Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

KHÓA LUẬN tốt NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.54 KB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT

……

NGUYỄN THANH TÂM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT
CHO HỌC SINH KHIẾM THỊ LỚP 1 CHUYÊN BIỆT

CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT

Người hướng dẫn khoa học: Ths.Đào Thị Phương Liên

Hà Nội, 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên, Thạc sĩ Đào Thị Phương Liên,
người đã giảng dạy chúng tôi rất nhiều trong phân môn và tận tình chỉ bảo, hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Giáo dục đặc biệt – trường
ĐHSP Hà Nội đã quan tâm, giảng dạy chúng tôi trong suốt quá trình học tập tại trường
và các thầy cô đã đóng góp ý kiến quý báu cho đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ, giảng viên, tập thể học sinh trường
Nuôi dạy trẻ em Khiếm thị Hải Phòng. Xin cảm ơn các bạn sinh viên lớp A – K63
khoa Giáo dục đặc biệt đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Khóa luận chắc chắn còn nhiều thiếu sót, tôi mong nhận được đóng góp chân
thành của các thầy cô và các bạn sinh viên.
Hà nội, ngày 26 tháng 4 năm 2017


Tác giả

Nguyễn Thanh Tâm
MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐTC: hoạt động thể chất
2

2
2


HSKT: học sinh khiếm thị
CB: chuyên biệt
ĐC: đối chứng
TN: thực nghiệm
HS: học sinh
GV: giáo viên

3

3
3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em hôm nay – thế giới ngày mai, trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai
của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mọi trẻ em

sinh ra đều có quyền được chăm sóc và giáo dục, được tồn tại và phát triển, được chấp
nhận và yêu thương trong cộng đồng. Trẻ em khuyết tật cũng có quyền được chăm sóc
đặc biệt, được thừa hưởng quyền giáo dục bình đẳng, được hòa nhập xã hội, phát triển
nhân cách, thể lực để giúp các em tham gia tích cực vào cộng đồng. Một trong những
Công ước quan trọng nhất liên quan đến trẻ em là Công ước Liên Hiệp Quốc
(UNICEF) năm 1989 về quyền trẻ em, điều 23 nêu rõ: “…Trẻ khuyết tật có quyền
được chăm sóc đặc biệt; được giáo dục và đào tạo để tự giúp bản thân; để sống một
cuộc sống đầy đủ, phù hợp đạo đức; để đạt tới mức độ tối đa của sự tự chủ và hòa nhập
xã hội”. Xã hội tạo mọi điều kiện để trẻ khuyết tật nói chung và trẻ khiếm thị nói riêng
có quyền được hưởng một cuộc sống đầy đủ, đáp ứng mọi nhu cầu và khả năng phát
triển của trẻ, để trẻ dễ dàng hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng. Trong những năm gần
đây, lĩnh vực giáo dục đặc biệt được chú trọng nhiều hơn, có những nghiên cứu có ý
nghĩa và mang lại giá trị thực tiễn cao. Đối tượng trẻ khiếm thị được quan tâm hơn
trước, số lượng trẻ khiếm thị được đến trường học ngày càng đông đồng thời các em
được nhìn nhận ở những khía cạnh tích cực hơn.
Khi giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và đánh giá một cách
toàn diện sâu dắc thì công tác chăm sóc giáo dục trẻ em lứa tuổi tiểu học ngày càng
mang ý nghĩa nhân văn cụ thể, càng trở thành đạo lý của thế giới văn minh. Hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến Sự nghiệp Giáo dục, trong đó có giáo dục
phổ thông, mà cấp Tiểu học là nền tảng. Bởi, ngay sau khi kết thúc tuổi mẫu giáo các
em bước vào quá trình học tập theo môn học. Trong đó, giáo dục thể chất cho trẻ em là
nội dung quan trọng đặt nền móng cho sự phát triển thể lực, góp phần thúc đẩy sự phát
triển toàn diện nhân cách cho các em. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục thể
chất, nhiệm vụ cơ bản của giáo dục tiểu học là đào tạo ra những con người thông
minh, năng động, sáng tạo, có sức khỏe và lòng nhiệt tình cao để thích ứng với sự phát
triển chung của đất nước.

4

4



Trẻ em lứa tuổi tiểu học còn nhỏ, cơ thể non nớt nên các em phụ thuộc nhiều vào
giáo viên. Giáo viên giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, trợ giúp, tạo cơ hội cho
học sinh tham gia các hoạt động thể chất. Chính vì vậy, giáo viên cần lựa chọn các
phương pháp tổ chức HĐTC phù hợp với đặc điểm của mỗi HS. Khả năng của cơ thể,
sức khỏe, sự phát triển thể lực của HS cùng lúa tuổi có sự khác nhau, đặc biệt là đối
với HSKT. HSKT cũng giống như học sinh bình thường, khi đi học lớp 1 các em cũng
được làm quen với các HĐTC. Tuy nhiên đa số các em có thể chất không được khỏe
mạnh như những bạn bình thường ở cùng độ tuổi. Điều đó khiến HSKT có xu hướng
thụ động khi vận động. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để giúp các em
HSKT chủ động tích cực hơn trong các HĐTC là vấn đề cần thiết. Hiện nay, các
nghiên cứu chỉ mới đề cập tới vấn đề tổ chức, xây dựng hoạt HĐTC cho HS bình
thường mà chưa đề cập đến đối tượng HSKT.
Từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp tổ chức hoạt
động thể chất cho học sinh khiếm thị lớp 1 chuyên biệt” làm đề tài nghiên cứu khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB, trên cơ
sở đó đề xuất một số biện pháp tổ chức HĐTC nhằm phát triển tính tích cực vận động cho
HSKT lớp 1 CB.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
4. Giả thuyết khoa học
Do khiếm khuyết về thị giác, HSKT thường gặp khó khăn, không tự tin và ít chủ
động khi tham gia vào các HĐTC. Nếu đề xuất được một số biện pháp tổ chức HĐTC
phù hợp thì sẽ giúp HSKT tự tin và tích cực vận động hơn.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận và thực trạng về quá trình tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1
CB.
5

5


- Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp tổ chức HĐTC nhằm phát triển tính
tích cực vận động của HSKT lớp 1 CB.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Khách thể khảo sát và thực nghiệm
- Khách thể khảo sát: 10 giáo viên và tất cả HSKT lớp 1.
- Khách thể thực nghiệm: 10 HSKT lớp 1 CB.
6.2. Địa bàn nghiên cứu
Trường Nuôi dạy trẻ em khiếm thị Hải Phòng.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Mục đích: Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài, làm rõ các khái niệm và tìm hiểu
lịch sử nghiên cứu vấn đề.
- Cách tiến hành: Thu thập, đọc, phân tích, lựa chọn, tổng hợp các thông tin từ
sách, báo, khóa luận, tài liệu bài giảng ở dạng văn bản in và điện tử,…
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Mục đích: Thu thập ý kiến của giáo viên phụ trách HĐTC, giáo viên chủ nhiệm
về thực trạng tổ chức các hoạt động, tính hiệu quả và khả thi của các HĐTC.
- Cách tiến hành: Thiết kế một bảng hỏi với những câu hỏi hướng tới mục đích
điều tra, hướng dẫn giáo viên sử dụng bảng hỏi.
7.2.2. Phương pháp quan sát
- Mục đích: Tìm hiểu thực trạng khả năng, sở thích, tính tích cực khi tham gia

HĐTC của HSKT lớp 1 CB.
- Cách tiến hành: Quan sát học sinh trong các giờ học thể dục, hoạt động ngoài
giờ, giờ ra chơi…
7.2.3. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ
- Mục đích: Tìm hiểu hồ sơ của một số học sinh tham gia thực nghiệm.
- Cách tiến hành: Đọc hồ sơ của học sinh để thu thập, ghi chép, phân loại và sử
dụng những thông tin cần thiết liên quan đến đề tài.
7.2.4. Phương pháp phỏng vấn
- Mục đích: Phỏng vấn GV về các vấn đề liên quan đến đề tài.
6

6


- Cách tiến hành: Trao đổi trực tiếp, phỏng vấn GV, cha mẹ và ghi chép thông tin
thu được sau buổi phỏng vấn, sau đó tổng hợp lại.
7.2.5. Phương pháp thực nghiệm
- Mục đích: Xác định hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất.
- Cách tiến hành: Lập kế hoạch thực nghiệm sau khi đề xuất các biện pháp, phân
tích kết quả thực nghiệm.
7.3. Phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học
- Xử lí số liệu bằng phương pháp thống kê, các kết quả thu được thể hiện qua các
bảng biểu.

7

7


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HĐTC

CHO HSKT LỚP 1 CB
1.1. Cơ sở lí luận của biện pháp tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
1.1.1.Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
HĐTC có mặt trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người và ở mọi lứa
tuổi. Đối với trẻ nhỏ, HĐTC làm nên nội dung cuộc sống của các em, giúp các em
năng động, tự tin hơn trong cuộc sống. Nhiều nhà nghiên cứu đã gọi HĐTC nói chung
và các hoạt động thể dục thể thao, trò chơi vận động nói riêng là những phép màu của
thế giới, là phương tiện giáo dục toàn diện cho HS. Các hoạt động thể dục thể thao, trò
chơi vận động vừa là nội dung dạy học vận động, vừa là hình thức vui chơi, nghỉ ngơi
tích cực được HS rất ham thích. Chính vì vậy có nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học liên quan đến các HĐTC như trò chơi vận động, thể dục thể thao, hoạt
động chung có mục đích giáo dục thể chất…
P.Ph.Lexgáp cho rằng, cơ sở để lựa chọn bài tập thể chất là phải tính đến những
đặc điểm giải phẫu sinh lý và tâm lý, mức độ khó dần và đa dạng của các bài tập thể
chất. Ông coi giáo dục thái độ tự giác thực hiện công việc với sự tiêu hao ít sức lực và
sự cố gắng vượt qua những trở ngại là nhiệm vụ cơ bản trong việc dạy các bài tập thể
chất. Ông yêu cầu giáo viên phải chuẩn bị và tiến hành có hệ thống các tiết học. Trong
quá trình dạy học, giáo viên cần tăng dần sức chịu đựng cơ thể, thay đổi bài tập thể
chất và đa dạng hóa chúng. E.G.Levi – Gorinnhépxkaia – bác sĩ, nhà giáo dục và
A.I.Bưcốpva với tác phầm “Rèn luyện cơ thể trẻ” và “Sự phát triển vận động cơ bản
của trẻ mầm non” đã giúp các nhà nghiên cứu có cơ sở xây dựng hệ thống bài tập thể
chất phù hợp với trẻ mầm non. Một trong những công trình đầu tiên về hình thành kỹ
năng vận động ở trẻ là công trình nghiên cứu của Đ.V. Khúckhlaieva. Bà xác định ý
nghĩa và mối tương quan của phương pháp dạy học với việc hình thành kỹ năng vận
động ở trẻ 3 – 7 tuổi. Năm 1972, A.V.Kenheman và Đ.V. Khúckhlaieva đã viết cuốn
sách: “Lí luận và phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mầm non”. Đây là sự đúc kết
của hàng trăm công trình nghiên cứu trong lĩnh vực tổ chức va giáo dục thể chất cho
trẻ.[8].
Ở Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về HĐTC nói chung và các
hình thức tổ chức HĐTC như trò chơi vận động, thể dục thể thao… như:

8

8


- “Tổ chức trò chơi vận động cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thực trạng và giải pháp” –
ThS.Bùi Thị Việt. Luận văn thạc sĩ mầm non năm 1996.
- “Một số biện pháp tổ chức vận động theo nhạc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm
non” – Đặng Thị Lê Na. Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục năm 2011.
- “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thể dục sáng cho trẻ mẫu
giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non” – Lê Thị Hồng Nhung. Luận văn thạc sĩ khoa học
giáo dục năm 2009.
- “Một số biện pháp kích thích hứng thú cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong quá trình
tổ chức trò chơi vận động” – Trần Thị Nguyệt.
- “Một số biện pháp tổ chức trò chơi vận động nhằm rèn luyện các phẩm chất ý
chí cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi” – Phạm Thị Kiều Anh.
- “Tổ chức hoạt động tập thể nhằm phát triển kỹ năng hợp tác cho học sinh khiếm
thị lớp 3 chuyên biệt – Nguyễn Thị Hằng.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam đã quan
tâm đến những khía cạnh khác nhau về HĐTC. Tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên
cứu về vấn đề tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB. Vì vậy, tìm hiểu biện pháp tổ chức
HĐTC cho HSKT lớp 1 CB là vấn đề cần được nghiên cứu để phục vụ cho công tác
giáo dục tại các trường tiểu học hòa nhập nói chung và các trường CB nói riêng.
1.1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.2.1. Trẻ khiếm thị và HSKT lớp 1
- Trẻ khiếm thị là trẻ dưới 16 tuổi có khuyết tật thị giác, sau khi đã có các phương
tiện trợ thị vẫn gặp nhiều khó khăn trong các hoạt động (sinh hoạt, học tập, vui
chơi…) cần sử dụng mắt.[6]
- Trẻ khiếm thị có thể phát triển như mọi trẻ bình thường khác, nếu được chăm
sóc, giáo dục đúng phương pháp, phù hợp với năng lực, đặc điểm nhận thức của cá

nhân.
- HSKT lớp 1 là trẻ có khuyết tật thị giác, sau khi đã có các phương tiện trợ thị
vẫn gặp nhiều khó khăn trong các hoạt động cần sử dụng mắt đang học lớp 1.
- Tổ chức Y tế Thế giới – 2010 (WHO- 2010) đưa ra bảng phân loại các mức độ
thị giác theo ICD- 10, phân loại các tổn thương:
Loại
9

Thị lực ở mắt tốt
9

Khả năng thông

Khả năng thực


Nhẹ hoặc không có tổn

6/6 (1.0) (70/70)–

thương thị giác
0
Tổn thương thị giác vừa

6/18 (0.3) (20/70)
6/18 – 6/60
(3/10) (0.3)(20/70)

phải
1

Tôn thương thị giác

6/60 – 3/60 (1/20)
(0.05) (20/400)

nghiêm trọng
2

3

3/60 – 1/60 (0.02)
5/300 (20/1200)
1/60 – St (+)*
( có cảm nhận ánh


4

sáng)
St (-) không cảm


5

nhận ánh sáng

9

thường
Thị giác bình


hành
Thị giác bình

thường

thường

Thị giác giảm

Nhìn kém

Thị giác giảm
nặng

Nhìn kém



Nhìn kém



Nhìn kém





Không xác định hoặc chưa kiểm tra


( * Hoặc đếm ngón tay (CF) tại 1 mét)
1.1.2.2. Thể chất và HĐTC
Thể chất là chất lượng thân thể con người, đó là những đặc trưng tương đối ổn
định về hình thái và chức năng cơ thể được hình thành và phát triển do bẩm sinh di
truyền và điều kiện sống

[7]

, có thể sử dụng vào thực hiện một việc nào đó trong học

tập, lao động, thể thao…
HĐTC là những hoạt động của cơ thể có tiêu hao năng lượng. HĐTC cho HS tiểu
học lớp 1 mang nhiều màu sắc khác nhau, đa dạng về hình thức, phong phú về thể loại
và phù hợp với hứng thú của HS. Trong đó một số loại hình HĐTC mà HS tiểu học có
hứng thú và phổ biến trong các trường là: thể dục, thể thao, trò chơi vận động, du lịch
– thể thao…
- Hoạt động thể dục là sự tác động có chọn lọc lên các bộ phận cơ thể, lên các
nhóm cơ bắp, khớp dây chằng và các trạng thái của chúng như co, giãn, căng của cơ
bắp, đồng thời chúng còn có tác động đến sự hoạt động của các cơ quan cơ thể, tạo khả
năng xác định trương lực, sự đa dạng của bài tập, có thể tập với dụng cụ, tập theo
nhạc, hội thao thể dục…
10

10


- Hoạt động thể thao có nguồn gốc từ các hoạt động thể dục, thể hiện tính chuyên
biệt cao. Hoạt động thể thao là hệ thống các hoạt động thể chất nhằm mục đích đạt
thành tích cao khi tham gia vào các cuộc thi. Thể thao đòi hỏi những yêu cầu cao về

thể lực và sức mạnh tinh thần của người tập. Do đó các hoạt động thể thao chỉ được
phép tiến hành với các độ tuổi nhất định và trong những điều kiện phù hợp với sự phát
triển và chuẩn bị thể lực. Với HSKT lớp 1, người ta tổ chức những hoạt động thể thao
đơn giản như: đi xe đạp 4 bánh có người dẫn đường, đá bóng chuông…
- Trò chơi vận động được phân biệt với các hoạt động thể chất khác bởi đặc điểm tổ
chức hoạt động chung của những người chơi và người điều khiển. Trong trò chơi vận
động, hoạt động của HS được tổ chức trên cơ sở theo chủ đề có hình ảnh, hội dung hoặc
nhiệm vụ vận động của trò chơi đã được dự tính trước nhằm đạt được mục đích trong tình
huống chơi thay đổi đột ngột. Hoạt động của trò chơi vận động mang đặc điểm tổng hợp
và được xây dựng dựa trên sự kết hợp các thao tác vận động khác nhau như chạy, nhảy,
bò…Trong khi chơi, kĩ năng vận động của HSKT được củng cố, HS phát triển tố chất vận
động và được rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí.
- HĐTC sử dụng trong du lịch – thể thao nhằm mục đích củng cố kĩ năng vận
động và phát triển tố chất thể lực trong điều kiện tự nhiên. Người ta thường tổ chức
cho HSKT những cuộc dạo chơi kết hợp sử dụng các HĐTC.
1.1.2.3. Biện pháp và biện pháp tổ chức HĐTC
Theo từ điển Tiếng Việt: Biện pháp là cách thức tiến hành, giải quyết một hành
động cụ thể.
Biện pháp là một bộ phận của phương pháp, là yếu tố hợp thành của phương
pháp và phụ thuộc vào phương pháp. Tuy nhiên, trên thực tế giáo dục, phương pháp và
biện pháp có mối quan hệ mật thiết với nhau đến nỗi khó phân biệt được ranh giới giữa
chúng. Trong tình huống cụ thể chúng có thể chuyển hóa cho nhau, có lúc phương
pháp là con đường độc lập. Để giải quyết nhiệm vụ giáo dục, có lúc phương pháp chỉ
là một biện pháp có tính riêng biệt, còn biện pháp cũng có thể giải quyết được các
nhiệm vụ khác nhau như một phương pháp.
Như vậy:
- Biện pháp là cách làm cụ thể, cách giải quyết một vấn đề cụ thể hay hướng tới
giải quyết từng phần hay toàn bộ một nhiệm vụ nào đó.
11


11


- Biện pháp tổ chức HĐTC là cách làm, cách tiến hành tổ chức một HĐTC của
giáo viên và học sinh nhằm giải quyết nhiệm vụ nào đó.
1.1.2.3. Giáo dục CB.
Giáo dục CB là phương thức giáo dục tách biệt trẻ em có cùng dạng khuyết tật
vào cơ sở giáo dục riêng

[11]

. Những trẻ khuyết tật có cùng dạng, cùng mức độ được

học theo một chương trình riêng với phương pháp riêng biệt.
1.1.3. Đặc điểm phát triển của HSKT
1.1.3.1. Đặc điểm nhận thức
Như mọi trẻ em, HSKT luôn tò mò và thích khám phá thế giới xung quanh.
Ngoài khiếm khuyết về thị giác, trí tuệ, các giác quan còn lại và các cơ quan vận động
của HSKT không có sự khác biệt so với các bạn sáng mắt. Bản thân khuyết tật thị giác
không ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu về mặt nhận thức của HSKT tuy nhiên nó ảnh
hưởng đến cách tiếp thu của các em.
Nhận thức thông qua các giác quan khác
Theo quy luật bù trừ chức năng, các giác quan còn lại (thính giác, khứu giác, xúc
giác,…và thị giác còn lại) cũng có thể giúp HSKT cảm nhận được các đặc điểm của sự
vật, hiện tượng cũng như không gian, thời gian của thế giới khách quan. HSKT đã phải
tập trung cao độ và luyện tập sử dụng các giác quan cảm giác khác ngoài thị giác một
cách hiệu quả. Do vậy, cảm giác nghe, cảm giác sờ, cảm giác cơ khớp vận động, cảm
giác rung cảm, cảm giác mùi vị và cảm giác thăng bằng của HSKT rất tinh tế. Bằng
cảm giác rung cảm và đoán biết hướng gió mà các em có thể nhận ra vật chắn lối hay
có bờ tường trước mặt, mặc dù không biết chính xác là vật gì như khi HS sáng nhìn

bằng mắt.
Khả năng chú ý
Do bị mất và suy giảm thị giác nên quá trình tri giác của HSKT chậm hơn so với
HS sáng. Sự thiếu trọn vẹn và chậm hơn trong quá trình tri giác đã kéo theo những ảnh
hưởng liên quan đến sự chú ý về khối lượng, cường độ, tốc độ, quá trình phân tán và
tập trung (Corn & Koenig, 1996). Những vấn đề liên quan đến chú ý chung của HSKT
cũng bị ảnh hưởng.
Khả năng ghi nhớ
Hình ảnh thị giác bao giờ cũng được khắc sâu hơn, dễ nhớ hơn, nhiều hơn, trọn
12

12


vẹn, logic, nhanh hơn và có chất lượng hơn so với thông tin từ các giác quan khác như
xúc giác, thính giác, vị giác, khứu giác…Mặc dù vậy, HSKT có khả năng ghi nhớ tốt
những gì nghe được, sờ thấy và nhớ lâu những khái niệm, con số, những nội dung có
tính chất trừu tượng và logic ngôn từ. Đối với ngôn ngữ, do khả năng ghi nhớ tốt nên
HSKT bắt chước người khác nói và ghi nhớ được cả những từ nghĩ ngay cả khi các em
không hiểu nhưng do được nghe nhiều lần và tự nhớ được.
Khả năng tư duy hình tượng
HS sáng thường tri giác bằng mắt để hình thành nên các hình ảnh, biểu tượng lưu
lại trong trí nhớ. Đối với HSKT thì biểu tượng, hình ảnh mang tính đứt đoạn, sơ sài,
không trọn vẹn, mức độ khái quát thấp. Đặc biệt, các hình ảnh về màu sắc đều là mang
tính dập khuôn, hình thức đối với HSKT. Do vậy, tư duy hình tượng của các em gặp
nhiều hạn chế, nhiều biểu tượng, khái niệm mang tính chất chắp vá, rời rạc. Ngoài ra,
do bị mất thị giác nên tư duy của HSKT thường bị hạn chế về số lượng cũng như chất
lượng nhận thức cảm tính. Những trải nghiệm ngẫu nhiên từ thị giác bị thiếu hụt nên
nhận thức gặp khó khăn, đặc biệt trong quá trình phân tích, xếp loại, so sánh, tổng
quát, khái quát hóa, trừu tượng hóa…

Khả năng tưởng tượng
HSKT hạn chế trong việc kiến tạo và hình thành những hình ảnh mới trong tưởng
tượng. Do biểu tượng sơ sài, đứt đoạn nên chưa đủ cơ sở cho việc xây dựng những
hình ảnh mới trong tưởng tượng. Khả năng tưởng tượng nghèo nàn của HSKT thể hiện
rõ nét nhất bởi “Giấc mơ của trẻ mù bẩm sinh không có sự tồn tại của màu sắc” [6]. Tuy
nhiên, tưởng tượng của HSKT vẫn được sử dụng trong quá trình hoạt động và bù đắp
cho thiếu hụt của tri giác và sự nghèo nàn của cảm giác.
Có thể nói rằng, khiếm khuyết thị giác làm giảm thiểu cảm giác, khó khăn và
nghèo nàn trong nhận thức cảm tính dẫn đến những hình ảnh tiêu cực trong quá trình
phát triển tư duy, nhận thức của HSKT. Các em cần được tạo điều kiện và được hướng
dẫn để sử dụng các giác quan còn lại và cần nhiều thời gian hơn so với HS sáng mắt
trong việc tìm hiểu và nhận thức thế giới xung quanh.
1.1.3.2. Đặc điểm ngôn ngữ và giao tiếp xã hội
Ngôn ngữ nói là một công cụ giao tiếp chính của HSKT. Tuy nhiên, do thiếu hụt
thị giác nên ngôn ngữ của HSKT cũng có những điểm khác biệt. HSKT có khả năng
13

13


ghi nhớ, bắt chước lời nói của người khác nhưng ít có sự sử dụng kết hợp nhiều
phương tiện ngôn ngữ cùng một lúc. Khi nói, ít có cử chỉ điệu bộ minh họa đi kèm làm
cho cách nói hơi cứng nhắc. Các em hay sử dụng lặp lại từ do vốn từ hạn chế. Ngữ
điệu của lời nói đôi khi không đúng với mục đích nói năng. HSKT cũng có xu hướng
sử dụng từ với những nghĩa quá rộng hoặc quá hẹp, thậm chí có khi sử dụng từ nhưng
lại không có ý nghĩa cụ thể (ngôn ngữ rỗng). Không hạn chế trong việc hiểu được
trạng thái, cảm xúc của người khác bằng nét mặt, điệu bộ nên HSKT ít có sự điều
chỉnh trong giao tiếp, ví dụ như không thấy nét mặt khó chịu của người khác để dừng
lại việc nói năng của mình. Do hạn chế trong việc xác định khoảng cách, không gian
và tư thế khi giao tiếp nên đôi khi HSKT đứng quá gần hoặc quá xa với người giao

tiếp; khi nói quá to hoặc quá nhỏ; khi có những hành vi đi kèm không phù hợp như
nghểnh mặt lên, hướng tai về phía người nói, dụi mắt khi nói chuyện…Khi viết, HS
nhìn kém thường cần sử dụng cỡ chữ phóng to, độ tương phản tốt; HS mù sử dụng chữ
nổi Braille để đọc và viết. Do hạn chế cơ hội tri giác ngẫu nhiên chữ viết nơi công
cộng (biển quảng cáo, khẩu hiệu, biển bảng chỉ dẫn,…) và đọc và viết bằng chữ nổi,
chữ phóng to nên tốc độ viết chậm hơn HS bình thường (một số em do sự nhạy cảm
xúc giác còn chưa tốt nên tốc độ đọc còn chậm). HSKT nghe thế nào, nói và viết thế
đó, không và ít có cơ hội tri giác chữ viết của người khác nên các em hay viết sai chính
tả. Điều này cũng ảnh hưởng đến quá trình cảm thụ và biểu đạt của các em khi sử dụng
ngôn ngữ.
Có sự khác nhau rất lớn với HS sáng về chất lượng phản ánh khi HSKT nói và
hiểu về các khái niệm. Có nhiều trường hợp, HSKT có khả năng nói nhiều từ ngữ khác
nhau, thậm chí rất văn hoa nhưng lại không hiểu nội dung, lời nói mang nặng tính hình
thức, dập khuôn, bắt chước một cách máy móc qua ngôn ngữ nói của người khác. Vốn
từ có thể phong phú về số lượng nhưng nghèo nàn về chất lượng (nội dung, hình ảnh
biểu đạt).
Ngoài ra, HSKT còn ảnh hưởng tới một vài khía cạnh riêng lẻ của tình cảm hay
mức độ cảm xúc nên đã chi phối, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng giao tiếp xã hội.
Các em thường kém tích cực trong các hoạt động tập thể, thiếu sự hòa đồng trong các
mối quan hệ liên nhân. HSKT luôn tự ti, sống thu mình, thờ ơ với xung quanh, thụ
động, ít giao tiếp với người khác, từ chối hợp tác và hay rơi vào cảm giác lo sợ nhất là
14

14


khi có sự xáo trộn nào đó trong cuộc sống của mình. Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu
cực do khuyết tật thị giác mang lại, HSKT cũng có những mặt phát triển vượt trội so
với HS sáng mắt. Các em nhận biết người thân qua giọng nói, tiếng bước chân dễ dàng
hơn so với các bạn sáng mắt. Dù vận động tinh phát triển chậm hơn nhưng tới 3 tuổi

HSKT đã có cảm nhận xúc giác tốt hơn các bạn cùng tuổi vì thế các em có thể phân
biệt rất tốt những cử động trên khuôn mặt người quen qua dùng tay sờ. Thông qua cảm
giác, HSKT còn học cách bắt chước cử động của thanh quản, hơi thở để học phát âm
và nói chuẩn.
Tóm lại, ngôn ngữ của HSKT so với HS sáng mắt nghèo hơn về số lượng vốn từ,
kém hơn về khả năng sử dụng từ và nhiều khi lời nói không gắn với sự vật, hiện tượng
thật. Khả năng hiểu và biểu đạt ngôn ngữ (nhất là của HS mù bẩm sinh) kém hơn so
với HS sáng mắt. HSKT dễ tự cô lập và bị cô lập do không đủ vốn từ, chủ đề để giao
tiếp cùng các bạn và người khác. Các em còn bị hạn chế trong việc sử dụng cử chỉ,
điệu bộ và kết hợp cử chỉ, điệu bộ với ngôn ngữ nói trong giao tiếp. Mặt khác, HS
sáng mắt chưa được hướng dẫn cách giao tiếp và chưa hiểu về khả năng, nhu cầu của
bạn khiếm thị vì vậy thường không thân thiện với các bạn khiếm thị. Những hạn chế
trong giao tiếp của HSKT có thể được khắc phục thông qua việc bảo đảm điều kiện và
sử dụng các phương pháp chăm sóc giáo dục phù hợp.
1.1.3.3. Đặc điểm thể chất và vận động
Theo quy luật chung, HSKT không có sự khác biệt so với HS sáng mắt. Tuy
nhiên, trong thực tế HSKT thường có chiều cao và cân nặng thấp hơn so với các bạn
cùng tuổi. Nguyên nhân của sự phát triển chậm về thể chất là do bị mất hoặc suy giảm
chức năng thị giác đã hạn chế những nguồn thông tin kích thích sự vận động của các
em.
Những va chạm, ngã trong khi di chuyển là không thể tránh khỏi đối với mọi trẻ
em. Với HSKT, việc va chạm xảy ra thường xuyên hơn và hầu như không thể biết
nguyên nhân của va chạm, vấp ngã. Điều đó đã làm giảm sự tự tin và các em ngại vận
động di chuyển trong không gian, tốc độ di chuyển chậm, không chính xác, dễ nhầm
địa chỉ…Hậu quả của sự giảm thiểu vận động di chuyển là cơ bắp kém phát triển hơn,
bàn chân trở nên bẹt hơn, các bộ máy tuần hoàn, hô hấp cũng hoạt động yếu hơn, tư
thế đi, đứng, ngồi không tự nhiên, thoải mái, dáng vẻ gò bó. Điều đó cũng đồng nghĩa
15

15



với kết luận: HSKT có thể lực kém phát triển hơn so với HS sáng mắt.
Cơ quan vận động di chuyển của HSKT không bị suy giảm về chức năng hoạt
động. Về nguyên tắc thì sự vận động di chuyển của HSKT vẫn phát triển theo quy luật
chung nhưng không hoặc ít sự trợ giúp của thị giác. Sự phát triển đó được thể hiện
theo đúng quy luật từ vận động thô đến vận động tinh và từ đầu xuống đến chân. Do
hạn chế về khả năng nhìn nên khả năng vận động của HSKT cũng hạn chế. Khả năng
thực hiện các vận động của HSKT thường chậm hơn so với các bạn đồng trang lứa do
thiếu những kích thích để thực hiện vận động cũng như thiếu những cơ hội bắt chước
cách thức thực hiện vận động từ người khác. Các em có thể có những vận động lớn
như đi lại, chạy, nhảy… nhưng thường cứng nhắc, không linh hoạt và mềm dẻo. Tư
thế, dáng đi, cách thực hiện vận động thô và tinh không được uyển chuyển. Hơn nữa,
gia đình thường không nghĩ ngay tới việc dạy HSKT ngay từ khi phát hiện khuyết tật
mà chủ yếu tập trung lo tìm cách chữa trị y tế. Những người xung quanh vẫn sử dụng
các phương pháp dạy HS sáng mắt trong dạy HSKT. Hầu hết các phương tiện phục vụ
cuộc sống xã hội nói chung và giáo dục học sinh nói riêng được thiết kế chủ yếu dựa
vào thông tin thị giác. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kĩ năng vận động di
chuyển của HSKT. Kinh nghiệm cho thấy, HSKT có thể đạt mức độ phát triển như mọi
HS sáng theo đúng độ tuổi nếu được dạy đúng phương pháp và nhận được sự hỗ trợ
phù hợp.[6]
1.1.4. Tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB
1.1.4.1. Mục tiêu tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
Ba mục tiêu cơ bản khi tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB đó là :
- Góp phần bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho HS, phát triển các tố chất thể lực,
đặc biệt là tố chất mềm dẻo và khéo léo, tạo điều kiện cho cơ thể các em phát triển
bình thường theo quy luật lứa tuổi và giới tính.
- Trang bị cho HS một số tri thức, kĩ năng sơ giản cần thiết nhằm rèn luyện tư thế
cơ bản, làm giàu vốn kĩ năng vận động để học sinh học tập, sinh hoạt có hiệu quả hơn.
Ngoài ra chuẩn bị tốt các điều kiện cho việc thực hiện, tham gia vào các hoạt động

giáo dục thể chất ở các lớp, các cấp học tiếp theo.
- Góp phần giáo dục đạo đức, rèn luyện cho HS nếp sống lành mạnh, vui chơi có
tổ chức kỉ luật, tạo tiền đề hình thành nhân cách con người xã hội chủ nghĩa.
16

16


1.1.4.2. Nội dung tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB [2]
Ở năm đầu cấp học tiểu học, HĐTC theo xu hướng hình thành thói quen vận
động, khả năng giao tiếp, các mối quan hệ cá nhân với tập thể, tạo cho HS môi trường
hoạt động tự nhiên, kích thích và đảm bảo sự phát triển thể chất một cách bình thường.
Căn cứ vào mục tiêu giáo dục thể chất cho HS tiểu học, đặc điểm phát triển tâm sinh lí
và vận động của HS, người ta đã nghiên cứu và lựa chọn những nội dung tổ chức hoạt
động thể chất cho HSKT lớp 1 CB về các mặt rèn luyện thể chất và chăm sóc sức khỏe
cho các em. Nội dung tổ chức HĐTC bao gồm:
- Đội hình đội ngũ: Tập hợp hàng dọc, dóng hàng. Tư thế đứng nghiêm, đứng
nghỉ. Quay phải, quay trái (nhận biết hướng sau đó xoay người sang hướng theo khẩu
lệnh). Điểm số từ 1 đến hết (theo tổ). Dàn hàng ngang, dồn hàng. Đi thường theo nhịp
(1- 4 hàng dọc). Cách báo cáo, xin phép ra – vào lớp.
- Bài tập rèn luyện tư thế cơ bản: Đứng đưa hai tay ra trước (dang ngang, chếch
cao). Đứng kiễng gót, hai tay chống hông (dang ngang). Đứng đưa một chân ra trước
(sang ngang, ra sau). Đứng hai chân rộng bằng vai, hai bàn chân thẳng hướng phía
trước, hai tay đưa ra trước (dang ngang, chếch cao).
- Bài thể dục phát triển chung: Bài 7 động tác (vươn thở, tay, chân, vặn mình,
bụng, toàn thân và điều hoà) nhằm rèn luyện các nhóm cơ khớp chính của cơ thể và
phát triển thể lực chung thuần thục.
- Bài tập thể thao, trò chơi vận động như trò chơi rèn luyện khả năng hô hấp, định
hướng cơ bản và các kĩ năng đi cơ bản, chạy tại chỗ và bật - nhảy tại chỗ (Ưu tiên các
trò chơi dân gian có lời đồng dao).

- Hình thành kĩ năng, kĩ xảo vận động thô và vận động tinh, hình thành kĩ năng
và thói quen vệ sinh cơ thể, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường và vệ sinh phòng
bệnh.
- Giáo dục thái độ đúng đối với việc rèn luyện thể chất và bảo vệ sức khỏe. Kích
thích ở HS sự hứng thú luyện tập thể dục, có thái độ tích cực đối với việc hình thành
thói quen văn hóa – vệ sinh.
1.1.4.3. Tổ chức và hình thức tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB
Tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB
Cách chọn các hoạt động: Các HĐTC có rất nhiều loại. Trước khi tổ chức, giáo
17

17


viên cần nghiên cứu để lựa chọn, sắp xếp và sử dụng các hoạt động phù hợp với đối
tượng, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh tổ chức. Việc lựa chọn HĐTC phù hợp rất
quan trọng, có tính chất quyết định đến hiệu quả giáo dục và tổ chức HĐTC, đòi hỏi
việc tổ chức hợp lí về nội dung và điều kiện. Những căn cứ khi lựa chọn HĐTC:
- Căn cứ vào mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục: Chọn hoạt động cần chú ý
đến giáo dục đạo đức tư tưởng, kiến thức, kĩ năng và trèn luyện thể lực cho HSKT.
Trong nhà trường, ở những thời gian khác nhau đều có những chủ đề sinh hoạt và giáo
dục tư tưởng khác nhau, vì vậy cần lựa chọn HĐTC phù hợp với những chủ đề đó.
Giáo dục học sinh thực hiện theo “Năm điều Bác Hồ dạy” có thể chọn những HĐTC
đề cao tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỉ luật, tinh thần dũng cảm gan dạ, khiêm tốn,
thật thà. Ngoài những yêu cầu về tư tưởng ra còn phải căn cứ vào yêu cầu về phát triển
thể lực, trí lực. Riêng về thể lực thì lựa chọn các HĐTC phát triển các tố chất như sức
nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và khéo léo. HĐTC còn có tác dụng hoạt động bổ
trợ hoặc rèn luyện về kĩ năng các động tác chạy, nhảy, đi lại…
- Căn cứ vào đặc điểm tâm – sinh lý của HSKT: Ở lứa tuổi HS tiểu học, cơ thể
các em chưa phát triển hoàn chỉnh, thể lực các em còn yếu đặc biệt là đối với HSKT sự

phát triển thể chất không bằng các bạn đồng trang lứa nên không thể chọn những hoạt
động yêu cầu sử dụng nhiều về sức mạnh hoặc phải hoạt động trong một thời gian dài.
Cần chọn những hoạt động có nội dung vui, hấp dẫn. Khả năng nhận thức và tư duy
của các em còn hạn chế nên không thể áp dụng những Hoạt động thể chất có quy định
phức tạp, chặt chẽ. Căn cứ vào lứa tuổi mà đề ra quy tắc, yêu cầu, khối lượng vận
động, thời gian tổ chức HĐTC phù hợp với từng đối tượng HSKT.
- Căn cứ vào địa điểm, dụng cụ: Chọn HĐTC phải dựa vào điều kiện về địa
điểm, dụng cụ. Địa điểm tổ chức hoạt động phụ thuộc vào số người tham gia, cấu trúc
nội dung, hình thức tổ chức HĐTC.
- Căn cứ vào thời gian, hoàn cảnh: Tổ chức HĐTC có liên quan mật thiết với quỹ
thời gian thực hiện. Thời gian tổ chức quyết định đến cách lựa chọn các HĐTC. Mặt
khác HĐTC chịu ảnh hưởng bởi điều kiện, hoàn cảnh (nắng, mưa…) cụ thể để lựa
chọn các hình thức tổ chức và loại HĐTC cần thiết.
Hướng dẫn HSKT tham gia HĐTC:
- Khi tổ chức – hướng dẫn HSKT tham gia HĐTC cần căn cứ vào cấu trúc của
18

18


từng loại HĐTC để sắp xếp đội hình đội ngũ, tổ chức theo đội hình hàng dọc, hàng
ngang hay vòng tròn…Nếu tổ chức theo đội, việc phân chia lớp thành các đội cần chú
ý đến số lượng nam, nữ, mức độ khiếm thị…
- Cách hướng dẫn HS tham gia HĐTC: Trước tiên phải nêu tên HĐTC để HSKT
có khái niệm chung về hoạt động. Đối với các hoạt động mới, tên hoạt động làm cho
các em suy nghĩ, tìm tòi muốn hiểu biết, do đó tập trung được sự chú ý của HSKT. Sau
khi nêu tên hoạt động, GV phổ biến nội dung và cách thực hiện hoạt động. Khi giảng
giải cần rõ ràng, mạch lạc để HSKT không nhầm lẫn, hiểu rõ nội dung, yêu cầu và
hình thức hoạt động. Tiếp theo GV sẽ phổ biến cách tham gia hoạt động, nếu là trò
chơi vận động thì GV phổ biến luật chơi và quy tắc chơi. Việc tham gia HĐTC của

HSKT thể hiện ở tinh thần và ý thức tổ chức kỉ luật, tính tự giác, tích cực của HS. Việc
kết thúc hoạt động phải đúng lúc, căn cứ vào thời gian quy định và mức độ tích cực
vận động của HS mà kết thúc một cách hợp lí.
Nhận xét, tổng kết:
- Khi nhận xét cần chú ý đến tinh thần thái độ khi tham gia có gì tốt, xấu. Nếu có
hiện tượng xấu, kém tích cực thì cần nêu lên để HSKT rút kinh nghiệm hoặc đấu tranh
phê bình và tự phê bình.
- Nhận xét về cách tổ chức, tiến hành và thực hiện quy tắc của HĐTC.
- Đánh giá kết quả thực hiện các mặt: đạo đức, phát triển thể lực, trí lực, biểu
dương đội thắng, người thắng. Nhận xét tổng kết thi đua hoạt động phải chính xác.
Hình thức tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB
Hình thức tổ chức HĐTC cho HSKT là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động
phối hợp giữa GV và HS, hoạt động đó được thực hiện theo một trình tự và chế độ
nhất định. Ở tiểu học, hình thức cơ bản được tiến hành với HSKT là những tiết học thể
dục cá nhân, nhóm; trò chơi vận động; thể dục xoa bóp, thể dục buổi sáng, dạo chơi,
thể dục giữa giờ, tham quan, hội thi thể dục thể thao, tổ chức hoạt động thể chất trong
thời gian tự hoạt động của HS…Khi tiến hành các hình thức tổ chức HĐTC cho
HSKT, người ta dựa vào số lượng HS tham gia vào hoạt động vận động mà sử dụng
một số hình thức tổ chức như cả lớp, nhóm, cá nhân…
Trong quá trình tổ chức HĐTC cho HSKT, việc sử dụng các hình thức tổ chức
phụ thuộc vào điều kiện tiến hành, nhiệm vụ của hoạt động, nội dung hoạt động, số
19

19


lượng dụng cụ sử dụng, sân tập, lứa tuổi, mức độ chuẩn bị thể lực của HS…GV cần
phối hợp sử dụng các hình thức tổ chức để HS tham gia đạt hiệu quả cao.
1.1.4.4. Phương pháp tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB
Để tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB đạt kết quả cao, cần tiến hành các bước

sau:
Bước 1: Chọn HĐTC và soạn giáo án tổ chức
- Muốn chọn hoạt động đúng, cần xác định được mục đích, yêu cầu của HĐTC
định chọn.
- Khi chọn HĐTC, giáo viên cần phải chú ý đến trình độ và sức khỏe của HS, đặc
điểm giới tính, mức độ khiếm thị, địa điểm tổ chức, phương tiện tổ chức…
- Sau khi đã chọn được HĐTC, GV cần soạn thành giáo án và tổ chức – hướng
dẫn từng bước cho HSKT từ chỗ chưa biết đến chỗ chỉ biết tham gia hoạt động một
cách cầm chừng, thụ động đến biết tham gia hoạt động một cách hoàn toàn chủ động,
tích cực vận động.
Bước 2: Chuẩn bị địa điểm, phương tiện để tổ chức HĐTC
- Sau khi chọn được HĐTC, soạn thành giáo án, công việc đầu tiên là chuẩn bị
phương tiện và địa điểm tổ chức hoạt động thể chất để HS tham gia.
- Về phương tiện cần phải phân chia ra những phương tiện GV cần chuẩn bị và
phương tiện HS cần chuẩn bị.
- Về địa điểm, sau khi đã chọn địa điểm, GVthu nhặt các vật gây nguy hiểm và
có thể phải quét dọn để đảm bảo môi trường sư phạm.
Bước 3: Tổ chức đội hình cho HSKT tham gia HĐTC
Tùy theo tính chất của HĐTC, GV có thể tổ chức HĐTC theo nhiều đội hình
khác nhau: đội hình hàng dọc, đội hình hàng ngang, đội hình một hay hai vòng tròn…
Tổ chức đội hình cho HSKT tham gia HĐTC được quy định trong một số nhiệm vụ
sau:
- Tập hợp HSKT theo các đội hình khác nhau và ổn định tổ chức.
- Phân chia đội (nếu tổ chức trò chơi vận động, hội thi…)
- Chọn vị trí đứng của GV để giải thích và điều khiển HĐTC.
Bước 4: Giới thiệu và giải thích, hướng dẫn HĐTC
- Giới thiệu và giải thích, hướng dẫn hoạt động thể chất có thể tiến hành theo
20

20



nhiều cách khác nhau phụ thuộc vào tình hình thực tiễn và sự hiểu biết của đối tượng.
Nếu HSKT chưa biết hoạt động thì cần giới thiệu, giải thích và hướng dẫn tỉ mỉ từng
bước một, nhưng nếu các em đã biết hoặc đã nắm vững HĐTC thì cách giới thiệu, giải
thích và hướng dẫn lại khác nhau…
- Tuy vậy, thông thường khi giới thiệu, giải thích và hướng dẫn hoạt động nên
tiến hành theo các bước: Gọi tên hoạt động, giới thiệu, yêu cầu về tổ chức kỉ luật, cách
đánh giá hoạt động và những điểm cần chú ý khác.
Bước 5: Điều khiển HĐTC
- Khi HSKT chính thức tham gia vào hoạt động là lúc người điều khiển đóng vai
trò như một người giám sát. Mọi tình huống trong hoạt động thể chất như vi phạm
luật, làm sai, thắng thua đều do người điều khiển quyết định.
- Thông thường người điều khiển phải làm một số công việc sau: Cho HSKT làm
một số động tác khởi động sau đó bắt đầu tham gia HĐTC. Theo dõi và nắm vững các
hoạt động của từng cá nhân hoặc tập thể học sinh tham gia hoạt động. Điều chỉnh khối
lượng vận động trong HĐTC…
- Khi điều khiển HĐTC, GV phải chú ý bảo hiểm cho HSKT và tìm các biện
pháp phòng ngừa chấn thương có thể xảy ra. Cần nhắc nhở và giáo dục ý thức tổ chức
kỉ luật vì đây là một trong những biện pháp phòng ngừa chấn thương có hiệu quả nhất.
- Khi điều khiển, GV có thể điều chỉnh khối lượng vận động cho HSKT bằng
nhiều cách như dùng tiếng vỗ tay, tiếng trống, tiếng reo hò để tăng nhịp điệu vận động,
rút ngắn hoặc tăng thời gian hoạt động. Thay đổi phạm vi HĐTC, thay đổi yêu cầu,
mục đích, nghỉ giải lao (nếu cần giảm khối lượng vận động)…
Bước 6: Đánh giá kết quả HĐTC
- Sau mỗi lần hoặc một số lần tổ chức HĐTC cho HSKT, GV cần nhận xét, đánh
giá kết quả hoạt động.
- Để đánh giá đúng thực chất của HĐTC, GV phải thống kê được những ưu điểm,
khuyết điểm của từng HSKT.
- Dựa vào yêu cầu, nội quy, kết quả, GV đánh giá HĐTC và khen thưởng thật

công bằng, rõ ràng.
Có thể nói, điều khiển tiến trình một HĐTC cho HSKT sao cho sôi nổi, sinh
động, hấp dẫn lôi cuốn để phát triển tính tích cực vận động của HS là nghệ thuật của
21

21


nhà sư phạm.
1.1.4.5. Ý nghĩa tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB
Trang bị cho HSKT một số kiến thức, kĩ năng cơ bản, sơ giản cần thiết nhất
nhằm rèn luyện tư thế cơ bản đúng, làm giàu vốn kĩ năng vận động, góp phần giữ gìn
và nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực giúp các em sinh hoạt, học tập có hiệu quả.
Làm quen với một số nền nếp, nội quy học tập, góp phần rèn luyện cho học sinh nếp
sống lành mạnh, vui tươi, tác phong nhanh nhẹn, kỉ luật và một số phẩm chất đạo đức
khác. Bước đầu biết vận dụng những kĩ năng được học vào những hoạt động ở trường
và gia đình.
Các hoạt động có tác dụng lớn đối với sự phát triển thể chất, đẩy mạnh các quá
trình sinh lý trong cơ thể và củng cố sức khỏe cho HSKT. Ngoài ra nó còn giúp cho
việc hình thành những hoạt động vận động và phát triển các tố chất thể lực.
Những HĐTC có kèm theo bài hát, câu thơ mô tả các động tác vận động làm cho
ngôn ngữ, trí tưởng tượng của HSKT được phát triển và nâng cao. Khi GV hướng dẫn,
giải thích nội dung hoạt động HS sẽ ghi nhớ từ mới, ý nghĩa của chúng, tập vận động
phù hợp với lời hướng dẫn của GV. Do đó, hình thành mối giao tiếp giữa HS và GV,
tạo cho ngôn ngữ của HSKT phong phú hơn.
HĐTC là hoạt động cần thiết hàng ngày đối với HS, có thể dùng để tổ chức nghỉ
ngơi tích cực sau tiết học, giúp học sinh khiếm thị năng động lên giữa hai tiết học,
trong tiết học, tiết học thể dục, thể dục buổi sáng và trong thời gian tự hoạt động của
học sinh như: đón học sinh buổi sáng, đi dạo, vui chơi, hoạt động buổi chiều…
1.2. Thực trạng tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.

1.2.1. Đôi nét về trường Nuôi dạy trẻ em khiếm thị Hải Phòng.
Địa bàn nghiên cứu: Trường Nuôi dạy trẻ em khiếm thị Hải Phòng.
Quá trình hình thành và phát triển của nhà trường: Trường Nuôi dạy trẻ em
khiếm thị Hải Phòng được thành lập năm 1991, thuộc sự quản lý của Sở Giáo dục và
Đào tạo Hải Phòng.
Nhiệm vụ của trường: Dạy văn hóa cho HSKT, HS down, HS tự kỷ, HS khuyết
tật học tập theo chương trình tiểu học kết hợp dạy nghề. Giáo dục can thiệp sớm cho
trẻ khiếm thị dưới 6 tuổi, hỗ trợ giáo dục hòa nhập cho học sinh khiếm thị ở các cơ sở
giáo dục khác. Tổ chức nuôi HS theo thể chức trường nội trú…
22

22


Hiện nay trường có 12 lớp học cho đối tượng HSKT, HS down, HS tự kỷ, HS
khuyết tật học tập.
Tình hình HĐTC nhà trường tổ chức:
- Các HĐTC như trò chơi dân gian, tập đội hình đội ngũ thường được tổ chức 2
tuần 1 lần vào tiết 1 sáng thứ hai.
- Thường xuyên tổ chức múa hát tập thể, tập võ, nhảy dân vũ vào giờ ra chơi.
- Vào các ngày lễ, ngày kỉ niệm thỉnh thoảng trường có tổ chức hội thao.
- Một tuần, HSKT lớp 1 CB có 2 tiết thể dục.
Lớp 1 CB trong nhà trường
- Trường có 2 lớp 1 CB cho HSKT đó là lớp 1A1 và lớp 1A2.
- Lớp 1A1 gồm 6 HS độ tuổi từ 7 tuổi đến 10 tuổi. Trong đó có 1 HS nhìn kém
học chữ sáng, 1 HSKT đa tật và 4 HS mù hoàn toàn học chữ nổi. HS đang học theo
chương trình lớp 1.
- Lớp 1A2 gồm 6 HS độ tuổi từ 7 đến 10 tuổi. Trong đó có 1 HS nhìn kém học
chữ sáng, 1 HSKT đa tật học chữ sáng, 3 học sinh KT học chữ nổi và 1 HS khuyết tật
trí tuệ học chữ sáng. Các em đang học theo chương trình lớp 1.

- HS cả hai lớp đều được tham gia các HĐTC mà nhà trường tổ chức.
1.2.2. Mục đích, đối tượng, nội dung, phương pháp khảo sát thực trạng.
1.2.2.1. Mục đích khảo sát
- Khảo sát thực trạng giáo viên trường Nuôi dạy trẻ em khiếm thị Hải Phòng áp
dụng những biện pháp tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
1.2.2.2. Đối tượng khảo sát
- 10 GV khối Khiếm thị trường Nuôi dạy trẻ em khiếm thị Hải Phòng.
- HSKT lớp 1 CB trường Nuôi dạy trẻ em khiếm thị Hải Phòng.
1.2.2.3. Nội dung khảo sát
- Nhận thức của GV về tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
- Hình thức, mức độ tổ chức, khó khăn khi tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
- GV đã áp dụng những biện pháp gì để tổ chức HĐTC cho HSKT lớp CB.
- Mức độ hứng thú của HSKT lớp 1 khi tham gia HĐTC.
1.2.2.4. Phương pháp khảo sát
- Tiến hành khảo sát đội ngũ GV trường Nuôi dạy trẻ em khiếm thị Hải Phòng
23

23


bằng phiếu trưng cầu ý kiến.
- Trao đổi, đàm thoại với GV trực tiếp giảng dạy HSKT lớp 1 để bổ sung cho các
số liệu nghiên cứu bằng phiếu hỏi và thực nghiệm sư phạm.
- Dự giờ, quan sát, ghi nhận những biện pháp tác động của GV và những biểu
hiện tính tích cực vận động của HSKT lớp 1 trong HĐTC.
1.2.3. Kết quả khảo sát tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
1.2.3.1. Nhận thức của GV về tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
Bảng 1: Nhận thức của GV về tầm quan trọng của tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB
Tầm quan trọng
Rất quan trọng

Quan trọng
Bình thường
Không quan trọng

Số phiếu
10
0
0
0

Tỉ lệ (%)
100%
0
0
0

Qua bảng trên cho thấy, các GV đã có sự nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của việc
tổ chức HĐTC cho HSKT. 100% giáo viên cho rằng tổ chức HĐTC thể chất cho
HSKT là rất quan trọng.
1.2.3.2. Lập kế hoạch và mức độ tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB.
Bảng 2: Chuẩn bị tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB
STT
1
2

3
4
5

Nội dung

- Lập kế hoạch:
+ Đầy đủ, chi tiết, có sáng tạo
+ Lập dàn bài (dựa trên tài liệu hướng dẫn)
- Chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ:
+ Đủ số lượng cho GV và HS luyện tập
+ Dụng cụ luyện tập đa dạng
+ Dụng cụ luyện tập đảm bảo kích thước
+ Dụng cụ luyện tập có sáng tạo, điều chỉnh phù hợp
với nhu cầu của HS.
+ Có sao dùng vậy
Cho HS làm quen trước khi tổ chức HĐTC
Giao nhiệm vụ về nhà cho HS tập thêm
Chuẩn bị địa điểm (sân tập) thích hợp

Số phiếu

%

4
7

40%
70%

3
4
9
9

30%

40%
90%
90%

0
4
5
5

0%
40%
50%
50%

- Đa số GV đều có sự chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ đầy đủ đảm bảo kích thước, có
sáng tạo, điều chỉnh phù hợp với nhu cầu của học sinh (tỉ lệ 90%). Không có GV nào
thụ động, đồ dùng có sao dùng vậy (tỉ lệ 0%). Điều đó cho thấy, GV đã nhận thấy vai
24

24


trò chủ đạo của đồ dùng, dụng cụ trong việc tổ chức HĐTC vì nếu có đầy đủ đồ dùng
dụng cụ, phù hợp với nhu cầu của của HSKT thì HS sẽ hứng thú, tích cực, tự tin khi
tham gia hơn. Bên cạnh chuẩn bị đồ dùng dụng cụ, giáo viên còn lập kế hoạch trước
khi tổ chức HĐTC. Tuy nhiên khi lập kế hoạch, GV chủ yếu lập dàn bài dựa trên tài
liệu hướng dẫn (tỉ lệ 70%). Nguyên nhân là do hiện nay có rất nhiều tài liệu hướng dẫn
đầy đủ, chi tiết để giáo viên lựa chọn. Để rút ngắn thời gian chuẩn bị, lựa chọn lập kế
hoạch tổ chức hoạt động dựa trên tài liệu có sẵn là một lựa chọn hợp lý. Tuy nhiên
theo quan sát thực tế, tài liệu hướng dẫn chủ yếu là tài liệu dành cho HS sáng vì thế

khi lập kế hoạch trên tài liệu hướng dẫn, GV chưa điều chỉnh, lựa chọn được nhiều
HĐTC phù hợp với khả năng, nhu cầu của HSKT dẫn đến kết quả tổ chức HĐTC chưa
đạt được kết quả tích cực. Tuy nhiên, một số GV đã lựa chọn lập kế hoạch đầy đủ, chi
tiết và có sáng tạo (tỉ lệ 40%). Đây là những GV trực tiếp phụ trách tổ chức các HĐTC
vì thế nên GV có nhiều thời gian để nghiên cứu, lập kế hoạch hơn so với các GVCN
của các lớp học.
- Số lượng GV chọn giao nhiệm vụ về nhà cho HS tập thêm và chuẩn bị địa điểm
(sân tập) thích hợp đạt tỉ lệ 50%, chứng tỏ GV còn ít mạnh dạn giao nhiệm vụ cho HS
cũng như chưa thực sự quan tâm chuẩn bị sân tập thích hợp. Điều này cũng ảnh hưởng
đến hiệu quả tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB. Trước khi tổ chức HĐTC, chỉ có
một số GV cho HS làm quen với HĐ (tỉ lệ 40%). Vì thế nhiều học sinh khi tham gia
hoạt động còn hay tập sai động tác hoặc không hiểu luật chơi. Nguyên nhân là do nhân
lực còn ít, GV không có đủ thời gian để kịp thời cho HS làm quen trước khi tổ chức
HĐTC.
Bảng 3: Mức độ tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB
Mức độ
Rất thường xuyên
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Hiếm khi

Số phiếu
4
6
0
0

Tỉ lệ (%)
40%
60%

0%
0%

Qua bảng trên cho thấy mức độ tổ chức HĐTC cho HSKT lớp 1 CB rất thường
xuyên (đạt 40%) và thường xuyên (đạt 60%). GV đã hiểu rõ được tầm quan trọng của
việc phát triển thể chất cho HSKT. Nếu như các em được vận động nhiều thì cơ thể
25

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×