Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Com BaI WORD HOaN CHiNH de TaI HU VuC dT AIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.84 KB, 24 trang )

KHU VỰC ĐẦU TƯ TỰ DO ASIAN VÀ HIỆP ĐỊNH KHUNG VỀ
KHU VỰC ĐẦU TƯ (AIA) NĂM 1998
Mục lục
I.

Khu vực đầu tư ASEAN (AIA).............................................................................................................2

II. Hiệp định khung về Khu đầu tư AIA...................................................................................................3
1.

2.

3.

Mục tiêu và phạm vi áp dụng của Hiệp định..................................................................................3
1.1.

Mục tiêu...................................................................................................................................3

1.2.

Phạm vi áp dụng......................................................................................................................4

Nội dung hoạt động............................................................................................................................4
2.1.

Chương trình hợp tác và hỗ trợ đầu tư:...................................................................................4

2.2.

Chương trình xúc tiến đầu tư và tăng cường hiểu biết:............................................................5



2.3.

Chương trình tự do hố đầu tư:...............................................................................................6

Chủ trương, nguyên tắc, biện pháp thực hiện AIA........................................................................7
3.1.

Chủ trương...............................................................................................................................7

3.2.

Nguyên tắc...............................................................................................................................8

3.3.

Biện pháp....................................................................................................................................10

4.

Đối tượng được hưởng các ưu đãi liên quan đến mở cửa các ngành nghề và đối xử quốc gia
11

5.

Cơ chế tổ chức thực hiện.................................................................................................................12

6.

Giải quyết tranh chấp......................................................................................................................12


7.

Những khó khăn và triển vọng của AIA........................................................................................13

III.

7.1.

Những khó khăn nảy sinh.......................................................................................................13

7.2.

Triển vọng phát triển của AIA................................................................................................14

Tác động của AIA đối với các nước thành viên nói chung và Việt Nam nói riêng...................16

1.

Tác động của AIA đối với các nước thành viên............................................................................16

2.

Tác động của AIA đến Việt Nam....................................................................................................17
2.1.

Tác động của AIA đối với FDI vào Việt Nam.........................................................................18

2.2.


Tác động của AIA đối với thương mại và cơ cấu sản xuất.....................................................22

1


I.

Khu vực đầu tư ASEAN (AIA)

Trong giai đoạn 1994-1996, tỷ trọng FDI vào các nước Đông Nam Á trong tổng lượng
FDI vào khu vực châu Á giảm từ 61% (giai đoạn 1990-1991) còn 31% (giai đoạn 19941996) do “hạn chế về năng lực trong nước, các trở ngại về cơ sở hạ tầng và đặc biệt là
cạnh tranh từ các nền kinh tế khác, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ” (theo Báo cáo Đầu tư
thế giới năm 1997 của Hội nghi Thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc
UNCTAD). Trước vấn đề tỷ trọng đầu tư bị giảm sút này, ngày 15/12/1995, Hội nghị
thượng đỉnh lần thứ 5 các nước ASEAN đã quyết định thành lập Khu vực đầu tư ASEAN
(AIA) để nâng cao sức hấp dẫn và tính cạnh tranh của khu vực, với mục đích thúc đẩy
đầu tư trực tiếp thông qua một môi trường đầu tư ổn định, thơng thống và rõ ràng.
Tuy nhiên, quyết định này chỉ mới dừng lại ở bước khẳng định ý tưởng, làm nền tảng cho
việc đàm phán và thỏa thuận những điều khoản và điều kiện chung cho việc kí kết một
bản thỏa thuận về Khu vực đầu tư ASEAN. Đến năm 1996, một văn bản của ASEAN đã
được kí kết nhằm tạo địn bẩy cho những bước tiếp theo của q trình tự do hóa đầu tư
nước ngồi, đó là Cơng ước về khu vực đầu tư ASEAN nhằm tăng cường niềm tin đầu tư
vào khu vực. Ngày 15/7/1997, tại cuộc họp thượng đỉnh khơng chính thức của ASEAN,
lãnh đạo các nước thành viên ASEAN đã khẳng định cam kết tiếp tục mở cửa cho thương
mại và đầu tư trong khu vực, bao gồm việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện AFTA, AIA, Cơ
chế hợp tác Công nghiệp ASEAN (AICO). Các nhà lãnh đạo đã đi tới thống nhất trong
việc vạch ra lộ trình chung cho các nước, đó là nỗ lực loại bỏ những rào cản thương mại
và thúc đẩy thương mại và đầu tư nội khối.
Từ khi quyết định thành lập AIA được các nước thành viên ASEAN nhất trí năm 1995,
Ủy ban soạn thảo hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (WCAIA) bao gồm đại

diện của các nước thành viên đã được thành lập với mục đích tập trung soạn thảo Hiệp
định này. Từ ngày 1 đến ngày 3/2/1998, tại Brunei đã diễn ra cuộc họp lần thứ 5 của
WCAIA để bàn dự thảo Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN. Đến ngày

2


7/10/1998, Bộ trưởng bộ kinh tế các nước thành viên đặt bút kí vào bản Hiệp định khung
về khu vực đầu tư các quốc gia Đông Nam Á-AIA tại Manila (Philippines).
Có thể nói, ý tưởng cốt lõi của AIA là thu hút tối đa dòng đầu tư vào khu vực ASEAN từ
các nguồn nội và ngoại khối, bằng cách nâng cao sức hấp dẫn và tính cạnh tranh trong
lĩnh vực đầu tư của các nước thành viên. Điều này sẽ được thực hiện qua việc các nước
hợp tác tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác trong ASEAN và tiến tới giảm dần, loại
bỏ các qui định và điều kiện về đầu tư có thể gây cản trở luồng đầu tư và hoạt động của
các dự án đầu tư ở các nước ASEAN. Đến năm 2020, ASEAN sẽ trở thành môi trường
đầu tư tự do trên hầu hết các lĩnh vực.
II.

Hiệp định khung về Khu đầu tư AIA
1. Mục tiêu và phạm vi áp dụng của Hiệp định
1.1. Mục tiêu
Mục tiêu cuối cùng và cơ bản nhất của Hiệp định AIA là biến khu vực nhóm các

nước ASEAN thành một nơi:
 Có một chương trình hợp tác đầu tư ASEAN nhằm tạo ra đầu tư lớn hơn từ các
nước ASEAN và các nước ngồi ASEAN.
 Có chế độ đối xử quốc gia dành cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và
dành cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020.
 Có quy định mở cửa tất cả các ngành nghề cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm
2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào nâm 2020.

 Có vai trị lớn trong các nỗ lực hợp tác về đầu tư và các hoạt động có liên quan
trong ASEAN.
 Có lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề, chuyên gia và công nghệ
giữa các quốc gia thành viên.

3


1.2. Phạm vi áp dụng
Theo Hiệp định khung, các quy định trong Hiệp định AIA sẽ chỉ có hiệu lực đối
với các dự án đầu tư trực tiếp. Hiệp định AIA sẽ khơng có hiệu lực đối với các khoản đầu
tư theo danh mục chứng khoán và đối với tất cả các vấn đề có liên quan đến các khoản
đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của các thoả thuận ASEAN khác, như Thoả thuận
Khung về Dịch vụ ASEAN.
Tương tự như CEPT (Hiệp định về Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung), Hiệp
định AIA cho phép các quốc gia thành viên có thể khơng mở cửa hoặc mở cửa muộn hơn
một số ngành đầu tư thông qua việc lập ra danh mục loại trừ. Điều này nhằm đảm bảo
cho các nước thành viên có thể bảo vệ được các ngành sản xuất của mình trong trường
hợp bị thiệt hại nặng khi tham gia vào Khu vực đầu tư chung AIA.
Các danh mục này được chia làm hai loại:
 Danh mục loại trừ chung: Danh mục này gồm các lĩnh vực sẽ khơng mở cửa cho
đầu tư nước ngồi; và
 Danh mục loại trừ khác, gồm hai loại: Danh mục nhạy cảm và Danh mục loại trừ
tạm thời.
Tuy nhiên, ASEAN cũng dành một khung thời gian riêng áp dụng cho các nước
mới là thành viên của ASEAN và cũng là các nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn
hẳn so với các nước ASEAN khác. Các nước này bao gồm Việt Nam, Lào và Myanmar.
Theo quy định, Việt Nam sẽ phải mở cửa các lĩnh vực trong Danh mục loại trừ tạm thời
vào năm 2013, còn hai nước Lào và Myanmar sẽ thực hiện vào năm 2015.
2. Nội dung hoạt động

Phù hợp với tính chất là một Hiệp Định khung về hợp tác trong lĩnh vực đầu tư, Hiệp Định
đã xác định 3 chương trình lớn là: Chương trình hợp tác và hỗ trợ đầu tư; Chương trình xúc
tiến đầu tư và tăng cường hiểu biết; Chương trình tự do hố đầu tư (Điều 6 và Các chương
trình I, II, III).
2.1. Chương trình hợp tác và hỗ trợ đầu tư:
4


Bao gồm các nhiệm vụ do từng nước thành viên thực hiện và các nhiệm vụ do
tập thể nhóm thực hiện chung.
 Các nhiệm vụ do từng Quốc gia thành viên thực hiện bao gồm:
Tăng cường tính minh bạch của các quy định, quy tắc và chính sách đầu tư của các Quốc gia
thành viên ASEAN thông qua việc công bố định kỳ các thông tin này và đưa các thơng tin
này lên mạng Internet.
Đơn giản hố và rút ngắn thời gian cho các thủ tục xin phép và phê duyệt các dự án đầu tư ở
mọi cấp.
Tăng số lượng các Hiệp Định tránh đánh thuế 2 lần giữa các Quốc gia thành viên ASEAN và
xem xét khả năng ký kết một Hiệp Định tránh đánh thuế 2 lần của ASEAN.
 Các nhiệm vụ do cả nhóm thực hiện:
Thành lập một cơ sở dữ liệu của ASEAN nhằm phát triển them luồng dữ liệu và thông tin về
các cơ hội đầu tư ở các Quốc gia ASEAN.
Thúc đẩy các mối quan hệ giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân thông qua việc đối
thoại thường xuyên với giới kinh doanh ASEAN và các tổ chức quốc tế khác để xác định
những nhân tố cụ thể cản trở đầu tư và để xuất các cách thức để cải thiện môi trường đầu tư
ASEAN.
Xác định cụ thể các lĩnh vực để hợp tác kỹ thuật, như phát triển các nguồn nhân lực, cơ sở hạ
tầng, các ngành bổ trợ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ thông tin, công nghệ công
nghiệp… và phối hợp các cố gắng của ASEAN với các tổ chức quốc tế khác có tham gia vào
hợp tác kỹ thuật.
Rà sốt và hồn thiện nếu có thể Hiệp Định về Khuyến khích và bảo hộ đầu tư của ASEAN.

2.2. Chương trình xúc tiến đầu tư và tăng cường hiểu biết:
Tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư chung, như cùng tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo
và các cuộc thăm quan làm quen cho các nhà đầu tư từ các nước xuất khẩu tư bản, cùng xúc
tiến các dự án cụ thể với sự tham gia năng động của giới kinh doanh.
5


Thực hiện tham vấn thường xuyên giữa các cơ quan đầu tư của ASEAN về các vấn đề
khuyến khích đầu tư.
Tổ chức các chương trình đào tạo có liên quan đến đầu tư cho các quan chức của các cơ
quan đầu tư ASEAN.
Trao đổi các danh mục Ngành/ Lĩnh vực mà các Quốc gia thành viên khuyến khích đầu tư từ
các Quốc gia thành viên khác và triển khai các hoạt động xúc tiến.
Xem xét những cách thức mà theo đó các cơ quan đầu tư của các Quốc gia thành viên có thể
tự mình hoặc cùng hỗ trợ những cố gắng xúc tiến của các Quốc gia thành viên khác.
2.3. Chương trình tự do hố đầu tư:
Loại bỏ những nhu cầu hoạt động theo Hiệp Định về các biện pháp đầu tư có liên quan đến
thương mại ( TRIMs), như các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, các yêu cầu về cân bằng thương
mại, cân bằng ngoại hối và doanh thu trong nước.
Đơn phương tự do hoá các biện pháp đầu tư và rà soát lại cơ chế đầu tư thường xuyên để
tiến tới tự do hoá hơn nữa. Trong khuôn khổ này, các Quốc gia thành viên có thể thực hiện tự
do hố:
Các quy định, quy tắc và chính sách có liên quan đến đầu tư
Các quy định về điều kiện cấp phép
Các quy định có liên quan đến khả năng tiếp cận các nguồn tài trợ trong nước.
Các quy định hỗ trợ thanh toán, nhận và chuyển lợi nhuận cho các nhà đầu tư.
Các Quốc gia thành viên sẽ thực hiện chương trình hành động riêng của mình để:
Dành chế độ đãi ngộ Quốc gia cho tất cả các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho các
nhà đầu tư vào năm 2020;
Chế độ đãi ngộ quốc gia ( NT) được định nghĩa là mỗi Quốc gia thành viên sẽ đối xử với các

nhà đầu tư ASEAN không kém hơn so với các nhà đầu tư trong nước về mọi biện pháp ảnh
hưởng đến đầu tư.
6


Mở cửa tất cả các ngành cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu
tư vào năm 2020. Tuy nhiên, các Quốc gia thành viên cũng được đưa ra một số ngoại lệ hoặc
ngoại trừ. Mỗi quốc gia thành viên có thể đưa ra danh sách các Ngoại lệ chung.
Ngoài ra, khi dành NT và mở cửa các ngành công nghiệp cho các nhà đầu tư ASEAN, các
Quốc gia thành viên có thể đưa ra Danh mục loại trừ tạm thời và Danh mục nhạy cảm
( Được đưa ra sau sáu tháng kể từ khi Hiệp Định AIA có hiệu lực).
Cách thức thực hiện tự do hoá các nội dung trên bao gồm:
Thu thập và hệ thống hố, trao đổi thơng tin về môi trường đầu tư của các Quốc gia thành
viên ASEAN.
Bắt đầu các cuộc thảo luận nhằm loại bỏ hoặc giảm bớt những nhân tố ngăn cản đầu tư có
liên quan đến Luật pháp của từng Quốc gia thành viên, nhằm cụ thể hoá các cố gắng trong
việc tạo ra một mơi trường đầu tư thơng thống, hấp dẫn.
Xem xét các khả năng thực thi cho phép các công ty của một nước ASEAN được niêm yết
tại Sở Giao Dịch Chứng Khốn của các nước ASEAN khác;
Khuyến khích sự di chuyển tự do của các luồng vốn, lao động lành nghề và chuyên gia, công
nghệ giữa các quốc gia thành viên ASEAN.
3. Chủ trương, nguyên tắc, biện pháp thực hiện AIA
3.1. Chủ trương
-

Khẳng định lại tầm quan trọng của việc giữ vững sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

ở tất cả các quốc gia thành viên bằng những nỗ lực chung nhằm tự do hóa thương mại,
thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nước ASEAN đã được nêu trong Hiệp định
khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN được ký kết tại Singapo ngày 28-01-1992

- Nhắc lại quyết định của Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ V tổ chức vào ngày 15-121995 về việc xây dựng Khu vực Đầu tư ASEAN (sau đây gọi tắt là AIA) nhằm tăng
cường tính hấp dẫn và tính cạnh tranh của ASEAN để thúc đẩy đầu tư trực tiếp;

7


- Khẳng định cam kết theo Hiệp định ASEAN năm 1987 về khuyến khích và bảo hộ
đầu tư và Nghị định thư năm 1996 bổ sung Hiệp định này nhằm củng cố lòng tin của các
nhà đầu tư khi đầu tư vào ASEAN;
Lưu tâm đến Hiệp định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và việc thực
hiện Chương trình hợp tác cơng nghiệp ASEAN (AICO) nhằm khuyến khích đầu tư lớn
hơn vào khu vực;
- Thừa nhận rằng đầu tư trực tiếp là một nguồn tài chính quan trọng để giữ vững tốc độ
phát triển kinh tế, công nghiệp, cơ sở hạ tầng và cơng nghệ; do đó, thừa nhận nhu cầu thu
hút đầu tư trực tiếp vào ASEAN với mức độ lớn hơn và bền vững hơn;
- Quyết tâm hồn thành việc thực hiện Tầm nhìn ASEAN xây dựng Khu vực Đầu tư
ASEAN có tính cạnh tranh với mơi trường đầu tư thơng thống và rõ ràng hơn vào ngày
01-01-2010; và
-

Ghi nhớ rằng những biện pháp được thỏa thuận nhằm hình thành Khu vực Đầu tư

ASEAN có tính cạnh tranh vào năm 2010 sẽ góp phần hướng tới Tầm nhìn ASEAN năm
2020.
3.2. Nguyên tắc
- Nguyên tắc đảm bảo tính minh bạch, cơng khai.
Ngun tắc bảo đảm tính mih bạch, công khai (Điều 11): các quốc gia thành viên có
nghĩa vũ phải cung cấp thơng tin đảm bảo tính minh bạch, cơng khai của pháp luật và
chính sách đầu tư nước mình trừ các thơng tin làm ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật,
trái với lợi ích công cộng hoặc làm thiệt hại quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp. Mỗi

thành viên phải nhanh chóng và tính tạm thời, không vượt quá mức cần thiết, tránh gây
thiệt hại khơng cần thiết cho lợi ích của các quốc gia thành viên khác phù hợp với các
quy định của Qũy tiền tệ quốc tế. Các quốc gia đưa ra các biện pháp này phải tham vấn
với Hội đồng AIA trong vịng 90 ngày kể từ ngày thơng báo để xem xét lại các biện phái
đã đưa ra.
8


- Nguyên tắc mở cữa các ngành nghề và dành đối xử quốc gia (NT) cho các nhà đầu
tư:
Theo quy định tại Điều 7, ngoài các biện pháp hoặc các lĩnh vực được liệt kê trong
các danh mục loại trừ tạm thời và danh mục nhạy cảm của nước mình, tất cả các nước
thành viên ASEAN sẽ mở cửa tất cả các ngành nghề và dành đối xử quốc gia cho các nhà
đầu tư ASEAN ngay sau khi Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN có hiệu lực.
Danh mục loại trừ bao gồm các lĩnh vực hoặc biện pháp tạm thời chưa thể mở cửa
hay dành đối xử quốc gia ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN, nhưng sẽ được dành
mở cửa hoặc dành đối xử quốc gia từng bước trong khung thời hạn thực hiện Khu đầu tư
ASEAN theo nguyên tắc AFTA+7.
Danh mục nhạy cảm bao gồm các lĩnh vực hoặc biện pháp chưa thể mở cửa hoặc
dành đối xử quốc gia ngay và chưa thể xác định trước thới hạn loại bỏ. Hội đồng AIA sẽ
xem xét lại Danh mục nhạy cảm vào ngày 1/1/2003.
-

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
Phù hợp với Điều 7 và 9 của Hiệp định này, mỗi Quốc gia thành viên sẽ dành

ngay lập tức và vô điều kiện cho các nhà đầu tư và đầu tư của Quốc gia thành viên khác,
sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư và đầu tư của bất
kỳ Quốc gia thành viên nào khác đối với tất cả các biện pháp có tác động đến đầu tư, bao
gồm, nhưng không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý,

vận hành và định đoạt đầu tư.
Đối với các đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này, mọi đối xử ưu đãi
theo các hiệp định hoặc thoả thuận hiện tại hoặc tương lai mà một Quốc gia thành viên là
một bên đều sẽ được danh cho tất cả các quốc gia thành viên khác trên cơ sở tối huệ
quốc.

9


Yêu cầu nêu tại khoản 2 không áp dụng đối với các hiệp định hoặc thoả thuận hiện tại
được các Quốc gia thành viên thông báo cho Hội đồng AIA trong vòng 6 tháng kể từ
ngày ký Hiệp định này.
Quy định nêu tại khoản 1 không ngăn cản bất kỳ Quốc gia thành viên nào dành đối xử
đặc biệt hoặc các ưu đãi cho các nước láng giềng theo các tam giác phát triển và các thoả
thuận tiểu khu vực khác giữa các Quốc gia thành viên.
-

Các ngoại lệ chung:
Điều 13 Hiệp định quy định các nguyên tắc không cấm các nước thành viên thực

hiện các biện pháp được coi là các ngoại lệ chung bao gồm: các biện pháp cần thiết để
bảo vệ đạo đức xã hội hoặc gìn giữ trật tự công công; bảo vệ con người; động vật và thực
vật; bảo đảm sự tuân thủ pháp luật; đảm bảo việc thu thuế trực thu
3.3. Biện pháp
Các biện pháp tự vệ:
- Các biện pháp tự vệ khẩn cấp: Điều 14 Hiệp định cho phép các quốc gia thành
viên, nếu có thiệt hại nghiêm trọng hoặc có nguy cơ dẫn đến tình trạng đó do thực hiện
chương trình tự do hóa, được thực hiện các biện pháp tự vệ khẩn cấp trong chừng mực
và thời gian cần thiết để khắc phục, nhưng phải tiến hành một cách không phân biệt đối
xử và phải thông báo cho Hội đồng AIA trong vòng 14 ngày kễ từ ngày tiến hành các

biện pháp đó.
- Các biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán: Điều 16 Hiệp định cũng cho phép các
quốc gia thành viên được thực hiện các biện pháp hạn chế đối với các nhà đầu tư mà
nước đó đã có cam kết cụ thể, kể cả việc chuyển tiền ra nước ngồi trong tình trạng cán
cân thanh tốn lâm vào tình trạng nghiêm trọng hoặc có khó khăn về tai chính đối ngoại.
Các biện pháp này phải được tiến hành trên cơ sở không phân biệt đối xử; phù hơp với
các quy định của quỹ tiền tệ quốc tế; tránh gây thiệt hại khơng cần thiết cho lợi ích của
các quốc gia thành viên khác; không vượt quá mức cần thiết và có tính chất tạm thời.
10


4. Đối tượng được hưởng các ưu đãi liên quan đến mở cửa các ngành nghề và đối
xử quốc gia
Để được hưởng các ưu đãi liên quan đến việc mở cửa các ngành nghề và đối xử
quốc gia theo khuôn khổ của Hiệp định này, nhà đầu tư cần phải có đủ các tiêu chuẩn để
được gọi là “Nhà đầu tư ASEAN”. Theo Điều 1 Hiệp định, “Nhà đầu tư ASEAN” có
nghĩa là:
i. một cơng dân của một quốc gia thành viên; hoặc
ii. Một pháp nhân của một quốc gia thành viên, thực hiện đầu tư vào quốc gia thành
viên khác, trong đó vốn ASEAN thực tế (ASEAN effective equity) của pháp nhân
đó cộng gộp với tất cả các vốn ASEAN khác ít nhất phải bằng tỷ lệ tối thiểu cần có
để thỏa mãn yêu cầu về vốn quốc gia và các yêu cầu về vốn khác của pháp luật
trong nước và các chính sách quốc gia được cơng bố (nếu có) của nước chủ nhà
liên quan đến đầu tư đó.
Trong đó cần lưu ý:
- Vốn của các cơng dân hoặc các pháp nhân của bất kỳ quốc gia thành viên nào sẽ
được coi như là vốn của các công dân và các pháp nhân của nước chủ nhà.
- "Vốn ASEAN thực tế" đối với một nhà đầu tư vào một quốc gia thành viên là
phần vốn nắm giữ cuối cùng của các công dân hoặc các pháp nhân của quốc gia thành
viên ASEAN trong đầu tư đó. Khi cơ cấu cổ phần hoặc cơ cấu vốn của nhà đầu tư

ASEAN gây khó khăn cho việc xác định cơ cấu nắm giữ cuối cùng thì các quy tắc và thủ
tục xác định vốn thực tế của quốc gia thành viên nơi nhà đầu tư ASEAN thực hiện đầu tư
có thể được áp dụng. Ủy ban Điều phối về Đầu tư sẽ chuẩn bị các hướng dẫn cho việc
xác định vốn thực tế này, nếu cần.

11


- "Pháp nhân" có nghĩa là bất kỳ thực thể pháp lý nào được thành lập hoặc tổ chức
một cách hợp pháp theo luật hiện hành, vì lợi nhuận hoặc khơng vì lợi nhuận, thuộc sở
hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước, bao gồm mọi cơng ty, tập đồn, liên danh, liên doanh,
công ty một chủ hoặc hiệp hội.
- "Các biện pháp" nghĩa là các luật, các quy định, các quy tắc, các thủ tục, các
quyết định, các hành vi hành chính, hoặc bất kỳ hành vi nào khác của các quốc gia thành
viên tác động đến đầu tư.
- "Cơng dân" có nghĩa là thể nhân có quốc tịch của một quốc gia thành viên phù
hợp với pháp luật hiện hành của quốc gia đó.
5. Cơ chế tổ chức thực hiện
Hội đồng Khu vực Đầu tư ASEAN (Hội đồng AIA - ASEAN Investment
Agreement) bao gồm các Bộ trưởng phụ trách về đầu tư và Tổng thư kí ASEAN được
thành lập ngay sau khi Hiệp định này được kí kết để giám sát, điều phối và triển khai việc
thực hiện Hiệp định. Những người đứng đầu các cơ quan đầu tư của các quốc gia thành
viên ASEAN sẽ tham gia các cuộc họp của Hội đồng AIA.
Để đảm nhiệm chức năng của mình, Hội đồng AIA thành lập Ủy ban Điều phối về
Đầu tư (Cordinating Committee on Investment - CCI) gồm các quan chức cấp cao chịu
trách nhiệm về đầu tư và các quan chức cấp cao khác từ các cơ quan hữu quan thuộc
Chính phủ. CCI sẽ thực hiện việc báo cáo cho Hội đồng AIA thông qua Hội nghị các
quan chức Kinh tế cấp cao (SEOM). Hội đồng AIA từ đó báo cáo trực tiếp lên Hội nghị
Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM). Việt Nam cử Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham gia Hội
đồng AIA và CCI

6. Giải quyết tranh chấp

12


Theo điều 17 của Hiệp định, những tranh chấp phát sinh từ hoặc bất kì những hội đồng
nào giữa các Quốc gia thành viên ASEAN có liên quan đến việc thực hiện Hiệp định
khung AIA sẽ được giải quyết theo Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp trong,
ASEAN. Nếu cần thiết, một cơ chế giải quyết tranh chấp riêng sẽ được thành lập.
7. Những khó khăn và triển vọng của AIA
7.1.

Những khó khăn nảy sinh

AIA là một trong những hiệp định quan trọng đánh dấu tiến trình phát triển và hợp
tác, giảm dần đi đến xóa bỏ các rào cản trong lĩnh vực đầu tư khu vực ASEAN, tuy nhiên
để đạt đến mục tiêu đó, các nước trong khối ASEAN cũng phải đối mặt với những khó
khăn nhất định nảy sinh trong quá trình hình thành, thực thi và phát triển AIA, đó là
Thứ nhất, sự khơng nhất quán trong thời gian áp dụng AIA
Trong quá trình hồn thiên AIA, các quốc gia ln cần có những sửa đổi và bổ sung
nhằm giải quyết các vấn đề nảy sinh trên cơ sở thực tiển kinh tế của mỗi quốc gia là khác
nhau, điều này dẫn sự không nhất quán trong thời gian áp dụng AIA. Hiệp định khung về
AIA quy định thời gian xóa bỏ những ngoại lệ cho tất cả các nước là 2010 ngoại trừ các
nước gia nhập ASEAN muộn hơn như Việt Nam là 2013, Lào và Mianma là 2015. Sau
một thời gian thì khoảng thời gian đó được rút ngắn: Việt Nam, Lào là năm 2010 và
Mianma cùng sáu quốc gia thành viên sẽ bỏ dần các ngoại lệ vào năm 2003. Sự khơng
nhất qn này thực sự là một khó khăn cho AIA vì nó tạo ra thách thức trong q trình
phối hợp thực hiện và rất dễ dẫn đến nguy cơ tan rã. Việc rút ngắn thời gian thực hiện
cũng tạo ra một bài tốn khó cho một số quốc gia có chính sách bảo hộ khá nặng nề như
Việt Nam, In-đơ-nê-xi-a vì những thay đổi mạnh với nền kinh tế khi chính phủ theo đuổi

mục tiêu AIA.
Thứ hai, tạo ra sự phân hóa khu vực đầu tư, nước nhận đầu tư.
Hiệp định khung của AIA với mục tiêu tạo ra mơi trường đầu tư thơng thống và thuận
lợi cũng kéo theo sự mở rộng hay phân hóa đầu tư qua các nước khác nhau trong khu vực
13


thay vì tập trung để chiếm lĩnh thị trường như trước. Điều này dẫn đến những khó khăn
cho các quốc gia có mơi trường đầu tư khơng thuận lợi. và chính nhân tố này sẽ phân hóa
các quốc gia, các vùng của mỗi quốc gia thành các vùng thu hút vốn đầu tư và các vùng
kém hấp dẫn.
Thứ ba, sự chồng chéo và những nhầm lẫn không thể tránh khỏi khi một quốc gia
thuộc nhiều tổ chức.
Các quốc gia trong khối ASEAN hầu hết đều là các thành viên của các tổ chức lớn khác
như WTO, APEC…, ở vị thế là thành viên của các tổ chức lớn đó mỗi quốc gia cũng phải
tuân thủ các nguyên tắc về đầu tư và hợp tác đầu tư. Dù luật lệ quốc tế có chi tiết cụ thể
đến đâu cũng khơng thể tránh khỏi sự chồng chéo và những nhầm lẫn trong việc thực
hiện các hiệp định khác nhau.
Thứ tư, AIA thúc đẩy tình trạng cạnh tranh quyết liệt trong việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, dễ dẫn đến những tiêu cực trong quan hệ kinh tế khu vực ASEAN.
Việc gia nhập và thực hiện mục tiêu chung của khối AIA sẽ dẫn đến những hệ lụy của
cạnh tranh quá gay gắt đó là việc đào thải khơng thương tiếc các doanh nghiệp, các vùng,
nền kinh tế yếu kém, khơng có khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngồi (vì thực tế là
năng lực cạnh tranh trong đầu tư của các nước trong khối ASEAN chưa đồng đều). Chính
điều này làm cản trở quan hệ kinh tế giữa một số quốc gia trong khu vực.
Như vậy, AIA thực sự có ý nghĩa trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, hợp tác, đầu tư
đối với các nước ASEAN. Tuy nhiên với những khó khăn có thể nảy sinh như đã kể ở
trên địi hỏi các thành viên phải có sự nhất trí và đồn kết cao, khi đó mới hi vọng đạt
được mục tiêu của AIA và góp phần xây dựng khối nước ASEAN vững mạnh.
7.2.


Triển vọng phát triển của AIA.

Sự ra đời của Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và Khu vực đầu tư (AIA) là một
điều tất yếu theo xu hướng hội nhập và hợp tác quốc tế vì mục tiêu thịnh vượng và phát
14


triển công bằng của tất cả các nước thành viên. Điều này có vai trị rất quan trọng đối với
ASEAN, góp phần tạo liên kết kinh tế khu vực ngày càng chặt chẽ và thu hút các nhà đầu
tư. Với những nỗ lực không ngừng, ASEAN đang ngày càng được thế giới đánh giá là
khu vực đầu tư lý tưởng với tình hình kinh tế vĩ mơ ngày càng hồn thiện.
Theo báo cáo kết quả nghiên cứu gần đây nhất (2012) của Hội đồng tư vấn Kinh doanh
ASEAN (ASEAN BAC) thì ASEAN hiện đang là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư,
vượt qua cả Trung Quốc. Cuộc khảo sát Triển vọng Kinh doanh ASEAN 2011-2012 cho
biết 85% các cơng ty Mỹ được thăm dị ý kiến có kế hoạch mở rộng hoạt động sang các
nước ASEAN. Khảo sát do Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) tiến hành cũng cho
thấy Indonesia, Việt Nam và Thái Lan là những điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài mở rộng kinh doanh trong ba năm tới.
Về phần mình, các nước ASEAN đã và đang đưa ra nhiều biện pháp tự do hóa đầu tư
nhằm tạo ra nhiều hơn nữa cơ hội cho các công ty đa quốc gia tiến hành hoạt động sáp
nhập và chuyển nhượng đa quốc gia. ASEAN nhận thức được rõ tầm quan trọng của AIA
trong việc đạt được niềm tin của các nhà đầu tư về một môi trường đầu tư hấp dẫn, với tỷ
lệ lợi nhuận đầu tư cao. ASEAN đẩy mạnh thực hiện AIA thông qua nhiều cam kết nhằm
cải thiện môi trường đầu tư, lấy ví dụ như cam kết về các biện pháp ngắn hạn theo Tuyên
bố về các biện pháp đẩy mạnh tại Hội nghị Thượng Đỉnh VI. Bên cạnh đó, với những nỗ
lực nhằm khơi phục nền kinh tế sau ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp từ các cuộc khủng
hoảng kinh tế, các quốc gia ASEAN ngày càng có nhiều kinh nghiệm, điểu này giúp đẩy
mạnh việc lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư, thu hút dịng vốn đầu tư đổ vào ASEAN.
Khơng dừng lại ở đó, các quốc gia thành viên đang ngày càng đề ra nhiều sáng kiến cá

nhân và tập thể để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình đầu tư và hợp tác kinh tế
trong tồn khu vực, góp phần đẩy nhanh tiến trình AIA.
Có thể nói tình hình thế giới trong những năm gần đây ln có nhiều biến động. Tăng
trưởng chậm lại của kinh tế Nhật Bản và phương Tây sẽ làm giảm tăng trưởng ở châu Á
nói chung và ASEAN nói riêng. Những số liệu kinh tế gần đây cho thấy ASEAN vẫn
15


trong tình trạng tương đối lạc quan. Nhưng vấn đề là làm thế nào để duy trì xu hướng
trong bối cảnh đang xấu đi ở Nhật Bản, Mỹ và vực đồng euro. Do đó, tăng cường liên kết
khu vực và đẩy mạnh hợp tác kinh tế sẽ giảm thiểu tác động tiêu cực từ bên ngoài. Năm
2010 cũng ghi nhận đầu tư giữa các nước trong khối ASEAN vượt mức 12 tỷ USD.
Bên cạnh việc tăng cường phát triển AIA, các nước thành viên cũng tăng cường lộ trình
AFTA và AICO. Như vậy với sự nhất quán hợp tác vì mục tiêu và lợi ích chung của cả
khu vực và những nỗ lực của cá nhân các quốc gia cũng như cả tập thể, cùng với sự kết
hợp hài hòa giữa AIA, AFTA và AICO thì chúng ta có thể tin tưởng vào một tương lai
tươi sáng của AIA.
III.

Tác động của AIA đối với các nước thành viên nói chung và Việt Nam nói
riêng

1. Tác động của AIA đối với các nước thành viên.
Mục tiêu cơ bản của AIA là làm tăng đáng kể dòng đầu tư vào khu vực ASEAN từ các
nguồn trong và ngoài ASEAN bằng cách nâng cao sức hấp dẫn và cạnh tranh trong lĩnh
vực đầu tư của các nước ASEAN. Điều này được thực hiện qua việc cùng nhau thúc đẩy
ASEAN trở thành một khu vực đầu tư hấp dẫn nhất, đồng thời tăng cường khả năng cạnh
tranh của các lĩnh vực kinh tế ASEAN bằng cách tăng cường và mở rộng hợp tác trong
ASEAN và dần loại bỏ các qui định và điều kiện đối với đầu tư có thể cản trở luồng đầu
tư vào ASEAN.

Với những điều kiện thuận lợi tạo ra từ AIA, khu vực ASEAN có thể thu hút được hơn
3,4% FDI tồn cầu. Nói cách khác sau một thời gian trầm lắng vì chịu ảnh hưởng của các
cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế những năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng kinh tế
2008, ASEAN lại trỗi dậy thu hút sự quan tâm của giới đầu tư khu vực và thế giới.
ASEAN được xem là một trong những tổ chức khu vực thành công bậc nhất thế giới, kết
giao với tất cả những trung tâm cũng như cường quốc chính trị và kinh tế lớn nhất thế
giới như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Trung Quốc, Nga…
16


Quyết tâm lớn hình thành một Cộng đồng ASEAN, trong đó có AIA, đã khơng chỉ giúp
tăng cường đồn kết, nhất trí giữa các thành viên mà cịn gia tăng sức mạnh và sức hấp
dẫn của hiệp hội với bên ngồi. Khơng nhà đầu tư nào có thể bỏ qua triển vọng làm ăn
với thực thể kinh tế có diện tích hơn 4,5 triệu km2 với trên 500 triệu dân, tổng giá trị GDP
trên 750 tỷ USD và tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng gần 400 tỷ USD.
Lên tiếng trong cuộc họp báo chung với Phó Tổng thư ký ASEAN, Chủ tịch Hiệp hội
Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản tại ASEAN Takashi Hibi, cho biết Nhật Bản coi
ASEAN là một thị trường chiến lược và trung tâm sản xuất lớn. Ông Takashi cũng kêu
gọi các nước ASEAN phát triển cơ sở hạ tầng và các điều luật để thúc đẩy tự do hóa thị
trường, đơn giản hóa các thủ tục hải quan, thúc đẩy Khu vực tự do thương mại ASEAN
cũng như tăng cường an ninh hàng hải và đường bộ trong khu vực...
Phát biểu trước các bộ trưởng kinh tế ASEAN tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-EU lần
đầu tiên nhằm tăng cường quan hệ kinh tế 2 khối tháng 5/ 2011, Ủy viên Thương mại
châu Âu Karel De Gucht khẳng định, EU đang tìm cách mở ra những cơ hội kinh doanh
và đầu tư mới tại khu vực, một cộng đồng đang hình thành và có tốc độ phát triển nhanh
chóng. “Với sự năng động kinh tế của khu vực ASEAN, tôi thấy đây là cơ hội lớn để hợp
tác chặt chẽ hơn trong những năm tới”.
2. Tác động của AIA đến Việt Nam
Vì những bối cảnh chính trị và lịch sử, mãi đến năm 1995 Việt Nam mới tham gia vào
ASEAN, bên cạnh đó xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam có thể nói là thấp hơn

nhiều so với các quốc gia trong khu vực nên rất dễ hiểu vì sao Việt Nam sẽ dễ bị tổn
thương nhất khi tham gia vào bất kỳ một cuộc hội nhập nào trên cơ sở bình đẳng. Nhưng
hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã khơng cịn là một lựa chọn, nó là thực tế
tất yếu mà Việt Nam sẽ phải trải qua. Vì vậy có thể nói hội nhập đầu tiên vào một tổ chức
mang tính khu vực như ASEAN mà cụ thể ở đây là khu vực đầu tư tự do chung AIA và
hiệp định khung kèm theo là một cơ hội tốt cho Việt Nam hội nhập kinh tế toàn cầu. Một
khi dấn chân vào thương trường quốc tế, Việt Nam đã sẵn sàng đương đầu với những
17


thách thức nảy sinh như khả năng hội nhập. Vấn đề cịn lại là phải làm thế nào để có thể
vượt qua những thách thức và trở ngại đó để cho quá trình hội nhập mang lại kết quả cao
nhất. Vì thời lượng ngắn và sự giới hạn của đề tài nên nhóm nghiên cứu sẽ tập trung phân
tích những tác động tích cực của AIA tới FDI trên cả 2 phương diện vào Việt Nam và từ
Việt Nam ra ngồi. Những ảnh hướng tiêu cực có liên quan và cần được lưu ý sẽ được
bàn luận xen lẫn ở những nơi thích hợp chứ khơng hình thành một tiêu mục riêng.
2.1. Tác động của AIA đối với FDI vào Việt Nam
Như đã nêu trên, việc tham gia vào AIA sẽ có tác dụng thu hút mạnh mẽ hơn FDI vào
ASEAN nói chung và vào từng Quốc gia thành viên nói riêng. Trước hết, chúng ta có thể
xem xét tác động tới luồng FDI vào Việt Nam theo hai luồng là từ các quốc gia thành
viên ASEAN và từ các quốc gia bên ngoài ASEAN.
FDI từ các Quốc gia thành viên ASEAN:
Một khi các trở ngại về FDI giữa các thành viên trong khối được loại bỏ, khối
lượng đầu tư của các Quốc gia thành viên ASEAN khác vào Việt Nam sẽ gia tăng đáng
kể. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau 10 năm kể từ ngày gia nhập ASEAN, đến nay các
nước ASEAN đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 11,3 tỷ USD, trong đó
đã thực hiện được gần 5 tỷ USD. Hầu hết các nước ASEAN đều có dự án đầu tư vào Việt
Nam chỉ trừ Myanmar chưa có dự án nào cịn các thành viên khác đã có hơn 700 dự án
đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Việt Nam cịn hiệu lực chiếm hơn 12% về số dự án, hơn
23% về vốn đăng ký và gần 20% về vốn thực hiện. Dẫn đầu trong các nhà đầu tư là

Singapore, với hơn 360 dự án cịn hiệu lực có tổng vốn đăng ký trên 8,1 tỷ USD và đã
thực hiện được gần 3,3 tỷ, đứng thứ 2 trong tổng số 78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư
vào Việt Nam. Tiếp theo là Malaysia với 219 dự án và 1,7 tỷ USD tổng vốn đầu tư, đứng
thứ 10 trong 78 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam; tương tự Philippines đã đầu
tư 30 dự án với 247 triệu USD tổng vốn đầu tư; Indonesia có 14 dự án với 137 triệu
USD tổng vốn đầu tư; Brunei có 37 dự án và 125 triệu USD tổng vốn đầu tư.Theo nhận
định của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, hầu hết những dự án này đều phát huy hiệu quả, vừa sinh
18


lời cho các nhà đầu tư nước ngồi, vừa đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế Việt
Nam.
Trước tiên ta hãy xem xét các lý do khiến các nhà đầu tư ASEAN đầu tư vào Việt
Nam. Chúng bao gồm:
 Thời điểm hiện tại các nước ASEAN đang ở trong q trình chuyển đổi sang
những ngành nghề địi hỏi cơng nghệ và kỹ thuật cao. Để làm được điều này địi
hỏi các nhà đầu tư phải giải phóng được các năng lực sẵn có, và một trong những
cách thức mà họ thực hiện là thơng qua hình thức FDI;
 Các nhà đầu tư trong ASEAN cũng đặc biệt quan tâm tới thị trường Việt Nam, một
thị trường có dung lượng thuộc diện lớn trong khu vực, việc Việt Nam tham gia
vào AIA chắc chắn sẽ là cơ hội tốt nhất cho các nhà đầu tư này thâm nhập thị
trường Việt Nam qua hình thức FDI;
 Hầu hết các cơng ty và tập đồn mạnh của ASEAN đều có sự góp mặt của các
cơng ty và tập đồn lớn của nước ngồi. Vì thế, khi các trở ngại về đầu tư trong
khu vực đã được loại bỏ, các công ty và tập đồn sẽ có cơ hội hơn bao giờ hết
trong việc mở rộng đầu tư, thành lập mạng lưới sản xuất để tận dụng được các lợi
thế của từng nước trong khu vực. Đặc biệt là trong thời gian đầu, khi các nước
thành viên mới chỉ mở cửa tự do cho đầu tư của nhau chứ không phải là cho tất cả
các nhà đầu tư, các công ty mẹ và tập đồn này sẽ lợi dụng cơ sở của mình sẵn có
ở các nước thành viên để mở rộng đầu tư sang các nước thành viên khác, trong đó

có Việt Nam.
Những lí do trên giải thích vì sao các nước ASEAN đã là những nhà đầu tư hàng đầu
tại Việt Nam kê từ khi Việt Nam tham gia vào AIA. Nhưng khoan vội mừng vì có một
thực tế chúng ta cần nhìn nhận là thế mạnh của các nhà đầu tư ASEAN khơng phải là ở
những ngành có cơng nghệ cao, quy mô lớn.Và bản thân các nước này cũng đã ra sức thu
hút FDI vào những ngành và lĩnh vực như vậy Lấy ví dụ như Singapore, các nhà đầu tư
nước này có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, từ thăm dò, khai thác dầu
khí, sản xuất cơng nghiệp tới chế biến nơng, lâm, hải sản nhưng tập trung nhiều nhất
19


trong lĩnh vực dịch vụ với 207 dự án và tổng vốn đầu tư là 5,5 tỷ USD, chiếm 60,7%
tổng vốn đăng ký; tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 230 dự án và tổng
vốn đầu tư là 3,3 tỷ USD, chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký… Vấn đề nằm ở chỗ khi mà
công nghệ cao và kỹ thuật cao được xem là những yếu tố cốt tử quyết định sự phát triển
dài hạn và bền vững thì vốn đầu tư từ ASEAN chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế nhất thời, chứ ít có tác dụng làm nâng cao hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh của hàng
hố trong dài hạn. Song nói đi thì cũng phải nói lại, trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện
nay, việc tiếp thu công nghệ thích hợp nhằm thu hút và tạo thêm việc làm và thu nhập cho
ngưòi lao động cũng là một trong những mục tiêu quan trọng. Hơn nữa, như đã nêu ở
trên, nhiều dự án đầu tư của ASEAN vào Việt Nam thực chất là đầu tư của các công ty và
tập đoàn lớn trên thế giới. Do vậy, nếu Việt Nam cải thiện được mơi trường đầu tư của
mình tương đương với các nước khác thì sẽ thu hút được đầu tư của các công ty này mà
không sợ thua kém về trình độ phát triển cơng nghệ so với các nước khác trong khu vực.
FDI từ bên ngoài ASEAN:
Với nội dung áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia và mở cửa các ngành công nghiệp
cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư khác vào năm
2020, việc thực thi AIA - một dấu hiệu khẳng định cam kết mở cửa thu hút FDI - chắc
chắn sẽ tăng cường hơn nữa sức hút FDI vào ASEAN nói chung và vào Việt Nam nói
riêng. Đối với các nhà đầu tư ngồi ASEAN, Việt Nam là một đất nước có vị trí địa lý

thuận lợi, thị trường có dung lượng tiềm năng lớn, lực lượng lao động dồi dào với chi phí
thấp và có khả năng tiếp nhận nhanh chóng kỹ thuật mới. Hơn nữa, Việt Nam đã tham gia
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và q trình tự do hố thương mại của APEC,
và gần đây là gia nhập vào tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO vì thế, yếu tố kích
thích đầu tư vào Việt Nam càng mạnh hơn. Các công ty đầu tư đa quốc gia sẽ có chiến
lược đặt Việt Nam trong chiến lược tạo dựng mạng lưới sản xuất trong phạm vi khu vực
nhằm tận dụng các lợi thế so sánh của Việt Nam so với các nước ASEAN khác, kết hợp
với các dây chuyền cơ sở sản xuất trong nước khác, với sự hỗ trợ của mơi trường tự do
hố thương mại trong khối, làm giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh hàng hoá
20


của mình. Nhóm nghiên cứu chia tác động của AIA đối với các luồng FDI từ bên ngoài
ASEAN thành hai giai đoạn:
 Giai đoạn 1: từ năm 2010 đến năm 2020. Trong giai đoạn này, do chế độ đãi ngộ
quốc gia và mở cửa các ngành công nghiệp chỉ được áp dụng cho các nhà đầu tư
ASEAN nên sức thu hút của AIA đối với FDI ngoài ASEAN vào Việt Nam được
thể hiện ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, việc Việt Nam tham gia AIA chứng tỏ cam kết chắc chắn của Việt Nam
đối với việc mở cửa cho các nhà ĐTNN. Thơng qua đó, niềm tin của các nhà
ĐTNN vào Việt Nam được củng cố và kèm theo đó là các luồng đầu tư mới.
Thứ hai, trong giai đoạn này, AFTA đã bắt đầu phát huy hiệu lực của mình, một
thị trường bn bán tự do trong khu vực đã định hình, vì vậy các cơng ty đầu tư
xuyên quốc gia có thể dễ dàng hơn trong việc thực thi chiến lược xây dựng mạng
lưới của mình (như đã đề cập ở trên). Tuy chưa được hưởng các ưu đãi đầu tư như
các nhà đầu tư ASEAN song các cơng ty này có thể dễ dàng vượt qua trở ngại đó
bằng cách đầu tư vào một trong các nước ASEAN có mơi trường và điều kiện đầu
tư thuận tiện nhất rồi từ đó mở rộng đầu tư sang các nước khác nhằm triển khai
chiến lược của mình.
 Giai đoạn 2: từ năm 2020 trở đi. Ở giai đoạn này, chế độ đãi ngộ quốc gia và mở

cửa các ngành công nghiệp được mở rộng áp dụng cho tất cả các nhà đầu tư, kể cả
trong ASEAN và ngoài ASEAN. Đây là giai đoạn mà các nhà ĐTNN sẽ có cơ hội
lựa chọn địa điểm đầu tư rộng lớn hơn trên toàn ASEAN. Như thế, xu hướng đầu
tư là vào những nơi có một mơi trường đầu tư hấp dẫn hơn về các điều kiện cơ sở
hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng cơ sở xã hội, mức độ mở của chính sách đầu tư.... Đây
chính là những điểm mà Việt Nam còn yếu so với các Quốc gia ASEAN khác.
Chẳng hạn, chi phí đầu tư ở Việt Nam cao hơn so với một số nước trong khu vực,
cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của ta còn nhiều hạn chế (giao thông, vận tải, điện
nước; các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, giải trí cho đối tượng người nước
21


ngồi...) dẫn đến chi phí đầu tư ở Việt Nam cao làm nản lịng các nhà ĐTNN.
Ngồi ra, các ngành công nghiệp phụ trợ vẫn chưa phát triển tương xứng ảnh
hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh và làm tăng giá thành sản phẩm. Khả
năng cung cấp lao động kỹ thuật, có tay nghề cao ở Việt Nam rất hạn chế. Chính vì
vậy, tham gia AIA, Việt Nam sẽ đứng trước sức ép mạnh mẽ là cần phải thiết lập
một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn.
Bên cạnh tác dụng thu hút FDI, AIA còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
dễ dàng hơn trong việc đạt tiêu chuẩn 40% xuất xứ của AFTA, từ đó được hưởng ưu đãi
của AFTA. Do đó, mức độ cạnh tranh giữa các hàng hoá sản xuất ở Việt Nam và hàng
hố có xuất xứ từ ASEAN sẽ trở nên gay gắt hơn. Việc tham gia vào AFTA và AIA sẽ
giảm cơ hội đón đầu trong hồn cảnh những hàng hố có nguồn gốc từ ASEAN đã sẵn
sàng thâm nhập thị trường Việt Nam và cạnh tranh với hàng hoá Việt Nam trong toàn khu
vực.
2.2. Tác động của AIA đối với thương mại và cơ cấu sản xuất
Vì thời lượng có hạn nên nhóm nghiên cứu chỉ tập trung đưa ra 2 vấn đề cần lưu ý trong
đề mục này.
Thứ nhất, nếu làm một phép so sánh đơn giản giữa môi trường đầu tư của Việt
Nam và các Quốc gia ASEAN khác, ta thấy rõ là các lợi thế so sánh của Việt Nam chỉ

giới hạn ở mặt dung lượng thị trường bên cạnh giá nhân cơng thấp và trình độ lao động
tương đối cao. Vì vậy, trong quá trình triển khai xây dựng mạng lưới sản xuất và tiêu thụ
mang tính khu vực của các cơng ty xun quốc gia, khơng khó hiểu khi Việt Nam sẽ được
lựa chọn để đặt các cơ sở sản xuất cần nhiều nhân cơng và, ở một chừng mực nào đó,
thậm chí có mức độ ơ nhiễm mơi trường cao, trình độ cơng nghệ thấp. Vì vậy, phần
thương mại tăng lên của Việt Nam nhờ tham gia AIA sẽ có biến chuyển trong thành phần
như sau: về nhập khẩu sẽ chủ yếu là nguyên liệu, bán thành phẩm cho hoạt động gia
công, chế biến; còn xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm lắp ráp hoặc bán thành phẩm kết thúc

22


qua công đoạn cần nhiều lao động. Chuyển biến này được thể hiện rõ nét các số liệu
thống kê sau:
Năm
Nhóm hàng
Máy móc, thiết bị
Ngun, nhiên vật liệu

2002

2003

2004

2005

2006

2007


5879.9
12312,5

7983.7
15304,3

9207.5
20625,9

9285.3
24483,3

11040.8
30341,9

17966.2
40138,4

Bảng… Gía trị nhập khẩu hàng hóa (triệu USD) phân theo nhóm hàng của Việt Nam giai đoạn 2002 –
2007 (Nguồn: Bộ Cơng thương).

Năm
Nhóm hàng
Máy móc, thiết bị
Nguyên, nhiên vật liệu

2002

2003


2004

2005

2006

2007

29,8
62,3

31,6
60,6

28,8
64,5

25,3
66,6

24,6
67,6

28,6
64,0

Bảng…Tỉ lệ phần trăm giá trị nhập khẩu hàng hóa phân theo nhóm hàng của Việt Nam giai đoạn 2002 –
2007 (Nguồn: Bộ Công thương)


Như vậy, nếu Việt Nam khơng nhanh chóng có những bước đi thích hợp nhằm
tránh tác động tiêu cực nói trên thì việc gia nhập AIA có thể dần dà biến Việt Nam thành
một cơ sở gia công chế biến lớn cho các nước phát triển hơn.
Thứ hai, việc thực thi AIA sau khi đã thiết lập AFTA sẽ làm tăng khối lượng
thương mại giữa Việt Nam và các Quốc gia khác ngoài ASEAN. Các nhà đầu tư ngoài
ASEAN thấy rằng họ có thể đạt được dễ dàng yêu cầu 40% xuất xứ hàng hoá từ ASEAN
để được hưởng các ưu đãi theo CEPT bằng cách đầu tư thành lập một cơ sở ở các nước
ASEAN nhập khẩu nguyên liệu và bán thành phẩm từ các cơ sở ngoài ASEAN để chế tạo
sản phầm hoàn chỉnh và tiêu thụ tại thị trường ASEAN. Theo cách lập luận này, đây sẽ là
loại FDI nhằm hạ giá thành sản phẩm và tìm thị trường, và vì thế, Việt Nam sẽ là một ứng
cử viên sáng giá trong ASEAN trong việc tiếp nhận các dịng FDI loại này.
Tóm lại, bài học cần rút ra chính là chỉ có định hướng rõ ràng và phối hợp đồng bộ
các chính sách, biện pháp kinh tế, Việt Nam mới có thể hạn chế tối đa được các tác động
tiêu cực của việc hội nhập và tự do hoá, tránh xu thế biến Việt Nam thành nơi sản xuất
hàng hố có giá trị gia tăng thấp, hoặc là nơi tiêu thụ hàng hố rẻ trong khi khơng phát
23


triển các ngành then chốt, đảm bảo sự độc lập tương đối của nền kinh tế - yếu tố thiết yếu
đối với một nước có dân số lớn như Việt Nam.

24



×