Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên khoa Văn thư – Lưu trữ, trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.5 KB, 141 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA VĂN THƯ – LƯU TRỮ
*********

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP THEO
HỌC CHẾ TÍN CHỈ CỦA SINH VIÊN KHOA VĂN THƯ - LƯU TRỮ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Giảng viên hướng dẫn
Nhóm sinh viên thực hiện

: ThS. Đỗ Thu Hiền
: ĐH.LTH 13C

Hà Nội - 2016


MỤC LỤC
Định nghĩa trên đã nêu rất rõ trách nhiệm của sinh viên đối với việc học tập
theo hệ thống đào tạo tín chỉ, sinh viên có thể tự đăng ký, lựa chọn học phần
từ đó tạo nên tính chủ động cho sinh viên đối với quá trình học tập của bản
thân, đồng thời cũng chỉ rõ mục đích, chức năng những lợi ích của hệ thống
tín chỉ đối với sinh viên. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa đề cập đến khối
lượng công việc cũng như nhiệm vụ mà sinh viên cần thực hiện đối với từng
môn học...........................................................................................................15
Học đại học chính là tự học đặc biệt trong học chế tín chỉ, tự học đóng vai trò
quan trọng, là yếu tố chủ chốt để việc học tập đạt kết quả cao tuy nhiên trong
định nghĩa này không hề nhắc đến vấn đề tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.
Và nhất nhiều các định nghĩa của các trường đại học ở Việt Nam cũng như


trên thế giới không đưa vào vấn đề này...........................................................15
Còn theo TS. Nguyễn Kim Dung (Viện Nghiên cứu Giáo dục – Trường Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh):“Hệ thống tín chỉ là một hệ thống được sử
dụng cho tất cả các thành phần (hay môn học) của một chương trình học. Tất
cả số lượng tín chỉ gộp lại sẽ giúp sinh viên có được bằng cử nhân, thạc sĩ,
tiến sĩ hay một bằng cấp chuyên môn nào đó. Tín chỉ được dùng đo lường
khối lượng công việc của một sinh viên theo các hoạt động học tập đã được
lên kế hoạch như lên lớp nghe giảng, tham dự seminar hoặc tự học v.v… Các
tiêu chí này quyết định các đặc trưng cụ thể của các hệ thống tín chỉ khác
nhau trong những khóa học gần giống nhau trên thế giới”7...........................16
Trên cơ sở các định nghĩa trên, chúng tôi đã xây dựng định nghĩa về hệ thống
tín chỉ như sau: “Hệ thống tín chỉ là một hệ thống giáo dục tiên tiến bằng cách
gắn các tín chỉ tương ứng với từng đơn vị học phần, giúp sinh viên chủ động,
tích cực hơn trong việc học tập. Là phương pháp kết hợp giữa giảng dạy lý
thuyết và thực hành nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đồng thời thông qua
kết quả học tập của sinh viên, số giờ lên lớp, số giờ tiếp xúc với giảng viên, số
giờ thực nghiệm và số giờ tự học sinh viên sẽ nhận được văn bằng, chứng chỉ
phù hợp.”.........................................................................................................16
1.2.2.Các khái niệm cơ bản khác.....................................................................17
........................................................................................................................84
Chương II.........................................................................................................84



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Học chế tín chỉ là một hình thức đào tạo được hầu hết các nước tiên tiến trên
thế giới áp dụng vì nó phân chia kiến thức đào tạo thành những đơn vị học tập mà
sinh viên có thể tự sắp xếp để tích lũy được. Tùy điều kiện và năng lực của mỗi
người, sinh viên có thể học nhanh hoặc muộn hơn so với tiến độ bình thường, có

thể thay đổi chuyên ngành học ngay giữa tiến trình học tập mà không phải học lại
từ đầu. Học chế tín chỉ còn tạo ra một "ngôn ngữ chung" giữa các trường đại học
và cao đẳng; tạo điều kiện cho việc chuyển đổi sinh viên giữa các trường trong
nước và trên thế giới, rất thuận lợi đối với các chương trình đào tạo liên kết.
Từ năm 1993, một số trường đại học ở nước ta đã bước đầu thực hiện
chuyển đổi việc đào tạo từ hình thức niên chế sang hình thức hệ thống tín chỉ và có
được những kết quả nhất định. Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của
Chính phủ về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn
2006-2020 đã chỉ ra nhiệm vụ đổi mới nội dung, phương pháp và quá trình đào
tạo đại học, trong đó đổi mới đào tạo phải đạt được ba mục tiêu: “Trang bị cách
học; phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong hoạt động dạy và học, . . . Đồng thời xây dựng và thực hiện lộ
trìnhchuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để
người học tích lũy kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới
các cấp học tiếp theo ở trong nước và ngoài nước".
Thực hiện Nghị quyết trên, giai đoạn đầu Trường Đạic học Nội vụ Hà Nội
thực hiện việc chuyển đổi đào tạo từ niên chế sang tín chỉ, bắt đầu áp dụng từ năm
học 2014 – 2015. Việc áp dụng hình thức đào tạo tín chỉ còn rất mới mẻ đối với
giảng viên và sinh viên của trường, nhiều vấn đề mới cần phải được xác định để
nâng cao chất lượng đào tạo. Sau 1 kỳ học áp dụng mô hình này, kết quả ban đầu
cho thấy chất lượng học tập của sinh viên học theo tín chỉ chưa đạt được như mong
đợi mặc dù đây là hình thức đào tạo có nhiều ưu điểm vượt trội so với hình thức
1


đào tạo niên chế. Do đó, một câu hỏi lớn đặt ra là: “Làm thế nào để dạy – học theo
tín chỉ cho hiệu quả ?”.
Phần lớn sinh viên tỏ ra háo hức với mô hình dạy học mới này trong khi đó số
khác lại tỏ ra tiếc nuối mô hình cũ - dạy và học theo niên chế. Không phải vì mô
hình cũ tạo hứng thú và hiệu quả hơn với họ mà chỉ vì một lý do hết sức đơn giản:

họ ngại thay đổi và muốn duy trì thói quen học - thi - trả bài từ bao lâu nay. Bên
cạnh đó, nhiều giảng viên cũng chưa thích ứng được với cường độ và tính chất của
hình thức giảng dạy mới này. Vì vậy, trước tiên đào tạo theo học chế tín chỉ đòi hỏi
cả giảng viên và sinh viên phải thực sự bứt phá, có ý thức thay đổi để thoát khỏi
những thói quen cũ và chuyển nhịp kịp thời với bước tiến mới của giáo dục. Nhận
thức được những khó khăn, hạn chế trong phương pháp học tập và giảng dạy cũng
như trong phương pháp quản lý đào tạo, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Giải pháp
nâng cao chất lượng học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên khoa Văn thư –
Lưu trữ, trường Đại học Nội Vụ Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu khoa học của
người học năm 2015.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
* Tình hình nghiên cứu trong nước:
Phương thức đào tạo tín chỉ được xem là bước tiến mới trong đổi mới hệ
thống giáo dục thế giới. Sau khi hệ thống đào tạo tín chỉ được ra đời ở trường đại
học Harvard, Hoa Kỳ năm 1872, và lan rộng sang các nước khác, đầu tiên là các
nước Tây Âu và sau đó là toàn thế giới thì các đề tài nghiên cứu khoa học về cách
thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ cùng những giải pháp để phương thức đào tạo
này đạt hiệu quả dần dần xuất hiện. Và Việt Nam cũng không ngoại lệ, đề bắt kịp
nền giáo dục tiến tiến của thế giới, từ năm 2001, Bộ giáo dục và Đào tạo đã yêu
cầu các trường đại học, cao đẳng trong cả nước phải hoàn thiện chương trình đào
tạo mới này để thay thế cho hình thức đào tạo theo niên chế hiện nay. Trong hơn 10
năm tiến hành đổi mới hệ thống giáo dục, Bộ cũng như các trường đại học đã tiến
hành nhiều cuộc hội thảo thảo luận về vấn đề đổi mới phương thức đào tạo tín chỉ

2


cũng như nhiều công trình nghiên cứu khoa học, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ mang lại
các giải pháp nâng cao chất lượng học tập của sinh viên theo học chế tín chỉ như:
 GS. Lâm Quang Thiệp, Đại học Quốc gia Hà Nội (2006) “Về việc áp dụng

học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam” đã chỉ ra những đặc điểm, ưu, nhược
điểm và cách khắc phục của phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ, đồng thời
chỉ ra thực trạng đào tạo tín chỉ ở Việt Nam.
 Nguyễn Công Danh (2008) “Những khó khăn của việc đào tạo theo hệ thống
tín chỉ” đã đưa ra được những khó khăn còn tồn tại trong đào tạo theo hệ thống tín
chỉ nước ta từ vấn đề quản lý đào tạo đến giảng dạy của giảng viên và sinh viên.
Lê Quang Sơn với “Những vấn đề của quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ ở Việt
Nam” cũng đã chỉ rõ những vấn đề còn vướng mắc trong quản lý đào tạo theo học
chế tín chỉ ở nước ta.
 Dương Hiếu Đấu (2008) “Đổi mới phương pháp dạy học theo hệ thống tín
chỉ là bước phát triển tất yếu của giáo dục Việt Nam” hay PGS.TS Trần Khánh
Đức, Viện Sư phạm kỹ thuật – Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội (2013) “Phát triển
chương trình và tổ chức quá trình đào tạo”. Đổi mới theo phương pháp dạy học
theo hệ thống tín chỉ là bước phát triển mạnh mẽ trong nền giáo dục toàn thế giới
do đó đây cũng là bước phát triển tất yếu của giáo dục Việt Nam. Để hiểu rõ hơn
về phương thức đào tạo này GS. Lâm Quang Thiệp (2010) cũng có bài viết “Về
phương pháp dạy, học và đánh giá kết quả học tập trong hệ thống tín chỉ” giúp ích
rất nhiều cho các cán bộ giảng viên cũng như sinh viên trong cả nước.
 PGS-TS Trần Thanh Ái, Đại học Cần thơ (2010) “Đào tạo theo hệ thống tín
chỉ: các nguyên lý, thực trạng và giải pháp”, tham luận tại Hội nghị toàn quốc tổ
chức tại Đại học Sài Gòn; TS Nguyễn Kim Dung, Viện Nghiên cứu Giáo dục –
Trường Đại học Sư phạm TPHCM “Đào tạo hệ thống tín chỉ: Kinh nghiệm thế giới
và thực tế ở Việt Nam”; PGS.TS Hoàng Văn Vân “Phương thức đào tạo theo tín
chỉ: lịch sử, bản chất, và những hàm ý cho phương pháp giảng dạy – học ở bậc đại
học” đều là các nghiên cứu về lịch sử, bản chất của học chế tín chỉ của thế giới nói
chung và của Việt Nam nói riêng đồng thời đưa ra những giải pháp và kiến nghị
3


giúp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả khi thực hiện phương thức đào tạo tín chỉ tại

Việt Nam.
 Vũ Đình Bảy (2010), “Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới phương pháp
dạy học phù hợp với phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường đại
học hiện nay” hay “Bàn luận về công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học của
giáo viên” của Thạc sỹ Nguyễn Anh Tuấn, Phó Trưởng khoa Sư phạm Tự nhiên
đều là các công trình nghiên cứu khoa học có đóng góp quan trọng trong vấn đề
nâng cao hiệu quả của việc chuyển đổi sang phương thức đào tạo theo hệ thống tín
chỉ.
 Diệp Ngọc Dũng (2010) “Một số tồn tại trong quá trình chuyển đổi sang đào
tạo theo hệ thống tín chỉ”.
 Luận án tiến sĩ của Nguyễn Mai Hương (2011) “Quản lý quá trình dạy và
học theo học chế tín chỉ trong các trường dại học ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”. Luận văn đã nghiên cứu các đặc trưng của học chế tín chỉ và một số yếu tố
có ảnh hưởng đến quá trình dạy và học theo phương thức đài tạo này; phân tích
đánh giá thực trạng về quản lý các thành tố của quá trình dạy và học theo học chế
tín chỉ, đồng thời xác định một số rào cản thường gặp khi chuyển đổi sang phương
thức đào tạo này; kết hợp với đề xuất các biện pháp quản lý quá trình dạy và học
theo học chế tín chỉ trong các trường đại học của Việt Nam giai đoạn hiện nay. Kết
quả nghiên cứu cho thấy sự đồng bộ và triệt để các biện pháp quản lý quá trình dạy
học thích ứng với các đặc điểm của học chế tín chỉ bậc đại học sẽ tháo gỡ được các
rào cản và tăng them động lực trong quá trình chuyển đổi sang học chế tín chỉ, góp
phần triển khai thành công phương thức đào tạo theo tín chỉ trong các trường đại
học của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Mai Hương còn có một số công trình nghiên cứu
khoa học khác được công bố trước đó liên quan đến đổi mới và biện pháp nâng
cao đào tạo tín chỉ một cách có hiệu quả trong phương thức đào tạo tín chỉ của
Việt Nam bao gồm: Nguyễn Mai Hương (2005), “Cải tiến phương pháp học tập
của sinh viên - yếu tố quan trọng để triển khai đổi mới phương pháp giảng dạy ở
4



đại học”, Tạp chí Phát triển Giáo dục, Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục,
số 3 (75), tháng 3/ 2005.Tôn Quang Cường, Nguyễn Mai Hương (2008), “Vận
dụng có hiệu quả các hình thức tổ chức dạy học phù hợp với dạy học theo tín chỉ”,
Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục, số 29,
tháng 2/2008.Nguyễn Mai Hương, (2009), “Các điều kiện cần và đủ để triển khai
đào theo học chế tín chỉ ở bậc đại học”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện Chiến
lược và Chương trình Giáo dục, số 43 +44, tháng 4 + 5 /2009.Nguyễn Mai Hương,
(2009), “Hoạt động tự học của sinh viên trong phương thức đào tạo theo tín chỉ”,
Tạp chí Giáo dục, số 219, kỳ 1, tháng 8/2009.Nguyễn Mai Hương(2010), “Một số
vấn đề kỹ thuật trong việc triển khai học chế tín chỉ ở nước ta”, Tạp chí Giáo dục,
số 245, kỳ 1, tháng 9/2010.
Bên cạnh đó là các hội thảo khoa học như:
 Hội thảo “Xây dựng chương trình đào tạo theo phương thức tín chỉ ngành
Văn hóa học” tổ chức vào ngày 16/04/2012 của Khoa Văn hóa học.
 Hội thảo khoa học “Tổ chức giảng dạy theo học chế tín chỉ” do Khoa Tài
chính – Ngân hàng tổ chức ngày 16/11/2012 đã chỉ ra đổi mới phương pháp giảng
dạy là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo theo
phương thức học chế tín chỉ.
 Hội thảo khoa học “Triển khai đào tạo theo hệ thống tín chỉ ngành kinh
doanh xuất bản phẩm” ngày 25 tháng 6 năm 2013 do khoa Xuất bản – Phát hành tổ
chức.
 Hội thảo “Đào tạo theo học chế tín chỉ - Thuận lợi, khó khan và giải pháp”
do Đại học Dân lập Hải Phòng tổ chức ngày 22/07/2014.
 Hội thảo “Vai trò cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ tại các
trường đại học, cao đẳng Việt Nam”do Viện Nghiên cứu Giáo dục – Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 26/12/2014. Những đóng góp,
thảo luận xoay quanh các nội dung chính: thực trạng công tác cố vấn học tập tại
các trường đại học, cao đẳng; phân tích vai trò của cố vấn học tập; đề xuất những
5



giải pháp nhằm góp phần củng cố và phát huy vai trò của cố vấn học tập đồng thời
nâng cao hiệu quả quản lý và đào tạo theo học chế tín chỉ.
 Ngoài ra, còn có nhiều hội thảo, các công trình nghiên cứu khoa học khác
được tổ chức tại các trường đại học trong cả nước, và các cuộc họp, hội nghị bàn
về giáo dục tại Việt Nam.
*Tình hình nghiên cứu nước ngoài:
Nhận thức được hình thức đào tạo theo tín chỉ là một bước ngoặt trong giáo
dục, các nước phát triển trên thế giới cũng đã tổ chức nhiều các hội thảo, bài thuyết
giảng xoay quanh vấn đề đổi mới hệ thống giáo dục đặc biệt là chuyển sang đào
tạo theo hệ thống tín chỉ.
AIPU, 2007 ‘Vers un changement de culture en enseignement supérieur.
Regards sur l'innovation, la collaboration et la valorisation” (Hướng tới một sự
thay đổi trong văn hóa giáo dục đại học. Đổi mới trong nháy mắt, hợp tác và phục
hồi), Kỷ yếu hội nghị lần thứ 24 của Hiệp hội Quốc tế về Sư phạm đại học (AIPU),
Đại học Montréal, Canada về các vấn đề công thức, phương pháp giảng dạy và
đánh giá học tập ; công nghệ cho việc giảng dạy và học tập ; hỗn hợp và khoảng
cách học tập ; hồ sơ và chương trình đào tạo chuẩn ; thực hiện, đánh giá và giám
sát sự thay đổi.
Trexler C.J. (2008) “Hệ thống tín chỉ tại các trường đại học Hoa Kỳ: Lịch sử
phát triển, Định nghĩa và cơ chế hoạt động” đã chỉ rõ sự ra đời và cách thức đào
tạo theo hệ thống tín chỉ của Hoa Kỳ - nơi được coi là cái nôi của phương thức đào
tạo này.
Zjhra M. (2008) “Chuyển sang học chế tín chỉ: Cần thay đổi chương trình đào
tạo và vai trò của giáo viên”
Trên đây là một số các bài viết, hội thảo khoa học xoay quanh các vấn đề thực
hiện phương thức đào tạo theo tín chỉ trong các trường đại học, cao đẳng đã chỉ ra
được những ưu, nhược điểm của phương thức đào tạo này cũng như những khó
khăn thường gặp trong công tác quản lý, việc giảng dạy. Đồng thời đưa ra những

kiến nghị, phương hướng, giải pháp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng học tập
6


khi đào tạo theo phương thức tín chỉ. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu khoa học nhằm
nâng cao hiệu quả học tập cho sinh viên của một trường đại học (cụ thể là trường
Đại học Nội vụ Hà Nội) chưa từng được thực hiện. Do đó, đề tài của nhóm nghiên
cứu đảm bảo tính mới trong nghiên cứu khoa học nói chung.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, nhóm nghiên cứu chúng tôi hướng tới những mục tiêu
sau:

−Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp và những điều kiện để thực hiện giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên khoa Văn thư – Lưu trữ,
trường Đại học Nội Vụ theo hình thức đào tạo tín chỉ của Nhà trường.
−Góp phần nâng cao chất lượng học tập của sinh viên khoa Văn thư – Lưu
trữ đang theo học chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ mới được áp dụng tại
trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
−Góp phần hoàn thiện phương pháp quản lý đào tạo của Nhà trường nhằm
mục tiêu lớn nhất là nâng cao chất lượng học tập của sinh viên, đặc biệt là sinh
viên đang theo học chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tập trung hướng tới đối tượng nghiên cứu là
phương pháp học tập của sinh viên và giảng dạy của giảng viên khoa Văn thư –
Lưu trữ hiện đang theo học chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ. Mặc dù để
đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả học tập tín chỉ cần nghiên cứu nhiều khía cạnh
khác như quản lý đào tạo, chủ trương, chính sách, kinh phí, cơ sở vật chất… nhưng
trong khả năng nghiên cứu của chúng tôi và trong khuôn khổ của một báo cáo khoa

học sinh viên, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu 2 khía cạnh chính như trên.
b. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 9 năm 2014 đến nay, khi trường bắt đầu áp dụng chương
trình đào tạo theo học chế tín chỉ.
Không gian: Khoa Văn thư – Lưu trữ, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
− Tìm hiểu cơ sở lý luận về hệ thống tín chỉ.

7


− Khảo sát tình hình học tập của sinh viên và tình hình giảng dạy của giảng
viên khoa Văn thư – Lưu trữ, trường Đại học Nội Vụ Hà Nội khi làm quen với
phương pháp đào tạo mới của Nhà trường theo hệ thống tín chỉ.
− Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp và những điều kiện để thực hiện giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên khoa Văn thư – Lưu trữ,
trường Đại học Nội Vụ theo hình thức đào tạo tín chỉ của Nhà trường (chủ yếu tập
trung vào các giải pháp về dạy và học)
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, ngoài các phương pháp chung được áp dụng trong
nghiên cứu khoa học như: phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích chức năng,
phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp toàn diện và tổng hợp, phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài còn sử dụng các phương pháp cụ thể
như:
- Phương pháp điều tra, khảo sát: được áp dụng để tìm hiểu thực trạng
của việc học tập của sinh viên khoa Văn thư – Lưu trữ đang theo học chương trình
đào tạo theo học chế tín chỉ.
- Phương pháp phỏng vấn đối tượng: được áp dụng để phỏng vấn sinh
viên, giảng viên và một số cán bộ phòng Quản lý đào tạo phục vụ việc phân tích
các yếu tố tác động tới quá trình học tập của sinh viên.

- Phương pháp nghiên cứu và phân tích tư liệu có liên quan: được áp
dụng để nghiên cứu và phân tích các tài liệu trong và ngoài nước để có thể đưa ra
những lập luận mang tính khoa học cao, từ đó nghiên cứu xây dựng các giải pháp
nâng cao chất lượng học tập của sinh viên một cách phù hợp, khách quan và hiệu
quả nhất.
- Phương pháp so sánh: được áp dụng để tìm ra những điểm tương đồng
và khác biệt giữa giữa cách thức triển khai áp dụng chương trình đào tạo tín chỉ
giữa trường Đại học Nội vụ Hà Nội và các trường đại học đã có kinh nghiệm trong
đào tạo tín chỉ.
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỌC CHẾ TÍN CHỈ
8


1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển của học chế tín chỉ
 Trên thế giới

Phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ ra đời vào năm 1872 tại Đại học
Harvard, Hoa Kỳ và sau đó được lan tỏa tới các nước khác, trước hết là các
nước Tây Âu từ những năm 1960 và hiện nay đã phổ biến trên toàn thế giới.
Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh viên có
thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại học phải
nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc sống,
vào năm 1872 Viện Đại học Harvard đã quyết định thay thế hệ thống chương trình
đào tạo theo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống chương trình mềm dẻo cấu thành
bởi các mô-đun mà mỗi sinh viên có thể lựa chọn một cách rộng rãi. Có thể xem sự
kiện đó là điểm mốc khai sinh “học chế tín chỉ”.[2][6][7]
Đến đầu thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ được áp dụng rộng rãi hầu như trong mọi

trường đại học Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước lần lượt áp dụng hệ thống tín chỉ
trong toàn bộ hoặc một bộ phận của trường đại học của mình: các nước Bắc Mỹ,
Nhật Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Ấn
Độ,... Tại Trung Quốc từ cuối thập niên 80 đến nay hệ thống tín chỉ cũng lần lượt
được áp dụng ở nhiều trường đại học (1). Vào năm 1999, 29 bộ trưởng đặc trách
giáo dục đại học ở các nước trong Liên minh Châu Âu đã ký Tuyên ngôn
Boglona nhằm hình thành Không gian Giáo dục đại học Châu Âu (European
Higher Education Area) thống nhất vào năm 2010, một trong các nội dung quan
trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế tín chỉ (European Credit
Transfer System -ECTS) [4] trong toàn hệ thống giáo dục đại học để tạo thuận lợi
cho việc cơ động hóa, liên thông hoạt động học tập của sinh viên trong khu vực
Châu Âu và trên thế giới.
Phương thức đào tạo theo tín chỉ là sản phẩm trí tuệ của người Mỹ. Nó được
hình thành và phát triển để phục vụ cho các mục đích cụ thể của nền giáo dục nước
này. Vào cuối thế kỉ 19, ở Mỹ số lượng học sinh trung học phổ thông ghi danh vào
học đại học ngày càng tăng, gây áp lực không nhỏ cho quá trình xét tuyển của các
9


trường đại học. Từ nguồn gốc đó, hệ thống tín chỉ dần dần thâm nhập vào các
trường đại học, lúc đầu chỉ để ghi lại điểm số của các môn học lựa chọn, sau đó, do
áp lực của các nhà tài trợ, các tổ chức từ thiện yêu cầu phải làm rõ hay cải thiện
năng lực chuyên môn và kĩ năng nghề nghiệp của sinh viên và hiệu quả đào tạo của
trường đại học, hệ thống tín chỉ được mở rộng ra tất cả các môn học thuộc các khối
kiến thức khác trong chương trình đại học và trở thành một phương thức đào tạo
chính thức, thay thế cho phương thức đào tạo truyền thống mà những thế hệ cha
ông của người Mỹ mang đến từ Châu Âu.[9]
Vượt ra ngoài biên giới nước Mỹ, đào tạo theo tín chỉ bắt đầu được áp dụng
mạnh mẽ trước hết ở các nước Tây Âu từ những năm 1960. Trước đó, chương trình
truyền thống trong các trường đại học ở Châu Âu, đặc biệt là ở Tây Âu hầu như do

giáo viên quyết định. Nó có xu hướng áp đặt, có rất ít khả năng cho người học lựa
chọn các môn học. Hơn 40 quốc gia Châu Âu có các các cơ sở đào tạo đại học, vì
vậy việc áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ cũng khác nhau.
Các nước khác ở Tây Âu như Đức và Bồ Đào Nha mới chỉ tổ chức chương
trình đào tạo của họ và những yêu cầu để lấy bằng theo các môn học với những giá
trị tính theo tín chỉ.
Các nước còn lại như Italia, Tây Ban Nha và các nước thuộc khối xã hội chủ
nghĩa cũ ở Đông Âu cũng bắt đầu chủ trương chuyển phương thức đào tạo truyền
thống sang phương thức đào tạo theo tín chỉ.
Năm 1992, Hệ thống chuyển đổi tín chỉ Châu Âu (European Credit Transfer
System – ECTS) được phát động. Đây là một chương trình thí điểm kéo dài trong 6
năm, thu hút sự tham gia của 145 trường đại học, tập trung vào 5 khu vực học
thuật: quản trị kinh doanh, hóa học, lịch sử, cơ khí, và y học. Sau 6 năm, ECTS
phát triển mạnh và đã được mở rộng vượt ra khỏi chương trình thí điểm, thu hút sự
tham gia của nhiều trường đại học, nhiều ngành khoa học. Đến nay số lượng thành
viên tham gia vào Hệ thống ECTS đã lên đến con số hàng nghìn.
 Tại Việt Nam
10


Trước năm 1975, một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại Miền
Nam Việt Nam đã áp dụng học chếtín chỉ như: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại
học Thủ Đức[9].Sau năm 1975, nhiều giảng viên của Trường Đại học Cần Thơ đã
được đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở nhiều trường Đại học Âu-Mỹ.
Trong quá trình Đổi mới ở nước ta từ cuối năm 1986 (chuyển nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa),
giáo dục đại học ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng đại học
tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới Giáo dục đại học, trong
đó có chủ trương triển khai trong các trường đại học quy trình đào tạo 2 giai đoạn
và mô-đunhoá kiến thức. Theo chủ trương đó, học chế học phần đã ra đời và được

triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng nước ta từ năm
1988 đến nay. Học chế học phần được xây dựng trên tinh thần tích lũy dần kiến
thức theo các mô-đun trong quá trình học tập, tức là cùng theo ý tưởng của học chế
tín chỉ xuất phát từ Mỹ. Tuy nhiên, về một số phương diện, học chế học phần chưa
thật sự mềm dẻo như học chế tín chỉ của Mỹ, do đó nó được gọi là sự kết hợp niên
chế với tín chỉ, tuy nhiên những khó khăn về đời sống trong xã hội nói chung và
trong các trường đại học nói riêng lúc đó chưa cho phép đặt vấn đề thực hiện học
chế mô-đun hóa triệt để.
Vào năm 1993, khi những khó khăn chung của đất nước và của các trường đại
học dịu bớt, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tiến thêm một bước, thực hiện học
chế học phần triệt để hơn, theo mô hình học chếtín chỉ của Mỹ. Trường Đại học
Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh là nơi đầu tiên áp dụng học chế tín chỉ từ năm
1993, rồi các trường Đại học Đà Lạt, Đại học Cần Thơ, Đại học Thủy sản Nha
Trang v...v... và một số trường đại học khác áp dụng từ năm 1994 và các năm sau
đó.
Năm 2004, có gần 10 trường đại học trong cả nước áp dụng học chế tín chỉ
với các sắc thái và mức độ khác nhau.(6)
Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành “Quy chế Đào tạo đại học và
cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ”[3]. Tuy nhiên, khi nhận định về thực
11


trạng chuyển đổi sang hệ thống tín chỉ hiện nay của các trường đại học ở Việt Nam,
một học giả của chương trình Fulbright cho rằng: “Các trường đại học Việt Nam
đang thực hiện việc chuyển đổi này sang học chế tín chỉ, nhưng có rất ít trường tạo
ra được những thay đổi có tính chất cơ bản vốn rất cần cho việc đổi mới hệ thống
giáo dục đại học của Việt Nam. Nhiều trường chỉ đang thực hiện những thay đổi
hình thức theo hệ thống mới…vì không có nhiều nhà khoa học Việt Nam hiểu rõ
lịch sử và cơ chế hoạt động của hệ thống đào tạo theo tín chỉ Hoa Kỳ.” [11].
Năm 2011 là hạn cuối cùng để các trường đại học liên quan phải chuyển đổi

sang hệ thống đào tạo mới này. Thế nhưng, đến tận năm 2014 vẫn có một số trường
đại học mới bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi sang hệ thống giáo dục mới này,
như: Đại học Văn Hiến, Đại học Nội vụ Hà Nội, Đại học Văn hóa...
1.2.Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm học chế tín chỉ
Phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ (hay gọi tắt là hệ thống tín chỉ) là
một phương thức đào tạo tiên tiến trong nền giáo dục của nhiều quốc gia trên thế
giới. Nó còn được gọi là học chế tín chỉ để phân biệt với các phương pháp đào tạo
ra đời trước nó như học chế niên chế, học chế học phần.Trên thế giới phương pháp
này được áp dụng ở cả giáo dục phổ thông và giáo dục đại học.
Hệ thống đào tạo tín chỉ hay học chế tín chỉ xét về mặt thuật ngữ trên thế
giới được sử dụng: trong Tiếng Anh có tên là “Credit System”, Tiếng Pháp là
“Système de Crédit”. Với thuật ngữ này hệ thống tín chỉ còn gọi là hệ thống tín
dụng (credit, crédit). Tín dụng là một thuật ngữ được dùng trong kinh tế, nó biểu
hiện “mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng
nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời
sống, theo nguyên tắc hoàn trả”[11] ( Nghĩa là, sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn
của tín dụng, hoàn thành một chu kỳ sản xuất trở về trạng thái tiền tệ, vốn tín dụng
được người đi vay hoàn trả cho người cho vay kèm theo một phần lãi như đã thoả
thuận, không những thế người đi vay còn hoàn trả được đầy đủ gốc và lãi đúng
thời hạn).
12


Như vậy, tín dụng được áp dụng trong đào tạo, giáo dục tương ứng với việc
sinh viên học tập, làm việc với mỗi học phần được quy đổi thành các tín học, học
phí mỗi tín nộp theo quy định, kết quả học tập tương ứng sẽ nhận được chứng chỉ,
văn bằng phù hợp theo nguyên tắc hoàn trả. Ở đó, sinh viên sẽ đóng vai trò là
người đi vay còn Nhà trường sẽ là người cho vay.



Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tín chỉ, có

khoảng hơn 60 định nghĩa, có định nghĩa thiên về định tính, có định nghĩa lại coi
trọng khía cạnh định lượng, có định nghĩa nhấn mạnh vào chuẩn đầu ra của sinh
viên, cũng có định nghĩa lại nhấn mạnh vào các mục tiêu của một chương trình
học.
Theo Tổng cục Giáo dục và Văn hóa (Directorate – General for Education
and Culture) trực thuộc Ủy ban Châu Âu (European Commissione) hệ thống tín
chỉ được định nghĩa là “…cách diễn tả một chương trình giáo dục bằng cách gắn
các tín chỉ vào các phần cấu thành chương trình ấy. Việc xác định tín chỉ trong hệ
thống giáo dục đại học có thể dựa trên những tham số khác nhau, chẳng hạn như
khối lượng công việc của sinh viên, kết quả học tập, và số giờ tiếp xúc giữa giảng
viên và sinh viên”.[4]
Định nghĩa của Tổng cục Giáo dục và Văn hóa trực thuộc Ủy ban Châu Âu
thiên về định tính, không nêu rõ khối lượng công việc cũng như các nhiệm vụ mà
sinh viên cần thực hiện khi học tập theo học chế tín chỉ. Đồng thời cũng chưa thấy
được sự chủ động, sáng tạo mà sinh viên cần có khi theo học tín chỉ.
Tín chỉ được gắn vào các phần cấu thành chương trình giáo dục và việc xác
định tín chỉ trong hệ thống giáo dục đại học có thể dựa trên những tham số khác
nhau nhưng lại không nêu đó là những tham gia số gì. Với định nghĩa này thì mỗi
trường đại học có thể tự đề ra những tham số xác định tín chỉ tùy theo điều kiện và
ngành đào tạo của trường, sẽ không tạo nên sự thống nhất và đồng bộ giữa các
trường đại học. Tuy nhiên, điều này sẽ tạo tính linh động trong việc đào tạo bởi mỗi
ngành học khác nhau thì có đặc điểm khác nhau, có ngành thiên về lý luận nhưng
13


lại có ngành thiên về thực hành, thực tiễn thông qua các thí nghiệm, trải nghiệm
thực tế, tính toán… giúp giảng viên có thể thiết kế bài học hợp lý, sinh viên học tập

cũng dễ dàng hơn.
Định nghĩa trên cũng đã nhắc đến kết quả học tập cũng như số giờ tiếp xúc
giữa giảng viên và sinh viên.Trong học chế tín chỉ, sinh viên không chỉ tiếp xúc
với giảng viên trên lớp học mà sinh viên còn có cố vấn học tập, giúp đỡ, tư vấn cho
sinh viên ngoài giờ lên lớp. Khoảng thời gian này cũng sẽ được tính vào số giờ tiếp
xúc giữa giảng viên và sinh viên, nó sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến kết quả học tập của
sinh viên. Đây cũng là định nghĩa được Trường Đại học Pavol Jozef Šafárik tại
Košice sử dụng khi giải thích về Chuyển đổi tín chỉ Châu Âu và hệ thống tích lũy
(ECTS).
Định nghĩa trên được sử dụng phổ biến ở các trường đại học trên thế giới
học tập, đào tạo theo hệ thống tín chỉ đặc biệt là các trường đào tạo theo hệ thống
Chuyển đổi tín chỉ Châu Âu và hệ thống tích lũy (ECTS).
Theo Alexandru Pop “Hệ thống tín chỉ học tập đánh giá tiến bộ của sinh
viên trong các nghiên cứu của họ.Sinh viên được yêu cầu để kiếm được một số
lượng nhất định của các khoản tín dụng để được hưởng tình trạng sinh viên toàn
thời gian. Mỗi khóa học có giá trị một số tín dụng nhất định được xác định theo các
tiêu chí khác nhau bao gồm cả khối lượng công việc của sinh viên, học tập kết quả
và liên lạc giờ. Các công việc nhiều hơn và nỗ lực một sinh viên được yêu cầu đặt
vào một khóa học, các khoản tín dụng hơn tất nhiên là giá trị.
Tín chỉ có thể đạt được bằng cách hoàn thành một mô – đun học tập hoặc
khóa học nghiên cứu riêng, tùy vào chính sách đại học. Học vị, bằng cấp được
cung cấp chỉ sau khi nhận được một số cố định của các khoản tín dụng. Ở một số
nước, không có sự đồng thuận cho chuyển đổi tín chỉ, tích lũy và các hệ thống có
thể khác nhau rất nhiều giữa các tổ chức”.[3]
Định nghĩa này được sử dụng cho các trường đại học đào tạo Hệ thống tín
chỉ của Hoa Kỳ (the United States Credit System - USCS). Ở định nghĩa này
14


không chỉ nhấn mạnh vào công việc mà sinh viên cần thực hiện, nỗ lực mà sinh

viên bỏ ra là giá trị mà giá trị này còn được khẳng định bằng học vị, bằng bằng cấp
sinh viên có thể nhận được sau khi hoàn thành khóa học. Đây là điểm mà trong
định nghĩa của Tổng cục Giáo dục và Văn hóa (Directorate – General for
Education and Culture) trực thuộc Ủy ban Châu Âu (European Commissione)
không được đề cập đến. Mặc dù có nhiều sự khác biệt trong cách hiểu, cách diễn
đạt thì học chế tín chỉ cơ bản vẫn được biết đến là việc gắn các tín chỉ hay tín dụng
vào các môn học trong chương trình đào tạo nhằm tạo ra sự thay đổi, phát triển nền
giáo dục toàn cầu.


Còn ở Việt Nam cũng đã có những trường đại học, các nghiên cứu của giảng

viên, giáo sư, tiến sĩ… đưa ra định nghĩa về học chế tín chỉ phù hợp với hoạt động
giảng dạy theo tín chỉ ở Việt Nam, như:
Định nghĩa của Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh được nêu trong Quy
định về công tác học vụ của trường: “Học chế tín chỉ là phương thức đào tạo sinh
viên chủ động lựa chọn học từng học phần (tuân theo một số ràng buộc được quy
định trước) nhằm tích lũy từng phần và tiến tới hoàn tất toàn bộ chương trình đào
tạo, được cấp văn bằng tốt nghiệp”. (9)
Định nghĩa trên đã nêu rất rõ trách nhiệm của sinh viên đối với việc học tập
theo hệ thống đào tạo tín chỉ, sinh viên có thể tự đăng ký, lựa chọn học phần từ đó
tạo nên tính chủ động cho sinh viên đối với quá trình học tập của bản thân, đồng
thời cũng chỉ rõ mục đích, chức năng những lợi ích của hệ thống tín chỉ đối với
sinh viên. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa đề cập đến khối lượng công việc cũng
như nhiệm vụ mà sinh viên cần thực hiện đối với từng môn học.
Học đại học chính là tự học đặc biệt trong học chế tín chỉ, tự học đóng vai trò
quan trọng, là yếu tố chủ chốt để việc học tập đạt kết quả cao tuy nhiên trong định
nghĩa này không hề nhắc đến vấn đề tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Và nhất
nhiều các định nghĩa của các trường đại học ở Việt Nam cũng như trên thế giới
không đưa vào vấn đề này.

15


Còn theo TS. Nguyễn Kim Dung (Viện Nghiên cứu Giáo dục – Trường Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh):“Hệ thống tín chỉ là một hệ thống được sử dụng
cho tất cả các thành phần (hay môn học) của một chương trình học. Tất cả số
lượng tín chỉ gộp lại sẽ giúp sinh viên có được bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ hay
một bằng cấp chuyên môn nào đó. Tín chỉ được dùng đo lường khối lượng công
việc của một sinh viên theo các hoạt động học tập đã được lên kế hoạch như lên
lớp nghe giảng, tham dự seminar hoặc tự học v.v… Các tiêu chí này quyết định
các đặc trưng cụ thể của các hệ thống tín chỉ khác nhau trong những khóa học gần
giống nhau trên thế giới”7
Định nghĩa của TS.Nguyễn Kim Dung lại nhấn mạnh vào các văn bằng,
chứng chỉ mà sinh viên nhận được sau quá trình học. Nếu hiểu theo nguyên tắc
hoàn trả nghĩa là tất cả số tín chỉ sinh viên tích lũy trong quá trình học sẽ được đổi
lại bằng các văn bằng, chứng chỉ tương đương. Ngoài ra, trong định nghĩa này còn
nhắc đến các kế hoạch học tập ngoài thời gian lên lớp của sinh viên như tham dự
các seminar, hội thảo, tự học…
Triết lý cơ bản của đào tạo theo học chế tín chỉ là khi đã có nhiều trường đại
học trong một quốc gia, một khu vực và trên thế giới áp dụng học chế tín chỉ thì có
thể thực hiện được việc chuyển đổi tín chỉ (credit transfer system) giữa các trường
đại học. Hệ quả của nó là hình thành các hệ thống chuyển đổi tín chỉ trong khu vực
và trên thế giới. Dù hiểu theo định nghĩa nào thì hệ thống tín chỉ hay học chế tín
chỉ vẫn là một phương pháp đào tạo tiên tiến nhất trên thế giới.
Trên cơ sở các định nghĩa trên, chúng tôi đã xây dựng định nghĩa về hệ thống
tín chỉ như sau: “Hệ thống tín chỉ là một hệ thống giáo dục tiên tiến bằng cách gắn
các tín chỉ tương ứng với từng đơn vị học phần, giúp sinh viên chủ động, tích cực
hơn trong việc học tập. Là phương pháp kết hợp giữa giảng dạy lý thuyết và thực
hành nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đồng thời thông qua kết quả học tập của
sinh viên, số giờ lên lớp, số giờ tiếp xúc với giảng viên, số giờ thực nghiệm và số

giờ tự học sinh viên sẽ nhận được văn bằng, chứng chỉ phù hợp.”
16


1.2.2. Các khái niệm cơ bản khác
− Khóa học – ngành đào tạo – "Khóa – ngành"
Khóa – ngành là thuật ngữ dùng để chỉ nhóm tất cả các sinh viên cùng khóa
tuyển sinh, cùng nhập học và cùng học theo một chương trình đào tạo của một
ngành. Mỗi khóa – ngành có một mã số xác định theo khoa, ngành và khóa nhập
học. Trong học chế tín chỉ, chương trình đào tạo được duyệt công bố đưa vào vận
hành và được điều chỉnh riêng cho từng khóa – ngành (áp dụng trong trường hợp
tuyển sinh đầu vào theo ngành). Trường hợp tuyển theo một điểm chuẩn chung,
ngành (chuyên ngành) được hiểu khi sinh viên bắt đầu được xét vào chuyên ngành
đã đăng ký và công bố sau 3 học kỳ.
− Học kỳ và năm học
Học kỳ là một khoảng thời gian nhất định gồm một số tuần dành cho các
hoạt động giảng dạy học tập các học phần và một số tuần dành cho việc đánh giá
kiến thức (kiểm tra, thi,...).
Một năm học có hai học kỳ chính, mỗi học kỳ chính có ít nhất 15 tuần thực
học và 3 tuần thi.Ngoài hai học kỳ chính, Hiệu trưởng xem xét quyết định tổ chức
thêm một kỳ học phụ để sinh viên có điều kiện được học lại; học bù hoặc học
vượt.Mỗi học kỳ phụ có ít nhất 5 tuần thực học và 1 tuần thi.
− Tín chỉ
Tín chỉ là đơn vị quy chuẩn dùng để lượng hoá khối lượng kiến thức và khối
lượng học tập giảng dạy trong quy trình đào tạo. Tín chỉ cũng là đơn vị để đo
lường tiến độ học tập của sinh viên – đánh giá dựa trên số lượng tín chỉ sinh viên
đã tích lũy được.
− Học phí tín chỉ
Học phí được xác định căn cứ theo số học phần mà sinh viên được xếp thời
khóa biểu trong học kỳ và bằng tổng số tín chỉ quy định cho các học phần nhân với

mức thu học phí/ 1 tín chỉ. Mức học phí do Hiệu trưởng nhà trường quy định cho
từng bậc học và từng hệ đào tạo của học kỳ tương ứng.
17


− Học phần
Học phần là đơn vị cấu thành chương trình đào tạo, gồm tập hợp những tri
thức về một lĩnh vực chuyên môn và được tổ chức giảng dạy trọn vẹn trong một
học kỳ. Hoạt động học tập giảng dạy của một học phần bao gồm một hay kết hợp
một số trong các hình thức sau:
+ Giảng dạy lý thuyết – tổ chức thành các lớp học phần;
+ Giảng dạy, hướng dẫn thực hành, bài tập – tổ chức theo lớp hay theo từng
nhóm;
+ Hướng dẫn thực tập, thực tập tốt nghiệp tại các cơ sở bên ngoài;
+ Hướng dẫn tiểu luận và luận văn tốt nghiệp.
Học phần có mã số riêng và số tín chỉ xác định.
− Học phần bắt buộc
Đây là các học phần trong chương trình đào tạo chứa đựng những nội dung
chính yếu của ngành và chuyên ngành đào tạo mà sinh viên bắt buộc phải hoàn tất
đạt để được xét tốt nghiệp.
− Học phần tự chọn
Đây là các học phần trong chương trình đào tạo chứa đựng những nội dung
cần thiết cho định hướng nghề nghiệp mà sinh viên có thể lựa chọn đăng ký học.
Học phần tự chọn được xếp theo từng nhóm. Để đủ điều kiện tốt nghiệp, sinh viên
phải hoàn tất đạt một số học phần nhất định trong từng nhóm nhằm tích lũy đủ số
tín chỉ tối thiểu quy định cho nhóm học phần tự chọn tương ứng.
− Học phần tương đương, học phần thay thế
Học phần tương đương là một hay một nhóm học phần thuộc chương trình
đào tạo một khóa – ngành khác đang tổ chức đào tạo tại trường được phép tích lũy
để thay cho một học phần hay một nhóm học phần trong chương trình đào tạo của

ngành đào tạo.

18


Học phần thay thế được sử dụng khi một học phần có trong chương trình
đào tạo nhưng nay không còn tổ chức giảng dạy nữa và được thay thế bằng một
học phần khác đang còn tổ chức giảng dạy.
− Học phần tiên quyết
Học phần A là học phần tiên quyết của học phần B, khi điều kiện bắt buộc để
đăng ký học học phần B là sinh viên đã đăng ký học và hoàn tất đạt học phần A.
− Học phần trước
Học phần A là học phần trước của học phần B, khi điều kiện bắt buộc để
đăng ký học học phần B là sinh viên đã đăng ký và được xác nhận học xong học
phần A (có thể chưa đạt). Sinh viên được phép đăng ký học học phần B vào học kỳ
tiếp sau học kỳ đã học học phần A.
− Học phần song hành
Học phần A là học phần song hành của một học phần B, khi điều kiện bắt
buộc để đăng ký học học phần B là sinh viên đã đăng ký học học phần A. Sinh viên
được phép đăng ký học học phần B vào cùng học kỳ đã đăng ký học học phần A
hoặc vào các học kỳ tiếp sau.
− Lớp học phần và điều kiện mở lớp
Lớp học phần là lớp của các sinh viên cùng đăng ký một học phần, có cùng
thời khoá biểu của học phần trong cùng một học kỳ.Mỗi lớp học phần được gán
một mã số riêng. Số lượng sinh viên của một lớp học phần được giới hạn bởi sức
chứa của phòng học/ phòng thực hành hoặc được sắp xếp theo các yêu cầu riêng
đặc thù của học phần.
− Lớp sinh viên và cố vấn học tập
Lớp sinh viên (lớp niên khóa) được tổ chức theo Quy định Công tác sinh
viên. Mỗi lớp sinh viên có một tên riêng gắn với khoa, khóa đào tạo và do một cố

vấn học tập phụ trách.

19


Cố vấn học tập có vai trò cố vấn cho sinh viên trong lớp về các vấn đề học
vụ, giúp đỡ sinh viên lập kế hoạch học tập trong từng học kỳ và kế hoạch cho toàn
bộ khóa đào tạo.
− Kết quả học tập
Kết quả học tập tuyên bố về những gì mà nhà trường mong muốn người học
biết, hiểu và/hay có thể thực hiện được sau khi hoàn thành một quá trình học tập.
− Tiêu chí đánh giá
Tiêu chí đánh giá mô tả về những gì mà nhà trường mong muốn người học
làm được nhằm chứng minh rằng người học đã đạt được kết quả học tập.
− Thời gian thực học
Thời gian thực học là số giờ học cần thiết mà một người học, ở mức độ
trung bình, phải trải qua, để hoàn thành các kết quả học tập cụ thể ở một trình độ
nhất định.
Ngoài những khái niệm đã nêu trên vẫn còn một khái niệm nữa được rất
nhiều sinh viên quan tâm khi học tập theo học chế tín chỉ, đó là khái niệm
“Seminar”. Seminar (disambiquation) có nghĩa là hội thảo (định hướng). Seminar
có nguồn gốc từ từ Latinh “seminarium”, có nghĩa là “âm mưu hạt giống”.[13]
Theo nghĩa rộng, “một cuộc hội thảo, nói chung, là một hình thức học
tập hướng dẫn, hoặc tại một tổ chức học thuậthoặc được cung cấp bởi một tổ chức
thương mại hoặc chuyên nghiệp. Nó có chức năng quy tụ các nhóm nhỏ cho các
cuộc họp định kỳ, tập trung mỗi lần trên một số vấn đề cụ thể, trong đó tất cả mọi
người được yêu cầu để tham gia tích cực. Điều này thường được thực hiện thông
qua một cuộc đối thoại Socratic(một hình thức điều tra và thảo luận giữa các cá
nhân) liên tục với một nhà lãnh đạo hội thảo hoặc người hướng dẫn, hoặc thông
qua một bài thuyết trình chính thức của nghiên cứu. Nó thực chất là một nơi mà

các bài đọc được giao sẽ được thảo luận, câu hỏi có thể được nêu ra và tranh luận
có thể được tiến hành.Nó tương đối chính thức, ít nhất so với các bài giảng hệ
thống của hướng dẫn học tập”.
20


Nghĩa hẹp hơn “hội thảo (seminar) là danh từ chỉ một nhóm nhỏ các sinh
viên, như trong một trường đại học, tham gia vào nghiên cứu tiên tiến và nghiên
cứu ban đầu theo một thành viên của các giảng viên và họp thường xuyên để trao
đổi thông tin và thảo luận”.[13]
Trên đây là một số khái niệm về học chế tín chỉ được sử dụng phổ biến
không chỉ ở các trường đại học trên thế giới mà còn ở các trường đại học ở Việt
Nam.Qua đó, chúng ta bước đầu đã có thể hiểu một cách cơ bản nhất về học chế
tín chỉ và số thuật ngữ được sử dụng nhiều, gắn liền với hình thức đào tạo này. Tạo
điều kiện thuận lợi giúp sinh viên dễ dàng tiếp cận cũng như làm quen với hình
thức đào tạo mới ở đại học, giúp nâng cao kết quả học tập của sinh viên và kết quả
giảng dạy của giảng viên.
1.3.Đặc điểm của hệ thống tín chỉ
Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh viên có
thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại học phải
nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc
sống.Đào tạo theo tín chỉ tuy được coi là phương thức đào tạo mới nhưng đã có
lịch sử cách đây hàng trăm năm và đã khẳng định ưu thế của nó tại nhiều trường
đại học danh tiếng trên thế giới. Ở Việt Nam, nhìn chung phương thức đào tạo theo
tín chỉ còn khá mới mẻ. Mặc dù còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng trong việc ứng dụng
nhưng nhiều trường đại học đã tích cực áp dụng phương thức đào tạo này và đạt
được những thành công nhất định. Những đặc điểm của hệ thống tín chỉ là :
Thứ nhất, hệ thống tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải tích luỹ kiến thức theo từng
học phần (đơn vị: tín chỉ) và kiến thức cấu trúc thành các mô đun (học phần). Kiến
thức trong mỗi học phần được thiết kế kiểu mô đun theo từng môn học hoặc được

kết cấu dưới dạng tổ hợp từ nhiều môn học thành một môn học mới. Mỗi học phần
được ký hiệu bằng một mã riêng do Trường quy định. Cùng với đó quy định khối
lượng kiến thức phải tích luỹ cho từng văn bằng. Xếp năm học của người học theo
khối lượng tín chỉ tích luỹ. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lí thuyết;
30-45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-90 giờ thực tập tại cở sở; 45-60
21


giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp. Đối với những học
phần lí thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ, sinh viên
phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
Thứ hai, ngoài các học phần bắt buộc còn có các học phần tự chọn điều đó
cho phép sinh viên dễ dàng điều chỉnh ngành nghề đào tạo. Thường thì một học
phần có khối lượng từ 2 đến 4 tín chỉ. Với mục tiêu lấy sinh viên là trung tâm, khi
tổ chức giảng dạy theo tín chỉ, đầu mỗi học kỳ, sinh viên được lựa chọn và đăng kí
các học phần thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ nhằm đạt được kiến thức
theo một chương trình đào tạo nào đó. Sự lựa chọn các môn học rất rộng rãi,sinh
viên có thể ghi tên học các môn liên ngành nếu họ thích.Sinh viên không chỉ giới
hạn học các môn chuyên môn của mình mà còn cần học các môn học khác lĩnh
vực. Chương trình đào tạo có tính tích hợp, liên thông, liên ngành, liên môn đáp
ứng nhu cầu đến từng người học và thị trường lao động. Nhà trường căn cứ vào
nhu cầu của sinh viên để bố trí giảng viên và sắp xếp thời khoá biểu cho các lớp
học phần và có hệ thống cố vấn học tập. Đơn vị học vụ là học kỳ. Mỗi năm có thể
chia thành 2 học kỳ (15 tuần), 3 học kỳ (15 tuần) hoặc 4 học kỳ (10 tuần).
Thứ ba, việc đánh giá kết quả học tập, hệ thống tín chỉ dùng cách đánh giá
thường xuyên theo quá trình và dựa vào sự đánh giá đó đối với các môn học tích
luỹ được để cấp bằng cử nhân. Thang điểm để đánh giá kết quả học tập của sinh
viên sử dụng thang điểm chữ A, B, C, D (hay thang điểm bốn). Đối với các
chương trình đào tạo sau đại học (cao học và đào tạo tiến sỹ) ngoài các kết quả
đánh giá thường xuyên còn có các kỳ thi tổng hợp và các luận văn.không tổ chức

thi tốt nghiệp và bảo vệ khóa luận tốt nghiệp đối với các chương trình đại học và
cao đẳng;
So sánh các học chế tín chỉ được áp dụng phổ biến ở Việt Nam và học chế
tín chỉ ở Mỹ:
Để hiểu rõ học chế học phần hiện nay ở Việt Nam và học chế tín chỉ ở ngay
tại Mỹ, chiếc nôi của học chế tín chỉ, ta phải nhận thấy được những điểm giống
nhau và khác nhau về bản chất và về việc thực hiện các học chế đó.
22


×