Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Luận án tiến sĩ triết học: Nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.55 KB, 147 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
•&œ

LÊ THỊ CHIÊN

NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ CHIÊN

NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 03 02

Người hướng dẫn khoa học:
1. GS,TS NGUYỄN HÙNG HẬU
2. PGS,TS ĐẶNG QUANG ĐỊNH


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án của tôi là một công trình nghiên
cứu nghiêm túc, khoa học. Các thông tin và số liệu trích dẫn đều có
nguồn gốc rõ ràng, tin cậy. Những đánh giá, kết luận được đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không trùng lặp,
sao chép ở bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đó.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước những lời cam đoan của
mình!

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Thị Chiên


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

6

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận về nhân tố
người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại


6

1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng của nhân tố người lao động
trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay

16

1.3. Những nghiên cứu liên quan đến quan điểm, giải pháp nhằm phát triển
nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt
Nam hiện nay

22

1.4. Giá trị của những công trình nghiên cứu đã tổng quan và những vấn đề
đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm

28

Chương 2: NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
HIỆN ĐẠI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN

2.1. Lực lượng sản xuất và lực lượng sản xuất hiện đại

32
32

2.2. Vai trò và những yêu cầu cơ bản của người lao động trong lực lượng
sản xuất hiện đại

55


2.3. Những yếu tố chủ yếu tác động đến người lao động trong quá trình xây
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay

66

Chương 3: NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN
CHỦ YẾU

76

3.1. Thực trạng của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện
đại ở Việt Nam hiện nay

76

3.2. Những nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực và hạn chế ở
người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay

96

Chương 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT
TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM

114


4.1. Những quan điểm cơ bản để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng

yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam

114

4.2. Những giải pháp cơ bản để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng
yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam

120

KẾT LUẬN

137

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

140

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

142


DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

STT

TÊN BẢNG

TRANG


Bảng 1

Thời gian đưa các phát minh khoa học vào ứng dụng

44

Bảng 2

So sánh sự khác nhau giữa kinh tế công nghiệp và kinh

61

tế tri thức
Bảng 3

So sánh các tiêu chí chất lượng cơ bản nguồn nhân lực

89

của Việt Nam so với một số nước (tính theo thang
điểm 10)
Bảng 4

Cơ cấu người thất nghiệp chia theo các bậc học cao

104

nhất đã đạt được năm 2014
Bảng 5


Cơ cấu lao động phân chia theo loại hình kinh tế thời
kỳ 2009 - 2014 (đơn vị tính: %)

109


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của xã hội loài người
chính là sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội
trong lịch sử được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản
xuất là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt của quá trình sản xuất vật chất là lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan
hệ biện chứng với nhau, tạo ra sự vận động và biến đổi của phương thức sản xuất. Mọi
sự biến đổi của phương thức sản xuất và sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội
xét đến cùng đều bắt nguồn từ sự thay đổi của lực lượng sản xuất, cho nên lực lượng
sản xuất là yếu tố quyết định mọi sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội.
Lực lượng sản xuất được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong đó người lao động là
yếu tố quyết định. Mặc dù ngày nay, khoa học - công nghệ đã có bước phát triển mạnh
mẽ, khoa học đã từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nhưng có thể khẳng
định,người lao động vẫn là yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện
đại.
Kế thừa quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cũng nhấn mạnh trước hết đến sự phát triển lực
lượng sản xuất để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đưa ra quan điểm: “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất" [29, tr.30-31]; nhất là "phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [31, tr.27]

Trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, Đảng ta đặc biệt ưu tiên phát triển
nhân tố người lao động, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao. Đây được coi là một trong ba khâu đột phá chiến lược, góp phần phá vỡ những
“điểm nghẽn” đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta nói riêng và
phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đại hội XI khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu
tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [29, tr.41]. Quan điểm này tiếp
tục được Đại hội XII nhấn mạnh thêm: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách,


2

giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội” [31, tr.295-296].
Trong những năm qua, mặc dù đội ngũ người lao động tham gia vào quá trình
sản xuất vật chất ở nước ta ngày càng tăng lên về số lượng; được cải thiện về thể lực;
nâng cao về trình độ, tay nghề, có đóng góp lo lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại, người lao động ở
nước ta còn nhiều bất cập. Nhìn chung, sức khỏe, thể lực còn kém; trình độ, tay nghề
còn thấp; ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái chưa cao, tính tích cực trong lao động sản xuất chưa được phát huy
một cách tối đa… Những hạn chế đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam, làm cho “nền kinh tế chủ yếu vẫn phát
triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn,
tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa vào tri thức và khoa học công nghệ, thiếu
nhiều lao động có kỹ năng” [31, tr.84], năng suất lao động thấp, tốc độ phát triển kinh
tế chưa cao, đời sống nhân dân chậm được cải thiện. Ngoài ra, những hạn chế đó còn
tạo ra những rào cản đáng kể khi người lao động nước ta tham gia vào thị trường lao
động thế giới cũng như các nước trong cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Do vậy, để
hiện đại hóa nền sản xuất xã hội, một trong những vấn đề cốt lõi nhất, cần được ưu

tiên hàng đầu là phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại,
tạo ra bước đột phá để thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi chọn vấn đề “Nhân tố người lao động trong phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong
luận án tiến sĩ triết học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng nhân tố người lao động trong lực lượng sản
xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản
để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở
Việt Nam trong những năm tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


3

Để đạt được được mục tiêu trên, luận án thực hiện được những nhiệm vụ cụ thể
sau:
Một là, tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến lực lượng sản
xuất hiện đại, nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại;
Hai là, làm rõ khái niệm, biểu hiện của lực lượng sản xuất hiện đại; vai trò và
yêu cầu của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại;
Ba là, phân tích thực trạng của nhân tố người lao động trong phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay trên cả hai phương diện là ưu điểm và hạn chế;
đồng thời chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng đó;
Bốn là, đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để phát triển nhân tố
người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân tố người lao động với tư cách là yếu
tố cấu thành của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi đối tượng nghiên cứu: Trong nền sản xuất hiện đại, không chỉ có
người lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất mà cả những người quản lý
sản xuất, những kĩ sư, những nhà khoa học - công nghệ cũng chính là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất. Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn trong phạm vi khảo sát, phân
tích thực trạng người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất
kinh doanh vì lực lượng lao động này chiếm tỷ lệ lớn và cũng phản ánh nét đặc trưng
cơ bản về trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu: nhân tố người lao động ở Việt
Nam từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về lực lượng sản
xuất, về vai trò của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất. Luận
án cũng dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; chính


4

sách, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc phát triển nhân
tốcon người nói chung và phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất
hiện đại. Ngoài ra, luận án cũng kế thừa giá trị của những công trình nghiên cứu trước
đó những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, như phương pháp trừu tượng hóa
khoa học, phương pháp lôgíc - lịch sử... Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... để triển khai các nội dung của luận án.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học của luận án
- Luận án góp phần nghiên cứu sâu thêm, làm phong phú thêm một số vấn đề lý
luận về lực lượng sản xuất. Đặc biệt, luận án làm rõ thêm vai trò của nhân tố người lao
động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo
cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy triết học Mác - Lênin nói riêng và các ngành
khoa học xã hội khác nói chung.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm thực trạng của nhân tố người lao động
trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay; đặc biệt là góp phần làm rõ hơn những
ưu điểm và hạn chế của người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ
sở sản xuất kinh doanh ở nước ta trong thời gian qua.
- Luận án cũng có giá trị tham khảo trong việc hoạch định chính sách về phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và phát triển lực lượng sản xuất ở các tỉnh,
thành trong cả nước nói riêng.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4
chương với 11 tiết.


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Lực lượng sản xuất và nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản
xuất vốn là một trong những vấn đề rất cơ bản của triết học Mác - Lênin. Vì vậy, cho
đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Liên quan đến nội dung của
luận án, tác giả đã tổng quan những tài liệu đó thành ba nhóm chính theo bố cục ba
chương của luận án.

1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI

1.1.1. Những nghiên cứu lý luận về lực lượng sản xuất hiện đại
Trước sự phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất
đã có những bước phát triển đáng kể, theo hướng hiện đại. Vì vậy, gần đây có một số
công trình bàn về lực lượng sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất mới. Trong giới hạn
của vấn đề nghiên cứu, luận án không tổng quan những công trình nghiên cứu về lực
lượng sản xuất nói chung mà chỉ đi sâu tổng quan những công trình nghiên cứu về lực
lượng sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất mới. Dưới góc độ đó, có thể kể đến những
công trình nghiên cứu tiêu biểu là:
Cuốn sách Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức do hai tác giả Vũ Đình
Cự, Trần Xuân Sầm (chủ biên) [17] đã phân tích luận điểm của C.Mác về vai trò của
khoa học đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các tác giả đã khẳng định, trong
thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất không đơn thuần chỉ là sự kết hợp của hai yếu tố
người lao động và tư liệu sản xuất nữa mà sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ để dẫn đến sự ra đời của lực lượng sản xuất mới - lực lượng sản xuất hiện
đại. Nhờ đó, nền kinh tế của thế giới đã có bước chuyển biến quan trọng từ nền kinh tế
công nghiệp thuần túy sang nền kinh tế tri thức.
Trong chương 7: “Những đặc điểm chủ yếu của lực lượng sản xuất mới”, các
tác giả đã chỉ ra 5 biểu hiện chứng tỏ khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp: Một là, số lượng nhân lực khoa học tham gia vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ
ngày càng cao, vượt trội so với số lượng lao động thủ công; hai là, các máy móc, các
dây truyền sản xuất trong các xí nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với các phòng thí


6

nghiệm; ba là,thời gian cho các ứng dụng khoa học đi từ phòng thí nghiệm ra thị
trường ngày càng được rút ngắn; bốn là, các doanh nghiệp, trường đại học và viện
nghiên cứu gắn bó với nhau ngày càng chặt chẽ; năm là, khoa học trong lực lượng sản

xuất mới không chỉ bao hàm khoa học công nghệ mà còn bao hàm cả các ngành khoa
học xã hội. Những đặc điểm trên đã cho thấy sự khác biệt rất lớn của lực lượng sản
xuất mới so với lực lượng sản xuất trước kia. Từ đó, các tác giả khẳng định, tri thức
chính là sức mạnh nòng cốt của lực lượng sản xuất mới:
Vì tri thức có vai trò quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế nên lực lượng sản
xuất mới không chỉ có mặt trong những ngành sản xuất mới xuất hiện mà
nó còn lan tỏa, cải tạo, đổi mới các ngành sản xuất cũ của nền kinh tế. Như
vậy, lực lượng sản xuất mới cuối cùng sẽ thay thế hoàn toàn lực lượng sản
xuất cũ, qua một quá trình phát triển biện chứng, có sử dụng triệt để những
tiền đề mà lực lượng sản xuất cũ tạo ra [17, tr.145-146].
Từ những phân tích chung đó, trong chương 18 với tên gọi: “Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”, các tác giả đã khẳng định
đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của Đảng ta
hiện nay là hoàn toàn đúng đắn, góp phần vào mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu
đó cần thiết phải phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại.
Cuốn sách của các tác giả là một công trình khoa học khá công phu đã cung cấp
những vấn đề lý luận rất quan trọng và mới mẻ về lực lượng sản xuất hiện đại, diện
mạo của lực lượng sản xuất hiện đại, vai trò của lực lượng sản xuất hiện đại đối với sự
phát triển xã hội. Tuy nhiên, cần phân tích thêm những nhận định về khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vấn đề này sẽ được tác giả trình bày trong nội dung
luận án.
Bài viết: “Những đặc điểm của hệ thống công nghệ mới và lực lượng sản xuất
mới tác động quyết định đến quá trình hình thành kinh tế tri thức”, của tác giả Vũ Đình
Cự [16] đã đưa ra những quan niệm về lực lượng sản xuất mới. Theo tác giả, hệ thống
công nghệ mới thực chất chính là hệ thống công nghệ cao được hình thành từ giữa thế
kỷ XX đã có tác động to lớn đến sự biến đổi của lực lượng sản xuất, cho ra đời của lực
lượng sản xuất mới. Tác giả đã đưa ra quan niệm về lực lượng sản xuất mới như sau:



7

Lực lượng sản xuất mới, tức là lực lượng sản xuất hiện đại, dựa trên hệ
thống công nghệ mới được đặc trưng bằng năng suất rất cao, hiệu quả lớn,
ngày càng ít tác hại môi trường và ít gây mất cân bằng sinh thái (“thân” môi
trường), tiêu hao ngày càng ít năng lượng và vật liệu cho một sản phẩm,
đồng thời hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày càng cao” [16, tr.20-21].
Từ quan điểm này, có thể nhận thấy, tác giả đã đồng nhất lực lượng sản xuất
mới với lực lượng sản xuất hiện đại, nội hàm của khái niệm này gắn liền với trình độ
phát triển theo hướng hiện đại của lực lượng sản xuất. Trong quan điểm này, tác giả đã
đưa ra những đặc trưng nổi bật của lực lượng sản xuất mới, dùng để phân biệt với lực
lượng sản xuất cũ có trình độ lạc hậu trước kia. Từ đó, có thể nhận thấy, tác giả đề cao
vai trò của khoa học - công nghệ hiện đại trong việc hình thành nên lực lượng sản xuất
mới. Tác giả còn khẳng định thêm, sự khác nhau giữa lực lượng sản xuất mới dựa trên
hệ thống công nghệ mới so với lực lượng sản xuất của thời kỳ công nghiệp cổ điển là
lực lượng sản xuất cổ điển có các đối tượng chủ yếu là nguyên liệu, vật liệu; trong lực
lượng sản xuất mới, đối tượng lao động ngoài nguyên liệu, vật liệu còn có thông tin,
dữ liệu, tri thức.
Theo tác giả, khi lực lượng sản xuất mới ra đời, nó không chỉ làm thay đổi diện
mạo của một nền kinh tế - xã hội mà còn làm “phát sinh một hệ quả quan trọng”, đó là
toàn cầu hóa kinh tế. Vì lực lượng sản xuất phát triển nên đã tạo ra một lượng hàng
hóa dồi dào không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn hướng ra thị trường quốc
tế:
Toàn cầu hóa kinh tế hình thành do nhiều nguyên nhân khác nhưng nguyên
nhân do lực lượng sản xuất là quyết định. Nếu không có một lực lượng sản
xuất mới đảm bảo một nguồn hàng hóa và dịch vụ vô cùng phong phú, sẵn
sàng đáp ứng nhu cầu của toàn thế giới và một kết cấu hạ tầng thông tin cực
kỳ mạnh mẽ như hiện nay thì chưa thể có toàn cầu hóa kinh tế [16, tr.24].
Theo tác giả Vũ Đình Cự, vì lượng sản xuất mới có hàm lượng tri thức cao nên
việc xuất hiện toàn cầu hóa kinh tế sẽ tất yếu dẫn đến toàn cầu hóa tri thức bởi tri thức

của con người không bị giới hạn bởi những khuôn khổ chật hẹp trong một vùng, một
lãnh thổ, một quốc gia nhất định mà luôn có tính xã hội hóa, tính quốc tế rất cao. Vì
vậy, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay, muốn phát triển lực


8

lượng sản xuất theo hướng hiện đại, muốn gia nhập vào quá trình toàn cầu hóa lực
lượng sản xuất cần chú trọng đến việc phát huy nguồn lao động có tri thức, có trình độ
tay nghề cao.
Như vậy, trong bài viết, tác giả không chỉ đưa ra nội hàm khái niệm lực lượng
sản xuất mới hay lực lượng sản xuất hiện đại mà còn chỉ ra tác động của lực lượng sản
xuất mới đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như với quá trình toàn cầu hóa kinh
tế, toàn cầu hóa lực lượng sản xuất.
Trong bài viết: “Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt trong
việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [72], tác giả Đoàn Công Mẫn trình bày vai
trò to lớn của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của xã hội nói chung và lực
lượng sản xuất nói riêng: “Chính sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất
mới đã từng bước đưa nhân loại tiến vào nền kinh tế tri thức ở mức độ khác nhau,
trong đó động lực chủ yếu làm nên sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của xã hội là
khoa học và công nghệ” [72, tr.29].
Trong phần hai của bài viết, tác giả đã phân tích thực trạng phát triển lực lượng
sản xuất ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay còn
chậm phát triển và không đều, chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những hạn chế đó được thể hiện trên cả ba
phương diện là người lao động, tư liệu sản xuất và việc ứng dụng khoa học - công
nghệ, trong đó quan trọng nhất là những hạn chế về khoa học - công nghệ. Bởi vậy, để
tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ nhằm thúc đẩy lực lượng sản
xuất lên trình độ hiện đại, cần có một giải pháp đồng bộ, toàn diện và phù hợp với thực
tiễn sản xuất. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra bảy giải pháp để phát triển khoa học và

công nghệ nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam. Những giải pháp
đó có tính khá toàn diện và có tính khả thi.
Đáng chú ý là trong những công trình viết về vai trò của khoa học - công nghệ
trong sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại có nhiều bài viết bàn về luận điểm:
Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác. Điển hình là các tác giả
Trần Đắc Hiến với “Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của
C.Mác và sự vận dụng ở nước ta hiện nay” [41]; Nguyễn Cảnh Hồ với “Có phải khoa
học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [42]; Lê Huy Thực với “Về luận điểm


9

“Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [93]. Trong ba bài viết này, các tác
giả đã phân tích quan điểm của C.Mác về vai trò của khoa học đối với sự phát triển lực
lượng sản xuất, những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Từ
đó, các tác giả phân tích quan điểm của Đảng ta về việc phát triển khoa học - công nghệ
phục vụ sự phát triển lực lượng sản xuất đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát
triển khoa học - công nghệ ở nước ta. Những bài viết này gợi mở một số nội dung để tác
giả luận án phân tích sâu hơn về vai trò của khoa học trong phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại.
Ngoài những quan điểm về lực lượng sản xuất mới, lực lượng sản xuất hiện đại,
theo một số nhà khoa học, cũng cần có những quan niệm mới về lực lượng sản xuất để
bắt nhịp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay. Trong bài
viết: “Quan niệm mới về phát triển lực lượng sản xuất”[ 90], tác giả Lý Hân (Trung
Quốc) đưa ra những quan điểm đáng chú ý về phát triển lực lượng sản xuất. Trước hết,
tác giả đã phê phán những quan điểm cũ về lực lượng sản xuất: “Sách giáo khoa cũ ở
Trung Quốc định nghĩa lực lượng sản xuất là khả năng của con người chinh phục và
cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất” [90, tr.9]. Đây không chỉ là quan điểm của
riêng Trung Quốc mà cũng chính là quan điểm của Việt Nam trước kia về lực lượng
sản xuất. Theo tác giả, trong quá trình sản xuất vật chất, con người không chỉ chinh

phục tự nhiên mà còn phải thích nghi với giới tự nhiên nên khi đề cập đến phạm trù
lực lượng sản xuất mà chỉ nhấn mạnh đến hoạt động chinh phục, xem nhẹ hoạt động
thích nghi là phiến diện. Tác giả nhấn mạnh thêm: “Quan niệm như vậy không chỉ hạn
chế nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất mà còn khó dung nạp với sự phát triển
bền vững, phát triển liên tục” [90, tr.10]. Hệ quả của quan điểm này theo tác giả là
“con người tìm mọi cách chinh phục, khai thác sao cho được nhiều nhất của cải từ
thiên nhiên, bất chấp mọi hậu quả” [90, tr.10].
Từ sự phê phán đó, theo tác giả, cần có những thay đổi trong quan niệm về phát
triển lực lượng sản xuất. Tác giả cho rằng, nếu con người biết chung sống hòa bình với
giới tự nhiên, con người sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ nó, sẽ có những hiểu biết sâu
sắc hơn về giới tự nhiên. Do đó, khả năng chung sống hòa bình với thiên nhiên là một
phương diện có ý nghĩa rất quan trọng trong quan niệm về lực lượng sản xuất. Trên cơ
sở đó, tác giả đã đưa ra quan niệm mới về lực lượng sản xuất: “Thuật ngữ “lực lượng


10

sản xuất” là khái niệm thể hiện không chỉ hoạt động đấu tranh mà còn thể hiện sự kết
hợp hài hòa giữa con người và giới tự nhiên” [90, tr.9].
Tác giả đã chỉ ra trong lịch sử loài người đã và đang trải qua ba giai đoạn phát
triển của lực lượng sản xuất. Giai đoạn 1: Lực lượng sản xuất phát triển một cách tự
phát. Đây là giai đoạn mà kinh nghiệm sản xuất trực tiếp của người lao động sinh ra kỹ
thuật. Nó xảy ra trước cách mạng công nghiệp. Giai đoạn 2: Lực lượng sản xuất phát
triển bằng mọi giá. Đây là giai đoạn sau cách mạng công nghiệp, con người đã tận
dụng những thành quả của khoa học và kỹ thuật để khai thác ngày càng nhiều tự nhiên
nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Giai đoạn 3: Lực lượng sản xuất phát triển một cách
có chọn lọc. Do mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng xung khắc, biểu
hiện qua những thiên tai, lũ lụt nên con người từng bước điều chỉnh hoạt động sản xuất
vật chất của mình, chuyển hướng sang phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn
lọc, tránh làm tổn hại đến tự nhiên. Theo tác giả, đây là giai đoạn mà loài người đã và

đang hướng tới.
Như vậy, có thể nói, quan điểm của tác giả Lý Hân có những cách nhìn mới đối
với mở rộng nội hàm khái niệm lực lượng sản xuất, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Sự
phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ cùng với những yêu cầu, đòi hỏi của
sự phát triển bền vững, việc mở rộng nội hàm khái niệm “lực lượng sản xuất” là cần
thiết. Đó là cách mà chúng ta bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác bằng
những thực tiễn lịch sử sinh động mà thời đại của các ông chưa đặt ra hoặc chưa trở
thành những vấn đề cấp bách, mang tính toàn cầu.
1.1.2. Những nghiên cứu lý luận liên quan đến nhân tố người lao động
trong lực lượng sản xuất hiện đại
Nguồn nhân lực hay nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề nhận được nhiều
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề người lao động trong lực
lượng sản xuất hiện đại cũng chưa được nhiều người bàn đến. Có thể kể đến một số
công trình nghiên cứu sau:
Trong cuốn sách: Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay [20], tác giả Hồ Anh Dũng đã bàn đến một số nội dung cơ bản của khái
niệm lực lượng sản xuất qua việc khảo cứu những quan điểm của triết học Mác - Lênin về
lực lượng sản xuất qua những tác phẩm kinh điển như: Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng


11

của triết học, Tư bản… Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích các yếu tố cấu thành của
lực lượng sản xuất, đặc biệt là người lao động - yếu tố quyết định lực lượng sản xuất. Tác
giả đã phân tích vai trò của yếu tố con người trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại. Tác giả khẳng định:
Khoa học là của con người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con người
và phải thông qua hoạt động của con người được định hình thành những phẩm
chất và năng lực trong người lao động, mới trở thành lực lượng sản xuất. Khoa
học cũng phải thông qua hoạt động của con người mới có thể được vật chất

hóa thành các phương tiện kỹ thuật và công nghệ. Kỹ thuật, công nghệ hiện đại
với tư cách là phần vật chất trong thành phần của lực lượng sản xuất dù năng
động và cách mạng đến mấy chẳng qua cũng chỉ là sản phẩm của bàn tay và
khối óc của con người và phải chịu sự điều khiển giám sát của con người [20,
tr.50].
Nhận định trên đã cho thấy vai trò to lớn của con người trong bối cảnh hiện nay.
Điều đó cũng cho thấy, khoa học muốn trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp phải thông
qua hoạt động của con người.
Trong cuốn sách: Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất
ở Việt Nam hiện nay [76], tác giả Phạm Công Nhất cũng đã trình bày những vấn đề cơ bản
về vai trò của nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Trong
chương 1, tác giả đã đưa ra khái niệm nhân tố con người:
Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố có liên quan đến con người, là sự
thống nhất biện chứng giữa các mặt chủ quan và khách quan để tạo nên năng
lực, phẩm chất và trí tuệ của con người được hình thành và phát huy tác dụng
vào trong thực tiễn sản xuất vật chất hay quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi cộng đồng, quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định” [76,
tr.25].
Từ khái niệm đó, tác giả đã chỉ ra bốn đặc điểm cơ bản của nhân tố con người
trong lực lượng sản xuất. Đứng trên lập trường mácxít, tác giả tiếp tục khẳng định vai trò
quyết định của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo tác giả, để thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, kể cả lực lượng sản xuất hiện đại thì yếu tố có
tính quyết định không phải là tư liệu sản xuất, cũng không phải là khoa học - kỹ thuật mà


12

chính là yếu tố con người. Trong thời đại ngày nay, nói đến nhân tố con người trong phát
triển sản xuất là nói tới những người công nhân, những người lao động. Ngoài ra, tác giả
còn phân tích những yếu tố tác động đến việc phát huy nhân tố con người trong lực lượng

sản xuất ở nước ta hiện nay như: tính chất và trạng thái của thể chế chính trị; tính chất và
trạng thái của nền kinh tế; trình độ phát triển dân trí; trình độ xã hội hóa, dân chủ hóa về
thông tin.
Trong bài viết “Xem xét nhân tố người lao động trong cấu trúc của lực lượng
sản xuất” [53], tác giả Trương Giang Long nhận định:
Nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất được hiểu như là bộ phận
năng động và sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhờ có nó mà công cụ
và phương tiện sản xuất ngày càng được đổi mới, sản xuất phát triển với
năng suất và chất lượng cao, đời sống tinh thần và bộ mặt của xã hội có
nhiều tiến bộ [56, tr.27].
Từ đó, tác giả đã chỉ ra những phẩm chất cần có của con người trong lực lượng
sản xuất. Đó là những con người “phát triển cao về trí tuệ, khỏe mạnh về thể chất, giàu
có về tinh thần, trong sáng về đạo đức” [56, tr.28]. Nhận định này của tác giả cũng có
giá trị tham khảo nhất định đối với tác giả luận án khi phân tích những phẩm chất cần
có của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.
Trong bài viết “Kinh tế tri thức - xét từ giác độ lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất” [80], tác giả Phạm Ngọc Quang cũng khẳng định sự phát triển của khoa học, công
nghệ hiện đại đã làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của quá trình sản xuất, “năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng
được nâng cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản xuất và
được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng” [80, tr.22]. Cũng theo tác giả, nhờ tác động của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, người lao động không chỉ là những người hoạt
động sản xuất trực tiếp mà còn bao gồm một bộ phận ngày càng tăng lên những người
trực tiếp quản lý quá trình sản xuất và những kỹ sư, những nhà công nghệ... Nhận định
này đã phản ánh đúng xu thế phát triển của đội ngũ những người lao động trong nền sản
xuất hiện đại.
Từ việc phân tích xu thế tất yếu của nền kinh tế tri thức, tác giả đã chỉ ra ba xu
hướng biến đổi của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức. Đó là: lao động cơ bắp



13

từng bước được thay thế bằng lao động trí tuệ nhưng lao động cơ bắp không mất đi; yếu
tố trí tuệ quan trọng hơn yếu tố vật liệu tự nhiên trong lao động sản xuất; lao động quản lý
dần chiếm ưu thế so với lao động sản xuất trực tiếp. Từ ba xu thế trên, có thể nhận thấy,
trong nền sản xuất hiện đại, yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao động giữ vai trò và vị trí
chi phối. Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản của nền kinh tế tri thức so với những
nền kinh tế trước đó trong lịch sử. Vì vậy, lực lượng sản xuất hiện đại và kinh tế tri thức
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với
vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay (Qua thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long [37], tác giả Trần Thanh Đức cũng bàn
về nhân tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo tác giả:
Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất không chỉ là bộ phận cấu thành
mà còn giữ vai trò trung tâm trong lực lượng sản xuất. Chính mặt hoạt động
của nhân tố con người tạo ra phương thức kết hợp tốt nhất giữa các yếu tố cấu
thành của lực lượng sản xuất, qua đó, nó giữ vai trò quyết định đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất [37, tr.46].
Như vậy, tác giả đã khẳng định vai trò quyết định của nhân tố con người trong
phát triển lực lượng sản xuất. Trong luận án, tác giả đã đi sâu phân tích sự tác động của
nhân tố con người với những yếu tố cấu thành khác của lực lượng sản xuất như nhân tố
con người với tư liệu sản xuất, nhân tố con người với cách mạng khoa học - công nghệ.
Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra những yêu cầu đào tạo người lao động Việt Nam nhằm phát
triển nhân tố con người trong lực lượng sản xuất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Những yêu cầu cơ bản đó là: Người lao động cần phải có kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp cao và tư duy mới - tư duy sáng tạo và biện chứng; người lao động phải có
tính tự chủ và sáng tạo; người lao động phải có khả năng thích nghi; người lao động phải
có văn hóa, có những giá trị nhân bản, nhân đạo, nhân văn; người lao động phải có thể lực
tốt . Đây chính là những yêu cầu khá toàn diện và cần thiết của người lao động để đáp ứng
nhu cầu của phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Vấn đề này cũng được luận án kế thừa và làm rõ hơn khi
phân tích những yêu cầu của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại nói chung và phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam nói riêng.


14

Gần đây, trong bài viết: “Về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác” [88],
thông qua việc tranh luận với tác giả Nguyễn Chí Dũng một số nội dung trong bài viết
“Học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội dưới ánh sáng thời đại ngày nay”
(Tạp chí Khoa học xã hội, số 2 (87), năm 2015), tác giả Dương Văn Thịnh cũng đã trình
bày quan điểm của mình về vai trò, vị trí của nhân tố người lao động trong lực lượng sản
xuất. Theo tác giả Dương Văn Thịnh, quan điểm của tác giả Nguyễn Chí Dũng khi cho
rằng phân tích sâu sắc những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, C.Mác chỉ ra rằng,
chất của công cụ sản xuất là cái quan trọng nhất quy định chất của quan hệ sản xuất. Với ý
nghĩa đó nó càng là cái quan trọng nhất, quy định chất của phương thức sản xuất hay chất
của một hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử là chưa phản ánh đúng thực chất tính khoa
học trong học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội. Nếu quan niệm như vậy, tác
giả Nguyễn Chí Dũng không nhắc gì đến yếu tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo
tác giả Dương Văn Thịnh, đây là một quan điểm “duy kỹ thuật” vì nó tìm nguyên nhân
cuối cùng của sự thay đổi xã hội ở sự thay đổi của công cụ sản xuất. Điều này trái với
quan điểm của C.Mác. Mặc dù không phủ nhận vai trò to lớn của công cụ sản xuất, rộng
hơn là tư liệu sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời đại kinh tế
khác nhau nhưng tác giả Dương Văn Thịnh vẫn khẳng định con người mới chính là nhân
tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất:
Không phải công cụ sản xuất quyết định tính năng động của lực lượng sản
xuất, mà chính hoạt động sản xuất vật chất của con người là nhân tố quyết
định. Công cụ sản xuất muốn trở thành một sức hoạt động thì phải có con
người, hơn nữa công cụ sản xuất không phải tự nhiên sinh ra được mà nó cũng
do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong những quan

hệ xã hội nhất định. Cho nên cái quyết định trình độ của lực lượng sản xuất
không phải là chất của công cụ sản xuất mà phải là sự tổng hợp của nhiều yếu
tố, trong đó trình độ phát triển của con người là quyết định nhất [91, tr.40].
Quan điểm này cùng những tranh luận của tác giả Dương Văn Thịnh với tác giả
Nguyễn Chí Dũng trong bài viết trên đã giúp tác giả luận án hiểu rõ hơn về tính khoa học
trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác khi bàn đến vai trò của nhân tố
người lao động trong lực lượng sản xuất.


15

Từ việc tổng quan những công trình nghiên cứu trên cho thấy, có khá nhiều công
trình nghiên cứu bàn đến lực lượng sản xuất nói chung, lực lượng sản xuất hiện đại nói
riêng và nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại. Những công trình đó
đã cung cấp cho tác giả luận án những ý nghĩa nhất định trong việc phân tích những vấn
đề lý luận về lực lượng sản xuất hiện đại và nhân tố người lao động trong phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngoài những công trình nghiên cứu về lực lượng sản xuất hiện đại, còn có những
công trình nghiên cứu đi sâu phân tích thực trạng của nhân tố người lao động trong phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay được luận án chọn để tổng quan. Đó là
những công trình tiêu biểu sau:
Trong cuốn sách Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay [20], tác giả Hồ Anh Dũng đã dành hầu hết chương 2 để phân tích những
ưu thế, hạn chế, và xu hướng phát triển của con người lao động Việt Nam. Theo tác giả,
ưu điểm nổi bật của con người lao động Việt Nam là có số lượng đông đảo, chủ yếu là lao
động trẻ; có đức tính cần cù, chăm chỉ, có khả năng thích ứng nhanh chóng với sự biến
đổi của cơ chế thị trường; trình độ của người lao động đang ngày một tăng lên. Tuy nhiên,

theo tác giả, người lao động còn có rất nhiều hạn chế như thể lực của người Việt Nam
đang bị thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là ở nông thôn; hơn nữa, do ảnh hưởng của tập quán,
lối sống nông nghiệp nên người lao động Việt Nam phần lớn đều có cách làm ăn manh
mún, tản mạn, sống theo “lệ” nhiều hơn theo “luật”, có nhiều khuynh hướng bảo thủ, bài
ngoại nên hạn chế nhiều đến sự tiếp thu những thành tựu phát triển khoa học, công nghệ,
thường có lối sống an phận, chủ nghĩa bình quân, có tính ỷ lại... Những nhận định của tác
giả dựa trên sự phân tích cơ sở kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử của những hạn chế trên của
người lao động Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng khẳng định, một trong những hạn
chế chủ yếu của người lao động Việt Nam là “không chỉ thiếu đội ngũ công nhân lành
nghề mà còn thiếu cả đội ngũ chuyên gia kỹ thuật và cán bộ quản lý giỏi… Đội ngũ cán
bộ quản lý của chúng ta hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu” [20, tr.87]. Theo tác giả, những
yếu kém đó cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng làm ăn sa sút,
thậm chí phá sản của một số xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã của nước ta trong thời gian


16

qua. Từ đó, tác giả khẳng định, muốn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại thì người lao
động Việt Nam cần phải có sự phát triển hài hòa cả về thể lực và trí lực, có sự kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại.
Trong chương 2 của cuốn sách: Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay [76], tác giả Phạm Công Nhất đã đánh giá những
thành tựu và hạn chế của việc phát huy nhân tố con người ở nước ta. Những thành tựu đó
là: Nhận thức của Đảng về phát huy vai trò của nhân tố con người ngày càng rõ nét, phù
hợp với yêu cầu của thời cuộc; nền kinh tế - xã hội có những bước tăng trưởng mới nên
con người ngày càng có điều kiện phát triển cả về thể chất và tinh thần; bản thân các tầng
lớp, giai cấp nhân dân lao động cũng có nhiều bước trưởng thành cả về kinh nghiệm, trình
độ, kỹ năng trong lao động sản xuất… Đặc biệt, tác giả cũng đưa ra những đánh giá về
việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta cả về số lượng cũng như chất lượng.
Về số lượng, nguồn lao động nước ta tăng lên theo các năm. Tác giả khẳng định, đây là

một lợi thế lớn về khả năng cung ứng nguồn nhân lực trong phát triển lực lượng sản xuất
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, dân số đông
trong điều kiện ở một quốc gia còn nghèo như nước ta cũng tạo ra những sức ép không
nhỏ về công ăn việc làm. Ngoài ra, theo tác giả, việc phân bố lao động ở nước ta chưa hợp
lý vì lao động ở khu vực nông thôn vẫn chiếm tỉ lệ lớn. Điều này cho thấy cơ cấu lao động
hiện nay của nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về chất lượng nguồn nhân lực, tác giả đánh giá cao vai trò của
giáo dục và đào tạo trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ở Việt Nam, “những
thành tựu đạt được trong quá trình giáo dục, đào tạo đã nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn kỹ thuật nguồn nhân lực. Đó là lực lượng có khả năng tiếp thu nhanh khoa học công nghệ hiện đại, có trình độ và kỹ năng khéo léo để sử dụng trang thiết bị kỹ thuật tiên
tiến” [76, tr.127]. Tuy nhiên, cũng theo tác giả Phạm Công Nhất, chất lượng của nguồn
nhân lực nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động phát triển, đặc biệt
tại các vùng kinh tế trọng điểm và các khu độ thị tập trung, thiếu nhiều lao động có tay
nghề, có chuyên môn giỏi, việc đào tạo nghề của người lao động còn nhiều bất cập. Từ
đó, tác giả phân tích những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó và những vấn đề đặt
ra với việc phát triển nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay. Có thể nói, ở chương 2, tác
giả đã cung cấp một bức tranh khá toàn cảnh về thực trạng của việc phát huy nhân tố con


17

người ở Việt Nam. Theo tác giả, đó là một việc làm cần thiết vì “cho phép chúng ta có
thêm cơ sở khoa học để có thể đề ra những phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm
phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong việc tiếp tục phát triển lực lượng sản xuất
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian tới” [76, tr.181].
Trong đề tài khoa học cấp Bộ: “Một số định hướng chuẩn bị nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ
XXI” [88], các tác giả cũng đã chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của nguồn nhân lực Việt
Nam. So với các nước trên thế giới, Việt Nam có nguồn nhân lực trẻ. Điều đó tạo ra
những ưu thế về sức khỏe, trình độ văn hóa, khả năng tiếp thu nhanh những kiến thức

mới, có tính cơ động cao. Tuy nhiên, do ít được đào tạo nghề nên nhiều ưu thế của người
lao động Việt Nam chưa được phát huy. Các tác giả đã phân tích rõ những hạn chế về thể
lực của người lao động Việt Nam cả về chiều cao, cân nặng, chế độ dinh dưỡng, công tác
y tế, chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Các tác giả cũng nhấn mạnh đến những hạn
chế về trình độ của người lao động, không chỉ có trình độ tay nghề mà cả trình độ ngoại
ngữ, tin học . Ngoài ra, các tác giả cũng đã chỉ ra những bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo
nghề cho người lao động ở Việt Nam hiện nay, trong việc phân bố lao động đã qua đào
tạo giữa các ngành nghề, các vùng miền trên cả nước. Đề tài khẳng định, sự mất cân đối
trong cơ cấu trình độ, cơ cấu sử dụng phân bố nguồn nhân lực giữa các ngành, giữa các
vùng với chất lượng đào tạo thấp dấn đến nguồn nhân lực đã qua đào tạo chuyên môn kỹ
thuật, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đã ít về số lượng, kém về chất lượng lại
được sử dụng thiếu hiệu quả, chưa thể đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.
Trong bài viết “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức” [86], tác giả Nguyễn Văn
Sơn cũng phân tích thực trạng của nguồn nhân lực nước ta. Mặc dù đó là thực trạng của
nguồn nhân lực nói chung nhưng về cơ bản, đó cũng là thực trạng của nhân tố người lao
động trong lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, nguồn nhân lực nước ta
có ưu điểm là dồi dào, tăng lên theo các năm. Đây là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát
triển sản xuất. Người Việt Nam được đánh giá là có tư chất thông minh, nhanh nhẹn, nhạy
bén trong tiếp thu và tiếp cận tri thức. Đây chính là những điểm nổi trội của nguồn nhân
lực nước ta. Tuy nhiên, theo tác giả, nguồn nhân lực nước ta còn nhiều hạn chế về thể lực


18

do “mức dinh dưỡng cho người Việt Nam còn ở mức độ thấp, đặc biệt là trẻ em, nguồn
cung cấp nhân lực chính cho xã hội. Sự hạn chế về thể lực ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng tiếp thu tri thức và trí thông minh của trẻ” [86, tr.63]. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra
bảng so sánh đánh giá chất lượng nguồn nhân lực nước ta so với một số nước châu Á như

Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan… nhằm chỉ ra những hạn chế về trí lực của nguồn nhân
lực Việt Nam. Những đánh giá của tác giả có giá trị tham khảo nhất định đối với việc
đánh giá chất lượng nguồn lao động của Việt Nam.
Ngoài những công trình nghiên cứu viết về thực trạng của nguồn nhân lực nói
chung còn có một số bài viết bàn về thực trạng của nguồn nhân lực trong những ngành cụ
thể. Trong bài viết “Những khó khăn trong hoạt động đào tạo nghề cho công nhân kỹ
thuật tại doanh nghiệp” [3], tác giả Nguyễn Vân Thùy Anh đã chỉ ra một thực tế phổ biến
trong các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta hiện nay là hầu hết công nhân không có trình
độ cơ bản, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn về nguồn cung công nhân kỹ
thuật từ lực lượng học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề. Do hệ thống giáo
trình và máy móc thiết bị phục vụ thực hành lạc hậu nên một bộ phận học sinh
các trường dạy nghề có tay nghề yếu, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất,
đặc biệt là trong những ngành công nghệ cao, sản phẩm thay đổi nhanh chóng
[3, tr.9].
Nhận định trên không những chỉ ra hạn chế của nguồn lao động công nhân trong
các doanh nghiệp ở nước ta mà cho thấy nguyên nhân của những hạn chế trên là do công
tác đào tạo nghề trong các trường dạy nghề còn nhiều bất cập. Vì vậy, tác giả cho rằng ở
nhiều doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay, khi tuyển dụng công nhân, họ không phân
biệt lao động phổ thông hay lao động đã được đào tạo vì sau đó họ đều phải tiến hành tự
đào tạo theo yêu cầu công việc của mình. Đây cũng là một thực tiễn cho thấy công tác đào
tạo nghề cho lao động ở nước ta chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Ngoài những công trình nghiên cứu bàn về nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp
còn có bài viết bàn về thực trạng của nguồn nhân lực trình độ Đại học ở Việt Nam hiện
nay. Trong bài viết “Nguồn nhân lực trình độ Đại học ở Việt Nam - Thực trạng và một số
kiến nghị” [73], tác giả Phạm Văn Nam đã chỉ ra những bất cập về cơ cấu nhân lực trình
độ Đại học trong nhóm cơ cấu nhân lực có trình độ chuyên môn ở nước ta hiện nay bởi


19


“nếu như cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động khu vực châu Á hiện nay là
“1 đại học/4 cao đẳng/10 trung cấp thì tỷ lệ này của Việt Nam thời điểm năm 2010 là: 5,7
đại học/1,7 cao đẳng/3,5 trung cấp” [73, tr.17]. Theo tác giả, đây là một nguyên nhân dẫn
đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, trình độ nguồn nhân lực
đã qua đào tạo Đại học ở nước ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đúng nhu cầu của xã
hội. Điều đó phản ánh qua số lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường không có việc làm hoặc
không được làm việc theo đúng chuyên ngành đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Những sinh
viên ra trường có việc làm phần lớn cũng phải trải qua quá trình đào tạo lại.
Trong Luận án Tiến sĩ Triết học năm 2002: Nhân tố con người trong lực lượng
sản xuất với vấn đề đào người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam hiện nay (Qua thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long) [37], tác giả Trần Thanh
Đức cũng đã phân tích thực trạng của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất ở nước
ta và vấn đề đào tạo người lao động. Trước hết, tác giả chỉ ra ưu thế nổi bật của Việt Nam
là có một nguồn lao động dồi dào với tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo, có khả
năng vận dụng linh hoạt và thích ứng nhanh với những biến đổi của hoàn cảnh. Tác giả
cũng khẳng định:
Không phải việc tăng trực tiếp các điều kiện lao động vật chất truyền thống là
cơ sở của bước tiến bộ của nền sản xuất vật chất mà là sự phát triển của chính
nhân tố con người thông qua giáo dục - đào tạo để từ đây việc thực hiện sự cải
tạo và hoàn thiện các nhân tố sản xuất, các hoạt động của con người mới có tác
dụng thúc đẩy ở mức độ lớn nhất đối với sự phát triển của nền sản xuất [37,
tr.96].
Theo tác giả, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hạn chế đó là do
những bất cập trong công tác đào tạo người lao động cả về nội dung, phương pháp, sự mất
cân đối trong đào tạo giữa các ngành nghề, các cấp bậc, phân bố cơ sở đào tạo… Tác giả
khẳng định, những bất cập của nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất đang
là một trong những thách thức của nước ta trong việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Đây là một thách thức lớn nhất của Việt Nam bởi vì
thiếu vốn chúng ta có thể đi vay, thiếu công nghệ chúng ta có thể nhập, nhưng nếu thiếu

người lao động có tri thức, có tay nghề cao thì chúng ta không thể thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [37, tr.110]. Đây là một nhận định thỏa


×