặt trận
và những người quan tâm.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của Mặt
trận Tổ quốc trong xây dựng chính quyền, luận văn đưa ra một số quan điểm
và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của Mặt trận trong xây dựng chính
quyền ở Hải Phòng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ lý luận về Mặt trận Tổ quốc trong xây dựng chính
quyền ở Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ thực trạng thực hiện vai trò của Mặt trận trong xây
dựng chính quyền ở Hải Phòng hiện nay.


7
- Đưa ra quan điểm và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của Mặt trận trong việc tham gia xây dựng chính quyền.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài nghiên cứu công tác Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng chính
quyền thành phố Hải Phòng nhiệm kỳ 2004 - 2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác tham gia xây
dựng chính quyền, đề tài tiếp cận vấn đề có tính hệ thống, tức là nghiên cứu thực
trạng hoạt động và tiếp cận dự báo về các vấn đề đặt ra đối với công tác Mặt trận
tham gia xây dựng chính quyền trong bối cảnh, tình hình mới của đất nước.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp chung của chính trị học Mác-xít: Lôgíc và
lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, tổng hợp, chúng tôi còn sử dụng
phương pháp nghiên cứu tổng kết thực tiễn để thực hiện luận văn và sử dụng
có kế thừa những tư liệu, số liệu thống kê, các báo cáo có liên quan đến đề tài
ở địa phương.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Qua việc điều tra, nghiên cứu, phân tích, đánh giá kết quả Mặt trận Tổ
quốc tham gia xây dựng chính quyền ở Hải Phòng, luận văn có đóng góp:
Cung cấp những luận cứ, luận chứng thực trạng và một số dữ liệu
thực tiễn có tính khái quát và hệ thống về công tác Mặt trận trong việc tham
gia xây dựng chính quyền, nêu lên những gợi ý khoa học, những đề xuất và
giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận trong đời sống xã
hội nói chung, trong thực hiện tham gia xây dựng chính quyền ở Hải Phòng
nói riêng.


8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần vào việc nghiên cứu công tác tham gia xây dựng chính quyền
của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị trên phạm vi một địa phương
cũng như cả nước.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu,
giảng dạy chuyên đề; đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan
chức năng trong việc xây dựng Mặt trận, hướng Mặt trận Tổ quốc vào nội
dung hoạt động cụ thể nhằm phát huy vai trò của Mặt trận trong công tác tham

gia xây dựng chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
trên một địa bàn cũng như trên cả nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC
TRONG VIỆC THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN
Ở VIỆT NAM

1.1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG VIỆC THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN

1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
việc tham gia xây dựng chính quyền
Vấn đề chính quyền là vấn đề rất cơ bản của mọi cuộc cách mạng.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm tòi, giải
quyết hàng loạt các vấn đề về đường lối chiến lược của cách mạng, về giành
chính quyền, giữ chính quyền và xây dựng chính quyền.
Sau khi lật đổ ách thống trị của thực dân và phong kiến tay sai, lập nên
chính quyền của nhân dân, suốt 24 năm đứng đầu Nhà nước, Người đã trực
tiếp lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trên cơ sở thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo
chính quyền, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, về xây dựng chính quyền
được bổ sung, phát triển và là một bộ phận quan trọng của hệ tư tưởng Hồ Chí
Minh, đã chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và hoạt động của Nhà nước Việt Nam Dân

chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm
cách mạng thế giới vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh khẳng định: Chính quyền Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là
nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân; cơ sở xã hội của
Nhà nước là toàn dân tộc, nền tảng là liên minh công - nông, lao động trí óc
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.


10
Chánh cương vắn tắt (3-2-1930) đã xác định nhiệm vụ chính trị của
cách mạng Việt Nam là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra Chính phủ công
nông binh. Tổ chức ra quân đội công nông” [27, tr.1].
Đến tháng 5-1941, Nghị quyết Trung ương tám khóa một của Đảng đã
khẳng định rõ về chế độ chính trị và chính quyền Việt Nam là:
Sau lúc đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập một nước Việt
Nam dân chủ theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng
của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai
cấp nào mà là của chung của cả toàn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn tay
sai của đế quốc Pháp - Nhật và những bọn phản quốc [11, tr.114].
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nhân dân ta đã đập tan
xiềng xích Nhật - Pháp, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Năm 1960, đánh giá kết quả của sự kiện này, Người viết: “Chế độ Hiến
pháp năm 1946 xác nhận đã bảo đảm độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng
rãi của nhân dân…Đó là một chế độ dân chủ mới” [30, tr.582].
Sự khác biệt giữa nhà nước dân chủ kiểu cũ và nhà nước dân chủ kiểu
mới là ở chỗ: Nhà nước dân chủ kiểu cũ là nhà nước dân chủ tư sản, mang
bản chất của giai cấp tư sản; còn nhà nước dân chủ kiểu mới là dân chủ của

nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, là kết quả của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Đó là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân; dân chủ với nhân dân và chuyên chính với
kẻ thù của nhân dân.
Nhà nước của dân là Nhà nước “bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”,
những người ở trong bộ máy Nhà nước, bộ máy quyền lực dù ở cấp nào cũng
đều là “đày tớ của nhân dân”, đều do dân cử ra một cách trực tiếp hay gián
tiếp để đại biểu cho nhân dân thực thi quyền lực. Dân có quyền giám sát, bãi


11
miễn những người trong bộ máy nhà nước do mình bầu ra mà không làm tròn
trách nhiệm đại biểu quyền lực cho nhân dân.
Nhà nước do dân là Nhà nước: “Chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra”. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức
nên. Dân bầu ra người đại diện cho mình để cầm quyền, đồng thời dân có
quyền kiểm soát, giám sát người mình bầu ra và bãi miễn khi họ không làm
tròn sự ủy thác, đại diện.
Người nhấn mạnh “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Đó mới chính là Nhà
nước vì dân, do đó “Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì
hại cho dân thì phải hết sức tránh”. Người yêu cầu mọi chủ trương chính
sách, mọi quy định của pháp luật, pháp lệnh đều phải xuất phát từ lợi ích của
dân. Cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, cả lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội trong sự kết hợp hài hòa. Mọi cán bộ nhà nước đều vì dân, hết lòng phục
vụ nhân dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân, vì dân về bản
chất là Nhà nước của giai cấp công nhân và của toàn nhân dân Việt Nam, dưới
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
“Dân” là một khái niệm lịch sử, tùy theo tình hình kinh tế - chính trị xã hội và giai cấp thống trị ở mỗi nước trong từng giai đoạn lịch sử mà khái
niệm dân có thể có nội dung rộng hẹp khác nhau.

“Dân” trong mệnh đề “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, “dân làm
chủ” mà Hồ Chí Minh sử dụng là “toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân
biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” [34, tr.8].
Tuy nhiên, Người không xem “Dân”, “Nhân dân”…là một khối đồng
nhất mà là cộng đồng bao gồm nhiều dân tộc, giai cấp, tầng lớp, thể hiện rõ sự
thống nhất giữa giai cấp và dân tộc trong việc xác định bản chất giai cấp và cơ
sở xã hội của Nhà nước.


12
Thể hiện tư tưởng về “Dân” và người đại diện cho dân là Mặt trận dân
tộc thống nhất, Chính cương Đảng lao động Việt Nam (2-1951) đã nêu rõ:
“Chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là chính quyền dân
chủ của nhân dân, nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị,
tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước tiến
bộ. Những tầng lớp nhân dân ấy chuyên chính với đế quốc xâm lược và
bọn phản quốc, cho nên nội dung chính quyền đó là nhân dân dân chủ
chuyên chính. Chính quyền đó dựa vào Mặt trận Dân tộc thống nhất lấy
liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng, do giai
cấp công nhân lãnh đạo”.
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thì
tính chất cơ bản của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cơ sở
xã hội - giai cấp của Nhà nước là khối đại đoàn kết dân tộc, trên nền tảng liên
minh công nhân, nông dân, lao động trí óc do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo. Cơ sở ấy không thu hẹp mà còn phát triển về chất lượng. Cách
mạng không gạt bỏ một giai cấp, một tầng lớp nào đã đứng trong hàng ngũ
của Mặt trận Dân tộc thống nhất, mà hết sức bồi dưỡng, cải tạo, dìu dắt để
mọi giai cấp, tầng lớp và mọi người tiếp tục đi theo con đường cách mạng do
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vạch ra.
Theo Hồ Chí Minh, để nhân dân trở thành người chủ thực sự của đất

nước thì cần huy động nhân dân tham gia vào công việc quản lý của nhà
nước, hăng hái đóng góp ý kiến, quyết định các công việc của đất nước,
của xã hội. Người nói: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh
hoạt chính trị toàn dân để phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân,
làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc
nhà nước” [28, tr.3-4].
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước mà chúng ta xây
dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, Nhà nước quản lý đất nước bằng


13
pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một Nhà
nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn phải đi đôi với nhau, nương tựa vào
nhau mới đảm bảo được cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân
chủ ngoài pháp luật, pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của
người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ
thống pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự do, dân chủ của người dân được
tôn trọng trong thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm
bảo được việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Ở
cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến
pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh
và nhiều văn bản dưới luật khác.
Một mặt chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước
ta, mặt khác Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế
bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành
đó trong các cơ quan Nhà nước và trong nhân dân.
Theo Người, công bố luật chưa phải là mọi việc đã xong, phải tuyên

truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện tốt.
Trước hết, Người rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức
làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích
nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân
chủ hình thức. Người thường nhắc nhở cán bộ phải lo làm sao cho dân biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc dân biết và dám phê bình
người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân
chủ hóa khá cao.


14
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích
nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời không ngừng
nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp
luật. Người rất không hài lòng trước việc pháp luật của ta không được thực
hiện nghiêm minh, xét xử thiếu công bằng, lẫn lộn giữa công và tội.
Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực; xây dựng
bộ máy chính quyền trong sạch, vững mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ
phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ,
viên chức Nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp
vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiện, liêm, chính, chí công vô
tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý. Người đặc
biệt nhấn mạnh việc cán bộ nhà nước phải biết quản lý nhà nước, phải tẩy
sạch óc bè phái và phải tăng cường pháp luật đi đôi với việc đẩy mạnh giáo
dục đạo đức, chấp hành kỷ cương, kiên trì đẩy mạnh giáo dục đạo đức cho
cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền.
Để thực hiện được điều đó, Hồ Chí Minh khẳng định sự cần thiết phải
phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Người cho rằng Mặt
trận quan trọng và cần thiết trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cả trong xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
phải thực sự là người đại diện cho nhân dân, xây dựng Nhà nước đảm bảo
Nhà nước đó là của dân, do dân, vì dân. Người đã từng viết: “Khi ai có điều gì
oan ức, thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ
của tất cả công dân Việt Nam” [29, tr.66].
Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò của Mặt trận và đoàn
thể nhân dân trong lực lượng đại đoàn kết của dân tộc, trong thiết chế chính
trị, xã hội và trong nền dân chủ của đất nước.
Thực tế ngày càng khẳng định tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
Nhà nước pháp quyền và nhiệm vụ xây dựng chính quyền của Mặt trận là rất


15
đúng đắn. Khi quan sát các nhà nước phát triển đương đại, chúng ta đều thấy
một tình hình có tính quy luật là các nhà nước hiện đại ngày càng khẳng định
và mở rộng vai trò của các tổ chức xã hội. Trong các xã hội đó, nhiều nhiệm
vụ nhà nước được chuyển giao cho các tổ chức xã hội, các đoàn thể, hiệp hội
đảm nhận.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
đặt vị trí, vai trò quan trọng của Mặt trận và các đoàn thể, đã định hình như
một thế chân vạc trong thiết chế chính trị - xã hội của đất nước.
Người khẳng định đoàn thể là của dân, trước hết là của dân chứ không
phải là của Đảng, của Nhà nước hay của cán bộ đoàn thể.
Hồ Chí Minh còn khẳng định nhiệm vụ của đoàn thể là phấn đấu cho
dân, xây dựng chính quyền vững mạnh để thực hiện đảm bảo quyền lợi cho
dân. Tư tưởng ấy của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và là định
hướng xuyên suốt cho mỗi chặng đường phát triển của đất nước.
1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
việc tham gia xây dựng chính quyền
Trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ

quốc, Đảng ta luôn coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam
nêu rõ:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò rất quan trọng trong việc
củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần thể chế hóa
quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận, của các đoàn thể trong việc
tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội [6, tr.94].
Đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam (khóa VII tháng 11/1991) khẳng định vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đối với việc xây dựng Nhà nước:


16
Cải cách bộ máy Nhà nước còn bao hàm một nội dung quan
trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các
đoàn thể tham gia xây dựng quản lý, giám sát và bảo vệ Nhà nước.
Nhà nước dựa vào Mặt trận và các đoàn thể để phát huy quyền làm
chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân. Đó cũng chính là sức
mạnh của bản thân Nhà nước [7, tr.29].
Ngày 17/11/1993, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VII) ban hành Nghị quyết số 07/TW về đại đoàn kết dân tộc và tăng
cường Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, đã nhấn mạnh vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây dựng chính quyền: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cần được củng cố và mở rộng về tổ chức và hoạt
động để thực sự là một tổ chức tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi thể
hiện nguyện vọng và ý chí của các tầng lớp nhân dân…Tham gia với chính
quyền trong việc thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ
lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, tham gia xây dựng, giám sát

và bảo vệ chính quyền”.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt
Nam (tháng 7/1996), Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong việc tham gia xây dựng chính quyền. Văn kiện Đại hội nêu rõ:
Củng cố mở rộng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của
các đoàn thể chính trị - xã hội và các cá nhân tiêu biểu. Mặt trận và
các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
tham gia với Đảng, Nhà nước thực hiện và giám sát việc thực hiện
dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân
dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước [8, tr.128].


17
Như vậy, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về xây dựng, tập hợp
khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung và về nhiệm vụ của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong công tác tham gia xây dựng, củng cố chính quyền nói
riêng đã được thể hiện ngày càng rõ hơn qua hai kỳ Đại hội (từ Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII). Nghị
quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng mới xác định vai trò rất quan trọng của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân, bảo vệ Tổ
quốc, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thành viên của tổ chức
mình; thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội. Trong Nghị quyết Đại hội VII,
Đảng ta chưa đặt vấn đề Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng, giám
sát và bảo vệ chính quyền nhân dân, nhất là nhiệm vụ giám sát và động viên
nhân dân giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán
bộ, công chức Nhà nước. Đến Đại hội VIII, Đảng ta đã xác định: Mặt trận và
các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tham gia

với Nhà nước thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo
vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Cần đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, làm
cho Mặt trận và các tổ chức thành viên thực sự là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân.
Để xây dựng Nhà nước trở thành trụ cột của hệ thống chính trị, là công
cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì
dân, một Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả,
Nghị quyết Đại hội VII của Đảng còn xác định: “Cách mạng là sự nghiệp của
nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân”. Chính những ý kiến, nguyện vọng và
sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt
qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành


18
tựu như hôm nay. Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những
thành tựu to lớn, Mặt trận Tổ quốc phải đảm nhiệm trọng trách là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân, tham gia và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong xây dựng, giám sát và bảo vệ chính quyền nhân dân. Đó là một tất
yếu lịch sử của cách mạng Việt Nam và sứ mệnh cao cả của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng là mốc son quan trọng đánh dấu thời kỳ phát triển
mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp
tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục
khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đồng thời, Đảng ta

còn nêu rõ hơn, cụ thể hơn về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
thời kỳ mới, đó là:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng,
tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, góp sức xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp; xây dựng chủ trương, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực
hiện giám sát của nhân dân đối với công tác và đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan Nhà
nước [9, tr.130].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn
ra trong thời điểm mà sự nghiệp đổi mới đất nước đã trải qua 20 năm. Để đạt
được những mục tiêu đổi mới đưa ra, cần triển khai và thực hiện đồng bộ các


19
giải pháp, trong đó có việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc. Về vấn đề này, Đảng ta tiếp tục
khẳng định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò
rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các
tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân; đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương
trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống,
góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội [12, tr.24].
Tuy nhiên, trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần này đã có
bước phát triển mới về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân và Nhà nước ban hành cơ

chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và
phản biện xã hội. Đảng ta xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng, Nhà
nước và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ.
Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động của
cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước đã được
Đảng ta nêu ra từ Nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VII) năm 1991 và đã được thể chế hóa tại Điều 9 Hiến pháp năm 1992
và nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước. Còn vai trò phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Nghị quyết Đại hội X của Đảng nêu ra; đây
là vấn đề rất khó và nhạy cảm, nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
vận động các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân trong thời kỳ mới.


20
Như vậy, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây dựng, giám sát, bảo vệ Đảng,
xây dựng và củng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân ngày càng được
khẳng định rõ hơn, cụ thể hơn qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đúng như lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã dạy:
Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công
tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác
cách mạng. Các cán bộ và đảng viên ta cần nắm vững và chấp hành
đúng Nghị quyết của Đại hội Đảng và Nghị quyết của Bộ chính trị
về vấn đề Mặt trận dân tộc thống nhất. Trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận
dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách

mạng Việt Nam [28, tr.401].
1.2. VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG VIỆC THAM GIA XÂY
DỰNG CHÍNH QUYỀN Ở ĐỊA PHƯƠNG HIỆN NAY

1.2.1. Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật;
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
Xây dựng chính sách và pháp luật là công việc thuộc về các cơ quan
trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, với chức năng, nhiệm vụ của mình, Mặt
trận Tổ quốc có trách nhiệm tham gia vào công việc này để đảm bảo mọi chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đáp ứng được các quyền và lợi
ích của mọi tầng lớp nhân dân.
Điều 9, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn nêu các nội dung cụ thể Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng pháp luật với các nội dung sau đây:
1. Kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ về dự kiến
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
2. Trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án luật, pháp lệnh;


21
3. Cùng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nghị quyết,
thông tư liên tịch để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định
về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia quản lý nhà nước;
4. Tham gia góp ý kiến vào các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị
quyết, nghị định và các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác [21, tr.10].
Công tác tham gia xây dựng pháp luật và vận động nhân dân đóng góp
ý kiến xây dựng pháp luật là nhiệm vụ có liên quan trực tiếp đến việc phát
huy dân chủ, vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Thông qua công tác xây dựng chính sách pháp luật và
vận động nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, Mặt trận đã tham gia

góp ý vào khoảng 40 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật như: Luật về Hội,
Luật Luật sư, Luật trợ giúp pháp lý, Luật cư trú, Luật bình đẳng giới, Luật
thuế thu nhập cá nhân, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn…;
đặc biệt, Mặt trận đã tích cực xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên
tịch với các cơ quan Nhà nước cùng cấp, nhằm thể chế hóa các quy định của
pháp luật về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia quản lý nhà
nước. Sự tham gia của Mặt trận trong công tác xây dựng pháp luật và vận
động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật đã góp phần làm cho các văn bản
pháp luật được thông qua ngày càng sát với thực tiễn và có tính khả thi hơn.
Song song với việc tham gia xây dựng pháp luật, Điều 7, Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam còn chỉ rõ việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện
quyền làm chủ , thi hành chính sách, pháp luật với các nội dung sau đây:
1. Tham gia tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
2. Phối hợp, tham gia với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động,
các phong trào thi đua yêu nước, vận động nhân dân đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, giải quyết các vấn đề xã


22
hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội;
3. Tham gia với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức
vận động nhân dân thực hiện dân chủ ở cơ sở, hướng dẫn nhân dân xây dựng
hương ước, quy ước về nếp sống tự quản ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố,
cộng đồng dân cư khác ở cơ sở phù hợp với luật, góp phần xây dựng và bảo
vệ chính quyền nhân dân;
4. Tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về
hòa giải.
5. Tổng hợp, nghiên cứu ý kiến, nguyện vọng của nhân dân đê phản

ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước [21, tr.8-9].
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng, Mặt trận Tổ
quốc phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các tổ chức thành viên để phổ biến
rộng rãi trong đoàn viên, hội viên, nhân dân tại cộng đồng dân cư, tổ dân phố
và tới hộ gia đình; nhất là phối hợp thực hiện tốt Đề án 02-212/TTg của Thủ
tướng Chính phủ về xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động
chấp hành pháp luật tại cộng đồng dân cư. Hoạt động tuyên truyền của Mặt
trận là thiết thực góp phần nâng cao kiến thức pháp luật và ý thức pháp luật
cho nhân dân; qua đó, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác
xây dựng chính quyền ngày một hiệu quả.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật tới từng người dân
là nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền lợi hợp pháp của công dân.
Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2010 của
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (mà
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một thành viên nòng cốt) cũng nhấn mạnh việc
tích cực tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân.
Hội đồng đã có nhiều việc làm cụ thể phổ biến sâu rộng các quy định của
pháp luật gắn trực tiếp với cuộc sống hàng ngày của nhân dân như: Các quy


23
định về luật phòng chống tham nhũng, luật thực hành tiết kiệm chống tham
nhũng lãng phí; các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo những vi
phạm về đất đai, an toàn giao thông, phòng chống ma túy, các tệ nạn xã hội,
bảo vệ môi trường; các chế độ mà người dân được hưởng, các nghĩa vụ mà
người dân phải thực hiện…Như vậy, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng mang tính vai trò, chức năng
quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Theo quy định của pháp luật, Mặt trận Tổ quốc giữ vai trò động viên
nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật. Mặt trận các cấp đã đẩy mạnh

tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân
thông qua các hình thức như:
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng,
các tổ chức thành viên tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân ở cơ sở những
chủ trương, đường lối của Đảng, những quy định, chính sách pháp luật của
Nhà nước, về quyền làm chủ của nhân dân để nhân dân sử dụng đúng quyền
và trách nhiệm của mình.
Tổ chức học tập cho các đối tượng xã hội do Mặt trận Tổ quốc trực tiếp
vận động, như các chức sắc tôn giáo, người tiêu biểu…để thông qua các vị
tiêu biểu này tuyên truyền, động viên nhân dân thi hành nghiêm chỉnh pháp
luật. Đồng thời, tổ chức học tập cho cán bộ chuyên trách và cả không chuyên
trách của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, như cán bộ trong Ban Thường
trực Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn, Trưởng ban Công tác mặt trận ở
khu dân cư, Trưởng ban Thanh tra nhân dân nghiên cứu, học tập các văn bản
pháp luật và tổ chức thực hiện đến từng cấp và địa bàn dân cư.
Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương phối hợp với các cơ quan thông
tin đại chúng, qua hệ thống loa truyền thanh ở xã, phường, phát hành tờ rơi…
tuyên truyền, động viên nhân dân hiểu rõ, thi hành nghiêm chỉnh, sử dụng
đúng quyền và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện pháp luật.


24
Để việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật thực sự mang lại hiệu quả,
Mặt trận đã quán triệt tư tưởng và đồng thời là bài học phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước, của
chính quyền các cấp, khắc phục tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân. Song song với mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là
đi đôi với giữ vững kỷ cương, chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá
khích; tuyên truyền, vận động nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp,

pháp luật.
Điều quan trọng là công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
của Mặt trận có đến được từng địa bàn dân cư, phát huy vai trò của Ban công
tác Mặt trận khu dân cư hay không để từ đó phổ biến pháp luật đến từng hộ
dân, từng hộ gia đình.
Như vậy, công tác tham gia tham gia xây dựng chính sách, pháp luật;
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là một chức năng cơ bản, thể hiện
vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong công tác tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền. Hoạt động tuyên truyền pháp luật của Mặt trận, vận động nhân
dân tham gia xây dựng pháp luật đã góp phần nâng cao kiến thức pháp luật và
ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân; qua đó, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong công tác tham gia xây dựng chính quyền ngày một thiết thực,
hiệu quả.
1.2.2. Mặt trận Tổ quốc tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc
hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
Bầu cử là công việc trước tiên trong xây dựng chính quyền nhân dân.
Thông qua bầu cử dân chủ, chính quyền nhà nước mới thực sự là đại diện hợp
pháp của nhân dân. Ở nước ta, Mặt trận Tổ quốc có vai trò quan trọng trong
công tác bầu cử. Nhiệm vụ này được quy định rõ trong Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Điều 5, Luật bầu cử đại


×