Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT - CÁCH MẠNG KHOA học và CÔNG NGHỆ đối với sự PHÁT TRIỂN lực LƯỢNG sản XUẤT HIỆN đại dưới góc NHÌN TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.34 KB, 20 trang )

Khoa học - công nghệ là một trong những vấn đề được nhân loại quan
tâm nhất hiện nay. Có thể nói, sự ra đời và phát triển của khoa học là thành quả
vĩ đại của trí tuệ con người. Khoa học đă và đang giữ một vai trò đặc biệt quan
trọng trong quá tŕnh hoạt động của con người và vai tṛ đó ngày càng được khẳng
định trong tiến tŕnh phát triển của nhân loại.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại nhất là trong giai đoạn phát
triển mới của nă - giai đoạn cách mạng công nghệ, có tác động hết sức sâu sắc
đến mọi lĩnh vực hoạt động của xă hội loài người, buộc mọi người phải đổi mới
cách suy nghĩ, cách giải quyết những vấn đề cơ bản nhất đang được đặt ra. Bước
sang thế kỉ XXI, cuộc cách mạng khoa hoc - công nghệ hiện đại tiếp tục phát
triển với nhịp độ ngày càng nhanh, tạo ra những thành tựu mang tính đột phá,
khó dự báo trước, làm thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ toàn bộ các lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh và đời sống xă hội loài người. Nền kinh tế công nghiệp trên thế
giới đang chuyển nhanh sang kinh tế tri thức. Sức mạnh của một quốc gia tuỳ
thuộc chủ yếu vào năng lực khoa học và công nghê. Những quốc gia chậm phát
triển muốn đuổi kịp các nước đi trước phải nhanh chóng nâng cao năng lực khoa
học, nắm bắt và làm chủ các tri thức mới để rút ngắn quá tŕnh công nghiệp hoá,
đi tắt vào kinh tế tri thức.
Hơn bao giờ hết, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của khoa học- công
nghệ để tìm ra những quy luật cũng như tính tất yếu của sự phát triển khoa học công nghệ đang là một vấn đề cấp thiết có tính thời đại đối với mỗi quốc gia
nhằm phát huy tiềm năng đất nước, thúc đẩy kinh tế - xă hội phát triển.
1. Cơ sở lí luận của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
1.1. Các khái niệm cơ bản
* Khái niệm về khoa học


Khoa học là mét hệ thống các tri thức được khái quát từ thực tiễn và được
kiểm nghiệm bởi thực tiễn, phản ánh dưới dạng lôgic tŕu tượng những thuộc tính
kết cấu, những mối liên hệ bản chất, những quy luật tự nhiên.
Nhìn lại lịch sử phát triển của xă hội loài người, ta thấy trong quá trình hoạt
động lao động của mình, con người không ngừng nhận thức và cải tạo thế giới.


Trong đó, khoa học luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy
tiến trình phát triển tiếp theo của xă hội loài người. Đây là một vấn đề được cả
xă hội quan tâm và đặc biệt là trong thời kì bùng nổ khoa học - công nghệ hiện
nay.
Khái niệm về công nghệ
Công nghệ là một tập hợp hiểu biết hướng vào cải tạo tự nhiên, phục vụ cho
nhu cầu của con người. Các công nghệ trong sản xuất là một tập hợp các
phương pháp, các quy tắc, các kỹ năng được sử dụng để tác động vào đối tượng
lao động nhằm tạo ra một dạng sản phẩm nào đó. Sự tác động ấy thường xuyên
phải thông qua các phương tiện vật chất (máy móc, trang thiết bị, công cụ).
Như vậy có thể thấy khoa học và công nghệ có mối quan hệ mật thiết với
nhau, bổ sung cho nhau và làm tiền đề cho nhau cùng phát triển.
Khái niệm về cách mạng công nghệ
Cách mạng công nghệ là khái niệm chỉ giai đoạn phát triển trọng yếu có
tính chất nhảy vọt của hệ thống kỹ thuật của nhân loại, được biểu hiện bằng
những thay đổi về chất của hệ thống các phương pháp, phương tiện... được con
người sáng tạo, sử dụng trong trinh phục thế giới khách quan.
Khái niệm về cách mạng khoa học
Cách mạng khoa học là một giai đoạn phát triển về chất, được biểu hiện ở
quy mô, nhịp độ, trình độ phát triển của khoa học, trước hết là những biến đổi
cách mạng trong phương pháp tư duy khoa học.
Khái niệm về cách mạng khoa học và công nghệ.


Đă có rất nhiều quan điểm về cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
nhưng cho đến nay chưa có một khái niệm nào thực sự hoàn chỉnh và đầy đủ về
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Tổng kết các khái niệm trước đây và
vận dụng tình hình thực tiễn hiện nay có thể đưa ra khái niệm về cách mạng
khoa học công nghệ như sau: Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là sự
thay đổi căn bản trong bản thân các lĩnh vực khoa học - công nghệ cũng như mối

quan hệ và chức năng xă hội của chúng, khiến cho cơ cấu và động thái phát triển
của các lực lượng sản xuất cũng bị thay đổi hoàn toàn. Trong đó quan hệ nhất là
việc nổi lên vai trò hàng đầu của yếu tố con người trong hệ thống lực lượng sản
xuất dựa trên việc vận dụng đồng bộ các ngành công nghệ mới có hàm lượng
khoa học - công nghệ cao (gọi tắt là hi - tech) như công nghệ thông tin, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học...
Có thể định nghĩa cách mạng khoa học công nghệ một cách khái
quát nhất như sau: cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự biến đổi tận
gốc lực lượng sản xuất của xă hội hiện đại, được thực hiện với vai tṛ dẫn đường
của khoa học trong toàn bộ chu trình: khoa học - công nghệ - sản xuất - con
người - môi trường.
1.2. Nội dung và đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiên nay
Cho đến nay, thế giới đă trải qua hai lần cách mạng về khoa học và công
nghệ.
Lần thứ nhất với tên gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra vào cuối thế kỉ
XVIII, được thực hiện đầu tiên ở Anh mà nội dung chủ yếu là thay thế lao động
thủ công bằng lao động cơ khí hoá.
Lần thứ hai với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
được bắt đầu từ giữa thế kỉ XX mà nội dung của nó không chỉ dừng lại ở tính
chất hiện đại của các yếu tố tư liệu sản xuất, mà c̣n ở kỹ thuật công nghệ hiện
đại, phương pháp sản xuất tiên tiến...


Hiện nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ có nhiều nội dung phong
phó, trong đó có thể chỉ ra một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, cách mạng về phương thức sản xuất: đó là tự động hoá, sự thay thế
phần lớn và hầu hết chức năng của con người (cả lao động chân tay lẫn trí óc)
bằng các thiết bị máy móc tự động hoá hoàn toàn trong quá tŕnh sản xuất nhất
định. Ngoài phạm vi tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm

cả việc sử dụng rộng răi người máy thay thế con người điều khiển quá tŕnh vận
hành sản xuất. Có thể nói đây là một trong những điểm khác biệt căn bản của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với những cuộc cách mạng kỹ
thuật trước đây.
Hai là, cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền thống
mà con người đă sử dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện, thì ngày nay con
người ngày càng khám phá ra nhiều dạng năng lượng mới và sử dụng chúng
rộng răi trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời. Đặc
biệt, năng lượng mặt trời là một dạng năng lượng “sạch” và vô tận mà hiện nay
con người đang từng bước tận dụng khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả.
Ba là, cách mạng về vật liệu mới: ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu
tư nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có
hiệu quả cho các vật liệu tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng
ngày càng cạn kiệt. Đây là những chất có thành phần cấu tạo hay cấu trúc vi mô
mới, có những tính chất tiên tiến ưu việt hoặc chất lượng cao. Đặc biệt là vật
liệu pôlime, vật liệu gốm, vật liệu coposit, vật liệu siêu dẫn, thép siêu dẻo, vật
liệu có cấu trúc nano...
Bốn là, cách mạng về công nghệ sinh học: các thành tựu của cuộc cách
mạng này đang được áp dụng rộng răi và đă tạo ra được những bước ngoặt trong
trong sự phát triển của một số lĩnh vực như: công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá
chất, bảo vệ môi trường sinh thái,...
Năm là, cách mạng về điện tử và tin học: đây là một lĩnh vực mà hiện nay
loài người đang đặc biệt quan tâm, trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện


tử. Cuộc cách mạng về điện tử và tin học này đă mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên số hoá có tính bước ngoặt trong tư duy, nhận thức và hoạt động của xă
hội loài người.
Sáu là, cách mạng về công nghệ điều khiển tự động: ngày càng được áp
dụng rộng răi trong sản xuất. Các công nghệ ứng dụng vi điện tử - tin học được

sử dụng rộng răi trong việc chế tạo ra rôbôt, thiết bị tự động và điều khiển sản
xuất tự động bằng máy tính...
Bảy là, cách mạng về hàng không vũ trụ: loài người ngày càng thấy hành
tinh của mình là chật hẹp, do đó ngày càng muốn vươn ra xa trong khoảng
không vũ trụ bao la để tìm hiểu, nghiên cứu, chinh phục và sử dụng khoảng
không đó.
Như vậy, khái niệm công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó
không chỉ là các phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà c̣n là các bí
quyết biến các nguồn lực sẵn có thành sản phẩm. Với ư nghĩa đó, khi nói tới
công nghệ th́ sẽ cũng bao hàm cả kỹ thuật. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay,
khoa học và công nghệ luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: khoa học là tiền đề
trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học.

1.3. Mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất và
vấn đề khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
* Mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và sản xuất
Bằng quá trình phát triển của nhận thức khoa học, con người đă vẽ lên bức
tranh về thế giới hiện thực. Chính sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ, luôn vận
động, biến đổi không ngừng của thế giới tự nhiên và thực tiễn xă hội đă tạo nên
nguồn cảm hứng nhận thức vô tận của con người và điều đó đă tác động mạnh
mẽ đến sự phát triển của khoa học.


Song, con người đi nhận thức thế giới không chỉ để nhận thức thuần tuý,
mà là chủ yếu để thoả măn các nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng cao
của mình. Do đó, cùng với quá trình nhận thức thế giới, là quá tŕnh biến đổi và
cải tạo thế giới, “nghĩa là thế giới không thoả măn con người, và con người
quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình” (1). Về điều này, C.Mác
cũng đă khẳng định rằng con người phải tác động tích cực, phải chiếm lĩnh thế
giới bên ngoài nhờ sự tác động vào các đối tượng đă biết và bằng cách như vậy,

con người mới có thể thoả măn những nhu cầu của mình.
Sở dĩ khoa học và cùng với khoa học là công nghệ tham gia được vào quá
trình biến đổi, cải tạo giới tự nhiên và phát triển xă hội, bởi vì, khoa học và công
nghệ là những yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất xă hội, chúng có mặt ở
tất cả mọi thành phần của lực lượng sản xuất: trong tư liệu sản xuất (công cụ, kỹ
thuật), trong con người. Cùng với sự phát triển của xă hội, khoa học và công
nghệ càng ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong lực lượng sản xuất xă hội.
Để tiến hành sản xuất, một mặt, con người thông qua công cụ lao động tác
động vào tự nhiên; mặt khác, con người phải quan hệ với nhau. Do đó, đă tạo
thành phương thức sản xuất...là cách thức mà con người thực hiện quá tŕnh sản
xuất trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Con người là chủ thể của quá trình
sản xuất, là yếu tố quyết định của cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ
đó có thể hiểu rằng, ngay từ đầu, khoa học và công nghệ đă có mặt trong lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất nhất định.
Khoa học và công nghệ là những thành phần quan trọng của lực lượng sản
xuất, một mặt đă trang bị cho con người những tri thức ngày càng đầy đủ, rơ
ràng, sâu sắc về đối tượng lao động (giới tự nhiên) và mặt khác, đă vật thể hoá,
đó chính là phần cứng của công nghệ. Ngoài ra, do những đặc trưng sinh học xă hội, con người trong sản xuất vốn đă có sức mạnh lao động cơ bắp (lao động
giản đơn), có kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm nghề nghiệp (lao động có trí tuệ)
luôn là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất. Ngày nay, khi khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì ngoài chức năng là chủ thể của quá trình


sản xuất, con người còn là đối tượng khai thác của chính bản thân mình. Trí tuệ
con người trở thành nguồn năng lượng (trí năng) vô tận của mọi sự biến đổi của
khoa học, công nghệ và sản xuất, là nguồn lực của mọi nguồn lực trong quá
tŕnh phát triển tiếp tục của xă hội.
Khoa học và công nghệ là những yếu tố quan trọng trong quan hệ sản xuất
và cùng với sự phát triển của sản xuất thì vai trò đó ngày càng tăng lên. Trong
các thành tố của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu của con người đối với tư liệu

sản xuất là mối quan hệ thứ nhất giữ vai trò quyết định, mà chính khoa học và
công nghệ đă nằm trong tư liệu sản xuất (đối tượng lao động - giới tự nhiên nói
chung và công cụ lao động). Ngoài ra, các thành tố phần mềm của công nghệ:
con người, thông tin, tổ chức đều là những yếu tố của quan hệ sản xuất. Do vậy,
nếu ai nắm chắc và sử dụng tốt khoa học và công nghệ thì cũng có nghĩa là họ
đă làm chủ được và nắm giữ vai trò thống trị đối với tư liệu sản xuất, nói riêng,
và đối với sản xuất nói chung.
Mối quan hệ thứ hai và thứ ba giữa con người và con người trong sản xuất
là quan hệ về mặt tổ chức, quản lý, phân công lao động. Hai mối quan hệ này
trong xă hội hiện đại ngày nay, nếu không có sự tham gia, sự trợ giúp của khoa
học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin (máy vi tính, mạng
Internet) thì chắc chắn không thể kịp thời, chính xác và công bằng, và vì vậy
không thể kích thích trực tiếp vào lợi ích của người lao động, không thúc đẩy
được sản xuất và các quá trình kinh tế - xă hội khác.
Nhưng, bao trùm lên tất cả quá trình sản xuất là con người. Con người vừa
là nguồn lực, vừa là động lực của sản xuất, vừa là sự biểu hiện rõ ràng nhất
tŕnh độ phát triển của một nền sản xuất nhất định. Con người sáng tạo ra khoa
học và công nghệ; tham gia vào quá trình sản xuất (người trực tiếp sản xuất,
người tổ chức quản lý, thông tin, điều khiển); tiêu thụ sản phẩm do mình làm ra.
Tất cả những điều đó chứng tỏ rằng con người vẫn luôn là chủ thể của quá
tŕnh sản xuất xă hội. Đồng thời, trong nền sản xuất hiện đại, con người còn là
khách thể, theo cái nghĩa là con người là đối tượng khai thác trực tiếp của khoa


học, công nghệ nói riêng, và sản xuất nói chung. Những sản phẩm của trí tuệ tri thức đă trực tiếp đi vào quá tŕnh sản xuất với tư cách như những nguyên vật
liệu của sản xuất trước đây.
Qua đó thấy rằng mọi yếu tố của phương thức sản xuất từ lực lượng sản
xuất: tư liệu sản xuất (đối tượng lao động và công cụ lao động), và con người
cho đến quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu tư liêu sản xuất, tổ chức, quản lý,
quan hệ phân phối sản phẩm) đều có quan hệ rất chặt chẽ (hoặc là trực tiếp, hoặc

là gián tiếp) với khoa học và công nghệ, đặc biệt trong thời đại ngày nay. Bởi
vậy, có được khoa học và công nghệ phát triển là có được chiếc chìa khoá để
phát triển sản xuất, phát triển xă hội. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, sự tiến
đến hội nhập giữa khoa học, công nghệ và sản xuất là một trong những xu
hướng phát triển tất yếu của thời đại.
* Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Sự ra đời và phát triển của khoa học là một thành quả vĩ đại của trí tuệ con
người. Khoa học đă và đang giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
hoạt động của con người và vai trò đó ngày càng được thể hiện một cách rõ ràng
dưới dạng thực tiễn xă hội trực tiếp nhờ quá tŕnh không ngừng biến đổi của nó,
từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Bước
chuyển này của khoa học chỉ có thể diễn ra trong nhưng điều kiện nhất định sau:
Điều kiện đầu tiên thuộc về sản xuất: nền sản xuất xă hội phải đạt đến một
trình độ phát triển nhất định. Khi sản xuất đă đạt đến trình độ phát triển cao,
chính sản xuất lại đặt ra những vấn đề mới, phức tạp đòi hỏi khoa học phải có
phương hướng giải quyết phù hợp, để thúc đẩy sản xuất phát triển và qua đó,
khoa học cũng phát triển theo. Như vậy, lúc này sản xuất đă tạo ra những cơ sở
quan trọng, những nhu cầu cấp thiết cho sự xuất hiện của những tri thức khoa
học mới, những ngành khoa học mới. Ơ đây, khoa học đă tham gia một cách tích
cực, chủ động và trở thành một yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản
xuất xă hội. Và, chỉ có đến lúc này, khoa học mới có điều kiện để trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.


Điều kiện thứ hai thuộc về sự phát triển của bản thân khoa học: khoa học
phải phát triển đến một trình độ nhất định, mà ở đó, nó có thể đủ sức để giải
quyết những vấn đề do thực tiễn xă hội và sản xuất đặt ra.
Trong nền sản xuất hiện đại, không có một vấn đề nào của sản xuất đặt ra
mà tri thức của một ngành khoa học, thậm chí là vài ngành khoa học cụ thể có
thể giải quyết được hoàn toàn. Tổng hợp khoa học, tổng hợp tri thức là xu hướng

phát triển của khoa học ngày nay và điều này phù hợp với nhu cầu của thực tiễn
sản xuất hiện đại. Ngày nay, trong khoa học đang diễn ra một quá tŕnh tương tác
mạnh mẽ giữa các khoa học, quá tŕnh liên kết khoa học theo hướng tổng hợp tri
thức của khoa học hiện đại - và đó chính là điều kiện quan trọng và tối cần thiết
để biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện thứ ba để khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đó
chính là sự quán triệt nguyên lý triết học duy vật biện chứng về sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, mà nếu ứng dụng vào quá trình sản xuất vật chất, thì
đó chính là sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động khoa
học. Thực tiễn, trước tiên là thực tiễn sản xuất xă hội, là nguồn gốc, là động lực
của nhận thức khoa học, đồng thời cũng là tiêu chuẩn của chân lý. Do vậy, việc
khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp sẽ là con đường ngắn nhất và
đáng tin cậy nhất để xác định độ chính xác, đúng đắn, tính chân lý của tri thức
khoa học. Sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất và hoạt động khoa học là đặc
trưng cơ bản của xă hội hiện đại được xây dựng trên cơ sở của nền sản xuất hiện
đại và khoa học tiên tiến.
* Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp được biểu hiện dưới
nhiều hình thức:
Trước hết, tri thức khoa học được vật thể hoá thành các công cụ, máy móc
tinh vi, hiện đại như các loại máy vi tính, siêu tính, các loại máy công nghệ tự
động hoá, các thế hệ rôbôt; tạo ra các loại công nghệ mới như công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... Điều này không chỉ mang lại


hiệu quả và năng suất lao động cao hơn, chất lượng tốt hơn mà còn góp phần
quan trọng vào việc tiết kiệm nguyên vật liệu, tạo ra các loại vật liệu mới vốn
không có sẵn trong tự nhiên; giảm thời gian lao động phải chi phí cho một đơn
vị sản phẩm.
Thực tế sản xuất ở các nước công nghiệp phát triển đă cho thấy rằng, tri
thức khoa học ngày càng chiếm một hàm lượng cao trong giá trị sản phẩm,

nguồn lợi do khoa học mang lại cũng ngày càng lớn hơn. Trong thời đại thống
trị của công nghệ thông tin, “trí năng hoá” sản xuất đang là xu hướng tất yếu và
cũng là động lực mạnh mẽ của sự phát triển xă hội. Nguồn lợi do công nghệ
thông tin mang lại ngày càng tăng.
Một biểu hiện quan trọng của việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp là ở chỗ, khoa học cùng với quá tŕnh giáo dục và đào tạo đă tạo ra
những người lao động mới: những con người lao động trí tuệ sáng tạo, vừa có tri
thức chuyên sâu một ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, tầm nhìn xa, bao quát,
nhạy bén, vững vàng trong nghề nghiệp. Người lao động chính là lực lượng sản
xuất mạnh mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là động lực của
mọi động lực phát triển xă hội.
Ngoài việc đào tạo con người lao động mới, khoa học còn trực tiếp tham
gia vào quá tŕnh tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất. Đó cũng là một biểu hiện
của việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Việc tổ chức, quản lý,
điều hành sản xuất ngày nay ở bất kỳ cấp độ nào đều cần đến tri thức khoa học,
nhất là tri thức khoa học quản lý. Cùng một thế hệ máy móc như nhau, cùng sản
xuất ra một loại sản phẩm như nhau, nếu biết tổ chức quản lý, điều hành công
việc tôt thì sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.
Một tác nhân vô cùng quan trọng đối với sản xuất trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường mang tính quốc gia và quốc tế hiện nay là thông tin. Thông tin
là sản phẩm phát triển của khoa học, là sự biểu hiện của khoa học. Nắm bắt
thông tin kịp thời, nhanh chóng sẽ giúp cho người sản xuất và người kinh doanh


mở rộng thị trường, kịp thời thay đổi công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm
phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong nền sản xuất hiện đại, việc áp dụng tri
thức khoa học rộng răi là điều kiện thiết yếu đối với sự phát triển của xă hội. Có
thể khẳng định rằng sự phát triển của khoa học và công nghệ đă trở thành tiền
đề, điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong xă hội cũng như những biến

đổi sâu sắc vị trí con người trong hoạt động sản xuất. Điều này chứng tỏ rằng
khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một đặc trưng cơ bản của nền
sản xuất hiện đại, đồng thời khoa học và công nghệ càng ngày càng gắn bó và
đóng vai tṛ quan trọng đối với sự phát triển của xă hội.
1.4. Nguyên tắc, mục đích của việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ.
Bước vào thiên niên kỷ thứ ba, khoa học và công nghệ đă trở thành yếu tố
cốt tử của sự phát triển, là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu.
Điều này được phản ánh rơ trong việc hoạch định các chính sách và chiến lược
phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế của các nước. Tuy nhiên, tuỳ thuộc
vào tŕnh độ phát triển cụ thể của từng nước, mà mỗi nước xây dựng một chiến
lược hoặc chính sách phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với hoàn cảnh
cụ thể của mình. Đường lối phát triển khoa học và công nghệ hết sức đa dạng,
mang tính đặc thù đối với từng nước, cũng như trong mỗi giai đoạn phát triển cụ
thể của từng nước đó. Tuy nhiên, điểm nổi bật là sự phát triển khoa học và công
nghệ là một hướng quan có tính quyết định trong việc phát triển kinh tế mỗi
quốc gia.
Suy cho cùng, cách mạng khoa học và công nghệ dù có phát triển đến đâu
cũng phải đưa vào sản xuất, nhằm phục vụ cho con người, giải phóng con người,
phát triển con người ngày càng toàn diện hơn. Trong xă hội mới, những thành
tựu của khoa học và kỹ thuật được sử dụng vì sự tiến bộ xă hội, vì lợi ích và
hạnh phúc của nhân dân lao động.


Xuất phát từ thực tiễn, gắn chặt với thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn đó vừa là biện chứng của sự phát triển khoa học, vừa là con đường để khoa học
thâm nhập vào đời sống xă hội và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Nói về mối quan hệ biện chứng giữa khoa học, kỹ thuật với sản xuất và đời
sống xă hội, trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của
Hội nghị phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục

vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện
đời sống nhân dân, ...”. Có thể thấy rằng tư tưởng này của Người có ý nghĩa
như một nguyên tắc phổ quát đối với mọi khoa học nói chung, trong đó có khoa
học xă hội và nhân văn. Khoa học chân chính phải bắt nguồn từ thực tiễn và tác
động tích cực trở lại đối với thực tiễn. Có như vậy khoa học mới mang lại những
giá trị hữu ích, giúp cho con người cải tạo tự nhiên, cải tạo xă hội và cải tạo
chính bản thân mình.
1.5. Vai trò của cách mạng khoa học và công nghệ đối với sự phát triển
của xă hội.
Khoa học - công nghệ là một trong những vấn đề được nhân loại quan tâm,
nhất là trong thời đại ngày nay. Đó là sản phẩm của tư duy và lao động được
định hướng bởi tư duy của con người. Ngay từ đầu, khoa học và công nghệ đă
có mặt và giữ vai trò quyết định trong phương thức sản xuất (công cụ sản xuất
và con người - vừa với tư cách là một yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất
vừa là yếu tố chủ thể của quan hệ sản xuất), mà sản xuất vật chất là tiền đề, là cơ
sở của sự tồn tại và phát triển của xă hội. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đă làm biến đổi sâu sắc lực lượng sản xuất xă hội cũng như sự
phát triển của xă hội loài người. Nó đang tạo ra những thay đổi trong nhiều quan
niệm của đời sống xă hội từ kinh tế tới chính trị, văn hoá,v.v.., đồng thời tạo ra
xu hướng toàn cầu hoá trong nhiều lĩnh vực của đời sống xă hội từ kinh tế tới
chính trị, văn hoá,v.v..


Vậy, tại sao cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay lại có được
sức mạnh kỳ diệu đó và vai trò của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đối
với sự phát triển của xă hội là gì ?
Một là, trong cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, các yếu tố
khoa học, công nghệ và sản xuất đă thâm nhập, gắn bó bền chặt với nhau với vai
trò dẫn đường của khoa học. Ngày nay, cơ cấu của công nghệ đă có sự thay đổi.
Nó không chỉ được hiểu đơn thuần là kỹ thuật (các phương tiện vật chất kỹ

thuật) mà trong thành phần cấu trúc của nó phải bao gồm bốn yếu tố cơ bản:
phần cứng của công nghệ (kỹ thuật), và ba yếu tố của phần mềm là con người,
thông tin và tổ chức quản lý. Với việc khoa học - công nghệ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp và việc khai thác, sử dụng triệt để ba yếu tố phần mềm của
công nghệ đă làm cho cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thực sự trở thành
cuộc cách mạng về trí tuệ với vai trò quyết định của tri thức (kinh tế tri thức,
năng lượng tri thức hay trí năng, vật liệu tri thức,v.v..). Sự khai thác nguồn trí
năng còn tiềm tàng bằng công nghệ thông tin là đặc trưng cơ bản của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Đó chính là sự biến đổi tận gốc lực lượng
sản xuất xă hội - làm tiền đề, cơ sở cho mọi sự biến đổi khác trogn phương thức
sản xuất và trong đời sống xă hội.
Hai là, với cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại, các yếu tố riêng
biệt của quá tŕnh sản xuất được kết hợp chặt chẽ hữu cơ với nhau thành một hệ
thống liên hoàn: máy công tác --> máy động lực --> các phương tiện vận
chuyển... vừa tiết kiệm được thời gian, công sức, vừa nâng cao hiệu quả và năng
suất lao động.
Ba là, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đă cho ra đời những hệ thống
công nghệ mới, với 4 trụ cột chính: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ năng lượng mới và công nghệ vật liệu mới. Ngoài ra, c̣n có hai hệ
thống công nghệ với tư cách như những “thừa số chung” của bốn hệ thống công
nghệ chủ yếu này, đó là công nghệ vũ trụ và công nghệ bền vững (công nghệ
xanh, công nghệ sạch). Các hệ thống công nghệ đó đă liên kết đồng bộ với nhau,


với vai trò đầu tàu là công nghệ thông tin ( mạng thông tin toàn cầu: internet 1,
internet 2, internet 3, hệ thống tự động hoá bậc cao với các thế hệ rôbôt
1,2,3,4...) để cùng tác động mạnh mẽ, có hiệu quả cao và nhanh chóng lên nền
sản xuất xă hội.
Bốn là, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đă làm thay đổi về chất
quá trình sản xuất. Một trong những thay đổi quan trọng nhất là, con người ngày

càng có vai trò quan trọng và quyết định đối với sản xuất. Con người được tách
dần ra khỏi quá tŕnh sản xuất trực tiếp. Trí năng- năng lực trí tuệ của con người
đă trở thành nguồn năng lượng mới của công nghệ và sản xuất. Chính trong quá
tŕnh biến đổi đó đă hình thành nên những con người lao động kiểu mới, có tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo và năng lực toàn diện.
Năm là, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đă tạo nên sự tăng trưởng
vượt bậc của năng suất lao động nhờ sù thay đổi cơ cấu của lực lượng sản xuất,
của phân công lao động xă hội trong phạm vi quốc gia, liên quốc gia, khu vực và
quốc tế.
Như vậy cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đă có tác động rất
mạnh mẽ, sâu sắc đến nền kinh tế thế giới và xă hội loài người, tạo sự nhảy vọt
trong lực lượng sản xuất. Nền kinh tế thế giới bước sang giai đoạn phát triển
mới- kinh tế tri thức, trong đó tri thức, thông tin trở thành yếu tố quyết định đối
với sự phát triển sản xuất, khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp và quan trọng hàng đầu.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay, con người đang từng bước rút ngắn hơn
thời gian từ kết quả nghiên cứư khoa học đến công nghệ và sản phẩm ra thị
trường. Phòng thí nghiệm, cơ quan khoa học, ngoài nghiên cứu còn mang cả
chức năng sản xuất kinh doanh. Quá tŕnh đổi mới công nghệ diễn ra còn nhanh
hơn cả khả năng thích nghi của con người.
Tất cả những đặc trưng cơ bản trên phản ánh nội dung chủ yếu của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ, trong thời đại ngày nay, có quan hệ chặt chẽ


đến sự thay đổi có tính chất cách mạng trong lực lượng sản xuất và tác động
mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện lên mọi mặt của đời sống xă hội.
1.6. Mặt trái của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đối với sự phát
triển của xă hội.
Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích và sáng tạo, song không
phải lúc nào con người cũng có thể điều khiển, kiểm tra và làm chủ được hết

những lực lượng vật chất và tinh thần do mình tạo ra. Một mặt là do những
nguyên nhân chủ quan về phía con người, như sự hạn chế về mặt nhận thức của
từng thế hệ, do nhu cầu và lợi ich giai cấp, dân tộc chi phối... Mặt khác là những
nguyên nhân khách quan, như bản thân các thành tựu khoa học, công nghệ,
thông tin, một khi đă trở thành những lực lượng vật chất độc lập, chúng phát
triển theo những quy luật nội tại vốn có của mình. Hơn nữa, chúng còn tương
tác lẫn nhau trong quá trình tác động lên con người, xă hội và tự nhiên, gây nên
những hậu quả tiêu cực không lường trước được.
Một trong những hậu quả lớn nhất và nan giải nhất, có thể ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển của thế giới là cuộc khủng hoảng sinh thái cục bộ và nguy
cơ của một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu đang đe doạ sự sống trên trái
đất. Bằng vũ khí sinh hoc, kỹ thuật và công nghệ, con người đă chinh phục thiên
nhiên, bất chấp những quy luật tồn tại và phát triển của nó với mục đích mang
lại lợi ích nhiều nhất, nhanh nhất cho con người. Nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên như: rừng, đất, nước, khoáng sản, đa dạng sinh học và nạn ô
nhiễm nặng nề môi trường sống, điển hình là các hiện tượng lỗ thủng tầng ô zôn, hiệu ứng nhà kính, mưa a -xít, sa mạc hoá, ô nhiễm đất, không khí, nước,
các chất thải rắn độc hại... là những tai hoạ khủng khiếp do cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ tạo ra, mà con người đang phải gồng mình lên gánh chịu
và chống đỡ.
Sai lầm cơ bản của con người, không phải là đă tiêu diệt nhiều loài sinh
vật hay tàn phá một số hệ sinh thái cục bộ, mà là đă can thiệp một cách quá sâu
và thô bạo vào cơ chế thống nhất vật chất của thế giới và những nguyên tắc


hoạt động (nguyên tắc tự tổ chức, tự điều khiển, tự làm sạch, tự bảo vệ theo một
trật tự, liên hoàn chặt chẽ) của chu trình sinh học hay chu trình trao đổi vật
chất, năng lượng, thông tin của sinh quyển - cơ sở tồn tại và phát triển của toàn
bộ sự sống trên trái đất.
Trong bốn trụ cột của công nghệ, công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học là những công nghệ có nhiều đóng góp nhất vào sự phát triển mới của thế

giới. Tuy nhiên, đây cũng la hai loại công nghệ làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu
cực gay gắt nhất.
Sự xuất hiện và phát triển rực rỡ của công nghệ thông tin tưởng chơng như
là một loại công nghệ mới “không ống khói”, không tiêu tốn các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, không gây ô nhiễm môi trường, tiết kiệm nguồn nhân lực
và thời gian,v.v.. Song cũng chính từ đây, những kết quả tích cực, những hậu
quả tiêu cực cùng những thách thức do sự tác động của công nghệ thông tin
mang lại đang đan xen nhau hết sức phức tạp và nan giải.
Sự toàn cầu hoá công nghệ thông tin là một kỳ tích vĩ đại góp phần nối liền
thế giới dưới cùng một mái nhà, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập toàn cầu,
thông qua nối mạng internet toàn cầu, đang đặt ra nhiều thách thức mới và
những hậu quả tiêu cực trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh
vực an ninh quốc gia, bao gồm an ninh quân sự, an ninh kinh tế, anh ninh xă hội,
an ninh về chủ quyền độc lập quốc gia, và cả an ninh và quyền tự do cá nhân của
mỗi con người.
Công nghệ thông tin cũng đang có những tác động tiêu cực đến đời sống
kinh tế - xă hội của các nước, như vấn đề công ăn việc làm, vấn đề dân chủ và
công bằng xă hội, vấn đề phân hoá giàu nghèo... giữa những người độc quyền sở
hữu thông tin và những người không có khả năng này.
Công nghệ sinh học là một trong những công nghệ chủ đạo của thế kỷ XX.
Với cuộc cách mạng trong công nghệ sinh học, con người đang đi vào khám phá
sâu hơn về nguồn gốc và bản chất của sự sống. Đặc biệt là những thành tựu về
công nghệ gen đă mang lại không ít những tác dụng tich cực đối với sự phát


triển của xă hội.Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau, con người lại phải gánh chịu hậu quả
nặng nề về ô nhiễm môi trường và vệ sinh an toàn lương thực, thực phẩm, do
chính công nghệ gen mang lại.
Công nghệ sinh học đang tạo ra những nguy cơ không an toàn. Các loại gia
cầm, gia súc, như bò, lợn, gà, cừu, dê,... khi được tiêm các loại hoóc - môn tăng

trưởng, ăn các loại thức ăn tăng trọng có nhiều chất kích thích, đặc biệt là độc tố
đi - ô - xin, phát triển nhanh chóng, nhưng chúng cũng là nguồn thực phẩm nguy
hiểm, có hại cho con người; là một trong những nguồn gốc gây ra các bệnh nan
y. Hiện nay việc sử dụng phổ biến các loại sản phẩm biến đổi gien cũng đang
còn có sự tranh luận gay gắt, vì tác hại của chúng đối với con người là chưa thể
lường trước được.
Một trong những ảnh hưởng tiêu cực nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ là những thành tựu của nó được áp dụng trong các cuộc chiến tranh,
các cuộc khủng bố đang lan tràn khắp thế giới. Các loại vũ khí từ bom nguyên tử
đến vũ khí sinh học, vũ khí hoá học,... đă làm cho cuộc chiến giữa con người
với con người ngày càng trở nên tàn khốc hơn, tinh vi hơn, sức tàn phá cũng lớn
hơn và thiệt hại về người và của cải cũng nặng nề hơn
2 Thực tiễn và lý luận trong việc tiến hành cách mạng khoa học công
nghệ ở Việt Nam.
Qua hơn nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại Hội của Đảng, khoa học
và công nghệ nước ta đă có những bước phát triển mới, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Báo cáo kiểm điểm nửa đầu
nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại Hội, Hội nghị trung ương 9 (khoá IX) nhấn
mạnh: khoa học và công nghệ đă có bước phát triển phục vụ thiết thực hơn
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xă hội. Đă xuất hiện những nhân tố mới trong quá
tŕnh h́nh thành và phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở nước ta.
Hiện nay, nước ta có trên 1150 tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, với 2,8 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng trở lên; trong đó,
có hơn 6 vạn người có trình độ trên đại học (gồm có gần 2 vạn tiến sĩ và hơn 4


vạn thạc sĩ). Năng lực nghiên cứu khoa học cũng như năng lực tiếp thu và áp
dụng công nghệ của đội ng̣ũ khoa học và công nghệ nước ta đă được nâng lên
một bước quan trọng. Trong một số lĩnh vực khoa học, năng lực nghiên cứu của
một số nhà khoa học đă đạt mức tiên tiến trong khu vực. Nếu có môi trường và
điều kiện làm việc tốt, chúng ta có đủ khả năng đuổi kịp các nước trong khu

vực. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, chúng ta còn phải phấn đấu nhiều để nâng cao năng lực sáng tạo công
nghệ, khả năng sử dụng ngoại ngữ và tin học, xây dựng đội ng̣ũ chuyên gia đầu
đàn trong các linh vực khoa học và công nghệ.
Tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ trong tổng chi ngân sách nhà nước
từ năm 2000 đến nay luôn đảm bảo 2%. Nhờ đầu tư chiều sâu từ ngân sách, cho
đến nay, 1/3 số thiết bị khoa học của các cơ quan nghiên cứu là những thiết bị
thế hệ mới. Sự kiện con tàu trọng tải lớn hàng chục ngàn tấn (Made in Viet
Nam) được đặt hàng bởi các nước tiên tiến; việc Việt Nam trở thành nước xuất
khẩu nông sản, thuỷ sản lớn trên thế giới đă mang lại niềm tự hào cho giới khoa
học công nghệ. Một điều không thể phủ nhận, đây là lực lượng quan trọng làm
nên những thành công này.
Khoa học xă hội và nhân văn đă và đang nghiên cứu các vấn đề: Chủ nghĩa
xă hội và con đường đi lên chủ nghĩa xă hội ở nước ta; kinh tế thị trường định
hướng xă hội chủ nghĩa; công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xă hội
chủ nghĩa; xây dựng Đảng trong điều kiện mới; xây dựng nhà nước pháp quyền
xă hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; phát triển văn hoá, con người và nguồn
nhân lực, dự báo về chiến tranh kiểu mới; âm mưu, ý đồ chiến lược và hoạt
động xâm phạm an ninh quốc gia của các thế lực thù địch trong thời gian tới;
chủ nghĩa tư bản hiện đại và các xu thế phát triển lớn của thế giới.
Khoa học công nghệ đă và đang tập trung vào những hướng mũi nhọn như:
công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ tự động hoá, cơ khí chế tạo máy, khoa học và công nghệ phục


vụ sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm chủ lực; khoa học và công
nghệ phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, bảo vệ
môi trường và phòng tránh thiên tai, điều tra cơ bản và nghiên cứu ứng dụng
công nghệ biển, khoa học và công nghệ phục vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
cộng đồng.

Công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ đă được đổi mới một
bước quan trọng, thể hiện ở việc tập trung thực hiện các nhiệm vụ khoa học và
công nghệ trọng điểm của nhà nước và thực hiện cơ chế tuyển chọn đề tài, dự án
theo tinh thần của Luật khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, công tác quản lý hoạt
động khoa học và công nghệ vẫn còn những yếu kém và mang nặng tính hành
chính, bao cấp, chưa tạo được cơ chế để phát huy mạnh mẽ khả năng sáng tạo
của các nhà khoa học và gắn kết chặt chẽ hoạt động khoa học và công nghệ với
giáo dục- đào tạo và sản xuất - kinh doanh.
* Hoạt động khoa học - công nghệ đối với ngành giáo dục và đào tạo
Hoạt động khoa học và công nghệ của ngành giáo dục và đào tạo ngày càng
có những đóng góp thiết thực cho sự phát triển khoa học và công nghệ của đất
nước. Sau nhiều năm với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, hệ thống các pḥng
thí nghiệm phục vụ cho đào tạo và nghiên cứu đă được xây dựng và nâng cấp,
trong đó có nhiều pḥng thí nghiệm tầm cỡ quốc gia và đạt tŕnh độ quốc tế. Ngay
từ những năm 2002, các trường đại học và cao đẳng trong cả nước đă thành lập
được 167 đơn vị nghiên cứu khoa học, bao gồm 20 viện nghiên cứu, 143 trung
tâm nghiên cứu, 7 doanh nghiệp nhà nước trong các cơ sở đào tạo và nghiên
cứu. Trong điều kiện kinh phí đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ còn
hạn hẹp, song các trường đại học và cao đẳng đă cố gắng tổ chức những hoạt
động khoa học và công nghệ, góp phần đưa nhanh những tiến bộ khoa học và
công nghệ vào cuộc sống.
Trong những năm qua, hoạt động khoa học và công nghệ của các trường đại
học và cao đẳng trong cả nước đă được triển khai trên tất cả các hướng từ nghiên


cứu khoa học giáo dục, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối chính sách phát
triển đất nước, nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, nghiên cứu cơ bản
trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xă hội, đến các hoạt động chuyển
giao công nghệ vào sản xuất đời sống, các hoạt động tư vấn dịch vụ khoa học và
công nghệ.

Về phục vụ sù nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế- xă
hội, bảo vệ môi trường: Giai đoạn từ năm 2006- 2012, các trường đại học và cao
đẳng đă triển khai hơn 3800 đề tài nghiên cứu, 90 dự án sản xuất thử nghiệm cấp
bộ. Trên cơ sở kết quả thu được từ các đề tài nghiên cứu, các trường đại học và
cao đẳng đă mạnh dạn kư kết hợp đồng chuyển giao công nghệ với các địa
phương và các cơ sở sản xuất.
Mét trong những công tŕnh khoa tiêu biểu, tập hợp được trí tuệ của toàn
ngành là Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 201/2001/QD- TTg ngày28/12/2001). Chiến lược đă
chỉ ra những thành công cũng như hạn chế của nền giáo dục nước nhà trong thời
gian qua và đưa ra những căn cứ khoa học để định hướng phát triển giáo dục
trong giai đoạn tới.



×