Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Mặt trận tổ quốc việt nam trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở từ thực tiễn thị xã sơn tây, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.79 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGHIÊM THỊ THÚY HẰNG

MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành:
Mã số:

Chính trị học
60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. Lưu Văn Quảng

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
thạc sỹ chính trị học “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở từ thực tiễn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội” là hoàn toàn
trung thực, không trùng lắp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.


Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn

Nghiêm Thị Thúy Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1: DÂN CHỦ CƠ SỞ VÀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ ........... 8
1.1.Dân chủ và thực hiện dân chủ cơ sở ......................................................................... 8
1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ..................... 19
Chương 2: MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM, THỊ XÃ SƠN TÂY,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ
SỞ - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ........................................... 31
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị xã Sơn Tây
trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ......................................................................... 31
2.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị xã Sơn Tây trong thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở........................................................................................................................ 38
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị xã Sơn Tây
trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. ......................................................................... 54
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM THỊ XÃ SƠN TÂY TRONG THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ ........................................................................ 58
3.1. Quan điểm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc thị xã Sơn Tây trong
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở .................................................................................. 58
3.2. Giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị xã Sơn Tây
trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở .......................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 79



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT

Chữ viết tắt

Nội dung

1

HĐND

Hội đồng nhân dân

3

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

4

QCDC

Quy chế dân chủ

5


UBND

Ủy ban nhân dân

6

TTND

Thanh tra nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ không chỉ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là động
lực, là mục tiêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Dân chủ, hiểu theo nghĩa truyền thống, là người dân làm chủ mọi
quyền lực xã hội; hay nói cách khác, dân chủ là quyền lực xã hội thuộc về nhân dân,
trước hết là nhân dân lao động. Lịch sử nhân loại đã chứng minh một thực tiễn
mang tính chân lý: dân chủ là khát vọng lớn lao, là đòi hỏi bức xúc của con người,
là một nhu cầu đặc biệt quan trọng mà con người mong muốn vươn tới; đồng thời,
dân chủ cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển
của dân chủ đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã hội loài người.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của dân chủ, nên ngay
từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là một vấn đề hệ trọng, có ý nghĩa chiến
lược sâu sắc đối với sự phát triển của đất nước.
Để dân chủ đi vào thực tế của đời sống xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: muốn phát
huy sức mạnh và sự sáng tạo vô địch của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải tạo ra được những thể chế, chủ trương, chính sách
thích hợp để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống

xã hội. Khi quyền làm chủ của người dân được tôn trọng và bảo đảm, sẽ tạo nên nền
tảng, cơ sở vững chắc để các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước được thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Muốn thực hiện được
điều đó, việc dân chủ hóa mọi hoạt động của Đảng và của cả hệ thống chính trị
nhằm tập hợp được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia quản lý các công việc
của Nhà nước và xã hội, đóng góp trí tuệ và vật chất để xây dựng, bảo vệ đất nước
sẽ là một quan điểm hết sức đúng đắn, sáng suốt. Phương châm "dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã được thể hiện trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng và được thể chế thành pháp luật của Nhà nước.

1


Trước thực trạng yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở và vấn đề mất dân
chủ ở cơ sở diễn ra nghiêm trọng ở nhiều nơi, làm xói mòn lòng tin của nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước, gây nên tình trạng mất an ninh và trật tự xã hội ở nhiều
địa phương, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW về việc xây
dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta có một
văn bản riêng về vấn đề này. Việc ban hành Chỉ thị quan trọng này của Đảng chính
là để tiếp tục mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước; thực hiện tốt phương châm "Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" nhằm phát huy quyền làm chủ của dân,
thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng suy
thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng đang xảy ra ở nhiều nơi trên đất
nước ta. Qua đó, nhằm xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở ngày càng trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; góp phần to lớn vào việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ thị đã nêu rõ nhiệm vụ quan
trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; bởi
đó là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước, là nơi thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực

tiếp và rộng rãi nhất. Trên cơ sở đó, ngay trong năm 1998, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn (sau đó được thay bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP và nay đã
được nâng lên thành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn).
Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ đã
quy định trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
bao gồm 3 việc: Phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong hội viên,
đoàn viên và nhân dân chỉ thị này và các quy chế dân chủ ở cơ sở; Làm cho mọi
người hiểu và sử dụng đúng quyền và nghĩa vụ công dân, quyền của các tổ chức
chính trị - xã hội đã được quy định trong quy chế dân chủ; Phối hợp với chính
quyền trong việc thực hiện quy chế dân chủ và giám sát thực hiện các quy chế dân
chủ ở cơ sở.

2


Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ chính trị
(khóa VIII) “Về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở” còn một số hạn chế nhất
định, bộc lộ những thiếu sót, yếu kém như: công tác chỉ đạo của MTTQ ở một số
xã, phường trong thị xã Sơn Tây chưa phát huy hết quyền làm chủ của nhân dân;
còn bị động lúng túng trong việc đề ra các biện pháp chỉ đạo phù hợp với tình hình,
đặc điểm của từng địa phương; tính hình thức còn khá phổ biến trong nhiệm vụ
triển khai thực hiện QCDC của các cấp ủy Đảng, chính quyền và MTTQ. Việc kiện
toàn, củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban MTTQ ở một số địa
phương chưa được tập trung đúng mức; Một số cán bộ xã, phường chưa nắm bắt
được QCDC và công tác Mặt trận tham gia thực hiện QCDC; hoạt động giám sát
của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở một số xã, phường còn kém; công
tác tuyên truyền vận động nhân dân học tập nắm vững các quan điểm của Bộ Chính
trị, nội dung quyền làm chủ trực tiếp trong quy chế còn hình thức; việc lồng ghép
các nội dung công tác Mặt trận tham gia thực hiện QCDC với các nội dung cuộc

vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” chưa chặt
chẽ và đồng bộ. Cụ thể là các nội dung “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
còn hình thức, thiếu cơ chế, điều kiện để nhân dân phát huy quyền kiểm tra, giám
sát đối với một số hoạt động của cấp ủy, chính quyền cơ sở; hoạt động của ban
thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng còn lúng túng, chưa phát huy
được vai trò giám sát, nhất là đối với các công trình lớn do cấp trên đầu tư; việc
thực hiện quy chế dân chủ trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và các
loại hình doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, chưa coi trọng việc tổng kết
các quy chế, quy định đã ban hành; công tác phối hợp giữa mặt trận, các đoàn thể
trong thực hiện Quy chế dân chủ ở một số nơi đạt hiệu quả chưa cao…
Từ thực tế nêu trên, việc lựa chọn vấn đề: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở từ thực tiễn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà
Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ Chính trị học rất có ý nghĩa cả về lý luận và thực
tiễn.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ lâu, vấn đề dân chủ đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà hoạt động
chính trị cũng như các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ở
trong nước và trên thế giới. Dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở, vai trò của MTTQ
trong hệ thống chính trị đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, văn bản,
quyết định của Chính phủ và đã có nhiều công trình nghiên cứu (ở cấp độ luận văn,
luận án, bài viết trên các tạp chí, các cuốn sách…) để bàn về đề tài này ở những góc
độ, khía cạnh khác nhau và được chia nhiều nhóm vấn đề.
- Nhóm thứ nhất, những công trình đã được nghiên cứu sâu về vấn đề dân
chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã được in thành sách và các bài viết trên
các báo, tạp chí như: Đỗ Mười (1998) “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ
sở”, Tạp chí Cộng sản số 20; PGS. TS Dương Xuân Ngọc (chủ biên) Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội; Trương Quang
Được (năm 2002) “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 12; TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông (chủ
biên 2002), Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Phan Xuân Sơn (Chủ biên, 2003), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm
dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. TS. Lương Gia Ban
(Chủ biên, 2003) Dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
Nhóm vần đề này các tác giả đã nghiên cứu một cách sâu sắc và làm sáng tỏ
về mặt lý luận và thực tiễn thực hiện QCDC ở cơ sở.
- Nhóm thứ hai, các cuốn sách, luận văn, bài báo, bài viết trên các tạp chí về
MTTQVN, Mặt trận Tổ quốc với việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
PGS.TS Nguyễn Lương Bằng (2012) “Giám sát phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Đại học
Sài Gòn, số 13, T2/2013; PGS.TS Nguyễn Lương Bằng (năm 2012). Bài viết “Vai

4


trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đối với ổn định và
tăng trưởng kinh tế vĩ mô ở Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Trường Đại học
Vinh, tháng 4 năm 2012, Trong hai bài này tác giả đã phân tích sâu sắc ưu điểm,
nhược điểm về vai trò của tổ chức Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị
Việt Nam hiện nay, đồng thời đề xuất những giải pháp để phát huy vai trò của các
tổ chức trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay.
Tác giả Lê Bá Lợi (2009) “Mặt trận tổ quốc Hồng Lĩnh với việc thực hiện
QCDC ở cơ sở”, Tạp chí Mặt trận tổ quốc Việt Nam, số 71. Bài viết này tập trung
trình bày những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế trọng việc thực hiện
QCDC của Mặt trận tổ quốc thị xã Hồng Lĩnh, đề ra những giải pháp thực hiện tốt

việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác
Mặt trận (2009), của Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình tập trung nghiên
cứu những vấn đề về cơ sở lý luận, nội dung, đặc điểm, vai trò, hoạt động… của
công tác MTTQVN. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Lịch sử Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam, quyển III (1974-2004), Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập
trung nghiên cứu về lịch sử hình thành của MTTQVN trong lịch sử.
Nhóm vấn đề này các tác giả tập trung trình bày về lý luận và thực tiễn của
MTTQ Việt Nam, cũng như tình hình thực hiện QCDC ở cơ sở tại các địa phương.
Các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên cung cấp những vấn đề lý luận
và thực tiễn về MTTQ Việt Nam, về dân chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở, cũng như
tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương. Tuy nhiên việc nghiên cứu về đề
tài “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở từ thực tiễn
thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội" cho đến nay chưa có bài viết hay đề tài nào đề
cập, phản ánh. Những tài liệu nêu trên sẽ giúp tác giả tham khảo trong quá trình
thực hiện nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và khảo sát thực trạng hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam thị xã Sơn Tây trong việc tham gia thực hiện quy chế dân

5


chủ cơ sở, luận văn đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm phát huy vai trò của
MTTQ thị xã trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ
3.1. Nghiên cứu về vị trí, vai trò, chức năng của mặt trận trong việc tham
gia thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sỏ.
3.2. Nghiên cứu về việc Ủy ban MTTQ tham gia thực hiện quy chế dân chủ
ở xã, phường - thực trạng, nguyên nhân và những kinh nghiệm thực tiễn.

3.3. Nghiên cứu về chủ trương, giải pháp nhằm phát huy vai trò của mặt
trận Tổ quốc trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Sự tham gia của MTTQ thị xã Sơn Tây vào thực
hiện dân chủ ở cơ sở
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
+ Về thời gian: nghiên cứu sự tham gia của MTTQ thị xã Sơn Tây trong
thực hiện dân chủ cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015.
5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
về dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Luận văn cũng dựa trên cơ sở các lý thuyết của chính trị học hiện đại, trong
đó có vấn đề dân chủ.
5.2. Phương pháp
Ngoài những phương pháp chung như: phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp, phân tích, phương pháp định
tính, định lượng trong quá trình phân tích ảnh hưởng của MTTQ đối với việc thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở.

6


Một số phương pháp chuyên ngành như mô hình hóa, khảo sát tổng kết dựa
vào thông số từ nghiên cứu thực tiễn cơ sở để xây dựng những luận điểm có tính lý
luận - đây là phương pháp quan trọng để thực hiện nghiên cứu đề tài này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Qua nghiên cứu, điều tra, phân tích quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở trên

địa bàn thị xã Sơn Tây, luận văn khái quát một số kết quả bước đầu, chỉ ra những
hạn chế, nguyên nhân của nó, đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp cụ
thể nhằm tăng cường thực hiện dân chủ phù hợp với điều kiện địa bàn.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho học viên Học viện khoa học xã hội
muốn nghiên cứu sâu hơn về vai trò của Ủy ban MTTQ việc thực hiện pháp lệnh
dân chủ ở cơ sở. Ủy ban MTTQ các xã, phường trên địa bàn thị xã có thể sử dụng
kết quả nghiên cứu của luận văn để thực hiện có hiệu quả hơn vai trò của mình đối
với việc thực hiện QCDC ở địa phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Dân chủ cơ sở và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.
Chương 2: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, thực trạng và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam thị xã Sơn Tây trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.

7


Chương 1
DÂN CHỦ CƠ SỞ VÀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
1.1. Dân chủ và thực hiện dân chủ cở sở
1.1.1 Khái niệm dân chủ và dân chủ cơ sở
Khái niệm "dân chủ" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "demos", nghĩa là nhân
dân và "kratos" - chính quyền, quyền lực. "Demokratia" có nghĩa là quyền lực của
nhân dân, chính quyền của nhân dân. Dân chủ là một chính quyền "của dân, do dân
và vì dân". Như vậy, dân chủ là một thể chế do dân làm chủ và dân chủ trước hết là

chế độ chính trị trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, do nhân dân tự thực
thi hoặc thông qua các đại biểu mà mình bầu ra. Dân chủ gồm có dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ với những thiết chế, quy
chế để người dân thảo luận và biểu quyết những vấn đề chung của cộng đồng. Dân
chủ đại diện là hình thức dân chủ trong đó nhân dân cử ra (chủ yếu bằng bầu cử)
người thay mặt mình nắm giữ quyền lực nhà nước.
Dân chủ có thể hiểu là một cách thức và những điều kiện kèm theo để mọi
người dân tham gia bình đẳng vào các công việc chính trị, kinh tế, xã hội với vai trò
là người chủ xã hội. Khi một người dân cầm lá phiếu đi bầu cử một cách tự nguyện
để lựa chọn một cách tự do người đại biểu của mình trong HĐND xã - có nghĩa là
quyền dân chủ về chính trị được thực hiện. Khi các hộ nông dân được tham gia ý
kiến vào việc quy hoạch đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng làng xã, v.v... và những ý
kiến này được lắng nghe, trở thành quyết định và hành động của chính quyền có
nghĩa là các hộ nông dân thực hiện một cách thực sự quyền dân chủ trong đời sống
kinh tế của làng, xã. Khi người dân đặt ra những yêu cầu đòi hỏi chính quyền có các
biện pháp nhằm cải thiện chất lượng y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường, trật tự an
ninh xã hội - đây cũng là lúc người dân đang thực hiện quyền làm chủ của mình.
Đòi hỏi của người dân được biết về các hoạt động của chính quyền, đòi hỏi về trách
nhiệm của chính quyền đối với dân trong việc thực thi các thủ tục hành chính liên

8


quan đến đất đai, xây dựng, hộ tịch, khai sinh, kinh doanh, sản xuất, v.v... đây là
biểu hiện của quyền dân chủ của nhân dân.
Dân chủ còn có thể được hiểu như một nhu cầu tất yếu, đòi hỏi đương nhiên
của dân khi họ cần có một vị thế thực sự bình đẳng trong quan hệ với nhà nước.
Đồng thời, dân chủ còn được hiểu là trách nhiệm của chính quyền, của cán bộ, công
chức cấp trung ương cũng như cấp xã, thực hiện quyền hạn của mình một cách chí
công vô tư, không hách dịch, tham nhũng, vụ lợi.

Bản chất của nhà nước ta được khẳng định trong Hiến pháp, là nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Tuy vậy trong thực tế, cán bộ, công chức nhà nước chưa
thực sự là công bộc của dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong muốn. Nếu không
thực hiện dân chủ, nhà nước sẽ trở nên độc tài, chuyên chế, và do đó dân phải học
để làm chủ; nhà nước phải bảo đảm cơ chế để lắng nghe dân. Do vậy, nói tới dân
chủ có nghĩa là nói đến mối quan hệ giữa dân và chính quyền mà ở đó chính quyền
phải lắng nghe, phải tạo điều kiện để người dân được quyết định hoặc tham gia
quyết định những vấn đề liên quan đến cuộc sống và sự phát triển của mỗi người
dân, của cả cộng đồng. Điều này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng ở cấp xã,
phường, thị trấn.
Trong thực tế chưa có một xã hội nào đạt được tình trạng dân chủ tuyệt đối
do nhiều lý do khách quan và chủ quan như: trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
năng lực nhận thức của dân và của chính quyền, truyền thống lịch sử, văn hóa pháp
quyền, v.v... Vì thế, dân chủ còn được hiểu như một mục tiêu phấn đấu của dân tộc
Việt Nam đó là: thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Những mục tiêu đó đều có mối liên hệ gắn bó với nhau. Dân có giàu
thì nước với mạnh. Có dân chủ thì mới có công bằng xã hội. Có dân chủ thực sự thì
dân mới giàu và quốc gia mới mạnh. "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn
lần dân liệu cũng xong". Đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng và dân chủ là
những yếu tố không thể thiếu của một nền văn minh. Với mục tiêu phấn đấu như
vậy, việc phát huy dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, được coi là chủ trương, biện

9


pháp và là hành động tất yếu của nhân dân và chính quyền trong quá trình phát triển
của đất nước ta.
Dân chủ được đảm bảo và phát huy bằng nhiều biện pháp. Việc thực thi dân
chủ luôn gắn liền với mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân. Ở nước ta hiện nay, hệ
thống chính trị dựa trên thể chế "Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ".

Việc phát huy, thực hiện dân chủ được tiến hành không tách rời thiết chế này.
Dân chủ mang lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Phát huy dân chủ là phát
huy sức mạnh vật chất và tinh thần trong dân vì sự phát triển và giảm nghèo. Khi
nhân dân thực hiện quyền quyết định các công việc của làng, xã, ý thức làm chủ của
dân được khẳng định rõ rệt. Với ý thức làm chủ, mọi sáng kiến, nguồn lực của mỗi
người dân, mỗi gia đình trong cộng đồng làng, xã được phát huy một cách tốt nhất
để vượt qua những thách thức và khó khăn nhằm đạt tới sự phồn thịnh, phát triển
của cộng đồng.
Dân chủ thúc đẩy sự minh bạch, hạn chế sự lạm quyền, tham nhũng. Sự
minh bạch, rõ ràng trong các hoạt động kinh tế xã hội được đảm bảo khi người dân
được thực hiện quyền được biết, được kiểm tra, giám sát hoạt động của chính
quyền, nhất là trong lĩnh vực thu, chi tài chính. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng
làm hạn chế những hành vi lạm dụng quyền hạn, tham nhũng của cán bộ, công chức
chính quyền.
Dân chủ thúc đẩy quan hệ gần gũi và hợp tác giữa chính quyền với dân. Khi
dân chủ được phát huy, tệ tham nhũng, lạm dụng quyền lực, quan liêu sẽ bị hạn chế
và dần bị loại bỏ khỏi đời sống xã hội; chính quyền trở nên minh bạch, thực sự trở
thành chính quyền phục vụ dân và vì dân. Sự tin cậy của dân đối với chính quyền sẽ
ngày càng tăng, dân sẽ quan hệ chặt chẽ và hợp tác với chính quyền.
Cơ sở là đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động như
sản xuất, công tác, v.v. của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ phận
lãnh đạo cấp trên [23, tr. 209]. Như vậy, cấp cơ sở là cấp xã trong quan hệ với cấp
địa phương (gồm cấp tỉnh và cấp huyện) và với cấp trung ương. Chính quyền cơ sở
là chính quyền cấp xã. Bởi vì, căn cứ vào việc phân bổ dân cư và lãnh thổ thành đơn

10


vị hành chính thì chính quyền cấp xã và cấp tương đương là cấp chính quyền cơ sở.
Vì đây là cấp chính quyền cuối cùng, gần và sát dân nhất. Còn thôn, tổ dân phố và

tương đương là theo đơn vị dân cư - với tư cách là những cộng đồng người nhỏ nhất
sinh sống cùng nhau. Ở đây, đời sống dân cư diễn ra tự quản là chính.
Dân chủ ở cơ sở là dân chủ ở cấp xã, phường, thị trấn và thôn, làng, ấp, bản,
khóm, tổ dân phố (là các hình thức cộng đồng dân cư như đã nêu). Dân chủ ở cơ sở
chủ yếu là thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp (mặc dù có cả dân chủ đại diện), và
các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư. Dân chủ cơ sở có ý nghĩa vô cùng to
lớn, vì cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực
tiếp và rộng rãi nhất.
Vậy có thể hiểu một cách khái quát về tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã là
quá trình tổ chức thực hiện các quy định của nhà nước về dân chủ tại các địa bàn
dân cư, nơi mà người dân sinh sống, lao động, sản xuất ra của cải, vật chất. Hay có
thể hiểu đó là việc thực hiện các biện pháp theo quy định của pháp luật nhằm đảm
bảo “quyền làm chủ của người dân ở cơ sở” theo phương châm: “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”.
Thực hiện dân chủ ở xã, phường cũng sẽ góp phần cải cách hành chính, sửa
đổi những cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính cho sát thực, phù hợp với thực
tiễn. Thực hiện dân chủ ở xã, phường cũng là biện pháp phát huy và mở rộng dân
chủ, đưa nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đi vào cuộc sống, có
hiệu quả cao hơn.
Dân chủ nói chung, dân chủ ở cơ sở nói riêng là nội dung quan trọng của nền dân
chủ XHCN. Lênin nói: “Chủ nghĩa xã hội sẽ không có nếu không có dân chủ với hai
nghĩa: Thứ nhất, giai cấp vô sản không thể hoàn thành cách mạng XHCN nếu nó không
tự chuẩn bị dân chủ cho mình thông qua cuộc đấu tranh vì dân chủ. Thứ hai, chủ nghĩa
xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi và không dẫn đến sự tiêu vong của nhà
nước nếu thiếu thực hiện dân chủ một cách trọn vẹn” [37, tr28].

11



Thấm nhuần tư tưởng Lênin, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta, Đảng
ta chủ trương xây dựng thiết chế dân chủ ở cơ sở nói chung và ở xã, phường nói
riêng nhằm không ngừng phát huy nền dân chủ XHCN, xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Do vậy, thực hiện dân chủ ở xã, phường là nội dung quan trọng,
thiết yếu của dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay. Đây là sự tìm tòi, sáng tạo, bổ
sung quý báu vào kho tàng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của Đảng ta.
1.1.2. Nội dung của quy chế dân chủ cở sở
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở nay đã được nâng lên thành Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Do đó, trong luận văn này tác giả dùng
thuật ngữ "Quy chế dân chủ ở cơ sở" với nghĩa là một thuật ngữ chuyên môn, chứ
không phải chỉ cụ thể "Quy chế dân chủ cơ sở" trước đây. Nói thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở thực ra là nói tới việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở hiện nay.
Nội dung của thực hiện dân chủ cơ sở được quy định trong Pháp lệnh Thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ( số 34/2007/PL-UBTVQH) của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định:
1.1.2.1. Những nội dung công khai để nhân dân biết
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã.
- Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền
bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa
bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy
hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các
công việc của nhân dân.
- Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương
trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
- Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói,
giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản
xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.


12


- Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành
chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
- Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của
cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm
Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND cấp xã.
- Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến
nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.
- Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính
quyền cấp xã trực tiếp thu.
- Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc
liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
- Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Những nội dung trên được công khai bằng hình thức: Niêm yết công khai tại
trụ sở HĐND, UBND cấp xã; Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã;
Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân
dân; Chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng thời nhiều hình thức công khai, thực
hiện việc cung cấp thông tin theo quy định...
Về cách thức thông tin, nhân dân có quyền yêu cầu chính quyền sử dụng các
phương tiện thông tin sẵn có ở xã, thôn để truyền tải những thông tin mà nhân dân
được quyền biết, đó là: trực tiếp bằng văn bản đến thôn, xã; niêm yết công khai tại
trụ sở UBND xã hoặc ở những trung tâm dân cư; hệ thống truyền thanh xã, thôn; tại
các cuộc họp tiếp xúc đại biểu HĐND xã.
Về nội dung thông tin, nhân dân có quyền yêu cầu tất cả những thông tin mà
dân được quyền biết. Tuy nhiên không phải bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, hoặc bất kỳ
loại thông tin nào cũng có thể được yêu cầu. Có những loại thông tin được cung cấp

định kỳ, như báo cáo công tác của HĐND, UBND xã. Cũng có những loại thông tin
chỉ có thể được cung cấp sau một thời hạn nhất định, như dự toán, quyết toán thu

13


chi ngân sách, hoặc dự án, công trình. Có loại thông tin được cung cấp thông qua
các tổ chức như Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát công trình, Ban công tác, mặt
trận,...
1.1.2.2. Những nội dung nhân dân bàn và quyết định
- Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây
dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn,
tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc
khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật.
- Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định:
+ Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố.
+ Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.
+ Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của
cộng đồng.
Những nội dung nhân dân bàn và quyết định dù trực tiếp hay gián tiếp đều
được thực hiện dưới hình thức: Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia
đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri
đại diện hộ gia đình. Tuỳ theo từng hình thức thể hiện sẽ có quy định riêng.
1.1.2.3. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định
- Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới và
phương án phát triển ngành nghề của cấp xã.
- Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh;
việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã.

- Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã;
chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng,
tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư.
- Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa
giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã.

14


- Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp
luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã
thấy cần thiết.
Những nội dung này được thể hiện bằng hình thức: Họp cử tri hoặc cử tri đại
diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý kiến cử tri
hoặc cử tri đại diện hộ gia đình; Thông qua hòm thư góp ý.
1.1.2.4. Những nội dung nhân dân giám sát
Đối với những nội dung mà nhân dân được biết, được thông tin, được bàn và
quyết định, được tham gia ý kiến như trên đã trình bày thì nhân dân đều có quyền
giám sát việc thực hiện. Một số việc quan trọng mà nhân dân ở địa phương có
quyền giám sát, kiểm tra:
- Hoạt động của đại biểu HĐND xã, cán bộ UBND xã.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Dự toán và quyết toán ngân sách xã.
- Kết quả nghiệm thu và quyết toán công trình do nhân dân đóng góp xây
dựng và các chương trình dự án do nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư tài trợ
trực tiếp cho xã.
- Quản lý và sử dụng đất đai.
- Thu, chi các loại quỹ và lệ phí theo quy định của nhà nước, các khoản đóng
góp của nhân dân
- Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng liên

quan đến cán bộ xã.
Nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình thông qua hoạt động của Ban
thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Nhân dân có thể trực tiếp
thực hiện việc giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Uỷ ban MTTQ Việt Nam, các tổ
chức thành viên của Mặt trận cấp xã, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư
của cộng đồng.

15


Qua vấn đề trên chúng ta có thể thấy rằng, những nội dung trong Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở cấp xã được sắp xếp theo cấp độ tăng dần và toàn diện. Những
nội dung trên là cốt lõi của vấn đề dân chủ nói chung và dân chủ ở cấp xã nói riêng.
Đó là việc “Dân biết - Dân bàn - Dân làm - Dân kiểm tra” như Bác Hồ đã từng
khẳng định. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm” tra là bốn yếu tố cơ bản, có
quan hệ thống nhất hữu cơ, biện chứng với nhau trong hệ thống tư tưởng "Dân chủ".
Muốn “Dân bàn” thì Dân phải biết; muốn “Dân làm” thì phải trên cơ sở “Dân biết”
và đã bàn bạc thấu đáo. Dân không những được biết, được bàn, được làm mà còn
được kiểm tra. Có thể nói kiểm tra mọi vấn đề, mọi công việc của đất nước là biểu
hiện cao nhất của tinh thần dân chủ. Tuy nhiên, pháp luật là nhân tố quan trọng để
nhân dân thể hiện quyền làm chủ của mình.
Pháp lệnh quy định những nội dung phải công khai để dân biết, dân bàn,
quyết định, dân tham gia ý kiến và giám sát. Đồng thời, pháp lệnh cũng nêu rõ trách
nhiệm của Chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn... của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Có thể nói sự ra đời của QCDC ở cấp xã (Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cấp xã) đã
tạo khung pháp lý để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” và đặc biệt làm rõ hơn quyền làm chủ và cách thức tiến hành các quyền đó theo
quy định của pháp luật.

1.1.3. Vai trò của thực hiện dân chủ cơ sở đối với đời sống chính trị Việt Nam
Quy chế dân chủ cơ sở ra đời là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hiện
dân chủ ở nước ta. Quy chế không đơn thuần chỉ là một phản ứng chính trị của
Đảng và Nhà nước trước tình hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở, mà thể
hiện cái nhìn hướng tới cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở nên mang tính chiến lược,
căn bản, lâu dài. Lần đầu tiên định hướng chính trị về dân chủ, phương châm để
thực hiện dân chủ như “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được cụ thể
hóa trong một văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ
sở có vai trò hết sức to lớn.
Thứ nhất, thực hiện quy chế dân chủ đảm bảo quyền lực chính trị của nhân

16


dân lao động, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân, vì dân ngay ở cấp chính quyền cơ sở ở nước ta hiện nay.
Trong một thời gian dài trước đây, nhiều địa phương đã không thực sự quan
tâm đến tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trong việc giải quyết các vấn đề của
làng xã. Do vậy khi QCDC được triển khai, người dân rất phấn khởi và nhiệt tình
hưởng ứng. Nơi nào làm tốt việc xây dựng và thực hiện quy chế, nơi ấy sẽ xây dựng
được phong trào sinh hoạt chính trị rộng lớn, có tác dụng đến nhiều mặt đời sống xã
hội. Thông qua quá trình học tập, xây dựng và thực hiện quy chế, cán bộ, nhân dân
thấy rõ hơn quyền cũng như trách nhiệm của mình trong việc xây dựng đời sống
dân chủ ở cơ sở, ý thức làm chủ, ý thức công dân của người dân đã có sự chuyển
biến khá rõ.
Thứ hai, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là một giải pháp hạn chế sự tha
hóa quyền lực của nhà nước. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động được thể
hiện tập trung thông qua quyền lực của Nhà nước. Với hình thức dân chủ đại diện,
quyền lực nhà nước sẽ được giao cho một số người đảm nhận, chịu trách nhiệm
quản lý, điều hành công việc chung. Những quy luật chung là khi tập trung quyền

lực thì dễ dẫn đến lạm quyền, lộng quyền. Những người đại diện cho quyền lực của
nhân dân rất dễ rơi vào sự tha hóa, độc đoán, quan liêu nếu không có một cơ chế
kiểm soát quyền lực.
Để hạn chế sự tha hóa quyền lực nhà nước, cần phải làm trong sạch bộ máy
lãnh đạo của Đảng và chính quyền ngay ở từng cơ sở. Từ khi triển khai thực hiện
quy chế, người dân đã biết sử dụng quyền làm chủ của mình để đấu tranh với những
hiện tượng tiêu cực ấy. Từ những quy định rõ ràng các việc cần thông báo cho dân
biết, những việc dân được bàn, những việc dân được giám sát, kiểm tra tài chính
công khai, minh bạch đã làm hạn chế rất nhiều biểu hiện tha hóa của một số cán bộ,
đảng viên trong bộ máy nhà nước.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ làm cho nhân dân lao động từng bước
thể hiện quyền làm chủ mà còn làm cho các cấp ủy đảng, chính quyền, đảng viên
nhận thức rõ hơn về quyền làm chủ của nhân dân cũng như ý thức được trách nhiệm

17


phục vụ nhân dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương phép nước. Ở những nơi làm
tốt việc triển khai thực hiện pháp lệnh dân chủ, ý thức xây dựng cộng đồng, xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền được nâng lên.
Thứ ba, thực hiện dân chủ ở cơ sở khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của nhân dân
lao động. Phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân lao động trong quá
trình xây dựng nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn đề lớn từ quốc kế dân sinh
đến những việc của đời sống cộng đồng, đời sống dân cư. Thông qua các hoạt động
dân chủ trực tiếp tại cơ sở, người dân có điều kiện tham gia ý kiến, có điều kiện tập
duyệt và trưởng thành trong vai trò của người làm chủ đích thực.
Thứ tư, thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn với phát triển xã hội. Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn
hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Trong xây dựng văn hóa,
trọng tâm là xây dựng chăm lo con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với đặc

tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình,
cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú trọng đầy đủ đến yếu
tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Xây dựng và phát triển văn hóa là
sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thể
sáng tạo, đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng.
Từ khi có Nghị quyết TW5 (khóa VIII) và Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng, các địa phương đã kết hợp chặt chẽ cả hai nội dung: Triển khai quy chế
dân chủ với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư”
nhằm khắc phục những vấn đề nhức nhối về tư tưởng đạo đức, lối sống và xây dựng
môi trường văn hóa văn minh, lành mạnh trong từng gia đình, làng xã, vận động
nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, lối sống lành mạnh, bài trừ các hủ tục, tệ
nạn xã hội và mê tín dị đoan.
Thứ năm, thực hiện dân chủ ở cơ sở tạo ra pháp lý để Mặt trận tổ quốc các
cấp và các tổ chức chính trị xã hội thực hiện được vai trò cầu nối giữa Nhà nước và
nhân dân trong phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

18


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy quyền
làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát các hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại
biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tập hợp ý chí, nguyện vọng của nhân
dân để phản ánh kiến nghị kịp thời với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng củng
cố chính quyền nhân dân; cùng nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
chính đáng của nhân dân. MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên thông qua hoạt
động phối hợp tuyên truyền vận động nhân dân chỉ đạo triển khai xây dựng, thực
hiện và giám sát việc thực hiện QCDC, phát huy tốt vai trò đại diện quyền làm chủ
của nhân dân, góp phần tạo ra môi trường dân chủ lành mạnh ở cơ sở, góp phần

củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng, chính quyền các cấp.
Do vậy, việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở là một cách thiết thực
nhất, là cơ sở cho nhân dân lao động được làm chủ một cách thực sự trên mọi
phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Đó cũng là một cách làm hiệu quả
nhất để nhân dân lao động được đảm bảo quyền lực chính trị của mình, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân, vì dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của
dân tộc, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
1.2.1. Vai trò, chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính
trị
MTTQ Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta
hiện nay. Sự quy định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là
xuất phát từ thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân
dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của Mặt trận không phải tự
Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Ngay sau khi nhân dân giành được chính quyền, Mặt trận đã trở thành một
bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị. Theo Luật MTTQ Việt Nam năm 2015:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của

19


tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài”[20, tr7-8].
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát,
phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp

phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [20, tr.7-8] Điều đó khẳng định MTTQ Việt Nam là
một bộ phận không thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.
Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng đòi
hỏi phải tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Do vậy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể thành viên càng quan trọng. Nâng
cao vai trò, tác dụng của Mặt trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một
yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
*Vai trò, chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị.
Để hiểu rõ hơn về vai trò, chức năng của MTTQ Việt Nam trong hệ thống chính
trị nước ta cần phân tích kỹ các điều, khoản của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
MTTQ Việt Nam với tư cách là bộ phận của hệ thống chính trị - là một trong
những chủ thể tổ chức thực hiện, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân và
tăng cường khối đoàn kết toàn dân. Một trong những vấn đề bức xúc từ nhiều năm
nay trong số các vấn đề cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta là: Làm thế nào có
những đòn bẩy để thực sự phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân. Vấn đề
này có thể thấy trong vai trò của MTTQ Việt Nam. Luật MTTQ Việt Nam ra đời là
một bước tiến quan trọng trong việc giải quyết nhiệm vụ trọng đại đó, xác định địa
vị pháp lý của MTTQ Việt Nam trong hệ thống chính trị và là một công cụ pháp lý
hữu hiệu tổ chức thực hiện và phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.
MTTQ Việt Nam tập hợp nhân dân thông qua các đoàn thể và cá nhân rộng
rãi trong toàn xã hội để trở thành một bộ phận của hệ thống chính trị. Việc tự nhân
dân đứng ra tổ chức thực hiện và phát huy dân chủ, quyền làm chủ của mình thông

20


qua MTTQ Việt Nam với tư cách một bộ phận của hệ thống chính trị thể hiện ở bản
chất và tính nhân dân của MTTQ Việt Nam, ở nhiệm vụ và chức năng của MTTQ
Việt Nam trong hệ thống chính trị và ở quan hệ của MTTQ Viêt Nam với Nhà
nước.

Phạm vi thành viên tham gia của MTTQ Việt Nam hết sức rộng rãi, bao gồm
các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và cá nhân tiêu biểu trong toàn xã
hội, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam được dựa trên cơ
sở tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động.
Quan hệ của các tổ chức thành viên trong MTTQ Việt Nam dựa trên cơ sở
thỏa thuận hợp tác bình đẳng, đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau. Tất cả những
điều đó quy định bản chất và tính nhân dân của MTTQ Việt Nam
Về bản chất, MTTQ Việt Nam với tư cách là bộ phận của hệ thống chính trị,
không phải là cơ quan Nhà nước, mà là nơi tập hợp tự nguyện của mọi tầng lớp xã
hội, không có sự phân biệt về giai cấp, quá khứ, tôn giáo, thành phần xã hội. Điều
này quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đặc trưng của MTTQ Việt
Nam trong hệ thống chính trị. Đồng thời, chính bản chất đó khẳng định MTTQ Việt
Nam là bộ phận quan trọng và không thể thiếu của hệ thống chính trị, như một tổ
chức để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta.
Với tư cách là bộ phận của hệ thống chính trị, MTTQ Việt Nam trong khi
thực hiện các nhiệm vụ của mình phải xác lập mối quan hệ với các cơ quan Nhà
nước và ngược lại. Luật MTTQ Việt Nam xác định tính chất quan hệ gữa MTTQ
Việt Nam với Nhà nước là quan hệ phối hợp và Nhà nước có trách nhiệm tạo điều
kiện để MTTQ Việt Nam hoạt động có hiệu quả. Như vậy, MTTQ Việt Nam là bộ
phận độc lập của hệ thống chính trị, có địa vị bình đẳng với Nhà nước và quan hệ
giữa MTTQ Việt Nam với Nhà nước là quan hệ phối hợp tôn trọng lẫn nhau. Mặt
trận không nằm trong hệ thống bộ máy Nhà nước. Đây là điểm mấu chốt để MTTQ
Việt Nam thực hiện chức năng của mình trong hệ thống chính trị, phát huy dân chủ,
quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.

21



×