Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thực trạng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và dịch vụ của Doanh nghiệp tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.38 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực. Việc tham gia vào các tổ chức kinh tế lớn
mang tầm cỡ khu vực và quốc tế, điển hình là WTO đã mang lại cho chúng ta rất
nhiều cơ hội để phát triển nền kinh tế song đồng thời cũng phải đối mặt với không
ít khó khăn và thách thức… Vấn đề thành lập một doanh nghiệp để kinh doanh trở
nên dễ dàng và nhanh chóng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, theo thống kê
mới nhất của tổng cục thống kê năm 2016 cả nước có khoảng 101.683 doanh
nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký khoảng 797.000 tỷ đồng. Đây là những số
liệu rất khả quan tuy nhiên bên cạnh đó số doanh nghiệp giải thể, gặp khó khăn và
rơi vào tình trạng ngừng hoạt động không ngừng tăng cao (12.478 doanh nghiệp
giải thể, 19.917 doanh nghiệp ngừng hoạt động). Việc chọn cho mình một loại hình
kinh doanh phù hợp trở thành vấn đề được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm, nó ảnh
hưởng rất lớn đến sự thành công của doanh nghiệp, giúp người đầu tư sử dụng hiệu
quả nguồn vốn và nguồn lực hiện có của mình để tìm kiếm lợi nhuận cao nhất. Với
những ưu điểm như nhanh chóng, dễ dàng về thủ tục thành lập, chủ động hoàn toàn
trong các quyết định kinh doanh, ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật… thì
loại hình Doanh nghiệp tư nhân luôn là lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư
muốn tự mình quản lý công ty, mạo hiểm với các quyết định kinh doanh “lời ăn, lỗ
chịu” và kinh doanh với quy mô vốn nhỏ.
Với mục đích nghiên cứu về các loại hình doanh nghiệp đồng thời đáp ứng
yêu cầu của môn học Luật kinh tế với sự hướng dẫn của thầy T.S Đặng Công
Tráng em xin thực hiện tiểu luận “Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực
sản xuất kinh doanh và dịch vụ của Doanh nghiệp tư nhân”. Em mong rằng
tiểu luận này sẽ đáp ứng được yêu cầu môn học và trở thành một nguồn tài liệu
tham khảo hữu ích cho các nhà đầu tư quan tâm đến loại hình doanh nghiệp đầy
sức hấp dẫn này. Vì thời gian có hạn cũng như nhận thức, kiến thức về vấn đề này
chưa đầy đủ kính mong thầy cô cùng các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến để tiểu
luận được hoàn thiện hơn.

1




CHƯƠNG 1: DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1. Khái niệm và sơ lược về lịch sử hình thành doanh nghiệp tư nhân.
1.1. Khái niệm:
Theo khoản 1 điều 141 luật doanh nghiệp 2005 Doanh nghiệp tư
nhân (DNTN) là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đây là một
khái niệm cơ bản dựa trên các đặc điểm quan trọng nhất, đó là “loại hình”, “chủ sở
hữu” và “chế độ trách nhiệm, nó giúp chúng ta có thể dễ dàng phân biệt DNTN với
các hoại hình doanh nghiệp khác.
1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành DNTN
- Năm 1986, khi kế hoạch Đổi mới nền kinh tế được thông qua, các doanh
nghiệp tư nhân Việt Nam bắt đầu xuất hiện và giai đoạn 1986 -1997 có thể coi là
thời kỳ “khai sinh” trong lịch sử doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sau ngày giải
phóng. Luật Doanh nghiệp Tư nhân và Luật Công ty được ban hành năm 1990, dù
còn sơ sài và thiếu sót, đã mở ra hành lang thể chế cho khu vực tư nhân. Luật
doanh nghiệp tư nhân ban hành ngày 21/ 12/1990 quy định : “Nhà nước công nhận
sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng
với các doanh nghiệp khác: (Điều 1) . Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng ghi nhận : “Nhà nước phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân” (Điều 19) ; “Các cơ sở
kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đề bình đẳng trước pháp luật” (Điều 22).
+ Về mặt tài chính, sau khi các ngân hàng nước ngoài như ANZ, Bangkok
Bank, BNP được cấp phép mở chi nhánh ở Việt Nam từ năm 1992 thì năm 1993
ngân hàng tư nhân đầu tiên của Việt Nam là VP Bank ra đời.
+ Về mặt thị trường, ngoài việc dỡ bỏ chế độ bao cấp, hai giá và ngăn sông
cấm chợ, Việt Nam bắt đầu bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1994 và gia nhập
ASEAN năm 1995, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh cả trên thị

trường nội địa lẫn xuất khẩu. Nhờ vậy, số doanh nghiệp tư nhân được thành lập
mỗi năm tăng rất nhanh, từ 6.808 đơn vị năm 1993 lên 25.002 đơn vị năm 1997.
2


- Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 tuy không ảnh hưởng trực
tiếp nhưng dư chấn của nó đã có những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt,
một trong số đó là tốc độ đổi mới được đẩy nhanh hơn.
- Thị trường chứng khoán ra đời năm 1998, sau vài năm mờ nhạt đã trở nên
sôi động, kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của thị trường vốn.
- Luật Doanh nghiệp được sửa đổi năm đã đánh dấu một mốc son trên con
đường hoàn thiện khung pháp luật về các loại hình thức doanh nghiệp ở nước ta
nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Có thể nói luật doanh nghiệp năm
1999 đã bổ sung và cơ cấu lại các quy định về doanh nghiệp tư nhân ở mọi phương
diện, từ cơ cấu tổ chức, trình tự thành lập, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh
nghiệp cũng như chủ doanh nghiệp tư nhân, đặt cơ sở cho một hướng phát triển
đồng bộ, thống nhất hình thức doanh nghiệp này.
- Ngày 19/11/2005 quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua luật doanh nghiệp thay thế cho luật doanh nghiệp năm 1999; Luật
doanh nghiệp nhà nước năm 2003 và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996
(sửa đổi bổ sung 2000). Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời thể hiện sự thống
nhất trong việc điểu chỉnh địa vị pháp lý của doanh nghiệp ở việt nam, điều này
khẳng định vị trí, vai trò của doanh nghiệp tư nhân bên cạnh các loại hình kinh
doanh khác.
- Trải qua hơn một thập kỷ tích lũy vốn và kinh nghiệm, hệ thống doanh
nghiệp tư nhân của Việt Nam bước vào một thời kỳ mà các rào cản về thể chế cơ
bản được dẹp bỏ, thị trường trong nước và quốc tế được khơi thông với kết quả
cuối cùng là việc gia nhập WTO năm 2006. Giống như một đứa trẻ mới lớn được
trang bị nhiều đồ chơi đắt tiền, giai đoạn từ 1997 đến 2007 được đặc trưng bởi sự
sôi động, phấn chấn và nhiều khi bốc đồng. Vì thế, có thể coi đây là giai đoạn niên

thiếu của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
- Trong khi khối doanh nghiệp tư nhân chiếm tới hơn 50% số doanh nghiệp
mới xuất hiện trong bảng V1000 (nơi hội tụ các doanh nghiệp nộp thuế lớn nhất
Việt Nam) năm 2012, thì con số tương tự của năm 2013 chỉ là 37%, đây thực sự là
một bước thụt lùi lớn. Bên cạnh đó, trong tổng số thuế mà 1000 doanh nghiệp
thuộc BXH đã nộp, số thuế của nhóm DN tư nhân đạt được chỉ chiếm 23,4%, thấp
hơn so với nhóm DN nước ngoài. Nếu chỉ xét riêng Top 100 của Bảng xếp hạng,
3


con số đóng góp thuế TNDN 18,8% thực sự là mức đáng buồn khi đặt cạnh mức
64,5% của nhóm DNNN. Rõ ràng, những doanh nghiệp tư nhân vốn đang được
coi như "ngôi sao đang lên" với lợi thế năng động và linh hoạt dường như đang
mất dần thế mạnh của mình, khi mà các ông anh cả đã trở lại sân chơi với chiến
lược kinh doanh hợp lý của mình.
- Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11
năm 2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 sẽ thay thế cho
Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 và Luật sửa đổi,
bổ sung Điều 170 của Luật Doanh nghiệp số 37/2013/QH13 ngày 20 tháng 6 năm
2013. So với Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có
10 Chương, 213 Điều, tăng 41 Điều. Trong đó Chương IV quy định về Doanh
nghiệp nhà nước với 22 Điều và Điều 10 quy định về tiêu chí, quyền và nghĩa vụ
của doanh nghiệp xã hội là những nội dung mới hoàn toàn.
- Luật Doanh nghiệp năm 2014 vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy
định còn phù hợp đã và đang đi vào cuộc sống của Luật Doanh nghiệp năm 2005,
nhưng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn
chế, bất cập của Luật cũ, tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi,
phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.3. Đặc điểm Pháp lý của DNTN

- Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp: DNTN có đầy đủ dấu
hiệu của một doanh nghiệp theo khoản 1 điều 4 luật doanh nghiệp 2005 (có tên
riêng, tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký theo quy định của pháp luật
nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh) do đó có quyền tự do tham gia kinh
doanh bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật quy định, được hưởng các quy chế
pháp lý chung cho các doanh nghiệp tại Việt Nam.
- Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân do một cá nhân đầu tư vốn thành lập
và làm chủ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp:
+ DNTN do một chủ thể đứng ra thành lập, dùng tài sản của mình đầu tư kinh
doanh, không có sự liên kết hay chia sẻ với bất cứ ai.
4


+ Chủ sở hữu DNTN chỉ có thể là cá nhân, cá nhân này vừa làm chủ, sở hữu
tài sản và cũng là người trực tiếp quản lý doanh nghiệp. Cá nhân thành lập DNTN
không được nằm trong đối tượng cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp quy định tại
khoản 2 điều 13 luật doanh nghiệp 2005. Theo đó , một số cá nhân sau đây không
thể trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân :
* Cán bộ, công chức, viên chức;
* Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong
các cơ quan, đơn vị trực thuộc quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân;
* Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở
hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện ủy quyền để quản lý phần
vốn góp nhà nước tại doanh nghiệp khác;
* Người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc bị mất năng lực
hành vi dân sự.
* Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị tòa án cấm hành nghề kinh
doanh.

* Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản.
- Giữa doanh nghiệp và cá nhân người sở hữu có mối quan hệ lệ thuộc, gắn
bó: mỗi DNTN do 1 cá nhân làm chủ và 1 cá nhân chỉ được thành lập 1 DNTN.
- Chủ DNTN chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của doanh nghiệp (khoản 1, điều 141, luật doanh nghiệp 2005).
- Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân: Một tổ chức được công
nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: (căn cứ theo điều 84 bộ luật
dân sự).
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
DNTN chỉ đáp ứng được các điều kiện 1 và 2, không đáp ứng được điều kiện
3 và 4 nên không có tư cách pháp nhân.
5


- Doanh nghiệp tư nhân có khả năng huy động vốn hạn chế: Doanh nghiệp tư
nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào (khoản 2, điều 141 luật
doanh nghiệp 2005), tất cả các kênh huy động vốn rộng rãi trong công chúng đều
bị ngăn lại đối với DNTN.
1.4. Ưu và nhược điểm của DNTN
1.4.1. Ưu điểm:
- Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân là do một người đứng đầu đại diện làm
chủ sở hữu và hoàn toàn không có các thành viên hay cổ đông khác nên điều hành
doanh nghiệp tư nhân khá đơn giản và không phức tạp về kê khai thuế cũng như
các vấn đề pháp lý khác phát sinh. Thậm chí giải thể hoặc chuyển nhượng cũng rất
đơn giản.
- Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ sở hữu duy nhất nên người chủ sở

hữu này hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt
động kinh doanh.
- Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng
cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi
pháp luật như các loại hình doanh nghiệp khác
- Dễ cha truyền con nối, khó bị thôn tính bởi doanh nghiệp khác.
1.4.2. Nhược điểm
- Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Do không có tư cách
pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh tư nhân cao, chủ doanh nghiệp tư nhân
phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và của chủ
doanh nghiệp chứ không giới hạn số vốn mà chủ doanh nghiệp đã đầu tư vào
doanh nghiệp
- Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp thì chủ
doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Khó huy động vốn một cách rộng rãi.
1.5 Thủ tục đăng ký DNTN
6


Theo quy định tại điều 12 Luật Doanh nghiệp, người thành lập doanh
nghiệp phải lập và nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định dưới đây tại cơ
quan đăng ký kinh doanh thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi
doanh nghiệp đặt trụ sở chính và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung
thực của nội dung đăng ký kinh doanh.
Việc đăng ký kinh doanh được hoàn tất trong 15 ngày, kể từ ngày cơ
quan đăng ký kinh doanh nhận được đủ hồ sơ. Nếu từ chối việc đăng ký kinh
doanh, cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do.
* Đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
Doanh nghiệp được quyền kinh doanh kể từ ngày được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy
định của pháp luật. Cụ thể:
- Đối với doanh nghiệp tư nhân kinh doanh các ngành, nghề phải có vốn pháp
định thì phải có thêm xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc chứng chỉ hợp
pháp chứng minh về số vốn của doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp tư nhân kinh doanh các ngành, nghề phải có chứng chỉ
hành nghề thì phải có thêm bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của chủ doanh
nghiệp tư nhân hoặc giám đốc quản lý doanh nghiệp.
* Hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân: Được quy định rõ
tại điều 16 luật doanh nghiệp 2005.
1. Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng ký
kinh doanh có thẩm quyền quy định.
2. Bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân
hợp pháp khác.
3. Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối
với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có
vốn pháp định.

7


4. Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp
kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành
nghề.
1.6 Quản lý DNTN: được quy định tại điều 143 luật doanh nghiệp 2005
1. Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và
thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
2. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản

lý doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải đăng ký với cơ quan đăng ký
kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
3. Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến
doanh nghiệp.
4. Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
1.7 Cho thuê, bán DNTN: được quy định rõ tại điều 144 và 145 luật doanh
nghiệp 2005
- Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của
mình nhưng phải báo cáo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có
công chứng đến cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế. Trong thời hạn cho
thuê, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư
cách là chủ sở hữu doanh nghiệp. Quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và người
thuê đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được quy định trong hợp
đồng cho thuê.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người
khác. Chậm nhất mười lăm ngày trước ngày chuyển giao doanh nghiệp cho người
mua, chủ doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh
doanh. Thông báo phải nêu rõ tên, trụ sở của doanh nghiệp; tên, địa chỉ của người
mua; tổng số nợ chưa thanh toán của doanh nghiệp; tên, địa chỉ, số nợ và thời hạn
8


thanh toán cho từng chủ nợ; hợp đồng lao động và các hợp đồng khác đã ký mà
chưa thực hiện xong và cách thức giải quyết các hợp đồng đó.
- Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện,
trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận
khác.

- Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp
luật về lao động.
- Người mua doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh lại theo quy định của
Luật này.
1.8 Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
- Giải thể doanh nghiêp tư nhân
Với tư cách là một loại hình doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh
nghiệp, doanh nghiệp tư nhân cũng có cùng một quy chế giải thể chung với các
loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và
công ty hợp danh. Tuy nhiên ngoài những quy định chung, xét riêng đối với doanh
nghiệp tư nhân, quy chế giải thể cũng có một số điểm khác biệt.
Theo điều 157 luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân giải thể
theo các trường hợp sau đây:
 Thứ nhất theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân
Có thể coi đây là trường hợp giải thể tự nguyện. với quy định này, luật
doanh nghiệp trao cho doanh nghiệp tư nhân được quyết định có giải thể doanh
nghiệp hay không, nghĩa là lý do giải thể ở đây sẽ phụ thuộc vào ý chí và sự lựa
chọn rộng rãi của chủ doanh nghiệp tư nhân. Như vậy chủ doanh nghiệp tư nhân có
thể giải thể doanh nghiệp với bất cứ lí do gì, khi cho rằng sự tồn tại của doanh
nghiệp tư nhân là không còn có lợi... điều này cũng đảm bảo cho một cách cao hơn
quyền tự do kinh doanh và sở hữu doanh nghiệp của các nhà đầu tư.
Thứ hai , bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh
Luật doanh nghiệp quy định trường hợp giải thể bắt buộc đối với doanh
nghiệp tư nhân, khi doanh nghiệp tư nhân bị thu hối giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh. Việc quy định này xuất phát từ việc đảm bảo tính pháp chế tuyệt đối trong
việc áp dụng luật. Theo luật doanh nghiệp, để thành lập doanh nghiệp tư nhân,
người thành lập phải làm hồ sơ đăng kí kinh doanh và nộp cho cơ quan đăng kí
9



kinh doanh. Nội dung của giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh bao gồm những yếu
tố cấu thành nên doanh nghiệp tư nhân như: tên chủ doanh nghiệp, số vốn đăng kí,
thời hạn hoạt động, ngành nghề và phạm vi kinh doanh….giấy chứng nhận đăng kí
kinh doanh chính là giấy tờ quan trọng nhất của doanh nghiệp, có được giấy này,
chứng tỏ nhà nước công nhận doanh nghiệp tư nhân là một chủ thể kinh doanh và
thẩm quyền kinh doanh. Hay nói khác đi, giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh
chứng minh tính hợp lí hay bất hợp pháp của hoạt động kinh doanh do doanh
nghiệp tư nhân tiến hành. Có thể coi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh là tấm
giấy” thông hành” để doanh nghiệp tư nhân có thể tiến hành các hoạt động của
mình, xác lập các quan hệ với nhà nước và với công chúng giao dịch. Bị thu hồi
giấy chứng nhận kinh doanh cũng có nghĩa là nhà nước rút lại sự công nhận tư
cách chủ thể kinh doanh đối với doanh nghiệp tư nhân. Lúc này, doanh nghiệp tư
nhân không có thẩm quyền kinh tế, nghĩa là không còn được tiến hành hoạt động
kinh doanh, mục đích củ việc thành lập doanh nghiệp không có cơ hội dể thực
hiện nữa. vì vậy , sự tồn tại của doanh nghiệp này cũng không còn ý nghĩa.
Điều 158 luật doanh nghiệp năm 2005 quy định rất rõ về thủ tục giải thể
doanh nghiệp , trong đó có doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể , thủ tục giả thẻ doanh
nghiệp tư nhân gồm có 3 bước:
Bước 1: Chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định giải thể doanh nghiệp.
Bước 2 : Chủ doanh nghiệp trực tiếp tổ chức thanh lí tài sản doanh nghiệp.
Bước 3 : Trong thời hạn 7 ngày làm việc, phải tiến hành gửi quyết định giải
thể tới cơ quan đănh kí kinh doanh và thông báo giải thể đến tất cả những người có
quyền và lợi ích liên quan, các chủ nợ của doanh nghiệp (kèm theo phương án giải
quyết nợ), tiến hành thông báo công khai về việc giải thể thông qua việc niêm yết
quyết định giải thể tại chủ sở chính của doanh nghiệp và đăng báo địa phương hoặc
trung ương 3 số liên tiếp (nếu pháp luật quy định phải đăng báo).
Bước 4: trong thời hạn 7 ngày kể từ khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ của
doanh nghiệp, người đại diện cho doanh nghiệp phải gửi hồ sơ về giải thể doanh
nghiệp tư nhân đến cơ quan đăng kí kinh doanh. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày
nhận hồ sơ về giải thể doanh nghiệp, cơ quan đăng kí kinh doanh phải xóa tên

doanh nghiệp tư nhân đó trong sổ đăng kí kinh doanh. Đây là hành vi pháp lí cuối
cùng chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp tư nhân với tư cách là một doanh
nghiệp.
- Phá sản doanh nghiệp tư nhân
10


Doanh nghiệp tư nhân lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp kinh
doanh thua lỗ kéo dài đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn. Doanh
nghiệp tư nhân là một trong những đối tượng áp dụng của luật phá sản năm 2004,
vì thế khi doanh nghiệp tư nhân lâm vào tình trạng phá sản nó sẽ được áp dụng các
quy định của luật phá sản năm 2004 để giải quyết việc thanh thoán nợ với các chủ
nợ, doanh nghiệp tư nhân có những lợi ích nhất định, đó là việc chủ doanh nghiệp
tư nhân sẽ thanh toán các khoản nợ theo quy định của pháp luật phá sản cho đến
hết tài sản hiện có của chủ doanh nghiệp. Sau khi thủ tục phá sản chấm dứt, tùy
theo trường hợp theo quy định pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ
với các khoản nợ còn chưa thanh toán hết với các chủ nợ.

11


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TẠI VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Bất kỳ các quốc gia nào trong quá trình phát triển đều xác định các nhân tố
động lực của sự phát triển. Nếu nước nào xác định đúng các động lực và phát huy
vai trò của các động lực thì nước đó sẽ phát triển nhanh và bền vững. Ở nước ta, tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (8 - 2006), Đảng ta xem kinh tế tư nhân là
động lực của nền kinh tế. Như vậy sau 20 năm đổi mới đất nước, kinh tế tư nhân
(KTTN) mới được thừa nhận là động lực của nền kinh tế. Điều đó thể hiện sự thay
đổi quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân.

Kinh tế tư nhân đang đóng vai trò là động lực của nền kinh tế.
2.1 Những thành công của kinh tế tư nhân
Những thành tựu kinh tế tư nhân đạt được trong những năm đổi mới là rất to
lớn. Kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ là một bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân đã tạo thêm nhiều việc làm mới cho người
lao động, cung cấp được nhiều hàng hóa phục vụ nhu cầu của thị trường trong
nước và quốc tế, góp phần làm tăng trưởng sản phẩm quốc nội. “Năm 2005, kinh tế
tư nhân phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm
45,7% GDP đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội, nhất là giải quyết
vấn đề việc làm và cải thiện đời sống cho nhân dân”. Đến năm 2008, khu vực kinh
tế ngoài nhà nước đã đóng góp 46,97% GDP, trong đó có phần đóng góp quan
trọng của kinh tế tư nhân. Tỷ trọng thu ngân sách từ khu vực kinh tế tư nhân tăng
từ 6% năm 2002 lên 10,44% năm 2008. Giai đoạn 2002 – 2008, cả nước có 330
490 doanh nghiệp đăng kí hoạt động. Tổng số vốn đăng kí giai đoạn 2002 – 2008
là 2.110 tỷ đồng, lớn hơn cả vốn FDI cùng kỳ, vốn đăng ký bình quân tăng 61,5.
Theo số liệụ do Bộ Tài chính công bố tại Hà Nội, hiện cả nước có gần 500.000
doanh nghiệp đang hoạt động và có nhiều đóng góp cho sự phát triển đất nước trên
nhiều lĩnh vực. Ngoài đóng góp và nguồn thu ngân sách, các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế tư nhân còn có sự đóng góp nổi bật vào việc xây dựng các công
trình văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi giải trí, nhiều hệ thống trường học đạt
chuẩn Quốc tế, xây dựng đường sá cầu cống, nhà tình nghĩa, tình thương và nhiều
công trình phúc lợi khác trên mọi miền tổ quốc.

12


Thời gian qua bất chấp những khó khăn và những hệ lụy liên quan bởi tình
hình căng thẳng trên Biển Đông, bối cảnh thế giới tiếp tục có nhiều diễn biến phức
tạp, song nhiều doanh nghiệp tư nhân vẫn phát triển mạnh mẽ. Đã hình thành
nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân có thương hiệu, có uy tín trong nước và quốc tế,

như Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, Tập đoàn Masan, Tập đoàn Doji, Tập đoàn Hòa
Phát, Tập đoàn Vingroup (chủ tịch Hội đồng quản trị của tập đoàn Vingroup là
Phạm Nhật Vượng, tỷ phú Việt Nam đầu tiên lọt vào danh sách tỷ phú thế giới của
Forber, đồng thời có trong top 20 gương mặt mới nổi bật của Forber năm 2103),
Sài Gòn Invest, Tập đoàn FPT, Tập đoàn Phú Thái… Theo Tổng cục Thống kê, dự
kiến khu vực kinh tế này sẽ đóng góp 30% tổng thu ngân sách nhà nước vào năm
2015; sẽ tạo thêm khoảng 3,5-4 triệu chố làm việc mới trong giai đoạn 2011-2015,
sau khi đã tạo khoảng 3,2 triệu việc làm giai đoạn 2006-2010.
Mặc dù còn non trẻ nhưng khối doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay
đang sở hữu ba thế mạnh chính.
Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có lòng yêu nước, có nhiệt huyết
và nghị lực đối mặt với thách thức và rủi ro để vươn lên làm giàu chính đáng cho
bản thân và đất nước.
Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có trí sáng tạo và năng lực cạnh
tranh mạnh mẽ. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã trưởng thành và đứng vào hàng
ngũ doanh nghiệp khu vực; ngày càng đông các doanh nghiệp tư nhân đã và đang
vươn ra đầu tư, hoạt động ở nước ngoài.
Thứ ba, Thế hệ doanh nhân trẻ được du học và làm việc ở nước ngoài mang
về kiến thức, kinh nghiệm, các ứng dụng khoa học công nghệ và khoa học quản trị
tiên tiến để giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của kinh tế tư nhân là động lực quan trọng,
cơ bản, hằng ngày, hằng giờ thúc đẩy việc hoàn thiện các chính sách, pháp luật về
quản lý kinh tế, làm cho nó ngày càng gần với các tiêu chí chung của “nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”, đúng như khẳng định của Đại hội XII.
Sau mười năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X về phát triển kinh tế tư nhân, đến
Đại hội XII, Đảng đã có những đánh giá quan trọng về xây dựng chính sách, pháp
luật trong quản lý kinh tế: “Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, đáp
13



ứng tốt hơn quá trình phát triển và hội nhập quốc tế… Giá hàng hóa, dịch vụ đã cơ
bản theo nguyên tắc thị trường”. Có thể khẳng định, đây là những thay đổi cơ bản
của nền kinh tế nước ta, là nền tảng vững chắc hướng tới một nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Đây cũng là kết quả của việc kiên trì thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần qua các
nhiệm kỳ đại hội.
Kinh tế tư nhân phát triển đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp
hóa, thể hiện qua sự tăng dần tỷ lệ lực lượng lao động trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ; đồng thời đưa đến hệ quả tăng dần tỷ lệ đô thị hóa, nâng cao số
dân sống bằng các ngành, nghề dịch vụ. Kết quả này vừa góp phần phát triển hạ
tầng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế, vừa thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi thực tế đang đặt ra những yêu cầu,
đòi hỏi mới, ở một mức độ cao hơn, đa dạng hơn.
2.2 Một số hạn chế của doanh nghiệp tư nhân

Bảng 1: Số doanh nghiệp, vốn, lao động đăng ký thành lập mới theo loại
hình
Nguồn: dangkykinhdoanh.gov.vn
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu như đã nói ở trên nhưng doanh nghiệp tư
nhân còn nhiều yếu kém, năm 2016, số doanh nghiệp mới đăng ký thành lập giảm
1050 doanh nghiệp, vốn giảm 2191 tỷ đồng và giảm 17,4 nghìn việc làm cho
14


người lao động so với năm 2015. Trong khi đó ở các loại hình công ty khác đều có
sự tăng trưởng về mặt số lượng, vốn đầu tư cũng như số lượng lao động. Sự yếu
kém của KTTN có nhiều nguyên nhân. Trong đó có các nguyên nhân sau.
Thứ nhất là khó khăn chung của nền kinh tế thế giới từ năm 2008 đến
nay. Khủng hoảng nợ công ở châu Âu đã ảnh hưởng đến sức tiêu thụ hàng hóa tại
các thị trường truyền thống, thị trường tiềm năng ảnh hưởng đến quá trình sản xuất

và xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp còn chịu ảnh
hưởng chung của việc áp dụng chính sách tiền tệ, tài khoản chặt chẽ để kiềm chế
lạm phát nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Chính sách này khiến cho đầu tư và tiêu
dùng giảm. Hơn nữa Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) từ 11/01/2007, các doanh nghiệp thực hiện các cam
kết hội nhập về giảm dần thuế quan và cắt bỏ hàng vào phi thuế quan dẫn đến áp
lực cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài rất lớn, trong khi đó sự cạnh tranh
và sự hội nhập của các doanh nghiệp trong nước còn yếu.
Thứ hai là đường lối của Đảng về phát triển kinh tế kinh tế tư nhân còn
chưa hoàn thiện. Từ Đại hội VI (12-1986) đến nay Quốc hội đã kịp thời bổ sung
sửa đổi luật doanh nghiệp và tạo nhiều điều kiện để doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế này có điều kiện phục hồi, phát triển. Song trong thực thi, nhà nước vẫn
chưa có những chính sách thuận lợi đầy đủ (về môi trường pháp lý, vốn, đất đai,
mặt bằng sản xuất, thị trường, phân bổ nguồn lực, tiếp cận tài nguyên…) giúp khu
vực kinh tế này được tự chủ và tự tin trong tiếp cận. Vẫn còn sự bất bình đẳng
trong ưu đãi và đánh giá giữa các khu vực kinh tế, chẳng hạn cùng một thời điểm,
cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân (là tập đoàn kinh tế lớn) cùng
thua lỗ thì nhà nước sẽ tìm mọi cách để bảo lãnh hoặc giải quyết nhiều vấn đề cho
doanh nghiệp nhà nước theo hướng có lợi nhất như lao động, hàng hóa,vốn, thị
trường… Ngược lại, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì chấp nhận
“rủi ro một mình”. Điều này cũng rất ảnh hưởng đến mặt tâm lý sản xuất kinh
doanh chung của doanh nghiệp cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh
tế trên nhiều lĩnh vực.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn
khác, như chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao, thị trường tiêu thụ nhỏ và hẹp, tiếp
cận nguồn vốn ưu đãi khó, lượng hàng tồn kho nhiều và tập trung chủ yếu ở một số
15


ngành như bất động sản, xây dựng, công nghiệp chế biến, chế tạo, thương mại, vận

tải…Thậm chí các doanh nghiệp thuộc khu vực này còn chịu những bất cập về
chính sách của nhiều cơ quan công quyền, thủ tục xúc tiến đầu tư cũng như các thủ
tục có liên quan rườm rà, gây phiền phức cho không ít doanh nghiệp.
Thứ ba là ý thức chấp hành pháp luật yếu kém của một số doanh nghiệp
tư nhân. Nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa thực hiện tốt những quy định của pháp
luật về lao động. Nhiều doanh nghiệp đăng ký nhưng không thực hiện chế độ báo
cáo, né tránh đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động; né tránh thực hiện các chế
độ, chính sách cần thiết cho người lao động theo quy định của pháp luật như chế
độ bảo hiểm, tiền lương, hợp đồng lao động không chặt chẽ…Tình trạng trốn thuế,
buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép vẫn diễn ra tràn lan. Trình độ
quản trị của chủ doanh nghiệp còn yếu, chưa nắm rõ và cập nhật sự thay đổi trong
Luật doanh nghiệp trong nước cũng như quốc tế nên trong cạnh tranh thường thua
thiệt so với bạn hàng quốc tế. Vì vậy, trong điều kiện hội nhập, toàn cầu hóa hiện
nay, trình độ thấp của các doanh nghiệp tư nhân cả về trình độ chuyên môn cũng
như năng lực quản lý…đang là một vấn đề nhức nhối, là một nguyên nhân đẩy
nhiều doanh nghiệp tư nhân (thậm chí là tập đoàn kinh tế) vào tình trạng nợ nần,
phá sản và vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến thương hiệu, chất lượng sản phẩm
hàng hóa cũng như hình ảnh của doanh nghiệp, doanh nhân nước ta.
Thứ tư là một số doanh nghiệp lớn lên được là nhờ quá trình đầu tư và
đầu cơ tài sản thay vì phát triển sản xuất, rõ rệt nhất là trong ngành bất động
sản. Thị trường bất động sản phát triển rất nóng trong vài năm gần đây. Giá đất bị
đẩy lên ghê gớm, năm nay dù khó khăn nhưng bong bong bất động sản còn đó
chưa vỡ. Đất đai tích tụ rất nhanh và rất cao vào tay một số doanh nghiệp kinh
doanh bất động sản và những DN có quan hệ với các giới quyết định phân bổ
nguồn lực đất đai. Đông đảo doanh nghiệp tư nhân không có được "lợi thế" đó,
phải thuê lại đất từ những người có đất và chịu giá thuê đất, thuê mặt bằng, thuê
cửa hàng tăng lên hàng năm. Điều đáng nói, một số thương hiệu nội địa mạnh
đang có xu hướng rơi vào tay nhà đầu tư nước ngoài như Kinh Đô đã bán cổ phần
cho Mondelez International. Sắp tới, có thể một số thương hiệu nội địa cũng theo
xu hướng này..

Thứ năm là chậm đổi mới công nghệ, chủ yếu sử dụng công nghệ lạc
hậu từ 2-3 thế hệ, chưa làm chủ được công nghệ nguồn dẫn đến doanh nghiệp
16


giảm năng lực cạnh tranh bởi năng suất lao động thấp, chi phí nhân công
cao. Khi giá thành sản phẩm bị đội lên cao dẫn đến doanh nghiệp gặp khó khăn
trong việc tiếp cận thị trường. Khoảng 90% công nghệ của các doanh nghiệp được
chuyển giao thông qua các doanh nghiệp FDI, chỉ có 10% thông qua các hoạt
động mua bán công nghệ trên thị trường".
Cải thiện công nghệ để nâng cao năng suất sản phẩm là điều cần thiết của doanh
nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam gia nhập TPP và 15 hiệp định thương
mại tự do FTA đi vào hiện thực. Nếu không đổi mới, doanh nghiệp sẽ buộc bị đào
thải và đóng cửa bởi thiếu năng lực cạnh tranh.
2.3 Một số giải pháp kiến nghị
Chính sách của Đảng và nhà nước về khu vực kinh tế tư nhân đã rõ ràng khi
coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế, nhưng sự phát
triển của khu vực kinh tế này vẫn chưa đủ lớn mạnh. Để khu vực này phát triển
tương xứng với tiềm năng của nó thì cần có nhiều giải pháp.
Thứ nhất, cần tạo nhiều điều kiện thuận lợi về cơ chế cho kinh tế tư nhân
được đễ dàng tiếp cận vốn, lãi suất, nợ xấu, mặt bằng sản xuất, thị trường, phân
bổ nguồn lực, tiếp cận tài nguyên....
Hiện nay nhiều doanh nghiệp tư nhân của các ngành chủ chốt ở Việt Nam
còn gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp nhựa, dệt may, da giày, bất động sản và
một số mặt hàng nông, thủy sản, cà phê, sắn, tôm, cá ba sa... Những mặt hàng này
là thế mạnh của Việt Nam, song do thiếu sáng tạo, chậm đổi mới công nghệ sản
xuất, thiếu vốn, thiếu đầu ra nên từ lợi thế các mặt hàng ấy đã biến thành “lệ
thuộc”, “bị động”. Việt Nam phải xem xét lại thị trường xuất khẩu tránh phụ thuộc
vào thị trường Trung Quốc như hiện nay (chẳng hạn như : lúa gạo, cao su thị
trường Trung Quốc chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng, còn

thanh long, vải, bột sắn thị trường này chiếm 90%), cần phải mở rộng thị trường
trong nước để các mặt hàng của doanh nghiệp tư nhân có cơ hội cạnh tranh. Về
năng lực cạnh tranh thì khu vực kinh tế tư nhân rất khác với kinh tế nhà nước. Nếu
kinh tế Nhà nước được Nhà nước hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lơi về mọi mặt (như
thị trường, giá, thuế...; thậm chí nhiều doanh nghiệp bên bờ vực phá sản, hoặc đã
phá sản như Vinashin, Vinalines được Nhà nước khoanh nợ rồi xóa nợ thậm chí
17


chuyển nợ xấu ròi đảo nợ, còn đối với doanh nghiệp tư nhân để tồn tại và phát triển
đều là quá trình tự thân). Sự hỗ trợ của Nhà nước về lãi suất, tín dụng, đất đai, thị
trường đầu ra.... sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân tìm được cơ hội kinh
doanh và có được điều kiện thuận lợi để đầu tư và phát triển vào các nghành và
lĩnh vực có giá trị kinh tế cao và bền vững, để không chỉ cung ứng hàng trong nước
mà tiến xa xuất khẩu hàng hóa ra nhiều thị trường nước ngoài. Việt Nam, đúng
như Chủ tịch Ngân hàng thế giới Jim Yong Kim từng khuyến cáo, cần tạo ra những
điều kiện cần thiết để đảm bảo rằng khu vực KTTN chính là động cơ của sự đổi
mới, từ đó thúc đẩy năng suất và nâng cao hiệu quả.
Thứ hai: cần có sự quyết tâm cao hơn nữa từ mọi cấp,ngành trong việc
nỗ lực cải thiện môi trường thu hút đầu tư, cải cách hành chính và giải quyết
nhanh chóng các khó khăn cho doanh nghiệp,
Có thể nói trong thời điểm hiện nay, điều cần làm nhanh để khu vực kinh tế
tư nhân có cơ hội vươn lên tự chủ là cải cách thể chế, quan trọng nhất là tạo ra
khung khổ pháp lý cho các doanh nghiệp tham gia vào đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng và nhiều lĩnh vực cơ sở hạ tầng và được tham gia vào nhiều tổ chức chính trị
-xã hội, cung cấp dịch vụ công cho đất nước.Vì chưa có những quy chế, chính sách
rõ ràng, nên Việt Nam đang để lỡ nhiều tiềm năng còn ẩn trong dân như: nguồn
tiền,vàng, ngoại tệ dữ trữ, nhân lực, trí tuệ, ý tưởng, khát vọng xây dựng kiến thiết
và phát triển đất nước. Điều cơ bản nhất hiện nay cần làm là xóa bỏ nhanh chóng
tình trạng doanh nghiệp tư nhân phải vay vốn luôn cao hơn so với khối doanh

nghiệp khác từ 1 – 4%,. Cần có chế tài, lãi suất ngân hàng ưu đãi khi cho doanh
nghiệp tư nhân vay vốn để mua máy móc, thiết bị của các nước tư bản phát triển để
tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế, có khả năng cạnh tranh. Bên cạnh
đó, cần phải nhất quán, tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo nên một cơ
chế dân chủ ngay giữa và trong các khu vực kinh tế. Ngay cả đối với doanh nghiệp
FDI, cần phải xem đó như là doanh nghiệp Việt Nam, cần xóa bỏ sự phân biệt về
giá đất, thủ tục đầu tư, thời gian thẩm định dự án để khơi dậy ở các doanh nghiệp
ấy động lực cống hiến lâu dài và chân chính.
Chấm dứt sớm tình trạng phân biệt đối xử trong việc tính các loại thuế như:
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất, nhâp khẩu, thuế VAT trong các loại hình
doanh nghiệp. Khuyến khích những doanh nghiệp tư nhân đầu tư, phát triển sản
18


xuất các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, công nghệ thông
tin. Đặc biệt cần khuyến khích công nghiệp phụ trợ, bởi vì ngành công nghiệp phụ
trợ Việt Nam vào thời điểm hiện nay sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động,
đóng góp nhanh vào tăng trưởng GDP cho đất nước. Trung Quốc trước khi trở
thành một cường quốc thứ hai trên thế giới cũng xuất phát từ phát triển công
nghiệp phụ trợ và hiện nay cũng rất ưu tiên phát triển lĩnh vực này. Thế nhưng ở
Việt Nam, lợi nhuận mà khu vực này mang lại ở nước ta hiện nay chủ yếu do
doanh nghiệp FDI nắm giữ. Nhà nước cần tạo điều kiện để nâng tỷ lệ nội địa
nguyên, nhiên vật liệu qua những chính sách khuyến khích, bảo hộ khi doanh
nghiệp gặp khó khăn vì chủ yếu do điều kiện đem lại. Ông Phạm Xuân Hồng, Phó
Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam, đã nêu lên một thực tế rằng nửa đầu năm
2014, kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng lợi nhuận và hiệu quả giảm do cạnh tranh
lớn. Nhà nước cần phải khai thác lợi thế sau khi Việt Nam gia nhập từ TPP (Hiệp
định đối tác kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương) và FTA(Hiệp định
Thương mại tự do) tập trung phát triển công nghiệp phụ trợ trong thời gian tới.
Thứ ba: Đảng, Nhà nước cần sớm hoàn thiện cơ chế, chính sách cho khu

vực KTTN có tầm chiến lược lâu dài ít nhất từ 15 – 20 năm
Khi nắm bắt được chiến lược, doanh nghiệp sẽ ổn định phát triển trên cơ sở
đường lối, chính sách mới, để doanh nghiệp có kế hoạch, lộ trình, đầu tư khai thác
vận dụng một cách triệt để vào từng ngành, lĩnh vực, địa phương nhằm phát huy
phát triển một cách hiệu quả, bền vững. Đồng thời, nhà nước cần phải xây dựng,
hoàn thiện các hội, hiệp hội nghề nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục yếu
kém, bổ sung năng lực cho các DNTN trong các lĩnh vực tìm kiếm thị trường, đổi
mới công nghệ, cải tiến quản lý, mở rộng liên kết giữa các doanh nghiệp...
Việc hoàn thiện môi trường pháp lý là cần thiết nhưng chúng ta cũng phải tạo dựng
và duy trì tình ổn định của các chính sách, hạn chế sự thay đổi quá mức cần thiết để các
doanh nghiệp yên tâm phát triển kinh doanh. Khi có sự thay đổi nhanh trong một số chính
sách như về thuế, đất đai, xuất khẩu…sẽ khiến nhiều nghành bị động và chịu tổn thất đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Việc ổn định các chính sách vĩ mô cũng tạo nên sự ổn định
trong môi trường kinh doanh, làm giảm đi sự khó khăn của môi trường kinh doanh trong
nước. Sự khó khăn trong môi trường kinh doanh thể hiện trước hết khi gia nhập thị
trường doanh nghiệp của kinh tế tư nhân phải mất nhiều thời gian và chịu chi phí khá cao,
19


cao hơn các nước khác trong khu vực. Cho đến nay khi gia nhập thị trường doanh nghiệp
phải qua sáu bước là: đăng kí kinh doanh; khắc dấu; đăng kí mã số thuế; đóng thuế môn
bài; mua hóa đơn lần đầu và đăng báo trong đó có nhiều thủ tục rườm già và bây giờ
không còn thực sự cần thiết, vì vậy chúng ta cần phải đơn giản hóa các thủ tục, bỏ các thủ
tục không còn phù hợp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh. Các cơ quan
Nhà nước phải tạo điều kiện để doanh nghiệp được tham gia đóng góp ý kiến vào nhiều
văn bản, chính sách khác nhau mới có thể tiếp thu được ý kiến đóng góp của các doanh
nghiệp, biết được điều các doanh nghiệp thực sự cần để xây dựng các văn bản thực sự sát
với thực tế. Cơ chế chính sách phuơng hướng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân cần
phù hợp với lộ trình Việt Nam gia nhập AFTA và WTO, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế.

Thứ tư: Bản thân các doanh nghiệp cần nỗ lực tối đa để vượt qua được
sự trì trệ hiện có, không nên quá trông chờ, dựa dẫm vào những thuận lợi từ cơ
chế, chính sách của nhà nước.
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, bản thân doanh nghiệp cần phải nỗ
lực tối đa, phải chủ động khắc phục khó khăn, không thể cứ mãi trông chờ vào các
cơ hội thuận lợi của Nhà nước, cần phải nỗ lực vươn lên để khẳng định mình, có ý
chí phấn đấu, chủ động tìm kiếm thị trường, áp dụng những thành tựu công nghệ
mới vào sản xuất, có tầm nhìn chiến lược, chú trọng sản xuất hàng hóa đạt chất
lượng quốc tế, chuẩn bị cho việc hội nhập sâu rộng. Doanh nghiệp phải lấy chữ
TÂM, chữ TÍN, THƯƠNG HIỆU làm đầu. Nếu giữ được hình ảnh đó, dưới góc độ
nào họ cũng rất dễ tin cậy trong bước đường kinh doanh và trong tương lai sẽ sớm
khẳng định là lực lượng trụ cột của nền kinh tế đất nước.
Doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam chủ yếu vẫn là doanh nghiệp nhỏ và vừa,
đang còn nhiều yếu kém, nhất là về khả năng tìm hiểu thị trường, trình độ lập dự
án, xác định chiến lược kinh doanh; khả năng ứng dụng khoa học, công nghệ mới;
cũng như trình độ, kỹ năng quản lý doanh nghiệp, v.v... Khó khăn lớn nhất hiện
nay là nguồn nhân lực: là trình độ hạn chế của đội ngũ doanh nhân cũng như của
người lao động trong doanh nghiệp khi phải đối mặt với yêu cầu nâng cao khả
năng cạnh tranh của từng sản phẩm, dịch vụ cũng như của cả doanh nghiệp. Kinh
tế tư nhân có cội nguồn từ cá nhân, vì vậy, muốn phát triển kinh tế tư nhân phải
dựa trên nền tảng phát triển các giá trị cá nhân, phát triển năng lực cá nhân, phát
20


triển con người. Có thể nói, không có sự phát triển năng lực cá nhân thì sẽ không
có sự phát triển kinh tế tư nhân.
Mỗi doanh nhân phải xem lại mình, nhận rõ chỗ mạnh, chỗ yếu, để đề ra cho
được những giải pháp thiết thực, bảo đảm hiệu quả. Mỗi doanh nghiệp đề ra cho
mình một chiến lược kinh doanh phù hợp với tình hình mới, khi bao cấp không
còn, hàng rào bảo hộ phải gỡ bỏ ... Mỗi doanh nghiệp tư nhân phải đề cao văn hóa

kinh doanh, tôn trọng pháp luật, tôn trọng người tiêu dùng, tôn trọng bạn hàng,
khắc phục tình trạng trốn thuế, lậu thuế, kinh doanh bất hợp pháp.
Các doanh nghiệp tư nhân có thể liên kết hợp tác với nhau, với Nhà nước, với
các thành phần kinh tế khác để nâng cao tiềm lực của mình cũng như khả năng
cạnh tranh của mình (doanh nghiệp nhỏ có thể làm vệ tinh cho các doanh nghiệp
lớn, sau này có thể phát triển lên thành những mạng lưới các doanh nghiệp với
nhiều chủng loại đa dạng về quy mô và công nghệ để khai thác các lợi thế của
mình). Các doanh nghiệp cần có những chiến lược ưu tiên để thu hút nhân tài, lao
động có tay nghề cao như điều kiện làm việc, tiền lương…
Doanh nghiệp tư nhân ngày càng tăng nhanh về số lượng và chất lượng, yêu
cầu cắp bách được đặt ra là phải nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực
cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho đội ngũ doanh nhân
thể hiện tài năng kinh doanh của mình; nói rộng ra, doanh nghiệp tư nhân trở thành
nơi đào tạo một đội ngũ những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, những tài năng kinh
doanh trong nước và vươn ra tầm thế giới của đất nước. Nhân tài quản lý kinh tế,
quản lý doanh nghiệp chỉ có thể nảy nở trong quá trình vật lộn trên thương trường,
trưởng thành trong cạnh tranh gay gắt. Vì thế, mỗi doanh nhân ngày nay chú trọng
bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát huy cao nhất vốn con người trong doanh nghiệp
vào việc hiến kế, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, chính là vừa đáp
ứng yêu cầu trước mắt, song không kém phần quan trọng là vừa góp phần đào tạo
nhân tài cho công cuộc quản trị kinh tế đất nước trong tương lai.

KẾT LUẬN
21


Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc chọn cho mình một loại hình kinh
doanh phù hợp luôn là vấn đề được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu. Việc xác
định đúng mô hình kinh doanh chiếm khoảng 70% thành công của một doanh
nghiệp, chính vì thế các nhà đầu tư phải cân nhắc thật kĩ trước khi ra quyết định

kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp có thủ tục, điều
kiện thành lập dễ dàng và nhanh chóng; đáp ứng cho đối tượng là các nhà đầu tư
nhỏ lẻ muốn tự mình quyết định mọi hoạt động kinh doanh, ít bị ràng buộc bởi các
điều khoản pháp lý… loại hình doanh nghiệp này hiện nay vẫn đang phát triển
mạnh mẽ, đem lại nguồn thu lớn cho nhà nước (đóng thuế thu nhập doanh nghiệp).
Thông qua bài tiểu luận này, người thực hiện hy vọng mọi người phần nào hiểu rõ
hơn tầm quan trọng của việc lựa chọn loại hình kinh doanh và một số ưu, nhược
điểm, thủ tục thành lập, thực trạng sản xuất kinh doanh và dịch vụ … của loại hình
DNTN. Vì sự nghiên cứu còn chưa đầy đủ và thời gian có hạn Kính mong thầy và
các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến để tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !!!

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật doanh nghiệp 2005, 2014
2. Tài liệu bài giảng Chủ thể kinh doanh, Th.s – Ls. Lý Khánh Hòa.
3. Giáo trình luật kinh doanh, TSKH Đặng Công Tráng NXB đại học công
nghiệp TPHCM, 2017.
4. Ba thập kỉ doanh nghiệp tư nhân Việt, dangthongpro, www.bgtv.vn.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I và phần II, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh (Chủ biên), Nguồn lực và động lực cho phát triển
nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020, Nxb Chính

trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.
9. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (2014) Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
10. Viettinlaw.com.
11. Luanvan.net.vn.
12. Dangkykinhdoanh.gov.vn.
13. Http://www.cpv.org.vn
14. Http://www.kinhtedubao.com.vn
15. Http://fica.vn
16. Http://vineconomv.vn.
23



×