Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài thảo luận môn Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Buổi 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.66 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

z


BÀI THẢO LUẬN
NHÓM 6

Lớp:

2


Buổi thảo luận thứ nhất: Nghĩa vụ

Vấn đề 1: Thực hiện công việc không có ủy quyền
-

Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?

Căn cứ theo Điều 574 BLDS 2015 thì: “Thực hiện công việc không có ủy quyền
là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực
hiện công việc đó, vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này
không biết hoặc biết mà không phản đối.”
-

Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ là phát sinh nghĩa vụ dân
sự?
Căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong thực
tế, được pháp luật dân sự dự liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh quan
hệ nghĩa vụ dân sự.


Do đó, thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh Nghĩa vụ
dân sự là vì trong thực tế có các trường hợp thực hiện công việc không có ủy quyền,
mà BLDS 2015 đã dự liệu điều này tại:

Chương XVIII: “Thực hiện công việc không có ủy quyền”;
Khoản 8 Điều 8 “Căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự là Thực hiện không
có ủy quyền”;
+ Khoản 3 Điều 275: “Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là Thực hiện không có ủy
quyền”.
+
+

Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện
công việc và người có công việc được thực hiện và nâng cao tinh thần trách nhiệm,
đảm bảo quyền lợi của người thực hiện công việc cũng như đối với người có công
việc được thực hiện.


Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” theo
BLDS 2005? Phân tích từng điều kiện.
Thứ nhất: Việc thực hiện công việc hoàn toàn không phải là nghĩa vụ do các bên
thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định đối với người thực hiện công việc không có ủy
quyền.
Ví dụ: Bà A thu dọn cà phê của nhà hàng xóm khi hàng xóm vắng nhà mà cơn mưa
đang kéo đến.

3


Thứ hai: Việc thực hiện đó hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực

hiện, chứ không phải vì lợi ích của người thực hiện công việc hoặc người thứ ba.
Ví dụ: Việc bà A thu dọn cà phê giùm hàng xóm thì đó là vì lợi ích của nhà hàng
xóm chứ không vì lợi ích của bà A hay người nào khác.
Thứ ba: Người thứ ba có công việc được thực hiện không biết việc có người khác
thực hiện giùm mình hoặc biết mà không phản đối việc thực hiện công việc đó.
Thứ tư: Nếu công việc đó không được thực hiện ngay thì chắc chắn thiệc hại sẽ
xảy ra cho người có công việc cần được thực hiện.


Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện công
việc không có ủy quyền”.
Điều 594 BLDS 2005 quy định căn cứ phát sinh nghĩa vụ thực hiện không có ủy
quyền “Thực hiện công việc không có uỷ quyền là việc một người không có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích
của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không
phản đối”.
Còn đối với Điều 574 BLDS 2015 quy định như sau: “Thực hiện công việc không
có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự
nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi
người này không biết hoặc biết mà không phản đối”.
Qua đó ta thấy Điều 574 BLDS 2015 kế thừa gần như toàn bộ quy định của Điều
594 BHDS 2005, bỏ đi yếu tố “hoàn toàn“ trong vấn đề thực hiện công việc vì lợi ích
của người có công việc. Điều này tạo nên tính khách quan và thuận lợi khi nhận định
“thực hiện công việc không có ủy quyền” vì trong nhiều trường hợp khó xác định
công việc đó có phải là hoàn toàn lợi ích cho người đó hay không. Ngoài ra còn đảm
bảo quyền lợi cho người thực hiện công việc không có ủy quyền trong trường hợp vừa
vì lợi ích của người được thực hiện nhưng cũng vừa vì lợi ích của mình hoặc người
khác.
Thứ hai, để phù hợp hơn với các quy định liên quan về đại diện theo ủy quyền, so
với BLDS 2005 thì BLDS 2015 đã sửa đổi theo hướng không chỉ là việc giữa các cá

nhân với nhau mà có thể giữa cá nhân với pháp nhân, giữa các pháp nhân với nhau;
dẫn đến việc BLDS 2015 bổ sung thêm cụm từ “trụ sở” trong phần “Nghĩa vụ thực
hiện công việc không có ủy quyền” và bổ sung trường hợp “chấm dứt tồn tại, nếu là
pháp nhân”. Theo đó, thực hiện công việc không có ủy quyền được quy định là việc
một cá nhân, pháp nhân không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện
thực hiện công việc đó vì lợi ích của cá nhân, pháp nhân có công việc được thực hiện
khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.
4




-

-

Trong tình huống trên, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những
nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo quy định tại Điều 574 BLDS 2015 về thực hiện công việc không có ủy quyền
thì: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”
Trong trường hợp trên, ban quản lí dự án B đã tự ý kí kết hợp đồng với nhà thầu C
mà không có sự ủy quyền của chủ đầu tư A và chủ đầu tư A cũng không biết về việc
này nên có thể kết luận trong trường hợp trên B đã thực hiện công việc không có ủy
quyền và người có công việc được thực hiện là A.
Xét hai trường hợp:
Thứ nhất: khi nhà thầu C chưa hoàn thành công việc, chủ đầu tư A biết và phản đối.
Trong trường hợp này không thỏa mãn các quy định về thực hiện công việc không có

ủy quyền nên C không thể yêu cầu A thực hiện các nghĩa vụ.
Thứ hai: khi nhà thầu C đã hoàn thành công việc mà chủ đầu tư A vẫn không biết về
việc kí kết hợp đồng giữa B và C. Khi đó, C có thể yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ thanh
toán dựa trên quy định tại Điều 576 BLDS 2015 về nghĩa vụ thanh toán của người có
công việc được thực hiện.
Vậy, trong trường hợp nhà thầu C đã hoàn thành công việc thì C có thể yêu cầu
chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015
Cơ sở pháp lí: Điều 574, 576 BLDS 2015
Vấn đề 2: Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật



Vì sao Tòa giám đốc thẩm xác định cặp trâu mẹ con là của ông Hơn? Anh/chị có
suy nghĩ gì về hướng xác định này của Tòa giám đốc thẩm?
Tòa giám đốc thẩm xác định cặp trâu mẹ con là của ông Hơn vì: Trong quá trình
giải quyết vụ việc, ông Hơn đã chứng minh được tài sản trên thuộc quyền sở hữu của
mình, đối chiếu với các chứng cứ khác và kết quả giám định là có căn cứ. Ngược lại,
ông Phong không có thiện chí giải quyết như: không chịu thả trâu theo tập quán; tự ý
tổ chức vợ con đến dắt trâu và nghé đang tranh chấp về nhà; các lời khai mâu thuẫn
nhau. Do đó, Tòa giám đốc thẩm xác định cặp trâu mẹ con là thuộc quyền sở hữu của
ông Hơn.
Suy nghĩ về hướng xác định của Tòa giám đốc thẩm:
Hướng xác định trên của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lí. Bởi lẽ ông Hơn
có đầy đủ căn cứ chứng minh quyền sở hữu của mình đối với cặp trâu mẹ con này
(đưa ra được các chứng cứ chứng minh quyền sở hữu của mình, các đối chiếu cũng
5


như kết quả giám định đều có căn cứ). Vì vậy, việc ông Hơn sở hữu cặp trâu trên là có

căn cứ pháp luật. Ngược lại về phía ông Phong, ông không có căn cứ chứng minh
quyền sở hữu của mình đối với cặp trâu trên. Trong quá trình giải quyết vụ việc lại
không có thiện chí hợp tác (không chịu thả trâu, tự ý dắt trâu đang tranh chấp về nhà),
các lời khai ông đưa ra lại khá mâu thuẫn nhau. Do đó việc sở hữu của ông Phong đối
với cặp trâu trên là không có căn cứ pháp luật. Vì vậy, hướng xác định của Tòa giám
đốc thẩm về việc cặp trâu mẹ con thuộc quyền sở hữu của ông Hơn là hoàn toàn hợp
lí.


Thế nào là chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật? Ai trong vụ án trên là
người chiếm hữu trâu và nghé của ông Hơn không có căn cứ pháp luật và vì sao?
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với
quy định tại Khoản 1 Điều 165 BLDS 2015.
Cơ sở pháp lý : Khoản 2 Điều 165 BLDS 2015.
Trong vụ án trên, ông Phong là người chiếm hữu trâu và nghé của ông Hơn mà
không có căn cứ pháp luật.
Giải thích: Ông Phong không chứng minh được trâu và nghé đang tranh chấp
thuộc quyền sở hữu của mình và việc ông chiếm hữu trâu và nghé là không dựa trên
những căn cứ của pháp luật quy định. Cụ thể là việc chiếm hữu này không phù hợp
theo quy định tại Khoản 1 Điều 165 BLDS 2015 nên ông Phong là người chiếm hữu
trâu và nghé của ông Hơn không có căn cứ pháp luật.



Đoạn nào của quyết định cho thấy Tòa giám đốc thẩm buộc ông Phong trả cho
ông Hơn trâu và nghé có tranh chấp? Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết
này của Tòa giám đốc thẩm?
Đoạn cho thấy Tòa giám đốc thẩm buộc ông Phong trả cho ông Hơn trâu và nghé
đang tranh chấp: “Hội đòng xét xử giám đốc thẩm Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao
nhất trí với nội dung kháng nghị:…Toà án cấp cấp phúc thẩm đã xử công nhận con

trâu cái và con nghé đực đang tranh chấp hiện ông Phong đang quản lý là trâu của ông
Hơn đồng thời buộc ông Phong phải trả cho ông Phạm Đình Trọng 3.240.000đ tiền
công coi và chăm sóc trâu là có căn cứ. Song Toà án cấp phúc thẩm không tuyên buộc
ông Phong phải trả lại 2 con trâu nêu trên là sai sót nghiêm trọng dẫn đến bản án
không thi hành được…nếu ông Nguyễn Văn Phong không tìm thấy 2 con trâu nêu trên
thì ông Phong phải có trách nhiệm thanh toán giá trị hai con trâu đó cho ông Đồng
Xuân Hơn theo giá thị trường.”
Theo cá nhân, hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lí vì:

6


Theo quy định tại điều 166 BLDS 2015 thì chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản từ
người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nên ông Hơn có quyền được đòi
lại trâu từ ông Phong.
+ Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 579 BLDS 2015 thì người chiếm hữu tài sản
của người khác không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu , chủ thể
có quyền khác đối với tài sản đó.
+ Nếu hai con trâu bị mất thì ông Phong buộc phải thanh toán giá trị hai con trâu cho
ông Hơn theo giá thị trường là hợp lí.
+

Như vậy việc Tòa giám đốc thẩm buộc ông Phong phải trả cho ông Hơn trâu và
nghé là hoàn toàn có căn cứ.


Có quy định nào buộc ông Phong trả cho ông Trọng tiền trông coi và chăm sóc
trâu có tranh chấp không? Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết vừa nêu
của Tòa phúc thẩm và Tòa giám đốc thẩm?
BLDS 2015 không có quy định nào trực tiếp buộc ông Phong trả cho ông Trọng

tiền công trông coi trâu có tranh chấp, tại điều 583 BLDS 2015 về nghĩa vụ thanh toán
chỉ đề cập đến việc người chiếm giữ tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay
tình thì được hoàn trả lại chi phí cần thiết đã bỏ ra để bảo quản làm tăng giá trị của tài
sản, xét trường hợp trên ông Phong là người chiếm giữ trái căn cứ pháp luật và không
ngay tình nên cũng không thuộc trường hợp được thanh toán chi phí. Bản án có nêu:
“cả hai bên thỏa thuận đề nghị Công an xã giao cả hai con trâu cho ông Trọng công
an xã chăn dắt giá 60.000đ/ngày/2 con chờ Tòa án giải quyết. Ai thắng kiện được lấy
trâu và không phải chịu chi phí chăn dắt trâu”. Như vậy đây là Hợp đồng gửi giữ tài
sản – theo Điều 554 BLDS 2015: “Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thoả thuận giữa các
bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó
cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, còn bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ
trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công”. Vì ông Phong thua kiện nên phải trả
tiền công trông coi trâu có tranh chấp cho ông Trọng theo thỏa thuận trước đó, theo
quy định về nghĩa vụ của bên gửi giữ tài sản tại Khoản 2 Điều 555 BLDS 2015: “Phải
trả đủ tiền công, đúng thời hạn và đúng phương thức đã thoả thuận.”



Nếu ông Phong cho người khác thuê trâu có tranh chấp từ tháng 02/2008 thì
khoản tiền thuê mà ông Phong nhận được từ việc cho thuê được giải quyết như
thế nào? Ai sẽ hưởng khoản tiền này? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu ông Phong cho người khác thuê trâu có tranh chấp từ tháng 02/2008 thì khoản
tiền mà ông Phong nhận được thì phải hoàn trả khoản tiền ấy và ông Hơn là người
được hưởng khoản tiền này vì đây là trường hợp được lợi về tài sản mà không có căn
cứ pháp luật không ngay tình.

7


Áp dụng Khoản 1 Điều 581 BLDS 2015: “Người chiếm hữu, người sử dụng tài

sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật và không ngay tình thì
phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được
lợi về khoản tài sản không có căn cứ pháp luật.”

Vấn đề 3: Thực hiện nghĩa vụ (thanh toán một khoản tiền)


Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào?
Qua trung gian là tài sản gì?

Theo thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao,
Việt kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn về việc xét xử và
thi hành án về tài sản cho phép tính lãi giá trị khoản tiền phải thanh toán như sau:
1.
Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền
chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu
thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
+ Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1/7/1996 và
trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử
sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo
theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời
điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá
gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và
chịu án phí theo số tiền đó.
+ Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1/7/1996 hoặc tuy xảy
ra trước ngày 1/7/1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc
phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có
tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có
nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì
ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá

hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm
xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có
thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2.
Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử toà án chỉ quyết
định mức tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.
3.
Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản
tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy
định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp toà án đều không phải quy đổi các
khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán
số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch cho đến
khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Qua Thông tư trên, chúng ta thấy rằng tài sản trung gian được dùng để tính lại giá
trị khoản tiền phải thanh toán là giá gạo.

8




Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền
cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi
hành án về tài sản ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khỏan tiền là:
Trong tình huống này, thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa ông Qưới và bà Cô
trước ngày 1/7/1997. Bên cạnh đó, trong thời gian gây ra thiệt hại và phát sinh nghĩa
vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm gia gạo đã tăng quá 20%.
Sau đó ta quy đổi khoản tiền thế chân 50.000đ ra gạo với giá trị tại thời điểm

phát sinh nghĩa vụ: 50000 : 137 = 365 kg.
+ Chúng ta tính 365kg gạo thành tiền theo giá tại thời điểm bà Cô yêu cầu ông
Qưới hoàn lại tiền thế chân: 365 . 9000 = 3.285.000đ.
+

Vậy số tiền ông Quới phải trả cho bà Cô là 3.285.000đ.


Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhưởng
bất động sản như trong tình huống thứ hai không? Vì sao?
Thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong tình huống hai.
Thông tư trên chỉ điều chỉnh nghĩa vụ tài sản trong hai trường hợp:
+
+



Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ tài sản là các khoản tiền, vàng.
Trường họp đối tượng của nghĩa vụ tài sản là các hiện vật.

Đối với tình huống thứ hai, thực tế ông Tấn sẽ phải trả cho ông Minh, bà Oanh
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trong tình huống này, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Tấn
với ông Minh bà Oanh là 300 triệu đồng, ông Tấn đã thanh toán 100 triệu đồng tức là
1/3 giá trị của hợp đồng, chưa thanh toán 2/3 giá trị hợp đồng. Tại thời điểm hiện tại,
giá của hai miếng đất là 1.200.000.000đ. Ông Tấn sẽ phải trả cho ông Minh bà Oanh
2/3 giá trị hợp đồng mà ông chưa thanh toán theo giá trị hiện tại của 2 miếng đất là
800 triệu đồng.
Vì hợp đồng này đã được tòa công nhận nên các bên phải tiếp tục thực hiện, ông

Tấn phải thanh toán tiền còn thiếu. Số tiền ông Tấn chưa trả khi hợp đồng được công
nhận thì phải xác định tỷ lệ tương ứng diện tích đất chưa trả tiền để tính theo giá thị
trường. Nên ông Tấn phải thanh toán cho ông Minh, bà Oanh phần chênh lệch giữa số
9


tiền mà ông Tấn chưa trả so với diện tích đất thực tế mà ông Tấn đã nhận tại thời điểm
giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất.

Vấn đề 4: Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận


Điểm giống nhau và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Giống nhau:

+
+
+
+

+

Làm thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ theo đó chấm dứt tư cách chủ thể của
chủ thể đã chuyển giao;
Xác lập tư cách chủ thể cho người nhận chuyển giao;
Không được chuyển giao trong trường hợp pháp luật không cho phép;
Hình thức chuyển giao: Bằng văn bản hoặc bằng lời nói; trường hợp pháp luật quy
định phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, đăng ký
hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó; (theo Điều 310 và Điều 316

BLDS 2005);
Người có quyền trước/người có nghĩa vụ trước sẽ chấm dứt mối quan hệ với người có
nghĩa vụ/người có quyền và không phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa
vụ của người có nghĩa vụ (đối với việc chuyển giao quyền yêu cầu) hay của người thế
nghĩa vụ (đối với hành vi chuyển giao nghĩa vụ dân sự).
Khácnhau:
Tiêu chí

Chuyển giao quyền yêu cầu

Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa
thuận

Đối tượng
chuyển giao

Quyền yêu cầu.

Nghĩa vụ dân sự.

Trường hợp
không được
chuyển giao

Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu
cầu bồi thường thiệt hại do
Nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của
xâm phạm đến tính mạng, sức
bên có nghĩa vụ.
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy

tín.

10




Nguyên tắc
chuyển giao

Không cần sự đồng ý của bên
có nghĩa vụ.
Người chuyển quyền phải
thông báo cho người có nghĩa
vụ biết về việc chuyển giao
quyền yêu cầu. Việc thông báo
này phải được lập thành văn
bản.

Hiệu lực của
biện pháp
bảo đảm

Bao gồm chuyển giao biện
pháp bảo đảm

Phải có sự đồng ý của bên có quyền.
Người thực hiện nghĩa vụ khi
chuyển giao nghĩa vụ phải đảm bảo
cho người kế thừa nghĩa vụ đó có

khả năng thực hiện nghĩa vụ.
Người chuyển giao nghĩa vụ không
cần thông báo cho người có quyền.
Biện pháp bảo đảm chấm dứt nếu
không có thỏa thuận khác.

Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú?
Thông tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú:

Theo lời khai của bà Tú chính bà Phượng yêu cầu cho bà Phượng vay tiền để kinh
doanh cá khô xuất khẩu và bà đã vay tiền Ngân hàng cho bà Phượng vay tổng số tiền
615.000.000đ. Bà Phượng có làm biên nhận với bà Tú.
+ Theo các bên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực tiếp
nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và theo biên nhận
ngày 24/7/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền
615.000.000đ. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa
thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng
4/2004, do phía bà Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả
vốn vay Ngân hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho
Ngân hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.
+ Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa
vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bàPhượng phải có trách
nhiệm thực hiện.
+



Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?

Trong bản án, đoạn cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là: ...phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú
đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông
Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú
11


xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà
Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký.


Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?

Theo Điều 370 BLDS 2015 về Chuyển giao nghĩa vụ:
“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được
bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa
vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.”
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa
vụ.”
Bà Phượng đã chuyển nghĩa vụ sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thanh và đã
được bà Tú đồng ý thông qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền
465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thanh vay số tiền 150.000.000đ vào
ngày 12/05/2005. Nghĩa vụ thanh toán trong trường hợp này không gắn liền với nhân
thân của bên có nghĩa vụ và pháp luật không có quy định không được chuyển giao
nghĩa vụ. Vì vậy trường hợp này đã đáp ứng đủ các yêu cầu được quy định tại Khoản
1 Điều 370 BLDS 2015.
Đồng thời, Tòa cũng đã áp dụng đúng Khoản 2 Điều này khi xác định nghĩa vụ trả
nợ vay của bà Phượng đã chấm dứt và phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan, ông

Thạnh là những người thế nghĩa vụ và trở thành bên có nghĩa vụ. Do đó, theo nhóm
đánh giá trên của Tòa án là chính xác.
Cơ sở pháp lý: Điều 370 BLDS 2015.



Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nhìn từ góc độ văn bản, chuyển giao nghĩa vụ dân sự là trường hợp người có nghĩa
vụ ban đầu chuyển giao nghĩa vụ đã giao kết cho người khác (người thế nghĩa vụ)
thực hiện nghĩa vụ giữa mình và bên có quyền với sự đồng ý của người thế đó. Bản
chất của chuyển giao nghĩa vụ dân sự là sự chuyển dịch pháp lý từ chủ thể chuyển
sang chủ thể nhận. Chủ thể nhận nghĩa vụ chính là người thứ ba thay thế cho người có
nghĩa vụ ban đầu và trở thành bên có nghĩa vụ. Trong trường hợp chuyển giao nghĩa
vụ dân sự có biện pháp đảm bảo thì biện pháp đảm bảo đó cũng chấm dứt do sự chấm
dứt tư cách chủ thể của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Như vậy, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiện đối với người có quyền
nữa dù người thế nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ được chuyển giao.
Cơ sở pháp lý: Điều 370 BLDS 2015.

12


− Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu còn có trách

nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.
Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách
nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được

chuyển giao do phía người có quyền đã chấp nhận cho người có nghĩa vụ ban đầu
chuyển giao nghĩa vụ đã giao kết cho người thế nghĩa vụ nên kể từ thời điểm người có
quyền xác lập hợp đồng vay cho người thế nghĩa vụ thì cũng là thời điểm chấm dứt
nghĩa vụ của người có nghĩa vụ ban đầu với người có quyền. Việc yêu cầu người có
nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền sẽ không còn căn cứ nữa.


Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án có theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn: “Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm
phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng
vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm Thanh toán nợ cho bà là
không có căn cứ chấp nhận.”



Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có nghĩa vụ
ban đầu và người có quyền.
“Thực tế cho thấy, quy định trong các hệ thống luật tương đối khác nhau. Ở châu
Âu, một số nước đã quy định người có nghĩa vụ ban đầu được giải phóng hoàn toàn
nhưng một số nước lại quy định ngược lại người thứ ba là người có nghĩa vụ bổ
sung.”
Theo pháp luật nước ngoài, điển hình là Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng
thương mại quốc tế 2004 đã quy định về quan hệ giữa người có nghĩa vụ ban đầu với
người có quyền:
Điều 9.2.5 (Giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu):
1) Người có quyền có thể giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu.
2) Người có quyền cũng có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là
người có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới không thực hiện đúng

nghĩa vụ của mình.
3) Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ
mới phải liên đới chịu trách nhiệm.

13


Như vậy, pháp luật nước ngoài đã quy định một cách chi tiết về trách nhiệm của
người có nghĩa vụ ban đầu, cụ thể:
Khoản 1: Thì người có quyền có thể sẽ giải phóng hoàn toàn toàn nghĩa vụ cho người
có nghĩa vụ ban đầu.
+ Khoản 2: Điều đó có nghĩa là người có quyền có thể lựa chọn một khả năng khác, đó
là chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ của người có nghĩa vụ ban đầu cho người có
nghĩa vụ mới, nhưng người có quyền bảo lưu quyền yêu cầu đối với người có nghĩa
vụ ban đầu.
+ Khoản 3: Quy định tại điều này thể hiện rõ là giải pháp cuối cùng cũng là giải pháp
được áp dụng trong trường hợp người có quyền không có quyết định nào.
+

Còn theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng thì lại quy định:Điều 12:101
“Người có nghĩa vụ ban đầu không còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ”.
Theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng thì khi nghĩa vụ đã được chuyển giao thì
nghĩa vụ của người có nghĩa vụ ban đầu coi như được giải phóng, họ không phải chịu
trách nhiệm đối với bên có quyền cho dù người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao.
Từ kinh nghiệm thực tiễn của pháp luật nước ngoài và thực tế xét xử tại Việt Nam
thì ta nhận thấy xu thế là thừa nhận: khi đã chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận thì
người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm gì với bên có quyền.



Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.

Nhận xét về hướng giải quyết của tòa án.
Dựa trên nội dung phần xét thấy của bản án, các điều luật trong bộ luật Dân sự
2005 và 2015 thì nhóm em cho rằng quyết định của tòa án là hoàn toàn hợp lí, thể hiện
qua các điểm sau:
+ Về hợp đồng vay tiền giữa bà Tú và bà Phượng: do đã được xác lập từ đầu năm 2003

nên hợp đồng này hoàn toàn có giá trị pháp lý, tuy nhiên nghĩa vụ trả nợ của bà
Phượng đã được chuyển giao cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thông qua hợp
đồng chuyển giao nghĩa vụ ngày 12/5/2015, về việc chuyển giao nghĩa vụ trả nợ thì
bên có quyền là bà Tú đã chấp nhận việc chuyển giao này. Xét yêu cầu về lí do tranh
chấp không đề cập đến nghĩa vụ của bà Loan và ông Thạnh nên từ đó có thể khẳng
định đề nghị của bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà Tú là
hoàn toàn không có căn cứ chấp nhận.
+ Về hợp đồng giữa bà Ngọc và bà Tú được xác lập vào 12/5/2005 thể hiện việc chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ từ hợp đồng của bà Phượng ban đầu nhưng đã không thực hiện
nghĩa vụ trả lãi và vốn vay nên việc bà Tú kiện đòi nợ là hoàn toàn hợp lí và có căn cứ
pháp luật ( Điều 474 BLDS 2005, Điều 466 BLDS 2015)
14


+

Về tổng khoản tiền mà bà Ngọc phải trả cho bà Tú theo quyết định của tòa án là
651.981.000đ là hoàn toàn hợp lí dựa trên sự thõa thuận của cấc bên cũng như pháp
luật hiện hành.




Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có
chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì nghĩa vụ khi được chuyển giao biện pháp bảo lãnh cũng chấm
dứt theo, cơ sở pháp lý Điều 371 BLDS 2015.
Việc chuyển giao nghĩa vụ của bà Phượng cho bên thế nghĩa vụ sẽ làm quan hệ
nghĩa vụ ban đầu chấm dứt. Bản chất của chuyển giao nghĩa vụ chính là hợp đồng dựa
trên sự thỏa thuận của ba bên theo đó, bên có nghĩa vụ chuyển giao toàn bộ nghĩa vụ
của mình (đối tượng của hợp đồng) cho bên thế nghĩa vụ, bên thế nghĩa vụ trở thành
bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ mới với bà Tú.
Quy định phải có sự đồng ý của bên có quyền khi chuyển giao nghĩa vụ cho người
thứ ba đồng nghĩa với việc bên có quyền tự lựa chọn rủi ro cho chính họ trong việc
chấp nhận bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ. Do đó, khi kèm theo biện pháp bảo đảm
trong quan hệ nghĩa vụ trước đó thì khi chuyển giao cho bên thứ ba, biện pháp bảo
đảm này phải chấm dứt nếu không có sự thỏa thuận khác.

15



×