Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

So sánh sự khác nhau giữa Incoterms 2000 và Incoterms 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.11 KB, 50 trang )

Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HCM
KHOA LUẬT KINH TẾ


BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: TẬP QUÁN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

CHỦ ĐỀ: SỰ

KHÁC NHAU GIỮA INCOTERMS 2000 VÀ
INCOTERM 2010


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

MỤC LỤC


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

Chương 1.
1.1

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT CHUNG VỀ INCOTERMS

Khái niệm Incoterms

Hiện nay, việc giao thương giữa các nước trên thế giới ngày càng
được mở rộng. Trong quá trình đó, thương mại quốc tế thường sử


dụng những ngôn ngữ khác nhau, luật lệ địa phương khác nhau dẫn
đến sự hiểu lầm, gây mâu thuẫn tranh chấp giữa hai bên tham gia.
Để hạn chế bất đồng và thúc đẩy thương mại quốc tế, Phòng thương
mại quốc tế (ICC) đã soạn thảo INCOTERMS - Điều kiện thương mại
quốc tế.
Incoterms ( viết tắt của International Commercial Terms – Các điều
kiện thương mại quốc tế ) là một bộ các quy tắc thương mại quốc tế
được công nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Incoterms
quy định những quy tắc liên quan đến giá cả của hàng hóa cũng như
trách nhiệm của các bên tham gia ( người mua và người bán ) trong
hoạt động thương mại quốc tế. Năm 1936, phòng Thương mại quốc
tế ICC - International Champer of Commerce tại Paris đã phát hành
Incoterms nhằm thống nhất tập quán thương mại quốc tế, tránh
được những vụ tranh chấp và kiện tụng làm lãng phí thời gian và của
cải của con người và xã hội. Trong ấn phẩm đầu tiên này, ICC mới chỉ
đưa ra những điều kiện về giao nhận hàng hóa, trách nhiệm của các
bên như: ai sẽ trả cước vận tải, ai sẽ chịu các chi phí thủ tục hải
quan, bên nào sẽ có nghĩa vụ mua bảo hiểm… cũng như phân thời
điểm chuyển giao rủi ro và trách nhiệm đối với hàng hóa. Trải qua
nhiều lần sửa đổi và bổ sung, Incoterms đang dần được hoàn thiện
để gần gũi với bối cảnh thương mại ngày càng phát triển như hiện
nay, có thể nói Incoterms là cuốn sách không thể thiếu trong kệ sách
của những nhà kinh tế, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp thế
giới.

3


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms


1.2

Lịch sử hình thành và phát triển của Incoterms

Incoterms được nhiều nhà doanh nghiệp trên thế giới thừa nhận và
áp dụng vì tính thiết thực, rõ ràng và dễ hiểu, phản ánh xác thực các
tập quán thương mại phổ biến trong buôn bán quốc tế. Trong bối
cảnh nền kinh tế như hiện nay, khi mà môi trường và điều kiện kinh
doanh quốc tế liên tục được đổi mới, Incoterms cũng đã được thay
đổi, hoàn thiện nhằm bắt kịp với xu hướng phù hợp với tính năng
động và thực tiễn của nó. Kể từ lần đầu tiên được ra mắt vào năm
1936, chuẩn mực về hợp đồng mang tính toàn cầu này thường xuyên
được cập nhật để bắt kịp với nhịp độ phát triển của thương mại quốc
tế. Tính đến nay, Incoterms đã trải qua 7 lần sửa đổi và bổ sung vào
các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000 và 2010. Qua mỗi lần
sửa đổi, Incoterms cũng đã thể hiện được tính cải tiến và hoàn thiện
về phương pháp trình bày, giúp người đọc và các nhà doanh nghiệp
dễ hiểu, dễ nhớ và dễ nắm bắt từ đó tạo điều kiện thuận lợi trong
việc so sánh, đối chiếu và lựa chọn các điều khoản trong Incoterms
để áp dụng vào hợp đồng thương mại quốc tế. Có thể thấy được các
bản Incoterms xuất bản trước năm 1990 thường lộn xộn, khó hiểu,
các điều kiện được sắp xếp không có hệ thống và không có sự phân
nhóm. Mỗi điều kiện được trình bày riêng rẽ, độc lập, không thấy
được mối quan hệ giữa chúng. Trong bản Incoterms 1990, Incoterms
2000 và gần đây nhất là Incoterms 2010 chúng ta có thể thấy rõ
được những cải tiến rõ rệt trong cách trình bày. Các điều kiện được
sắp xếp theo trật tự logic và khoa học: Các điều kiện được chia thành
nhóm, mỗi điều kiện thương mại trình bày nghĩa vụ của người mua
và người bán trong 10 nhóm nghĩa vụ chính một cách đối ứng trên
cùng một trang sách. Điều đó cho thấy một cách rõ ràng: mỗi nghĩa

vụ áp đặt đối với bên này sẽ giải phóng cho đối tác chính nghĩa vụ
đó.
Bảng 1. Bảng tóm tắt nội dung Incoterms qua các thời kỳ

4


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

Tên phiên

Nội dung ban hành/ sửa đổi

bản

Ban hành với 07 điều kiện giao hàng:


EXW (: Ex Works) - Giao tại xưởng



FCA (: Free Carrier) - Giao cho người chuyên chở



FOT/FOR (:Free on Rail/Free on Truck) - Giao lên

tàu hỏa


Incoterms
1936



FAS (: Free Alongside Ship) - Giao dọc mạn tàu



FOB (: Free On Board) - Giao lên tàu



C&F (:Cost and Freight) - Tiền hàng và cước phí



CIF (: Cost, Insurance, Freight) - Tiền hàng, bảo

hiểm và cước phí
Incoterms 1936 chủ yếu giải thích những điều kiện
sử dụng phương thức vận tải đường bộ và đường thuỷ.
Trên thực tế, Incoterms 1936 không được các nhà kinh
doanh thừa nhận và sử dụng rộng rãi vì không giải
thích hết được những tập quán thương mại quan
trọng.
Incoterms

Ban hành với 09 điều kiện giao hàng:


1953


07 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms

1936

5


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms



Bổ sung thêm 02 điều kiện: DES (: Delivered Ex

Ship) – Giao tại tàu; DEQ (: Delivered Ex Quay) – Giao
trên cầu cảng, sử dụng cho phương thức vận tải đường
biển và đường thủy nội bộ.
Incoterms 1953 trong lần sửa đổi thứ nhất đã thay
đổi như sau:
Incoterms
1953



1953

(sửa đổi lần 1
vào năm

1967)

09 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms



Bổ sung thêm 02 điều kiện: DAF (Delivered: At

Frontier) – Giao tại biên giới; DDP (: Delivered Duty
Paid) - Giao hàng đã nộp thuế), sử dụng cho mọi
phương thức vận tải, kể cả vận tải kết hợp nhiều
phương thức vận tải khác nhau.

Incoterms 1953 trong lần sửa đổi thứ hai đã thay đổi
Incoterms
1953

như sau:


11 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms

(sửa đổi lần 2 1953 (sửa đổi lần 1)
vào năm
1976)



Bổ sung thêm 01 điều kiện: FOA (: FOB Airport) –


Giao lên máy bay, để giải quyết các vấn đề giao hàng
tại sân bay.

Incoterms

Ban hành với 14 điều kiện giao hàng:

1980


12 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms

1953 (sửa đổi lần 2)

6


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms



Bổ sung thêm 02 điều kiện CIP (: Carriage and

Insurance Paid to) - Cước phí và bảo hiểm trả tới địa
điểm đích quy định và CPT (: Carriage Paid to) - Cước
phí trả tới địa điểm đích quy định, nhằm thay thế cho
CIF và CFR khi không chuyên chở hàng hoá bằng
đường biển.
Ban hành với 13 điều kiện giao hàng. So với
Incoterms 1980, có những thay đổi như sau:

Incoterms
1990



Bỏ 2 điều kiện FOA và FOT, vì bản chất của

chúng giống FCA.


Bổ sung điều kiện DDU (: Delivered Duty Unpaid)

- Giao hàng tại đích chưa nộp thuế.

Incoterms
2000

Incoterms 2000 giữ nguyên 13 điều kiện như
Incoterms 1990 nhưng sửa đổi nội dung 3 điều kiện
FCA, FAS và DEQ.
Incoterms 2010 gồm 11 điều kiện, trong đó:
Thay thế 04 điều kiện DAF, DES, DEQ, DDU trong

Incoterms
2010

Incoterms 2000 bằng 02 điều kiện mới có thể sử dụng
cho mọi phương thức vận tải là DAT (: Delivered At
Terminal) – Giao hàng tại bến và DAP (: Delivered At
Place) – Giao tại nơi đến.


Sự đổi mới và hoàn thiện của Incoterms qua từng thời kỳ được
thể hiện cụ thể như sau:

7


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

Bản Incoterms đầu tiên được pháp hành vào năm 1936. Trong đó
nội dung bao gồm 7 điều kiện thương mại được sử dụng cho phương
thức vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Vào thời điểm này,
thương mại đường bằng đường hàng không chưa phát triển.
Incoterms 1953 bao gồm 9 điều kiện thương mại được trình bày
chuyên sâu hơn so với bản đầu tiên, nhưng vẫn trung thành với cách
sắp xếp các điều kiện thương mại theo thứ tự tăng dần nghĩa vụ của
người bán, từ điều kiện Ex Works ( giao tại xưởng ) mà tại đó nghĩa
vụ của người bán là tối thiểu cho đến điều kiện Ex Quay , Ex Ship, ở
đó người mua có nghĩa vụ tối thiểu. Trong thời kỳ này, vận tải hàng
không đã phát triển nhưng chưa thực sự phổ biến trong chuyên chở
hàng hóa vì chi phí cao, do đó vận tải bằng đường biển vẫn là
phương thức vận tải chủ yếu trong thương mại quốc tế. Vì vậy, thời
điểm này vẫn chưa có các điều kiện thương mại áp dụng cho các
phương thức vận tải khác.
Incoterms 1967 bao gồm 11 điều kiện thương mại. So với
Incoterms 1953, Incoterms 1967 đã có thêm 2 điều kiện thương mại
nhóm D là điều kiện DAF ( giao hàng tại biên giới) dùng cho vận
chuyển hàng hóa bằng đường bộ và đường sắt và điều kiện DDP
( giao hàng tại nơi đến, đã nộp thuế ) dùng cho vận tải đa phương
thức. Việc bổ sung thêm 2 điều kiện này làm cho Incoterms được áp

dụng rộng rãi hơn, phù hợp hơn với xu hướng người bán chịu trách
nhiệm ký hợp đồng vận tải và chịu rủi ro vận chuyển hàng hóa đến
tận tay người mua.
Incoterms 1976 bao gồm 12 điều kiện thương mại do được bổ
sung thêm điều kiện FOB airport dùng trong vận chuyển bằng đường
hàng không. Thời điểm này, vận tải hàng không phát triển mạnh,
Incoterms ngay lập tức đã thể hiện tính cập nhật của mình, giúp vận
tải đường hàng không có điều kiện phát huy tính tích cực trong vận
chuyển hàng hóa thương mại.

8


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

Incoterms năm 1980 được bổ sung thêm 2 điều kiện thương mại,
bao gồm 14 điều kiện. Đó là : Ex Works; Free carrier; Free on Rail/
Free on Truck; Fob Airport; Free alongside Ship; Free on Board; Cost
and Freight; Cost, Insurance and Freight; Freight Carriage paid to;
Freight Insurance paid to; Ex Ship; Ex Quay; Delivered at frontier;
Delivered Duty paid. So với Incoterms 1976, ấn bản mới này có thêm
2 điều kiện là Freight Carriage paid to (CPT) và Freight Insurance
paid to (CIP). Hai điều kiện này được bổ sung nhằm đáp ứng được
những thay đổi trong kỹ thuật vận tải và lập chứng từ. Thay vì chủ
yếu vận chuyển bằng đường biển, lấy lan can tàu làm điểm chuyển
giao rủi ro giữa bên bán và bên mua, Incoterms còn cho phép việc di
chuyển rủi ro được thực hiện ở một địa điểm khác phù hợp hơn với
phương thức vận chuyển bằng container hay vận tải đa phương thức.
Incoterms 1990 gồm 13 điều kiện:EXW, FCA, FAS, FOB, CFR, CIF,
CPT, CIP, DAF, DES, DEQ, DDU, DDP. 13 điều kiện trên được phân

chia thành 4 nhóm theo đặc trưng cơ bản về trách nhiệm nghĩa vụ
và phân chia rủi ro của bên bán và bên mua. Inoterms 1990 sửa đổi
đã cho phép các bên sủ dụng chứng từ điện tử thay cho chứng từ
giấy truyền thống làm cơ sở bằng chứng cho việc đã giao hàng. Sự
thay đổi này đánh dấu một bước phát triển lớn trong thương mại,
phù hợp với sự phát triển mạnh mẽcủa công nghệ thông tin. Từ đó,
việc sử dụng và trao đổi các dữ liệu điện tử, thư điện tử (email) và
các chứng từ điện tử bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong quan hệ
kinh tế quốc tế.
Incoterms 2000 vẫn giữ nguyên 13 điều kiện thương mại như trong
Incoterms 1990, nhưng trong bản mới này, ICC đã cố gắng sử dụng
những thuật ngữ và cách diễn đạt thống nhất trong cả 13 điều kiện.
Ngoài ra, Incoterms 2000 còn có một sô thay đổi về nghĩa vụ của các
bên trong vấn đề thông quan hàng hóa và giải thích rõ ràng và đầy
đủ hơn về điều kiện FCA ( giao cho người chuyên chở). Những thay
đổi này không nhiều nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc làm cho

9


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

Incterms ngày càng hoàn thiện, phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn và
xu hướng của thương mại ngày nay.
Ấn bản Incoterms mới nhất là bản Incoterms 2010. Incoterms 2010
đã giảm số điều kiện thương mại từ 13 xuống còn 11 bằng việc thay
thế bốn điều kiện cũ là DAF, DES, DEQ, DDU bằng hai điều kiện mới
có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải là DAT ( giao hàng tại
bến) và DAP ( giao tại nơi đến). Ngoài ra, Incoterms 2010 cũng đề
cập đến sự xuất hiện ngày càng nhiều của các khu vực miễn thủ tục

hải quan; việc sử dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh ngày
càng phát triển và cả những thay đổi trong các tập quán vận tải. Đặc
biệt, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của mình, Incoterms 2010
đã đề cập đến nghĩa vụ của người mua và người bán một cách bình
đẳng. Với sự trình bày nội dung đơn giản và rõ ràng hơn, Incoterms
2010 đã chứng tỏ được tính hoàn thiện và cập nhật của mình, bắt kịp
được những xu hướng mới trong thương mại hiện đại. Incoterms đã
và đang trở nên gần gũi và thân thiết hơn đối với người sử dụng.

1.3

Vai trò của Incoterms

Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, hàng hóa được mua bán giữa
các bên ở nhiều quốc gia hơn, với số lượng ngày càng lớn hơn và
chủng loại phong phú hơn. Chính vì lẽ đó, Incoterms đã và đang thể
hiện mạnh mẽ vai trò to lớn của mình.
1.3.1

Incoterms là 1 bộ các quy tắc:

Incoterms hệ thống hóa các tập quán thương mại được áp dụng
phổ biến bởi các doanh nghiệp trên khắp thế giới. các tập quán này
đã xuất hiện và tồn tại trong quá trình phát triển của thương mại
quốc tế, nhưng trước đây chưa được biết đến theo một trật tự khoa
học và logic. Incoterms ra đời, tập hợp những gì đã được thực hiện và
kiểm nghiệm phổ biến trong thực tiễn với mục đích giúp cho mọi
doanh nghiệp ở khắp nơi trên thế giới vó thể nắm rõ và sử dụng một
cách dễ dàng mà không cần mất nhiều thời gian để tìm hiểu tất cả


10


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

các luật lệ tập quán thương mại riêng biệt các các đối tác nước
ngoài.
1.3.2

Incoterms trở thành ngôn ngữ quốc tế trong hợp

đồng ngoại thương:
Là một bộ thuật ngữ thống nhất quốc tế trong giao nhận và vận
chuyển hàng hóa ngoại thương, Incoterms bao gồm các điều kiện về
nghĩa vụ giao nhận và vận tải hoàng hóa của các bên trong hợp
đồng ngoại thương. Những điều kiện thương mại có tên ngắn gọn,
trình bày đơn giản, ở mỗi điều kiện thương mại xác định 10 phân
nhóm nghĩa vụ cơ bản cho mỗi bên mua bán phải thực hiện. Đa số
các nghĩa vụ quy định có liên quan đến giao nhận, vận tải hàng hóa
và các chứng từ có liên quan. Trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại
thương, Incoterms sẽ giúp các bên không gặp khó khăn trong việc
bất đồng ngôn ngữ cũng như không phải giải thích quá nhiều về
nghĩa vụ của các bên trong vấn đề giao nhận ,vận tải và cung cấp
các chứng từ liên quan.

1.3.3

Incoterms là phương tiện quan trọng giúp đẩy

nhanh tốc độ trong đàm phán ký kết hợp đồng ngoại thương:

Incoterms tập hợp thành chuẩn mực thống nhất các tập quán
thông dụng có liên quan đến nghĩa vụ của các bên trong mua bán
quốc tế. Vì vậy, khi xác định sẽ áp dụng Incoterms nào, mỗi bên có
thể hình dung ra những nghĩa vụ cơ bản mà mình sẽ phải thực hiện.
Điều này giúp đẩy nhanh tốc độ giao dịch đàm phán và đơn giản hóa
nội dung hợp đồng. mà vẫn đảm bảo tính chặt chẽ, đầy đủ và mang
tính pháp lý cao.

11


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

1.3.4

Incoterms là cơ sở quan trọng để xác định giá cả

mua bán hàng hóa:
Chi phí vận tải và cước phí là những yếu tố gây ảnh hưởng
trực tiếp đến việc hình thành và biến động giá cả hàng hóa trên thị
trường. Do đó, người bán và người mua đều phải quan tâm đến yếu
tố vận tải trong khi tính toán giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu.
Giá cả của cùng một loại hàng hóa được tính theo điều
kiện CIF thường có xu hướng gần bằng nhau tại các thị trường tiêu
thụ trong khi giá hàng hóa tính theo điều kiện FOB lại rất khác nhau.
Sự khác nhau này là do điều kiện sản xuất khác nhau, cước phí các
tuyến đường chuyên chở của thị trường.
Incoterms quy định những nghĩa vụ quan trọng nhất về
giao nhận, vận tải hàng hóa , về các chi phí cơ bản; giá trị hàng hóa;
thủ tục và thuế xuất nhập khẩu; chi phí vận tải; phí bảo hiểm hàng

hóa; đại điểm chuyển rủi ro hàng hóa từ người bán sang người mua;
địa điểm giao hàng hóa và nhận hàng… khi các bên thỏa thuận lựa
chọn áp dụng Incoterms thì đây là cơ sở quan trọng nhất để xác định
giá cả trong mua bán ngoại thương. Với các điều kiện thương mại
khác nhau, doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể tính toán và so sánh
giá cả của các đối tác khác nhau, từ đó lựa chọn và ký được những
hợp đồng đem lại lợi ích kinh tế cao nhất cho mình.
1.3.5

Incoterms là một căn cứ pháp lý quan trọng để giải

quyết tranh chấp
Incoterms đóng vai trò làm cơ sở để thực hiện khiếu nại và giải
quyết tranh chấp (nếu có) giữa người mua và người bán trong quá
trình thực hiện hợp đồng ngoại thương. Nếu trong hợp đồng có dẫn
chiếu đến loại Incotems được áp dụng thì khi có tranh chấp xảy ra,
văn bản Incoterms và các tài liệu giải thích chuẩn mực về Incoterms
sẽ là những căn cứ quan trọng mang tính pháp lý giúp các bên thực
hiện và giải quyết khiếu nại hoặc khiếu nại ra tòa án hoặc trọng tài.

12


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

1.4

Mục đích sử dụng, phạm vi áp dụng và tính chất

pháp lý tùy ý của Incoterms

1.4.1

Mục đích sử dụng

Theo nguyên tắc chung, Incoterms được áp dụng trong trường hợp
khi các bên trực tiếp thỏa thuận việc áp dụng nó trong chính hợp
đồng và chỉ ra điều kiện được áp dụng tương ứng. Incoterms cũng có
thể được áp dụng trong trường hợp khi mà các bên không trực tiếp
thỏa thuận việc áp dụng chúng trong hợp đồng nhưng xuất phát từ
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong đó hợp đồng được ký kết và thực
hiện, Tòa án hay trọng tài cho rằng các bên có sự thỏa thuận ngầm
việc áp dụng tập quán thương mại quốc tế.


Incoterms là một bộ các quy tắc nhằm hệ thống hóa các

tập quánTM quốc tế được áp dụng phổ biến bởi các doanh nhân
trên khắp thế giới
• Incoterms là phương tiện quan trọng để đẩy nhanh tốc độ
đàm phán,

xây dựng và tổ chức thực hiện hợp đồng ngoại

thương. Tránh những hiểu lầm và tranh chấp giữa các bên trong
việc phân chia chi phí và chuyển gia rủi ro về hàng hóa
• Incoterms là cơ sở quan trọng để xác định giá cả mua bán
hàng hóa.
• Incoterms là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện khiếu
nại và giải quyết tranh chấp (nếu có) giữa người bán trong quá
trình thực hiện hợp đồng ngoại thương.

Incotems ra đời nhằm cung cấp một hệ thống trọn vẹn các quy tắc
quốc tế nhằm giải thích những điều kiện thương mại thông thường
được sử dụng rộng rãi trong ngoại thương. Từ đó có thể tránh được
hoặc ít nhất giảm được đáng kể sự không chắc chắn do cách giải
thích khác nhau về những điều kiện đó tại các nước khác nhau.
Nhiều khi các bên ký kết hợp đồng không biết rõ các tập quán
thương mại của nước bên kia bởi mỗi nước đều có tập quán buôn bán
và vận tải khác nhau, việc đó có thể gây ra những sự hiểu lầm,
những vụ tranh chấp và kiện tụng gây lãng phí thời gian và tiền bạc.

13


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

Incoterms ra đời đã khắc phục được những khó khăn đó bằng cách
đưa ra những điều kiện thương mại chung, đã được công nhận và có
hiệu lực ở nhiều nước trên thế giới.
1.4.2

Phạm vi áp dụng Incoterms

Incoterms chỉ giới hạn đối với những vấn đề liên quan đến quyền
lợi và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán về việc giao
hàng hóa được bán. Hàng hóa ở đây mang ý nghĩa là hàng hóa hữu
hình, không bao gồm hàng hóa vô hình, ví dụ như phần mềm vi
tính…
Thông thường, người ta thường có hai quan niệm sai lầm về
Incoterms. Thứ nhất, Incoterms nhiều khi được hiểu là dùng để áp
dụng cho hợp đồng vận tải hơn là hợp đồng mua bán hàng hóa. Thứ

hai là đôi khi người ta hiểu sai là các điều kiện này quy định tất cả
các nghĩa vụ mà các bên muốn đưa vào trong hợp đồng mua bán
hàng hóa.
ICC đã luôn lưu ý rằng, Incoterms chỉ quy định về quan hệ giữa
người mua và người bán thuộc hợp đồng mua bán hàng hóa, và hơn
nữa là chỉ quy định trong một số trường hợp cụ thể mà thôi. Người
nhập khẩu và người xuất khẩu cần phải biết rõ rằng trong giao dịch
thương mại quốc tế, không chỉ có một hợp đồng mua bán hàng hóa
là loại hợp đồng duy nhất mà các bên cần ký kết, bên cạnh đó còn có
rất nhiều loại hợp đồng khác nhau như hợp đồng vận tải, hợp đồng
bảo hiểm… được sử dụng đồng thời với hợp đồng mua bán hàng hóa
và chúng có mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau. Khi tiến
hành ký kết hợp đồng thương mại, nhà xuất nhập khẩu cần phải xem
xét mối liên quan thực tế giữa các loại hợp đồng với nhau, cần thiết
để thực hiện một vụ mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy vậy, việc các
bên thỏa thuận sử dụng một điều kiện của Incoterms thì nó thường
mang ý nghĩa ảnh hưởng đến các hợp đồng khác. Ví dụ như khi
người bán đã đồng ý ký hợp đồng với điều kiện CFR hay CIF thì đồng

14


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

nghĩa với việc không thể dùng bất kỳ phương thức vận tải nào khác
ngoài phương thức vận tải bằng đường thủy, bởi theo các điều kiện
này thì người bán phải gửi vận đơn đường biển hay chứng từ vận tải
biển cho người mua để làm bằng chứng cho việc giao hàng. Hơn nữa,
tính hợp lệ của bộ chứng từ thanh toán cũng phụ thuộc vào phương
thức vận tải được sử dụng.

Thứ hai, Incoterms còn quy định một số nghĩa vụ được xác định cụ
thể đối với các bên như nghĩa vụ thông quan, nghĩa vụ mua bảo
hiểm, nghĩa vụ xếp dỡ hàng hóa… đồng thời quy định địa điểm
chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua. Mặc dù Incoterms
có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng mua bán
hàng, song còn nhiều vấn đề có thể xảy ra trong hợp đồng mà
Incoterms không điểu chỉnh như việc chuyển giao quyền sở hữu và
các quyền về tài sản khác, sự vi phạm hợp đồng và các hậu quả của
sự vi phạm hợp đồng cũng như miễn trừ nghĩa vụ trong các trường
hợp nhất định. Cần nhấn mạnh rằng Incoterms không có ý điịnh thay
thế các điều khoản và điều kiện cần phải có đối với một hợp đồng
mua bán hàng hóa hoàn chỉnh bằng việc đưa vào các điều kiện
chuẩn hoặc các điều kiện được thỏa thuận riêng biệt.
Nhìn chung, Incoterms không điều chỉnh hậu quả của sự vi phạm
hợp đồng và bất kỳ sự miễn trừ nghĩa vụ nào do nhiều trở ngại gây
ra. Các vấn đề này phải được giải quyết bằng những quy định khác
trong hợp đồng mua bán hàng hóa và các luật điều chỉnh hợp đồng
đó. Về bản chất, INCOTERMS được áp dụng khi mua bán hàng hóa
qua biên giới, do đó, nó bao gồm các điều kiện thương mại quốc tế.
Nhưng vì INCOTERMS là văn bản quy phạm pháp luật tùy ý, nên đôi
khi người ta lại dùng nó cho thương mai nội địa, điều này là không
khuyến khích và phải thận trọng khi áp dụng các điều khoản
INCOTERMS cho thích hợp.

15


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

1.4.3


Tính chất pháp lý tùy ý của Incoterms

INCOTERMS là văn bản do ICC phát hành, mà ICC là một tổ chức
mang tính xã hội (phi chính phủ) chứ không phải là một tổ chức liên
chính phủ, do đó, INCOTERMS không mang tính chất pháp lý bắt
buộc đối với các hội viên cũng như các bên liên quan. Tính chất pháp
lý tùy ý của INCOTERMS thể hiện ở các điểm chính:


Tất cả các phiên bản INCOTERMS đều còn hiệu lực, nghĩa

là phiên bản sau không phủ nhận phiên bản trước. Do đó, khi
dẫn chiếu INCOTERMS trong hợp đồng mua bán phải nói rõ là
áp dụng INCOTERMS nào.
• Chỉ khi trong hợp đồng mua bán có dẫn chiếu áp dụng
INCOTERMS, thì nó mới trở nên có hiệu lực pháp lý bắt buộc
điều chỉnh các bên liên quan.
Các bên có thể thỏa thuận trong các hợp đồng mua bán:


Không thực hiện, hoặc thực hiện khác đi một hoặc một số

điều không quy định trong INCOTERMS.
• Bổ sung những điều khoản trong

hợp

đồng




INCOTERMS không đề cập.
Nếu nội dung INCOTERMS có xung đột với luật quốc gia, thì luật
quốc gia vượt lên trên về mặt pháp lý. Điều này hàm ý, phán quyết
của tòa án địa phương có thể phủ nhận các điều khoản của
INCOTERMS.Do là văn bản pháp lý tùy ý, nên ICC sẽ được miễn trách
khi có sai sót, tổn thất phát sinh trong quá trình áp dụng. Các bên
liên quan khi áp dụng INCOTERMS cần phải hiểu thấu đáo nội dung,
sử dụng thành thạo kĩ năng nghiệp vụ có liên quan.
Do các mẫu hợp đồng mua bán thường được in sẵn, trong đó có
điều khoản áp dụng INCOTERMS, nên để tránh sự hiểu lầm, khi kí
hợp đồng mua bán các bên phải đặc biệt chú ý đến điều khoản áp

16


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

dụng INCOTERMS. Nếu điều khoản INCOTERMS in sẵn không thích
hợp (phiên bản cũ), thì phải sửa lại theo ý chí của các bên.
Hai bên mua bán có thể tăng giảm trách nhiệm, nghĩa vụ cho nhau
tùy thuộc vào vị thế mạnh (yếu) trong giao dịch nhưng không được
làm thay đổi bản chất điều kiện cơ sở giao hàng. Việc tăng, giảm
trách nhiệm, nghĩa vụ (nếu có) cần phải được cụ thể hóa trong hợp
đồng mua bán.
Incoterms chỉ xác định thời điểm di chuyển rủi ro hàng hóa từ
người mua đến người bán chứ không xác định thời điểm chuyển
quyền sở hữu hàng hóa, cũng như hậu quả của việc vi phạm hợp
đồng. Những vấn đề này thường được quy định trong các điều khoản

khác của hợp đồng hoặc trong luật điều chỉnh hợp đồng. Các bên
cũng cần biết rằng luật địa phương được áp dụng có thể làm mất
hiệu lực bất cứ nội dung nào của hợp đồng, kể cả điều kiện
Incoterms đã được lựa chọn trước đó.
Tùy thuộc vào việc hàng hóa được chuyên chở bằng phương tiện
nào (đường không, đường biển, đường bộ, v.v), loại hình nào (hàng
rời, container, sà lan, v.v) thì có những nhóm điều kiện tương ứng.

1.5

Sự cần thiết phải dẫn chiếu Incoterms vào trong

hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Nền kinh tế toàn cầu mở ra cơ hội to lớn hơn bao giờ hết để doanh
nghiệp tiếp cận tới các thị trường khắp nơi trên thế giới. Hàng hóa
được bán ra ở nhiều nước hơn, số lượng lớn hơn và chủng loại đa
dạng hơn. Giao dịch mua bán quốc tế ngày càng nhiều và phức tạp
do vậy nếu hợp đồng mua bán hang hóa không được soạn thảo một
cách kỹ lưỡng sẽ có nhiều khả năng dẫn đến sự hiểu lầm và những
vụ tranh chấp tốn kém tiền bạc.
Kể từ khi Incoterms 1936 ra đời – chuẩn mực về hợp đồng mang
tính toàn cầu này thường xuyên được cập nhập để bắt kịp với nhịp

17


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

độ phát triển của thương mại quốc tế. Incoterms 2000 có cân nhắc
tới sự xuất hiện nhiều khu vực miễn thủ tục hải quan trong thời gian

qua, việc sử dụng thông tin liên lạc điện tử ngày càng thông dụng và
cả những thay đổi về tập quán vận tải. Incoterms 2010 ra đời, kế
thừa từ Incoterms 2000, tuy nhiên, có nhiều thay đổi các điều kiện
do xu hướng vận chuyển hàng hóa bằng container ngày càng chiếm
tỉ trọng cao trong giao thương.
Hơn nữa Ban nghiên cứu Tập quán Thương mại quốc tế thuộc ICC
bao gồm các thành viên từ nhiều nước trên thế giới và thuộc tất cả
các lĩnh vực thương mại đảm bảo cho Incoterms đáp ứng được nhu
cầu của doanh nghiệp khắp nơi.
Vậy nên, Incoterms ra đời tạo điều kiện cho giao dịch thương mại
quốc tế diễn ra một cách trôi chảy, giảm nguy cơ rắc rối về mặt pháp
lý. Tất cả những điều trên đã nói lên sự cần thiết phải dẫn chiếu
Incoterms vào trong hợp đồng mua bán quốc tế.

1.6

Một số lưu ý khi sử dụng Incoterms

1.6.1

Dẫn chiếu các điều kiện Incoterms vào hợp đồng

mua bán hàng hóa:
Nếu muốn áp dụng các quy tắc của Incoterms vào hợp đồng mua
bán hàng hóa thì phải làm rõ điều đó trong hợp đồng bằng cách
dùng các từ ngữ như “điều kiện được chọn, tên địa điểm,
Incoterms…”
Ví dụ: điều khoản giá: giá hàng là 250USD/ MT FOB Haiphong
Incoterms 2010
Incoterms 2010 được hiểu là áp dụng Quy tắc của ICC về các điều

kiện thương mại quốc tế, bản sửa đổi năm 2010. Việc nêu cụ thể
Incoterms 2010 sẽ giúp chúng ta tránh áp dụng các bản sửa đổi
Incoterms trước đó, như bản sửa đổi năm 1990, 2000…

18


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

Tại một số nước (đặc biệt là Hoa Kỳ) luật lệ nhiều địa phương điịnh
nghĩa điều kiện bán hàng FOB rất khác nhau. Do vậy, nếu trong hợp
đồng ký với một hãng Hoa Kỳ, chúng ta ghi – “giá FOB…” có nhiều
rủi ro là hai bên sẽ phải tranh cãi trong quá trình thực hiện: “đó là
FOB Hoa Kỳ hay FOB Incoterms”
Do không ghi rõ, chúng ta có thể phải chấp nhận điều kiện FOB
Hoa Kỳ theo đó nghĩa vụ của người bán sẽ nặng hơn.
1.6.2

Lựa chọn điều kiện Incoterms phù hợp

Điều kiện Incoterms được chọn phải phù hợp với hàng hóa, phương
tiện vận tải và quan trọng nhất là phải xem các bên có ý định đưa ra
cho người mua hoặc người bán các nghĩa vụ bổ sung, ví dụ như
nghĩa vụ tổ chức vận tải hay mua bảo hiểm. Incoterms chỉ quy định
một số trách nhiệm nhất định giữa người mua và người bán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa chứ không quy định trách nhiệm giữa
người vận tải hay người nhận trong hợp đồng vận tải hay với các
quan hệ khác, do đó các bên phải nghiên cứu kỹ trước khi ký kết hợp
đồng, tránh nhầm lẫn. Tóm lại, dù chọn điều kiện nào thì các bên vẫn
cần biết rằng việc giải thích hợp đồng còn chi phối mạnh mẽ hơn tập

quán riêng của từng cảng hoặc từng địa phương.
1.6.3

Quy định địa điểm, nơi hoặc cảng càng chính xác

càng tốt.
Điều kiện Incoterms được lựa chọn áp dụng chỉ phát huy hiệu lức
khi các bên chỉ định một địa điểm hoặc một cảng, và nó sẽ phát huy
tối đa chức năng của mình khi các bên quy định chính xác nơi hoặc
cảng đó.
Ví dụ như cần quy định: “ FCA 38 Cours Albert 1er, Paris, France
Incoterms 2010”
Theo các điều kiện EXW, FCA, FAS, FOB, DAT, DAP, DDP thì nơi
được chỉ định là nơi diễn ra việc giao hàng và là nơi rủi ro được
chuyển từ người bán sang người mua. Còn theo các điều kiện CFR,

19


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

CIF, CPT và CIP thì địa điểm được chỉ định khác với nơi giao hàng.
Theo bốn điều kiện này thì địa điểm được chỉ định là nơi đến mà cước
phí được trả. Việc ghi chính xác một địa điểm cụ thể tại nơi hoặc đích
đến đó nhằm tránh sự nghi ngờ hoặc tranh chấp.
1.6.4

Incoterms không phải là luật

Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, Incoterms chỉ được áp dụng

khi:



Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định.



Các điều ước quốc tế liên quan quy định



Luật thực chất (luật quốc gia) do các bên lựa chọn không có

hoặc có nhưng không đầy đủ.
Trong một số trường hợp, Incoterms vẫn có thể được áp dụng ngay
cả khi không được nêu cụ thể trong hợp đồng như trường hợp coi
việc áp dụng Incoterms như một thông lệ thương mại hay việc sử
dụng Incoterms được thừa nhận bởi luật áp dụng.
1.6.5

Các điều kiện Incoterms không làm cho hợp đồng

đầy đủ
Incoterms đã chỉ rõ bên nào trong hợp đồng mua bán có nghĩa vụ
thuê phương tiện vận tải hoặc mua bảo hiểm, khi nào người bán giao
hàng cho người mua và chi phí mỗi bên phải chịu. Song, Incoterms
không bao gồm tất cả các điều khoản trong hợp đồng mua bán mà
chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng. Cụ thể, Incoterms không đề cập
đến mức giá phải trả hay phương thức thanh toán; sự chuyển giao

quyền sở hữu về hàng hóa/ tài sản- vấn đề về luật áp dụng - ủy
quyền có điều khoản cụ thể trong hợp đồng và hậu quả của việc vi
phạm hợp đồng; phương thức người bán giao hàng đến điểm đến;
người mua và người bán nên làm gì để yên tâm cho mình (ví dụ:
mua bảo hiểm- trừ điều khoản CIF và CIP ); mất mát, hư hỏng do
đóng gói không cẩn thận, ký hiệu v.v… Những vấn đề này thường
được quy định trong các điều khoản khác của hợp đồng, hay các hợp

20


Tổng quan lý thuyết chung về Incoterms

đồng đơn lẻ đi kèm với hợp đồng mua bán thương mại như hợp đồng
bảo hiểm, hợp đồng vận tải…hoặc trong luật điều chỉnh hợp đồng.
Các bên nên biết rằng luật địa phương được áp dụng có thể làm mất
hiệu lực bất kỳ nội dung nào của hợp đồng, kể cả điều kiện
Incoterms đã được lựa chọn.

21


Giới thiệu về Incoterms 2000 và Incoterms 2010

Chương 2.

GIỚI

THIỆU


VỀ

INCOTERMS

2000



INCOTERMS 2010

2.1

Kết cấu và những nội dung cơ bản của Incoterms

2000
Incoterms 2000 là văn bản về điều kiện thương mại ban hành sau
cùng nhất trước khi có Incoterms 2010 và được nhiều doanh nghiệp
ở các nước trên thế giới hưởng ứng và áp dụng vì nó phù hợp nhất
với tập quán thương mại hiện đại: là phương tiện chuyên chở bằng
container ngày càng nhiều; các chứng từ điện tử trong xuất nhập
khẩu hàng hoá ngày càng phổ biến
Incoterms 2000 gồm có 13 điều kiện giao hàng mẫu, chia thành 4
nhóm: C, D, E, F. Trong đó, nhóm E gồm 1 điều kiện (EXW), nhóm F
gồm 3 điều kiện (FCA, FAS, FOB), nhóm C gồm 4 điều kiện (CFR, CIF,
CPT, CIP) và nhóm D gồm 5 điều kiện (DAF, DES, DEQ, DDU, DDP).
Kết cấu theo loại hình phương tiện vận tải:


Các điều kiện FAS, FOB, CFR, CIF, DES, DEQ chỉ áp dụng


đối với vận tải đường biển và thuỷ nội địa;

Các điều kiên còn lại áp dụng cho mọi phương thức vận
tải, kể cả vận tải đa phương thức
Các điều kiện giao hàng được sắp theo từ nhóm E đến nhóm D
theo đó nghĩa vụ của người bán tăng dần, ngược lại nghĩa vụ của
người mua giảm dần. Nếu ở điều kiện nhóm E người bán chịu nghĩa
vụ thấp nhất và người mua chịu nghĩa vụ cao nhất thì ngược lại ở
điều kiện nhóm D người mua chịu nghĩa vụ thấp nhất và người bán
chịu nghĩa vụ cao nhất.
Nội dung quan trọng nhất của Incoterms 2000 mà chúng ta cần
quan tâm là thời điểm chuyển rủi ro từ người bán sang người mua để
tránh những tranh chấp có thể phát sinh sau này liên quan đến hợp
đồng mua bán đã ký.

22


Giới thiệu về Incoterms 2000 và Incoterms 2010

a. Nhóm E : gồm 1 điều kiện:
EXW – Ex Works (named place): giao hàng tại xưởng (địa điểm quy
định)
Người mua sẽ chịu toàn bộ phí tổn và rủi ro trong việc đưa hàng từ
đầu người bán đến điểm cuối cùng. Người bán có trách nhiệm đặt
hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi giao hàng (xưởng,
nhà máy, nhà kho). Điều khoản này thể hiện trách nhiệm tối thiểu
của người bán. Điều khoản này được dùng cho tất cả các hình thức
vận chuyển.
b. Nhóm F :

Đặc điểm của nhóm này: Người bán không trả cước phí vận tải
chính, giao hàng cho người chuyên chở do người mua chỉ định là hết
nghĩa vụ.
Gồm 3 điều kiện:
FCA – Free Carrier (named place): giao hàng cho người vận tải (tại
địa điểm quy định)
Người bán có nghĩa vụ giao hàng, làm thủ tục xuất khẩu cho đến
tận khi giao cho nhà chuyên chở được chỉ định bởi người mua tại
điểm hoặc địa điểm đã được chỉ định. Trách nhiệm rủi ro và phí tổn
ngươi mua sẽ phải gánh chịu. Điều khoản này được dùng cho tất cả
các hình thức vận chuyển.
FAS – Free Alongside Ship (named port of shipment): giao hàng
dọc mạn tàu (tại cảng bốc hàng quy định)
Người bán được cho là hoàn tất nghĩa vụ giao hàng khi hàng được
đặt cạnh mạn tàu tại cảng giao hàng, từ thời điểm này người mua sẽ
chịu mọi phí tổn về rủi ro về hàng hóa. Người mua đồng thời có nghĩa

23


Giới thiệu về Incoterms 2000 và Incoterms 2010

vụ làm thủ tục xuất khẩu. Điều khoản này chỉ sử dụng trong vận
chuyển đường biển hoặc đường sông.
FOB – Free On Board (named port of shipment): giao hàng lên tàu
(tại cảng bốc hàng quy định)
Người mua chịu mọi phí tổn và rủi ro ngay sau khi hàng được giao
qua lan can tàu tại cảng xuất khẩu. Người mua đồng thời có nghĩa vụ
làm thủ tục xuất khẩu. Điều khoản này chỉ áp dụng cho vận tải
đường biển hoặc đường sông.

c. Nhóm C:
Đặc điểm chính của nhóm:
- Người bán phải trả cước phí vận tải chính
- Địa điểm chuyển rủi ro về hàng hóa tại nơi gửi hàng (nơi đi)
Gồm 4 điều kiện:
CFR – Cost and Freight (named port of destination): tiền hàng và
cước phí (cảng đến quy định)
Người bán chịu các phí tổn và trả cước vận chuyển đến cảng đích.
Thời điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua là ngay
sau khi hàng được giao qua lan can tàu tại cảng xuất. Người bán có
nghĩa vụ làm các thủ tục xuất khẩu. Điều khoản này chỉ áp dụng cho
vận chuyển đường biển và đường sông.
CIF – Cost, Insurance and Freight (named port of destination): tiền
hàng, bảo hiểm và cước phí (cảng đến quy định)
Người bán chịu các phí tổn và trả cước vận chuyển, bảo hiểm đến
cảng đích. Thời điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua
là ngay sau khi hàng được giao qua lan can tàu tại cảng xuất. Người

24


Giới thiệu về Incoterms 2000 và Incoterms 2010

bán có nghĩa vụ làm các thủ tục xuất khẩu. Điều khoản này chỉ áp
dụng cho vận chuyển đường biển và đường sông.
CPT – Carriage Paid To (named place of destination): cước phí trả
tới (nơi đích quy định)
Người bán trả cước vận chuyển đến đích. Rủi ro về hư hỏng và mất
mát hàng hóa sau khi hàng đã được giao cho người chuyên chở sẽ
được chuyển từ người bán sang người mua. Điều khoản này người

bán có trách nhiệm làm thủ tục xuất khẩu. Điều khoản này cũng
được dùng cho tất cả các hình thức chuyên chở.
CIP – Carriage and Insurance Paid to (named place of destination):
cước phí, bảo hiểm trả tới (nơi đích quy định)
Người bán có nghĩa vụ giống như điều kiện CPT nhưng có thêm
trách nhiệm mua bảo hiểm cho những rủi ro về hư hại, tổn thất hàng
hóa trong suốt quá trình vận chuyển. Người bán có nghĩa vụ làm thủ
tục xuất khẩu, tuy nhiên chỉ có trách nhiệm mua bảo hiểm ở mức
thấp nhất. Điều khoản này cho phép sử dụng với tất cả các loại hình
chuyên chở.
d. Nhóm D:
Đặc điểm chính của nhóm:
- Người bán chịu mọi chi phí để đưa hàng tới địa điểm đích quy
định
Địa điểm chuyển rủi ro về hàng hóa tại nơi hàng đến
Gồm 5 điều kiện:
DAF – Delivered At Frontier (named place): giao hàng tại biên giới
(địa điểm quy định)

25


×