Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Thực trạng tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.94 KB, 19 trang )

Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Chiếm trên 97% số doanh nghiệp cả nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và
đang góp phần quan trọng tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp
huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo. Trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước đều có chủ trương, chính sách tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển
Trước xu thế hài hòa các chuẩn mực và quy định về kế toán trên phạm vi toàn
cầu, nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam đều xây dựng chuẩn mực kế toán doanh
nghiệp trên cơ sở chuẩn mực quốc tế. Do đó, việc nghiên cứu xây dựng chế độ kế
toán áp dụng riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là một vấn đề thiết yếu,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm hướng tới việc xây dựng một chế độ kế toán hợp lý cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các mục tiêu cụ thể được xác định như sau:
 Nhận định các quan điểm của một số nước trên thế giới về việc ban hành
chuẩn mực kế toán cho các DNVVN.
 Xác định những hạn chế khi các DNVVN áp dụng chuẩn mực kế toán
chung.
 Xác định chuẩn mực kế toán quốc tế cho các DNVVN.
 Xác định sự cần thiết trong việc xây dựng chuẩn mực kế toán riêng cho các
DNVVN tại Việt Nam.
 Định hướng xây dựng chuẩn mực kế toán riêng cho các DNVVN tại Việt
Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:Sự cần thiết có một chế độ kế toán riêng cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu về sự cần thiết có một
chế độ kế toán riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.Trong quá trình nghiên cứu


không chỉ tập trung đánh giá sự cần thiết có một chế độ kế toán riêng cho DN, tình
hình phát triển của tổ chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Khảo
sát thực tế, vận dụng đánh giá những ưu nhược điểm của công tác tổ chức kế
toán.Đề xuất những giải pháp nhằm giúp hệ thống ngày càng hoàn thiện hơn, phục
vụ tốt hơn cho công tác kế toán.
- Về thời gian nghiên cứu: Tài liệu, dữ liệu, thông tin được thu thập chủ yếu trong
2 năm 2013 và 2014, các giải pháp đến năm 2020.
- Về không gian nghiên cứu của đề tài: Trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm so sánh, đối
chiếu, phương pháp phân tích và tổng hợp… Để có căn cứ cho việc đánh giá thực
trạng tổ chức công tác tại DNVVN, chúng em đã sử dụng phương pháp thống kê
trên một mẫu DNVVN.
5. Bố cục của bài nghiên cứu
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về tổ chức kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kế toán
trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Chương I: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ


1. Tiêu chuẩn xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp siêu nhỏ, vừa và nhỏ hay còn gọi thông dụng là doanh nghiệp
vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao
động hay doanh thu. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể chia thành ba loại cũng căn
cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh

nghiệp vừa.
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh
nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao
động từ 10 đến dưới 200 người và nguồn vốn 20 tỷ trở xuống, còn doanh nghiệp
vừa có từ 200 đến 300 lao động nguồn vốn 20 đến 100 tỷ.
Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
nước mình. Ở Việt Nam, theo Điều 3, Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày
30/6/2009 của Chính phủ, quy định số lượng lao động trung bình hàng năm từ 10
người trở xuống được coi là doanh nghiệp siêu nhỏ, từ 10 đến dưới 200 người lao
động được coi là Doanh nghiệp nhỏ và từ 200 đến 300 người lao động thì được coi
là Doanh nghiệp vừa.
2. Khái niệm chế độ kế toán doanh nghiệp
Chế độ kế toán là những quy định và hướng dẫn về kế toán trong một lĩnh vực
hoặc một số công việc cụ thể do cơ quan quản lý nhà nước về kế toán hoặc tổ chức
được cơ quan quản lý nhà nước về kế toán ủy quyền ban hành.
Các doanh nghiệp đều phải tuân thủ theo các chế độ kế toán đã quy định, việc
áp dụng các chế độ kế toán này không chỉ nâng cao hiệu quả của bộ máy kế toán
trong các doanh nghiệp mà còn giúp nâng cao hiệu quả của công tác quản lý các
hoạt động kinh tế tài chính ngày càng phức tạp, phong phú và đa dạng của nền kinh
tế nói chung với tiến trình mở cửa, hội nhập nói riêng.


3. Các yêu cầu của tổ chức kế toán doanh nghiệp
Việc tổ chức công tác kế toán trong một doanh nghiệp phải đảm bảo những yêu
cầu sau:
-

Yêu cầu về pháp lý: Khi tổ chức công tác kế toán phải xem xét đến việc

tuân thủ Luật kế toán, hệ thống chuẩn mực kế toán, các qui định, thông tư hướng

dẫn thực hiện chế độ kế toán trong doanh nghiệp và các văn bản pháp qui khác có
liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động kế toán như các bộ luật về
thuế, Luật doanh nghiệp… Do đó, doanh nghiệp cần nắm vững hệ thống văn bản
pháp quy và việc vận hành trong thực tế của hệ thống này.
-

Yêu cầu về quản lý: Yêu cầu quản lý của doanh nghiệp thường rất đa dạng

và không giống nhau, mặc dù mục đích cuối cùng của hoạt động kinh doanh là như
nhau. Do đó khi tổ chức công tác kế toán cần nắm bắt đầy đủ các yêu cầu về quản
lý của doanh nghiệp để xây dựng hệ thống kế toán cho phù hợp. Các yêu cầu về
quản lý có thể là nội dung, tính chất, thời điểm cung cấp thông tin kế toán; các yêu
cầu quản lý hoạt động kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp; yêu cầu về quản lý
vốn, tài sản hay quản lý nguồn nhân lực…
4. Các nội dung cơ bản của tổ chức công tác kế toán
Nhìn chung, tổ chức công tác kế toán của một doanh nghiệp bao gồm các
nhiệm vụ: tổ chức hệ thống chứng từ kế toán; tổ chức hệ thống tài khoản kế toán;
tổ chức hệ thống sổ kế toán và tổ chức cung cấp thông tin qua hệ thống báo cáo kế
toán.

5. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán của DNVVN
a) Người sử dụng và thông tin cần thiết:


Đối với DNVVN, người sử dụng thông tin thường chỉ giới hạn ơ hai đối tượng
là nhà quản lý và cơ quan thuế vì họ chưa có nhu cầu huy động vốn từ nhà đầu tư
bên ngoài và từ các ngân hàng. Để phục vụ cho hai đối tượng sử dụng thông tin
trên, hệ thống kế toán của DNVVN thường đơn giản, các báo cáo tài chính thường
không phức tạp, ít chỉ tiêu, phù hợp với chi phí mà doanh nghiệp có thể chi trả.
b) Các quy định pháp lý

Quy định pháp lý là các chính sách quản lý kinh tế tài chính mà cơ quan nhà
nước ban hành nhằm bắt buộc hoặc hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện.
Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều có những quy định về kế toán cho cả
doanh nghiệp lớn lẫn các DNVVN. Tuy nhiên, các quy định chi phối DNVVN sẽ ít
và đơn giản hơn, trách nhiệm về báo cáo và trách nhiệm về kiểm toán của các
doanh nghiệp này cũng được tinh giảm nhiều.
c) Hệ thống kiểm soát nội bộ
Hệ thống kiểm soát nội bộ là những thủ tục sử dụng nhằm đạt được mục tiêu
của tổ chức công tác kế toán là đảm bảo an toàn cho tài sản và đảm bảo dữ liệu kế
toán có độ chính xác cao, đáng tin cậy. Một sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội
bộ là cần thiết đối với bất kì kế toán viên nào vì việc đánh giá hệ thống kiểm soát
nội bộ ảnh hưởng đến khối lượng công việc mà họ phải thực hiện khi tiến hành
kiểm tra độ chính xác của các thông tin kế toán.
d) Yêu cầu và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến công tác kế toán trong một
doanh nghiệp. Tuy nhiên việc ứng dụng CNTT cào công tác kế toán tại các
DNVVN còn gặp nhiều trở ngại do những nguyên nhân như: nhận thức của người
quản lý, thiếu tầm nhìn chiến lược về ứng dụng CNTT, thiếu vốn… Song hiện nay,
những hạn chế trên đã giảm đáng kể nhờ sự phát triển của thị trường CNTT, việc


cung cấp những phần mềm kế toán như Accnet 2004, Fast Accounting 2006, Bravo
6.0, Effect…hay thuê viết một chương trình phần mềm kế toán phù hợp với yêu
cầu của doanh nghiệp không còn xa lạ với các DNVVN.
e) Các dịch vụ tài chính – kế toán
Dịch vụ tài chính – kế toán là loại hình nhằm trợ giúp, tư vấn cho các nhà đầu
tư, các doanh nghiệp về luật pháp, chế độ, thể chế tài chính kế toán của nhà nước,
cũng như việc lập, ghi sổ kế toán, tính thuế và lập báo cáo tài chính. Hiện nay, các
dịch vụ tài chính kế toán phổ biến thường là dịch vụ làm kế toán, lập báo cáo tài
chính, các dịch vụ thuế như hướng dẫn và tư vấn thuế, lập tờ khai thuế… và các

dịch vụ về kế toán quản trị như phân tích, đánh giá hoạt động kinh doanh và lập
chiến lược kinh doanh cho các doanh nghiệp.


Chương II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
1. Việc áp dụng chuẩn mực kế toán cho doanh nghiệp vừa và nhỏ của một
số quốc gia trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về phương thức ban hành
chuẩn mực kế toán toán áp dụng cho các DNVVN:
Quan điểm 1: Không ban hành chuẩn mực kế toán áp dụng cho các DNVVN.
Các doanh nghiệp này phải áp dụng đầy đủ và triệt để hệ thống chuẩn mực kế toán
chung, không có ngoại lệ cho bất kể một loại hình doanh nghiệp nào. Lý do ủng hộ
cho quan điểm này là việc áp dụng một hệ thống chuẩn mực kế toán duy nhất sẽ
tăng cường tính so sánh của thông tin kế toán trong nền kinh tế.
Quan điểm 2: Không ban hành chuẩn mực kế toán riêng cho các DNVVN mà
trên cơ sở chuẩn mực kế toán chung để quy định lược bỏ một số chuẩn mực hoặc
nội dung của chuẩn mực cụ thể các DNVVN không phải áp dụng. Mô hình này
hiện đang được một số quốc gia áp dụng trong đó có Việt Nam.
Quan điểm 3: Ban hành chuẩn mực kế toán riêng áp dụng cho các DNVVN.
Với việc ban hành “Chuẩn mực quốc tế về báo cáo tài chính áp dụng cho các
DNVVN – IFRS for SMEs” của Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế vào tháng 7
năm 2009, nhiều quốc gia đã và đang xây dựng, ban hành chuẩn mực kế toán áp
dụng cho các DNVVN trên cơ sở chuẩn mực quốc tế.
Theo số liệu tại buổi hội thảo về việc “Thực hiện chuẩn mực kế toán áp dụng
cho các DNVVN – Implementing IFRS for SMEs” do Hội đồng chuẩn mực kế
toán quốc tế IASB tổ chức, đến tháng 9 năm 2011, đã có 74 quốc gia quy định áp
dụng hoặc công bố kế hoạch áp dụng IFRS for SMEs trong vòng 3 năm tới (Châu



Âu: Anh, Ireland, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sĩ; Châu Á: Hong Kong, Malaysia,
Singapore, Myanmar, Nepal, Campuchia, Philippines…. và có thể áp dụng tại Mỹ
và Canada).
Một số nước cũng đã hoàn thành việc dịch chuẩn mực sang ngôn ngữ quốc gia
dưới sự giúp đỡ của Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế IASB, như Trung Quốc,
Pháp, Ý, Nga, Tây Ban Nha, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Séc… Một số nước đang trong
quá trình dịch như Nhật Bản, Ukrainian, Serbian…

2. Tình hình áp dụng các chuẩn mực kế toán cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Việt Nam
Khái niệm DNVVN được xác định theo những tiêu chuẩn khác nhau tại những
quốc gia khác nhau. Tại Việt Nam, theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP ban hành ngày
30/06/2009 về trợ giúp phát triển DNVVN, DNVVN được chia thành 3 cấp: siêu
nhỏ, vừa và nhỏ theo hai tiêu chí là quy mô tổng nguồn vốn và số lao động bình
quân. Những ngành nghề cụ thể sẽ có tiêu chuẩn khác nhau nhưng số lao động
không quá 300 người và quy mô vốn dưới 100 tỷ đồng.
Mặc dù có sự khác biệt giữa các quốc gia về tiêu chí ghi nhận DNVVN, song
theo số liệu của Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế, số lượng các DNVVN chiếm
trên 99% số doanh nghiệp toàn thế giới (Số liệu tại hội thảo “IFRS for SMEs
Implementation Update” ngày 24/6/2010, IASB). Cụ thể, với 52 thị trường chứng
khoán lớn nhất thế giới chỉ có khoảng 45.000 công ty niêm yết toàn cầu. Châu Âu
có khoảng 25 triệu doanh nghiệp tư nhân, con số này ở Mỹ là 20 triệu và ở Anh có
4,7 triệu doanh nghiệp tư nhân có ít hơn 100 lao động, chiếm 99,6% tổng số doanh
nghiệp.


Đặc điểm chung của DNVVN là đối tượng sử dụng thông tin kế toán tương đối
hẹp, chủ yếu là chủ doanh nghiệp, chủ nợ, nhà cung cấp, khách hàng mà không tập
trung tới nhóm những nhà đầu tư tài chính tiềm năng. Đây cũng là mục tiêu mà
Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế IASB hướng tới khi xây dựng bộ chuẩn mực

IFRS for SMEs.
Với chủ trương tạo mọi điều kiện thuận lợi để các DNVVN phát triển, đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hệ thống chuẩn mực và chế
độ kế toán áp dụng cho các DNVVN đã được nghiên cứu và ban hành trong thời
gian qua như:
Chế độ kế toán DNVVN ban hành theo quyết định 1177/TC-QĐ-CĐKT ngày
23/12/1996 của Bộ trưởng Bộ tài chính.
Quyết định số 144/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
quy định sửa đổi bổ sung chế độ kế toán DNVVN theo quyết định 1177 nêu trên.
Hệ thống 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam được ban hành từ năm 2001 đến năm
2006 theo các quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính.
Quyết định 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/9/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban
hành chế độ kế toán DNVVN thay thế quyết định 1177/TC-QĐ-CĐKT.
Chế độ kế toán DNVVN được xây dựng trên cơ sở kế thừa chuẩn mực kế toán
chung đã ban hành, một số chuẩn mực áp dụng đầy đủ như:
STT

Số hiệu và tên chuẩn mực

1

CM số 01 - Chuẩn mực chung

2

CM số 05 - Bất động sản đầu tư

3

CM số 14 - Doanh thu và thu nhập khác



4

CM số 16 - Chi phí đi vay

5

CM số 18 - Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng

6

CM số 23 - Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán
năm

7

CM số 26 - Thông tin về các bên liên quan

Các chuẩn mực kế toán áp dụng không đầy đủ bao gồm:

STT

Số hiệu và tên chuẩn mực

1

CM số 02- Hàng tồn kho

2


CM số 03- TSCĐ hữu hình

3

CM số 04 TSCĐ vô hình

4

CM số 06 - Thuê tài sản

5

CM số 07- Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết

6

CM số 08- Thông tin tài chính về những khoản vốn góp liên
doanh

7

CM số 10- Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái

8

CM số 15 - Hợp đồng xây dựng

9


CM số 17- Thuế thu nhập doanh nghiệp

10

CM số 21- Trình bày báo cáo tài chính

11

CM số 24 - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ

12

CM số 29 – Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và


các sai sót
Các chuẩn mực kế toán không áp dụng:

STT

Số hiệu và tên chuẩn mực

1

CM số 11- Hợp nhất kinh doanh.

2

CM số 19- Hợp đồng bảo hiểm.


3

CM số 22- Trình bày bổ sung báo cáo tài chính của các ngân
hàng và tổ chức tài chính tương tự.

4

CM số 25- Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư
vào công ty con.

5

CM số 27 - Báo cáo tài chính giữa niên độ.

6

CM số 28 – Báo cáo bộ phận.

7

CM số 30- Lãi trên cổ phiếu.

Trong điều kiện hệ thống pháp lý về kế toán Việt Nam đang hoàn thiện, việc áp
dụng có chọn lọc các chuẩn mực kế toán chung sẽ đảm bảo một khung pháp lý
tương đối thống nhất, thuận lợi cho công tác quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên, việc lược bỏ một số chuẩn mực kế toán không áp dụng và áp dụng
không đầy đủ đối với DNVVN sẽ làm giảm tính hệ thống và nhất quán của chuẩn
mực kế toán. Hơn nữa nguồn lực cho công tác kế toán tại các DNVVN có nhiều
hạn chế nên việc tuân thủ chuẩn mực kế toán chung làm phát sinh nhiều chi phí,
ảnh hưởng đến bộ máy kế toán trong các doanh nghiệp. Đối tượng sử dụng thông

tin kế toán tài chính tại các DNVVN tương đối hẹp nên việc áp dụng các chuẩn
mực kế toán chung có thể dẫn đến thông tin mang tính dàn trải.


Trong xu thế hài hòa hóa các quy định, chuẩn mực kế toán quốc gia với chuẩn
mực kế toán quốc tế, việc nghiên cứu ban hành chuẩn mực kế toán riêng cho các
DNVVN trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế sẽ đảm bảo
việc tổ chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp này được tinh gọn, phù hợp với
quy mô, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả công việc, đảm bảo đáp ứng tốt hơn
nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng.
3. Định hướng xây dựng chuẩn mực kế toán cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Việt Nam
Tại Việt Nam, để hòa vào xu thế hội nhập kinh tế của khu vực và quốc tế,
Việt Nam cũng đã và đang từng bước xây dựng hành lang pháp lý về kế toán theo
thông lệ của quốc tế nhằm nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính, trong
đó có một bộ phận quan trọng là Chế độ kế toán áp dụng cho các DNVVN.
Trong giai đoạn 2001 - 2006, Việt Nam đã ban hành 26 Chuẩn mực kế toán dựa
vào chuẩn mực kế toán quốc tế phù hợp với điều kiện pháp lý và môi trường của
mình. Đây là một bước ngoặc quan trọng để Việt Nam có thể hòa nhập vào nền
kinh tế thế giới. Năm 2006, theo lộ trình gia nhập vào nền kinh tế thế giới WTO,
môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng thông thoáng và mở rộng tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, đặc biệt những DNVVN ngày càng
có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia hiện nay.
Hội nhập với kinh tế thế giới, tận dụng tối đa cơ hội quá trình toàn cầu hóa
mang lại sẽ là cách tốt nhất và nhanh nhất để giúp Việt Nam rút ngắn con đường
phát triển, từng bước đuổi kịp các nước tiên tiến về kinh tế và thu hẹp dần khoảng
cách hòa hợp về chuẩn mực kế toán. Do đó, Việt Nam luôn cố gắng nỗ lực để xây


dựng và phát triển nền kinh tế quốc gia, thu hút thật nhiều vốn đầu tư từ các nhà

đầu tư nước ngoài.
Nhằm đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế
toán cho phù hợp với các thông lệ quốc tế, cung cấp được những thông tin tài
chính trung thực – hợp lý và đáng tin cậy giúp cho các nhà đầu tư đưa ra những
quyết định phù hợp và đúng đắn. Đồng thời, Việt Nam cũng phải hòa mình vào xu
hướng hòa hợp với kế toán thế giới nói chung và chuẩn mực kế toán áp dụng cho
DNVVN nói riêng để góp phần nâng cao kế toán quốc gia và để phù hợp với xu
hướng chung của quốc tế.
Vì nhu cầu thông tin của các đối tượng trong DNVVN mang tính đặc thù nên
việc áp dụng Chuẩn mực kế toán có chọn lọc từ Hệ thống Chuẩn mực kế toán
chung có thể cung cấp thông tin không phù hợp. Do đó, Việt Nam cần phải xây
dựng cho mình một hệ thống chuẩn mực kế toán áp dụng riêng cho các DNVVN
dựa trên cơ sở của chuẩn mực quốc tế dành cho DNVVN, có xem xét chuẩn mực
kế toán của các quốc gia khác nhưng phải phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế
- xã hội, yêu cầu quản lý cũng như định hướng phát triển của quốc gia mình.
Như vậy việc nghiên cứu ban hành chuẩn mực kế toán cho các DNVVN tại Việt
Nam cần đảm bảo tính kế thừa chuẩn mực kế toán đã ban hành theo hướng lựa
chọn các vấn đề đơn giản, thiết thực phù hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh, yêu
cầu quản lý, nhu cầu thông tin của các đối tượng liên quan.
Định hướng xây dựng chuẩn mực kế toán cho các DNVVN tại Việt Nam (VAS
for SMEs) cần tập trung một số nội dung khác biệt so với chuẩn mực kế toán Việt
Nam (VAS) hiện hành như sau:
Thứ nhất, mục tiêu cung cấp thông tin của VAS for SMEs chủ yếu hướng tới
chủ doanh nghiệp, các nhà cung cấp, chủ nợ, khách hàng.


Thứ hai, báo cáo tài chính trình bày các chỉ tiêu đơn giản hơn so với bộ chuẩn
mực kế toán Việt Nam đầy đủ, không cần đề cập đến các chỉ tiêu trên báo cáo tài
chính hợp nhất.
Thứ ba, về hàng tồn kho. Khái niệm và các nguyên tắc đánh giá tương tự như

VAS tuy nhiên không cần đề cập đến khái niệm “giá trị thuần có thể thực hiện
được”. Chi phí đi vay trong quá trình hình thành hàng tồn kho không được vốn hóa
mà tính ngay vào chi phí.
Thứ tư, về tài sản cố định hữu hình. Khái niệm và điều kiện ghi nhận tương tự
như VAS. Chủ yếu đề cập phương pháp xác định nguyên giá tài sản cố định hữu
hình mua ngoài mà không cần đề cập đến tất cả các phương pháp hình thành tài sản
cố định hữu hình. Chi phí đi vay trong quá trình hình thành tài sản cố định được
tính trực tiếp vào trong chi phí. Không đề cập đến việc thay đổi khấu hao và đánh
giá lại tài sản.
Thứ năm, về tài sản cố định vô hình. Toàn bộ chi phí nghiên cứu, triển khai
được tính vào chi phí trong kỳ.
Thứ sáu, các khoản đầu tư vào công ty liên kết, các khoản vốn góp liên doanh.
Không đề cập đến các khoản đầu tư vào công ty liên kết trên báo cáo tài chính hợp
nhất, chỉ đề cập trong báo cáo tài chính riêng.
Thứ bảy, ghi nhận doanh thu, thu nhập khác. Không đề cập đến việc ghi nhận
doanh thu, chi phí trong trường hợp hợp đồng xây dựng được thanh toán theo tiến
độ kế hoạch.
Thứ tám, thay đổi các chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót, có thể
không áp dụng thủ tục hồi tố khi thay đổi chính sách kế toán.


Mặc dù còn gặp một số ý kiến trái chiều nhưng trong điều kiện Việt Nam hiện
nay, việc ra đời chuẩn mực kế toán cho các DNVVN sẽ tạo một khung hành lang
pháp lý về kế toán tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp, cũng như phù
hợp hơn với thông lệ kế toán quốc tế.


Chương III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIÚP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC
CÔNG TÁC KẾ TOÁN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ Ở VIỆT NAM


Các giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các DNVVN Việt
Nam, theo tác giả, cần dựa trên các phương hướng chung như sau:
1. Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán phải hướng đến việc nâng cao
chất lượng thông tin cung cấp.
Khảo sát thực tế cho thấy khả năng cung cấp thông tin của hệ thống kế toán tại
DNVVN chưa cao dưới cả hai góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị.
Dưới góc độ kế toán tài chính, thông tin kế toán cần cung cấp cho nhiều đối
tượng bên ngoài khác nhau đặc biệt là nhà đầu tư và chủ nợ, những người cung cấp
vốn cho doanh nghiệp. Cả hai đều đòi hỏi các thông tin trên báo cáo tài chính có
chất lượng cao. Chỉ có thỏa mãn yêu cầu này, các DNVVN Việt Nam mới giải
quyết được bài toán vốn, một vấn đề mà họ không thể vượt qua trong những năm
qua để phát triển.
Dưới góc độ kế toán quản trị, thông tin kế toán cần cung cấp cho nhà quản lý
là các thông tin làm cơ sở cho việc đưa ra quyết định quản lý, từ việc tính toán và
kiểm soát chi phí cho đến việc lập dự toán thu chi… Thiếu các thông tin này, các
nhà quản lý DNVVN phải ra quyết định một cách cảm tính và đây là một nguyên
nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của DNVVN.
Chính vì lý do trên, việc hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại DNVVN Việt
Nam trước hết phải nhằm vào việc nâng cao chất lượng thông tin cung cấp. Mặt


khác, đây cũng là động lực thúc đẩy các nhà quản lý DNVVN mạnh dạn đầu tư
kinh phí cho việc hoàn thiện hệ thống kế toán, thay vì chỉ duy trì ở mức độ hoàn
thành các nghĩa vụ do Nhà nước quy định.
2.

Việc hoàn thiện tổ chức công tác kế toán DNVVN phải phù hợp

với tình hình hoạt động và đặc điểm của DNVVN Việt Nam.

Việc hoàn thiện tổ chức công tác kế toán DNVVN phải xem xét đến tình hình
hoạt động và đặc điểm của DNVVN Việt Nam như trình độ quản lý, khả năng tìm
nguồn tài trợ cho đầu tư và phát triển, nguồn nhân lực… Với những đặc điểm đã
phân tích ở chương hai, quá trình hoàn thiện tổ chức công tác kế toán DNVVN tại
Việt Nam cần:
- Đặc biệt quan tâm đến quan hệ giữa lợi ích và chi phí, có nghĩa là chi phí cho
việc hoàn thiện tổ chức công tác kế toán phải bảo đảm mang lại lợi ích tương ứng.
- Tận dụng công nghệ thông tin qua các phần mềm tính toán tiện dụng (ví dụ
Phần mềm Bảng tính Excel), các phần mềm kế toán dành cho DNVVN.
3.

Việc hoàn thiện tổ chức công tác kế toán DNVVN cần có các tác

động và hỗ trợ từ phía Nhà nước
Mặc dù vấn đề hoàn thiện tổ chức công tác kế toán DNVVN trước hết phải
xuất phát từ doanh nghiệp, Nhà nước vẫn cần có những tác động và hỗ trợ cần
thiết. Điều này xuất phát từ:
- Vai trò quan trọng của DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam. Việc nâng cao
chất lượng thông tin kế toán giúp DNVVN tăng cường khả năng cạnh tranh và phát
triển.
- Khả năng hạn chế của DNVVN trong việc nghiên cứu và ứng dụng những
phương pháp và kỹ thuật mới trong kế toán tài chính và kế toán quản trị.


- Trong giai đoạn hiện tại và một số năm trước mắt, Nhà nước mà cụ thể là Bộ
Tài chính vẫn là người quản lý Nhà nước về mặt kế toán tại Việt Nam.
4. Tổ chức công tác kế toán DNVVN phải hướng đến sự phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Tổ chức công tác kế toán DNVVN phải hướng đến sự phù hợp với thông lệ
quốc tế bao gồm việc:

- Xây dựng hệ thống kế toán phù hợp thông lệ quốc tế. Luật Kế toán Việt Nam
đã khẳng định: Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam được xây dựng trên cơ sở
các chuẩn mực quốc tế về kế toán. Mặt khác, Việt Nam đã chính thức là thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nên việc các tiêu chuẩn của Việt Nam
tương đồng với các tiêu chuẩn của quốc tế sẽ giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách
trong vấn đề hòa nhập với nền kinh tế toàn cầu.
- Áp dụng kinh nghiệm các nước trong việc tổ chức công tác kế toán, bao gồm
việc kết hợp kế toán tài chính và kế toán quản trị, việc ứng dụng công nghệ thông
tin và tích hợp kiểm soát nội bộ trong công tác kế toán. Điều này không những
nâng cao hiệu quả tổ chức công tác kế toán mà còn mang lại sự đồng bộ giữa hệ
thống kế toán với các yêu cầu tổ chức công tác kế toán khác như cung cấp thông
tin cho việc ra quyết định, tăng cường kiểm soát nội bộ…

Kết luận
Tổ chức công tác kế toán là công việc rất quan trọng và cần thiết đối với tất
cả các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. Tổ chức tốt công tác kế toán làm cho
công việc kế toán có nề nếp, tạo nên các báo cáo tài chính có chất lượng chuyên
môn cao, đảm bảo độ tin cậy của các thông tin kinh tế tài chính.


Để hỗ trợ DNVVN trong việc tổ chức công tác kế toán, trong thời gian qua,
Bộ Tài chính đã nghiên cứu, soạn thảo và ban hành chế độ kế toán DNVVN, chế
độ kế toán này góp phần làm giảm nhẹ công việc kế toán, tuy nhiên vẫn còn nhiều
điểm bất cập khiến cho việc hạch toán kế toán tại DNVVN gặp khó khăn.
Để việc tổ chức công tác kế toán tại các DNVVN thực hiện tốt vai trò của
mình, cần có sự nỗ lực từ cả hai phía: Doanh nghiệp và Nhà nước.
Về phía doanh nghiệp, cần sớm có những giải pháp nhằm hoàn thiện một số
bất cấp còn tồn tại trong chế độ kế toán DNVVN, đồng thời phải có những biện
pháp tích cực để phát triển đội ngũ kế toán và đẩy mạnh phát triển các dịch vụ tài
chính, kế toán.

Về phía doanh nghiệp, cần căn cứ vào chế độ kế toán ban hành để vận dụng
một cách khoa học và hợp lý vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt được
lợi ích cao nhất.



×