Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

ÔN THI NGỮ văn 12 THPT QUỐC GIA 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.8 KB, 72 trang )

Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc T ường
Đề1: Phân tích bài "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc T ường
A. MỞ BÀI:
Bằng một trái tim nghệ sĩ đắm say, một vốn từ ngữ giàu có chính xác, gợi tả,
một kho tri thức phong phú và một tấm lòng ân tình với sông Hương xứ Huế, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã sáng tác nên một thiên tuỳ bút rất hấp dẫn: “Ai đã đặt tên cho
dòng sông” bằng những áng văn vừa đẹp đẽ sang trọng, vừa lấp lánh trí tuệ, vẫn mê
đắm tài hoa.
B. THÂN BÀI:
I. Giới thiệu chung.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một tuỳ bút đặc sắc, thể hiện phong cách tài
hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông
Hương như một biểu tượng của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố
Huế).
II. Sông Hương ở thượng nguồn.
1. Sông Hương – “bản trường ca của rừng già” và sông Hương – cô gái di
gan phóng khoáng, man dại.
Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên như
một cô gái đẹp, một vẻ đẹp rất Huế, rất độc đáo; vừa dịu dàng, vừa “ phóng khoáng,
man dại”. Ngay từ ngọn nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng
vĩ, sông Hương toát lên một vẻ đẹp tràn đầy sức sống, vừa hùng tráng, vừa trữ tình
như một bản “trường ca của rừng già”, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn. Cũng có lúc nó trở nên
dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.
Bằng biện pháp nhân hoá đặc sắc, tác giả như đã hình tượng hoá con sông
Hương: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình
như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản
lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.
2. Sông Hương – “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
Nhưng cũng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt… đã chế ngự sức
mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh


chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành “người mẹ phù sa của một vùng
văn hoá xứ sở”. Tác giả cho rằng “người ta sẽ không hiểu được một cách đầy đủ bản
chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu
thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã
đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim
Phụng”. Cái điều mà sông Hương “không muốn bộc lộ đã đóng kín lại” đó, hình như
giờ đây bằng một cách kín đáo, tác giả đã hé mở cho độc giả thấy được: sông Hương
chính là người mẹ hiền hàng ngày, hàng giờ không ngừng duy trì “bồi đắp phù sa”
màu mỡ cho cả một vùng văn hoá lịch sử đã được hình thành nơi đôi bờ sông Hương xứ Huế.
III. Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế (trong mối quan hệ với Kinh
thành Huế).


1. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của Kinh thành Huế
có hàng trăm năm văn hiến, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và
những thử thách. Trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn và rất phong tình của tác giả, toàn bộ
thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích
thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
2. Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ
một nét lịch lãm, tài hoa với những hình ảnh mỹ lệ, vốn ngôn ngữ giàu có, sự hiểu biết
phong phú của tác giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái
đẹp ngủ mơ màng”. Nhưng ngay khi ra khỏi vùng núi, sông Hương bỗng bừng lên sức
trẻ như “người đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài” với niềm khát khao của tuổi thanh
xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một
hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “vượt qua”, “đi giữa âm vang”,
“trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.
Vừa mạnh mẽ, vừa tình tứ mà dịu dàng kín đáo, đó là cái nét phẩm chất đẹp đẽ
mang nét riêng của sông Hương – cô gái Huế được tác giả diễn tả bằng những nét vẽ,
những hình ảnh cũng thật tình tứ, dịu dàng. Khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo
“dòng sông mềm như tấm lụa”; khi qua “hai dãy đồi sừng sững như thành quách”,

dòng sông ánh lên vẻ đẹp biến ảo với những phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím”. Khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được
phong kín trong những rừng thông u tịch toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “ Bốn
bề núi phủ , mây phong; Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”, dòng sông
Hương, mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước
phẳng lặng của nó bỗng sinh động bừng sáng lên khi gặp tiếng chuông Thiên Mụ
ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
Tóm lại, với những nét bút giàu màu sắc hội hoạ tinh tế, với cảm xúc say đắm,
ở đoạn này Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo dựng được một bức tranh sông Hương thật
đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế đa dạng và rất hài hoà.
IV. Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.
Từ đây như đã tìm đúng đường về, gặp lại thành phố thân yêu của mình “sông
Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long,
kéo một nét thẳng thực, yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc. Phía đó, nơi cuối
đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn
như những vành trăng non”. Đúng là một hình ảnh so sánh rất độc đáo và thi vị. Nó
không chỉ được vẽ bằng bàn tay hoạ sĩ tinh tế mà còn được vẽ bằng trái tim của một
thi sĩ tài hoa, đa tình. Cũng với bút pháp ấy, dòng sông “uốn một cánh cung rất nhẹ
sang Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của
tình yêu”. Đúng là dòng sông Hương dịu dàng và kín đáo như chính cô gái Huế vậy!
Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương được ví như sông Xen
của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Pê-téc-bua. Nhưng Huế vẫn
giữ nguyên dáng một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông với “cây đa, cây cừa cổ thụ toả
vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, từ nơi ấy vẫn lập loè trong đêm
sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn xưa cũ mà không một thành phố
hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Phải chăng đây là nét độc đáo nhất của Huế? Bởi
nó vẫn còn mang vẻ đẹp cổ kính nghìn xưa. Bằng cảm nhận âm nhạc, tác giả thấy con
sông Hương của mình ở đây “có điệu chảy lặng lờ, đó là điệu slow tình cảm dành
riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng
bồng bềnh trong những đêm rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng

ngập ngừng như muốn đi muốn ở chao nhẹ trên mặt nước như vấn vương của một nỗi


lòng”. Quả là một hình ảnh rất trữ tình, lãng mạn. Đúng như một nhà thơ đã viết về
sông Hương - Huế:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Hình như trong khoảnh khắc chững lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở
thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trong con mắt thi sĩ - nhạc sĩ của tác
giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành con sông của “thơ ca nhạc
hoạ”. Vì “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của
dòng sông này”. Từ đó, tác giả mường tượng thấy sau lớp sương khói của thời gian,
hình như “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiếm
trăng sầu” để viết nên những trang Kiều tuyệt bút, với “những bản đàn đã đi suốt đời
Kiều”. Trong đó, nổi bật nhất là bản “Tứ đại cảnh”, một bản nhạc cổ của Huế. Đây
quả là một cuộc gặp gỡ kì thú giữa những tâm hồn nghệ sĩ cổ kim trên dòng sông
Hương thơ mộng. Trong cái nhìn đắm say của trái tim đa tình Hoàng Phủ Ngọc Tường,
sông Hương khi chảy vào lòng thành phố Huế bỗng hiện lên như “người tình rất dịu
dàng và thuỷ chung”. Điều này được diễn tả trong một hình ảnh khá độc đáo, đầy phát
hiện “Rời khỏi Kinh thành, sông Hương chếch về hướng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến
quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa
màu xanh biếc của tre, trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi như sực
nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng rẽ sang hướng Đông Bắc để
gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”, “vốn đang chảy giữa
cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì
rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây”. Tác giả gọi đấy là “nỗi vương
vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Nhà văn hình dung sông Hương ở đây
giống như nàng Kiều đã “chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề ước
trước khi về biển cả. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò
dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê

hương xứ sở”. Đây là một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị, đậm màu sắc văn chương cổ
điển của tác giả về dòng sông yêu quý của mình. Dòng sông Hương trong sâu thẳm
của nó mang vẻ đẹp tâm hồn dân tộc. Bởi như Chế Lan Viên đã viết:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”
Và nhà thơ Ngô Viết Dinh cũng viết:
“Nghìn năm gửi lại một chữ trinh
Tâm hồn dân tộc kết tinh tim Kiều”
V. Sông Hương – thiên “sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc”
Gọi sông Hương là một áng văn trữ tình như một thiếu nữ dịu dàng, mơ mộng
và kín đáo thì ai nấy đã rõ nhưng gọi sông Hương là một “thiên sử thi”, “một bản anh
hùng ca” thì thật đáng ngạc nhiên. Đây là một phát hiện bất ngờ và thú vị nữa của
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi và tài liệu khảo cổ học về
thành cổ Hoá Châu, tác giả khám phá ra rằng sông Hường vốn có tên là Linh Giang,
nghĩa là dòng sông thiêng đã đấu tranh oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ
quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại như Bạch Đằng, Như Nguyệt “Tự cổ huyết
do hồng” ở phía Bắc. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của anh
hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những
cuộc khởi nghĩa và từ đây sông Hương đi vào thời đại Cách mạng tháng tám, chiến
dịch Mậu Thận và cuộc tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân năm
1975 bằng những chiến công rung chuyển.


Như vậy, sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, đầy trữ tình mà
trong thời gian ngân vang của lịch sử, nó còn tiềm ẩn một sức mạnh quật cường, bất
khuất của dân tộc, của “sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc”. “Khi nghe lời gọi, nó
biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công để rồi nó trở về với cuộc sống hình
thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”, của Huế thân yêu. Đúng là sử
thi mà vẫn rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Và đột nhiên, tác giả liên tưởng đến màu áo tím
ẩn hiện thấp thoáng theo bóng cô dâu Huế “vẫn mặc sau tiết sương giáng”. Đấy cũng

chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự
nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông Hương - cô gái Huế.
VI. Dòng sông Hương – dòng sông khơi nguồn cho cả một dòng sông thi ca
phong phú.
Với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, vẻ đẹp của sông Hương không hề đơn
điệu mà biến hoá đa dạng. Vì vậy, mỗi phong cách thơ đều có thể khám phá được
những chất thơ khác nhau của nó. Từ xanh biếc thường ngày nó bỗng thay màu thực
bất ngờ “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà; từ tha
thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí
phách Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ
Bà Huyện Thanh Quan; nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ
Tố Hữu.
C. KẾT BÀI
Bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một
kho từ ngữ giàu có đậm chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc hoạ được một dòng
sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất thơ, khơi
nguồn cho cảm hứng thi ca và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế, tạo nên bề dày
lịch sử văn hoá của cố đô. Nhờ đó, sông Hương đã trở thành dòng sông bất tử chảy
mãi trong trí nhớ và tình cảm của độc giả, bồi đắp phù sa màu mỡ làm xanh tươi thêm
tình yêu đối với quê hương đất nước.


Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
Đề bài 1: Phân tích tình huống của truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu và ý nghĩa của nó.
Bài Làm
A. Mở Bài:
Từ đầu thập kỉ 80 đến khi mất, Nguyễn Minh Châu đã chuyển đổi phong cách
từ khuynh hướng sử thi sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí
nhân sinh. Tâm điểm khám phá của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành

trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Nhà văn Nguyên Ngọc
đánh giá “Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài
năng nhất của văn học nước ta hiện nay”. Tiêu biểu nhất cho sự khám phá mở đường
đó là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” sáng tác năm 1983. Trong tác phẩm này,
ông đã xây dựng được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về
đời sống.
B. Thân Bài:
I. Vài nét về tác giả.
Nguyễn Minh Châu quê ở huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An. Năm 1950, ông học
trường Huỳnh Thúc Kháng, sau đó gia nhập quân đội. Ông là Đảng viên Đảng cộng
sản Việt Nam, hội viên hội nhà văn Việt Nam. Ông mất năm 1989 tại Hà Nội. Ông
được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
Tác phẩm chính: “Cửa sông” (tiểu thuyết), “Những vùng trời khác nhau” (tập
truyện), “Dấu chân người lính” (tiểu thuyết), “Những người đi từ trong rừng ra” (tiểu
thuyết), “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (tập truyện), “Chiếc thuyền ngoài
xa” (tập truyện).
Quá trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu được chia làm hai giai đoạn rõ rệt.
Trước năm 80, ông là ngòi bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn. Sau năm 80
đến khi mất, ông chuyển sang cảm hứng thế sự.
II. Phân tích tình huống.
1. Tình huống là gì?
Trong nghệ thuật viết truyện ngắn, tìm ra được một tình huống truyện độc đáo
là cực kì quan trọng. Tình huống thế nào đó sẽ làm bật nổi tất cả: từ không khí truyện
đến số phận, tâm lí nhân vật, chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Vậy thế nào là tình huống
truyện? Theo Nguyễn Minh Châu: tình huống truyện như một khúc, một nhát cắt của
đời sống, một khoảnh khắc ngắn ngủi song lại giúp cho người đọc hình dung được
diện mạo toàn thể của đời sống. Với Nguyễn Minh Châu “đôi khi người ta nghĩ ra một
cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay, thế là coi như xong một nửa… Tình huống
chính là thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật, làm nổi rõ tư tưởng của nhà
văn”.

2. Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Tình huống truyện ở đây là tình huống tự nhận thức. Đây là tình huống bao
trùm toàn bộ câu chuyện. Trước hết, nghệ sĩ Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh rất lãng
mạn và mộng mơ, nhạy cảm với cái đẹp, đã đến một bờ biển miền Trung để chụp một
tấm ảnh nghệ thuật về thuyền và biển cho cuốn lịch năm sau theo yêu cầu của trưởng
phòng “không có người, hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Phùng đã dự tính bố cục, đã
phục kích mỗi buổi sáng để “chộp” được cảnh thật ưng ý. Giờ phút ấy đã đến, đôi mắt
người nghệ sĩ vốn yêu cái đẹp thơ mộng đã phát hiện ra một vẻ đẹp mà cả đời bấm


máy có lẽ anh mới có diễm phúc thấy một lần “trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu
của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ, loè nhoè vào bầu trời sương
mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài
bóng người lớn, trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum
đang hướng mặt vào bờ… Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà
và đẹp… Tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc lớn lao của
người nghệ sĩ chính là sự khám phá và sáng tạo của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu.
Hình như anh đã phát hiện cái tần thiện, tần mĩ trong hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài
xa” giữa biển trời mờ sương và anh thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật
trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn, thi vị của cuộc đời. Điều đó làm
cho anh rất thích thú khi nghe ai đó “phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức”
và trong khoảnh khắc tâm hồn anh tràn ngập niềm hạnh phúc do cái đẹp tuyệt đỉnh của
ngoại cảnh mang lại.
Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng lại phát hiện ra một điều thật bất ngờ, bất ngờ
đến sửng sốt trước một sự thực trớ trêu, đầy nghích lý như là trò đùa quái ác của sự
sống. Đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” của chiếc thuyền đẹp như mơ ấy, đang
bước ra “một người đàn bà vùng biển trạc ngoài 40 cao lớn với những đường nét thô
kệch… Mặt rỗ sau một đêm mệt mỏi thức trắng kéo lưới, tái ngắt như đang buồn ngủ
với dáng vẻ rất cam chịu”. Đi sau người đàn bà là một người đàn ông “tấm lưng rộng

và cong như lưng một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, chân chữ bát… Hàng lông mày rủ
xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ”. Hắn coi việc đánh vợ như một phương cách để giải
toả những uất ức, khổ đau, cùng quẫn do cuộc sống mưu sinh luôn luôn đói nghèo cơ
cực nơi vùng biển miền Trung mang đến. “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt
đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính Nguỵ ngày xưa… chẳng
nói chẳng rằng, lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật
tới tấp vào lưng người đàn bà. Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến
ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn:
mày chết đi cho ông nhờ”. Vì thế người đàn bà ấy phải chịu đựng một sự thật phũ
phàng “ ba ngày bị một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng… Cả nước không có một
người chồng nào vũ phu như hắn”. Trước cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và
thô bạo, không thể làm ngơ trước cái ác, Phùng đã thể hiện bản chất của người lính
yêu lẽ phải, bênh vực người yếu bằng cách xông ra bảo vệ người đàn bà. Nhưng anh
chưa kịp hành động thì thằng Phác, con trai lão đàn ông tàn ác ấy đã lao tới như một
viên đạn bay về tới đích với một sự giận dữ căng thẳng, nhảy xổ lên dùng khoá sắt
chiếc thắt lưng quật thẳng vào giữa ngực bố để che chở cho người mẹ đáng thương.
Người mẹ vì thương con mà nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi dã man của người bố
và không biết mình đã làm tổn thương đến tâm hồn của đứa con. Cậu bé thương mẹ,
bênh vực mẹ thành ra căm ghét bố mình “người đàn bà dường như lúc này mới cảm
thấy vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã… Miệng mếu máo gọi, ôm chầm lấy
thằng bé rồi lại buông ra chắp tay vái lấy vái để… Thằng bé như một viên đạn bắn
vào người đàn ông và giờ đây đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống
những giọt nước mắt”. Chị sợ con mình phạm tội ác, trở thành kẻ vô đạo. Như vậy,
niềm tin trong trẻo, hồn nhiên, cái quyền vốn có của tuổi thơ ở cậu bé Phác dường như
đã bị tước mất.
Khi câu chuyện của người đàn bà hàng chài xảy ra ở toà án huyện, những người
như Phùng và Đẩu mới hiểu được nguyên nhân của những điều tưởng như vô lý của sự
thật cuộc đời.. Chánh án Đẩu tốt bụng nhưng lại có phần phi thực tế và hơi đơn giản
trong cách nghĩ. Đứng trên góc độ của một chánh án, nhân danh pháp luật, Đẩu



khuyên người đàn bà li dị chồng là xong, là giải thoát được cảnh đòn roi và thường
xuyên bị bạo hành. Đẩu không biết là bà cần một chỗ dựa cơ bản để kiếm sống đặng
nuôi con khôn lớn. Ta hãy lắng nghe lời cầu xin và trần tình, rụt rè, khiêm nhường mà
đầy tự tin, chủ động, quyết đoán của người mẹ ấy trước vị Bao Công phố huyện và
trước nghệ sĩ Phùng: “Chị chắp tay vái lia lịa: “Con lạy quý toà… quý toà bắt tội con
cũng được, phạt tù con cũng được đừng bắt con bỏ nó… Chị nói thành thực, chị cảm
ơn các chú. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải người làm ăn… đâu có hiểu
được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc… Đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba để cùng làm ăn nuôi
nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn
bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn. Cho nên phải gánh lấy cái khổ…
Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con, chứ không thể sống cho mình như trên
đất được”. Như vậy hoá ra, nguồn gốc của mọi sự chịu đựng đến kì lạ gần như ngoài
sức tưởng tượng của người đàn bà có phần quê mùa ít học ấy chẳng phải là vì quá chai
đòn, chẳng phải vì tăm tối dốt nát đến mức mất hết ý thức về quyền sống của mình mà
chính là do đức hi sinh, là tình thương con vô bờ bến của người mẹ. Có hiểu được sự
thật ấy, chúng ta mới thấy sự suy nghĩ và xử sự của chị ta là không thể khác được và
thực sự hợp tình, hợp lý rất sâu sắc. Vả chẳng trong nỗi tủi cực triền miên, người đàn
bà ấy cũng đã vớt được một ít hạt ngọc châu từ dưới đáy biển khổ đau “trên chiếc
thuyền cũng có lúc, vợ chồng, con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ… Vui nhất là
lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó ăn no”. Thì ra với người đàn bà này, mọi niềm vui
nỗi buồn, mọi sự chịu đựng thầm lặng, những nỗi đau đớn, tất cả cũng là vì con vì
chồng. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ
Việt Nam nhân hậu, vị tha, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh, thấm nhuần đạo
lý người vợ, người mẹ:
“Có con thì khổ vì con
Có chồng gánh vác giang sơn nhà chồng”
Vì con , mẹ phải chịu biết bao nỗi khổ để có những niềm vui trong ngần, những
nụ cười thanh thản. Người mẹ này xứng đáng là tượng đài thô giáp và cao vòi vọi. Đó

là hiện thân của cái đẹp cần được tôn vinh. Nhưng không phải là cái đẹp chói sáng hào
hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.
Từ câu chuyện này, Phùng hiểu rõ hơn cái có lý trong cái tưởng như nghịch lý ở
gia đình thuyền chài; hiểu thêm tính cách của Đẩu và hiểu thêm chính mình.
3. Ý nghĩa khám phá, phát hiện của tình huống.
Tóm lại, tình huống này được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp của chiếc
thuyền ngoài xa với cái thật ở gần: sự ngang trái éo le trong gia đình thuyền chài.
Gánh nặng mưu sinh đè nặng trên cặp vai hai vợ chồng. Vì thế người chồng vốn hiền
lành, nay trở thành kẻ vũ phu. Anh thường xuyên trút những cơn giận như lửa cháy
vào người vợ. Vì anh tưởng vợ là nguyên nhân của tấn bi kịch đói nghèo, cơ cực, cùng
quẫn của đời mình. Vì đời chật chội nên anh điên khùng. Còn người vợ vì thương con
nên âm thầm chẫn nhục chịu đựng mọi sự bạo hành “khi bị chồng đánh, bà không hề
kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”. Qua tình huống này, cái
nhìn và cảm nhận của người nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu là sự khám phá, phát hiện,
tự nhận thức sâu sắc về đời sống và con người.
Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa
con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống “một cái gì vừa mới vỡ
ra trong đầu vị Bao Công của cái thành phố vùng biển”.
Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời thì
ở gần. Và hiểu được đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời. Bởi nghệ thuật chân chính


luôn luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Đúng như Tố Hữu đã khẳng định “văn chương
không chỉ là văn chương mà thực chất cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và nơi đi tới
của văn chương”. Đó cũng là ý đồ nghệ thuật của tác giả Nguyễn Minh Châu “văn học
và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tiêu điểm là con người”. Còn nhà văn chân
chính thì bao giờ cũng phải “mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình
yêu thương con người”. Đấy chính là chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Nguyễn
Minh Châu. Hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời; phải khám phá,
đào sâu vào bản chất cuộc sống và con người.

C. Kết Luận.
Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” có ý nghĩa khám phá, phát hiện về
sự thật đời sống, một tình huống nhận thức.
Tình huống này đã nhấn mạnh thêm mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Nó mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: cách
nhìn đa diện, đưa con người vào bối cảnh nhiều chiều, dân chủ hoá mối quan hệ giữa
nhà văn và độc giả, khơi gợi , nêu vấn đề cùng thảo luận, bàn bạc, chứ không ban phát
chân lý cho người đọc.


Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi.
Đề 1: Phân tích những điểm giống nhau và khác nhau của hai nhân vật Việt và
Chiến trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi.
Mở Bài 1:
Là một nhà văn cầm súng đã ngã xuống giữa chiến trường như một chiến sĩ
thực sự, Nguyễn Thi đã để lại nhiều tác phẩm rất có giá trị, những tác phẩm mà mỗi
trang sách còn khét mùi đạn bom, cháy đỏ lửa căm thù quân xâm lược và xanh ngời
một niềm lạc quan chiến thắng. Tiêu biểu và xuất sắc nhất trong số đó là truyện ngắn
“Những đứa con trong gia đình”. Đây là một truyện ngắn có nghệ thuật kể chuyện độc
đáo, linh hoạt, hấp dẫn và một tài năng khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Qua việc
phân tích những điểm giống nhau và khác nhau của hai nhân vật chính Việt và Chiến,
chúng ta có thể thấy rõ điều đó.
Mở Bài 2:
Nguyễn Thi là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của các nhà văn Nam
Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông đã hy sinh như một chiến sĩ cầm súng
trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân (1968) và đã để lại nhiều tác phẩm rất có giá trị.
Nổi bật nhất trong số đó là truyện “Những đứa con trong gia đình”. Bằng nghệ thuật
kể chuyện độc đáo, linh hoạt, hấp dẫn và tài năng khắc họa nhân vật đặc sắc, Nguyễn
Thi đã tạc nên được bức chân dung lớn của người dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến
oanh liệt. Điển hình nhất trong số đó là Việt và Chiến, hai nhân vật rất chân thực, giàu

cá tính gây ấn tượng khó quên cho người đọc.
Mở Bài 3:
“Những đứa con trong gia đình” là một trong những thiên truyện ngắn xuất sắc
và tiêu biểu nhất của Nguyễn Thi, một nhà văn chiễn sĩ đã ngã xuống trong cuộc tổng
tiến công tết Mậu Thân (1968). Thành công độc đáo của truyện là ở nghệ thuật kể
chuyện biến hoá, linh hoạt; ở nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật hấp dẫn, đặc biệt
là tính cách người nông dân Nam Bộ. Điển hình nhất trong số đó là Việt và Chiến, hai
nhân vật rất chân thực, giàu cá tinh để lại những ấn tượng khó quên trong lòng người
đọc.
Mở Bài 4:
Hy sinh với tư cách là nhà văn chiến sĩ trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân
(1968), Nguyễn Thi đã để lại nhiều tác phẩm có giá rị. Qua những tác phẩm này,
Nguyễn Thi đã dựng lên được gương mặt đẹp đẽ của những người dân Nam Bộ trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ - những con người gan góc, kiên cường dường như sinh
ra để cầm súng giết giặc. Trong những con người đó có gương mặt đáng yêu của lớp
thanh niên trẻ phơi phới lên đường đi đánh giặc như trẩy hội mùa xuân, mà Việt và
Chiến (Những đứa con trong gia đình) là hai hình ảnh tiêu biểu để lại trong lòng người
đọc những ấn tượng sâu đậm nhất.
A. GIỐNG NHAU
Là hai chị em ruột cùng được nuôi dưỡng trong một gia đình cách mạng có
cuốn sổ truyền thống gia đình mà mỗi trang được ghi lại bằng máu và nước mắt, Việt
và Chiến cùng mang một mối thù không đội trời chung với giặc đã tàn sát cha mẹ, ông


bà mình một cách dã man. Hai chị em Việt và Chiến có nhiều nét giống nhau về bản
chất: giàu tình nghĩa yêu nước, căm thù giặc ngùn ngụt, kiên cường, gan góc, thuỷ
chung, say mê chiến đấu và tự hào về truyền thống cách mạng gia đình, nghĩa là họ
mang đậm cái “chất Út Tịch” trong tâm hồn.
1. Trước hết, Việt và Chiến rất thương cha, thương mẹ, căm thù giặc sâu sắc
và cùng có một ước nguyện là được cầm súng đánh giặc để trả thù cho ba má.

- Tình cảm này được thể hiện một cách sâu sắc và cảm động đến rơi nước mắt
qua chi tiết chị em giành nhau ghi tên tòng quân và nhất là chi tiết sáng hôm sau, trước
khi lên đường nhập ngũ, cùng khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm “Nào,
đưa má sang ở tạm bên nhà chú Năm, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má đến
chừng nào nước nhà được độc lập, con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến
khiêng lịch bịch phía sau. Nghe thấy chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên
Việt mới thấy rõ lòng mình như thế. Còn mối thù thằng Mỹ thì có thể sờ thấy được, vì
nó đang đè nặng ở trên vai”. Đoạn văn thật đầy xúc động, khiến người đọc cảm thấy
rất rõ mối thù giặc, tình mẹ con đã trở thành một khối lượng vật chất cụ thể trên vai
hai chị em. Qua đây, nó làm nổi bật ý nghĩa thiêng liêng của cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Đó là một cuộc kháng chiến “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn”… Và lên đường
đánh Mỹ là lên đường vì đạo lý: trả thù nhà, đền nợ nước. Đúng như nhà thơ Tố Hữu
đã viết trong bài “Lá thư Bến Tre”:
“Người chết đi cùng người sống đây
Tử sinh một dạ, trả thù này
(Thơ Tố Hữu – Trang 349)
2. Chính điều ấy đã biến hai chị em thành những chiến sĩ dũng cảm gan góc
và họ đều đã từng lập được nhiều chiến công.
- Là tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương Bến Tre, Chiến đã bắn chìm tàu
chiến Mỹ trên sông Định Thuỷ, còn Việt thì đã phá được một xe tăng địch trong trận
đánh giáp lá cà.
- Cha mẹ là dũng sĩ nên họ sinh ra dường như là để cầm súng đánh giặc và họ
xứng đáng với truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình. Ngay việc hai chị em
tranh giành nhau ghi tên tòng quân và cuộc đối thoại của họ trong đêm trước lúc lên
đường cũng báo trước những chiến công đó:
- “Chú Năm nói mày với tao kỳ này là ra chân trời, mặt biển, xa nhà thì ráng
học chúng bọn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu.
- Chị có bị chặt đầu thì chớ, chừng nào tôi mới bị.
- Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một
câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.

Còn Việt sau này tuy bị thương nặng, hai mắt không nhìn thấy gì, “hai tay, vai,
đầu, chân đang đau điếng và rỏ máu”, người sắp lả đi vì đói khát, Việt vẫn trong tư thế
đường hoàng chững chạc của người chiến sĩ kiên cường, sẵn sàng tiêu diệt giặc: “Tao
sẽ chờ mày… Cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn
được mày… Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”.
3. Tuy nhiên họ còn rất trẻ: Khi ghi tên tòng quân, chị mới 18, em mới 17. Vì
thế, cả hai vẫn còn tính ngây thơ trẻ con. Mặc dù rất thương yêu nhau nhưng hay giành
nhau: giành phần bắt ếch ít hay nhiều, giành nhau thành tích bắn tàu chiến Mỹ và
giành nhau cả khi ghi tên tòng quân.
Những nét chung trên đây khiến cho họ trở thành những con người rất tiêu biểu
cho thế hệ trẻ miền Nam trong những ngày kháng chiến chống Mỹ ác liệt, gian khổ mà
hào hùng; đồng thời cũng là những đứa con rất mực thuỷ chung với truyền thống cách
mạng của gia đình.


B. KHÁC NHAU
- Tuy nhiên, chỗ đặc sắc và tài năng của Nguyễn Thi trong nghệ thuật khắc họa
hình tượng nhân vật là nhân vật của ông rất chân thực: mỗi người có một gương mặt
riêng, một cá tính khác nhau rất sinh động. Và sự khác nhau ấy, xét đến cùng là do một
người thì con gái, còn một người thì con trai; một người là chị, một người là em.
1. Là con gái nên Chiến có cái gan góc kiên nhẫn riêng của phụ nữ. Việt có
thể dũng cảm trong chiến đấu nhưng không thể có được cái gan kiên trì ngồi đánh vần
cuốn sổ gia đình của chú Năm như Chiến “có lúc Việt còn bỏ về nhà ăn cơm nhưng chị
Chiến cứ ngồi một góc ván, lông mày cau lại, đánh vần hoài. Chị đọc tiếng đặng tiếng
mất chữ mẹ đẻ chữ con, từ trưa tới chiều, bỏ ăn, quên cả trời chạng vạng”.
- Việt thì tỏ ra là một cậu con trai đồng quê, tính tình hiếu động suốt ngày lang
thang bắn chim, câu cá, bắt ếch, lúc nào cũng có cái ná thun dắt trong người, kể cả khi
đi bộ đội.
2. Là chị nên tuy chưa hết tính trẻ con, có lúc tranh hơn với em nhưng cuối
cùng Chiến cũng đã nhường em. Ở nhà, Chiến nhường Việt phần bắt ếch nhiều hơn,

sau này đi đánh giặc, vết đạn bắn thằng Mỹ trên sông Định Thuỷ chị cũng nhường cho
em, duy nhất có một lần Chiến không nhường. Đó là cái đêm ghi tên tòng quân.
-“ Đề nghị mấy anh xét cho. Nó là em tôi mà cái gì nó cũng giành…
- Đến Tết này nó mới được 18 anh ạ! Em nói để em đi trước, nó ở nhà thủng
thẳng để chú Năm em thu xếp rồi hãy đi mà nó không chịu”.
Ở đây, lẫn với tính trẻ con và niếm khát khao say mê đánh giặc, có tấm lòng
thương em của người chị giàu lòng vị tha: chưa muốn em sớm phải chịu đựng cảnh
đạn bom nguy hiểm.
- Trong khi đó, Việt là cậu con trai mới lớn nên tính tình hiếu thắng, vả lại là em
thì cần gì phải nhường nhịn ai.
3. Chiến là một cô gái đảm đang tháo vát “sớm biết lo, biết nghĩ”, lại thêm
cha mẹ mất cả nên có tư thế chững chạc của một người chị lớn làm chủ gia đình và
có cái gì đó tỏ ra “khôn ngoan già dặn trước tuổi”. Không phải ngẫu nhiên mà trong
cái đêm trước khi lên đường nhập ngũ, Việt thấy chị nói năng rành rọt đâu ra đấy
giống y mẹ ngày xưa. Bởi vì đây là giờ phút Chiến phải đứng ra thu xếp việc nhà, việc
cửa chu đáo trước lúc cùng em ra trận đánh giặc. Thật xúc động và cảm phục biết bao
đối với người con gái quá trẻ ấy trong giây phút chuẩn bị nhập ngũ, vẫn bình tĩnh và
biết lo toan chu tất từ việc lớn đến việc nhỏ: từ việc giỗ má đến việc gửi bàn thờ.
Người đọc chúng ta ai cũng có tâm trạng như chú Năm lúc ấy và đã phải thốt lên
“Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng. Gọn bề gia thất
đặng bề nước non”. Trong đau thương gian khổ, con người ta đã lớn lên và đẹp như
vậy đấy!.
- Là con trai, lại là em quen được chiều chuộng nên mọi việc Việt đều “ỷ lại
cho chị”, phó mặc tất cả cho chị. Nghe chị bàn việc gia đình một cách trang nghiêm,
Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì” và cứ ầm ừ cho qua, vừa nghe vừa
“chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay rồi ngủ quên lúc nào không biết”. Chỉ
kém chị một tuổi mà Việt “trẻ con hơn nhiều”. Đi bộ đội vẫn dắt theo cái ná thun
trong người. Yêu quý chị mà cứ cố giữ kín vì chỉ sợ mất chị, đánh giặc không sợ chết
nhưng lại sợ ma, khi gặp lại đồng đội thì vừa khóc lại vừa cười “giống hệt như thằng
út ở nhà, khóc đó rồi cười đó”. Cái chất trẻ thơ, trẻ con ấy khiến cho hình tượng Việt

có nét sống động riêng, khó lẫn, đem lại cho câu chuyện một niềm lạc quan, yêu đời
trong những ngày đánh giặc gian khổ và ác liệt.


Ngoài ra, ta thấy ở nhân vật Chiến còn có một cái gì đó rất khó diễn tả- nó là
cái chất trẻ trung và duyên dáng của một cô thiếu mữ mới lớn lên: bắt đầu thích soi
gương, đi đánh giặc vẫn có cái gương giấu trong túi. Chi tiết này được người em nhớ
lại khi bị thương giữa rừng. Chỉ một chi tiết nhỏ lướt qua vậy thôi mà Nguyễn đình
Thi đã góp phần hoàn chỉnh được chân dung nhân vật. Bút pháp xây dựng nhân vật
của tác giả quả thật rất tinh tế.
Kết Luận 1:
Tóm lại Việt và Chiến là hai chị em có những phẩm chất giống nhau nhưng
đồng thời lại là hai gương mặt, hai cá tính khác nhau, mỗi người một vẻ và tất cả đều
đáng yêu, đáng mến. Nguyễn Thi đã xây dựng hai nhân vật này thành những gương
mặt tiêu biểu cho “Những đứa con trong gia đình” và thế hệ trẻ miền Nam anh hùng
trong cuộng kháng chiến chống Mỹ gian khổ mà rất đỗi hào hùng.
Kết Luận 2:
Tóm lại, với Việt và Chiến, Nguyễn Thi đã xây dựng được hai nhân vật sống
động, đặc sắc, thú vị. Qua họ, tác giả đã phần nào phản ánh được cuộc chiến đấu anh
hùng của người dân miền Nam; đặc biệt là thế hệ trẻ, những con người đã biết cầm
súng đánh giặc như một mệnh lệnh của trái tim. Vì thế họ cũng đã lên đường ra trận
như đi trẩy hội mùa xuân.


Đề 2: Những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”
cùa nhà văn Nguyễn Thi
1.Tác giả tạo một tình huống khá hấp dẫn. Đó là Việt, một cậu con trai mới lớn đi
chiến đấu bị thương nặng nằm giữa rừng khi tỉnh khi mê và hồi tưởng lại
2.Nhờ đó lời kể vừa là lời tác giả, vừa là lời của nhân vật, tạo nên một kiểu lời kể đặc
biệt : bán trực tiếp.

3.Truyện được thuật lại chủ yếu qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt. Dòng hồi ức
của Việt khi đứt, khi nối sau những lần ngất đi, tỉnh lại. Lối kết cấu dựa vào dòng hồi
tưởng như thế làm cho truyện giàu cảm xuc, diễn biến linh hoạt, khong tuân thủ theo
trật tự thời gian mà vẫn tự nhiên, hấp dẫn. Qua đó làm nổi bật những nhân vật đầy góc
cạnh.
4.Nguyễn Thi có biệt tài phân tích tâm lý và khả năng nhập sâu vào nội tâm nhân vật
và ông cũng có cách xây dựng nhân vật rất tinh tế


Đề1: Tóm tắt tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành
Tác phẩm viết về làng Xô Man và núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Sau ba năm xa làng đi bộ đội giải phóng, Tnú trở về thăm quê,
làng Xô Man bất khuất kiên cường nằm giữa rừng xà nu bạt ngàn của Tây Nguyên.
Trong một buổi tối sum họp của làng, cụ Mết đã kể lại cho dân làng nghe về một trang
sử bi thương mà hùng tráng của làng nó gắn với cuộc đời Tnú. Làng Xô Man trong
những năm đen tối của Cỏch Mạng, là một căn cứ bí mật vững chắc nuối dấu cán bộ.
Lúc ấy, Tnú và Mai còn nhỏ nhưng đã góp phần tích cực vào việc chở che nuôi dấu
cán bộ. Lớn lên, hai người thành vợ chồng. Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng
đánh giặc. Tin làng Xô Man “mài giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa bay đến tai quân
giặc”, chúng cho quân đến vây quét. Cụ Mết và Tnú, cùng thanh niên rút ra ngoài
rừng. Giặc dùng mọi cách khủng bố uy hiếp tinh thần dân chúng. Để hòng dụ dỗ Tnú
đầu hàng, chúng bắt vợ và con anh hành hạ. Núp trong rừng, chứng kiến cảnh vợ con
bị đánh đập dã man, Tnú sôi sục căm thù đến mức không còn tỉnh táo được nữa, đã
nhảy xổ ra chém giết lũ giặc. Nhưng anh cũng không cứu được vợ con mình. Anh bị
giặc bắt trói, tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay trước mắt dân làng, hòng uy
hiếp “ mộng cầm giáo mác” của họ. Tnú kiên cường, cắn răng chịu đựng không hề
khuất phục. Căm thù tột độ, cả khối người đã vùng lên đánh gục kẻ thù “Cả làng Xô
Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Câu chuyện khép lại bằng cảnh cụ Mết
và Dít tiễn đưa Tnú trở lại đơn vị ở nơi cửa rừng xà nu tràn trề sức sống vượt lên trên
sự huỷ diệt của bom đạn như làng Xô Man bất khuất kiên trung.



Đề 2: Phân tích nhân vật Tnú - nhân vật tiêu biểu cho văn học, bút pháp sử thi.
Mở bài:
Đọc truyện ngắn rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965 rút từ
tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” điều để lại những ấn tượng khó
quên trong tâm hồn độc giả không chỉ là hình tượng cây xà nu giàu sức sống, ham ánh
sáng, thân cây thẳng tắp “vươn lên bầu trời đón lấy nắng vàng toả chất nhựa thơm mỡ
màng” mà còn là hình ảnh những con người Tây Nguyên bất khuất kiên trung, thuỷ
chung trong sáng, giàu tình nghĩa, trọn đời gắn bó với Cách Mạng và quyết không đội
trời chung với kẻ thù Mỹ - Nguỵ như cụ Mết, Tnú, Dít, anh Xút, bà Nhan, nổi bật nhất
trong đó là Tnú. Một hình tượng vừa kết tinh được phẩm chất cao đẹp của người Tây
Nguyên vừa được tác giả viết với bút pháp mang đậm màu sắc sử thi.
Thân bài:
A. Chặng đường đời thứ nhất
I. Lai lịch của nhân vật Tnú
Vào một đêm ngoài rừng mưa rì rào như gió nhẹ, dưới ánh lửa xà nu bập bùng,
tất cả dân làng Xô Man, già trẻ gái trai đã nghe cụ Mết, một già làng có thân hình vạm
vỡ, quắc thước, mắt sáng xếch ngược, râu dài ngang ngực, giọng rền vang như cồng
chiêng kể về cuộc đời đầy bi hùng của Tnú.
II. Tnú có lòng yêu thương nhân dân, trung thành với Cách Mạng, gan góc,
táo bạo.
Tnú là người con của dân làng Xô Man, cha mẹ mất sớm và được dân làng cưu
mang, nuôi dưỡng. Cũng như người dân làng “Có cái bụng thương núi, thương nước”.
Tnú đã sớm có một lòng yêu thương nhân dân làng xóm, gắn bó mật thiết với từng
mảnh đất quê hương. Sau này trưởng thành, Tnú vẫn giữ nguyên vẹn tấm lòng ấy. Suốt
ba năm xa nhà đi chiến đấu, lòng Tnú luôn day dứt một nỗi nhớ về tiếng chày chuyên
cần rộn rã của người dân làng Xô Man mà âm thanh của nó đã thấm sâu vào máu thịt
tâm hồn anh từ thuở mới lọt lòng. Dù đã rửa ở suối rồi. Tnú vẫn xúc động để vòi nước
của làng mình dội lên khắp người những cảm giác mơn man mát lạnh. Từ tấm lòng

này, Tnú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó, trung thành, thuỷ chung sâu nặng với
Cách Mạng, cán bộ của Cách Mạng. Bởi ngay từ khi là một cậu bé, Tnú được cụ Mết,
người giữ gìn và truyền ngọn lửa Cách Mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay
“Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn”. Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc
đời, Tnú đã xuất hiện với tư cách người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mĩ. Dù còn
nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra gan góc táo bạo đầy quả cảm gương mẫu đi đầu và luôn luôn
quyết tâm vượt qua mọi thử thách để hoàn thành nhiệm vụ như: Lê Văn Tám, Vừ A
Dính, Kim Đồng, Lượm, Luỹ. Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù: chặt
đầu những người đi nuôi cán bộ - đầu anh Sút, bà Nhan đang bị chúng treo lủng lẳng
đầu xóm, Tnú cùng với Mai vẫn xung phong gương mẫu vào rừng bảo vệ nuôi dưỡng
anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng. Đây là một công việc vô cùng khó khăn
đầy hiểm nguy. Vốn là con người nhanh trí táo bạo thích mạo hiểm, luôn luôn chủ
động bình tĩnh sáng suốt xử lý trước những tình huống khẩn cấp hiểm nghèo, Tnú


không được qua những suối nước cạn dễ đi mà thường băng qua những con thác hiểm
“như một con cá Kình”. Có lần vừa vượt qua thác, chuẩn bị bước lên bờ thì hai họng
súng đen ngòm lạnh ngắt đã chĩa vào tai Tnú. Địch tra tấn hỏi Cộng sản ở đâu? Tnú đã
không ngần ngại đặt tay lên bụng “ở đây này”. Và lưng Tnú lại hằn lên những vết
chém ngang dọc của kẻ thù. Đúng Tnú là con người rất giàu phẩm chất thuỷ chung,
trung thành với Cách Mạng mà bất khuất hiên ngang trước kẻ thù. Chính nhờ những
người con như Tnú mà làng Xô Man có thể tự hào “năm năm chưa hề có một cán bộ
bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này”.
III. Tnú còn là con người chính trực, trong sáng, trung thực, thẳng thắn
như cây xà nu.
Tnú quyết tâm học cho được cái chữ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết
nếu không may anh Quyết bị hi sinh. Tnú có cái đầu sáng suốt lạ lùng trong việc tìm
đường rừng để đưa thư cho anh Quyết từ huyện về xã, đảm bảo an toàn, vượt qua tất
cả mọi vòng vây của giặc. Nhưng Tnú học chữ hay quên. Bởi vậy khi học chữ thua
Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình bằng cách cầm hòn đá tự đập vào

đầu mình máu chảy ròng ròng. Hành động này có cái gì đó hơi nóng nảy nhưng nó
biểu lộ ý chí quyết tâm sắt đá của người anh hùng mới “Trung với Đảng, hiếu với dân,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” - Lời dạy của Bác.
IV. Tnú có một tình yêu đẹp, trong sáng, thuỷ chung.
Với những phẩm chất đáng yêu nói trên, Tnú lớn lên đã trở thành một chàng
trai kết tinh được những phẩm chất cao đẹp của người dân Xô Man. Anh là thần tượng,
là niềm ngưỡng mộ của nhiều cô gái làng. Trong số đó có Mai, người bạn từ thuở thiếu
thời, một cô gái dịu dàng, xinh đẹp, có đôi mắt đen long lanh chất chứa biết bao tình
yêu thương mà đầy kiên nghị cứng rắn, mối tình của họ rất thơ mộng và trưởng thành
qua năm tháng đầy thử thách khốc liệt của chiến tranh rồi họ trở thành vợ chồng. Đứa
con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ mộng trong
sáng, thuỷ chung ấy. Hạnh phúc gia đình lứa đôi của Tnú đang đẹp như trăng rằm, lung
linh toả sáng cả núi rừng Tây Nguyên.
V. Tnú có lòng căm thù giặc sâu sắc.
Song kẻ thù tàn bạo dã man đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách
không hề tiếc thương. Chúng đã giết vợ con anh bằng cây gậy sắt, hòng uy hiếp tinh
thần CM của Tnú., người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy và nhân dân làng Xô
Man. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của vợ con thật bi thương tràn
đầy xúc cảm và ấn tượng. “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm
dậy, bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Bọn giặc
đã bắt trói Tnú quấn giẻ lên mười đầu gón tay tẩm nhựa xà nu và đốt cháy thành mười
ngọn đuốc. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Nhưng Tnú không thèm kêu van. Căm
thù đau nhói trong tim và bùng cháy trong hai con mắt, một chi tiết thật dữ dội, đã đột


nhiên biến thành tiếng thét của Tnú. Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả
khối thuốc nổ căm hờn của dân Xô Man. Trong phút chốc họ đã “Giết! Chém! Chém
hết!” Xác mười tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa. Tnú xứng đáng là người chỉ
huy đội du kích mưu trí dũng cảm của dân làng. Còn đối với kẻ thù, Tnú đã trở thành
“con cọp” nguy hiểm của núi rừng Tây Nguyên.

=> Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị, sâu xa của
cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: “Tnú không cứu được vợ, được con
nhớ không? Tao cũng chỉ có hai bàn tay không… nhớ lấy, ghi lấy. Sau này, tao chết
rồi… chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là chân lý của Cách Mạng
được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt. Đó là một chân lý thật
nghiệt ngã nhưng tất yếu, phải dùng bạo lực Cách Mạng để chống lại bạo lực phản
Cách Mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để tự giải phóng của nhân dân.
B. Chặng đường thứ hai của Tnú: Cầm vũ khí tham gia giải phóng quân.
I. Vượt qua bi kịch cá nhân, trở thành người chiến sĩ, cán bộ có tinh thần
kỉ luật cao.
Từ đây cả dân làng Xô Man vùng dậy cầm lấy giáo mác làm vũ khí chống lại
súng đạn tối tân tàn bạo của Mĩ - Ngụy. Và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được nối
tiếp bằng việc đi lực lượng. Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham
gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội
trời chung của vợ con anh, của nhân dân Tây Nguyên, còn tồn tại trên đất nước Việt
Nam này. Khi đã trở thành giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỉ luật cao.
Tuy nhớ quê hương, gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về và cũng chỉ về
đúng một đêm như quy định trong giấy phép.
II. Nhân vật Tnú gắn liền với một hình tượng độc đáo, bàn tay
Nhân vật Tnú không chỉ hấp dẫn độc giả chúng ta bởi những phẩm chất, tính
cách anh hùng; bởi bút pháp mang đậm màu sắc sử thi, bi tráng và tính triết lý của nó,
mà còn hấp dẫn bởi tính hình tượng của tác phẩm. Một trong những hình tượng giàu
nghệ thuật, ý nghĩa thẩm mĩ và tạo nên một sức ám ảnh đặc biệt cho độc giả là hình
ảnh bàn tay của Tnú. Đây là một hình tượng như có một số phân riêng, gắn bó mật
thiết với cuộc đời Tnú, góp phần tô đậm thêm những nét phẩm chất, tính cách cao đẹp
của anh. Đó là bàn tay của sự trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh
Quyết dạy cho, từng đặt lên bụng mình mà nói: “Cộng sản ở đây này”. Bàn tay ấy
cũng đã từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu
thương, đồng cảm, lúc Tnú vượt ngục trở về. Khi giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú, bàn
tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời.

Lòng hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành bàn tay qủa báo – mười ngọn đuốc từ ngón
tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xô Man. Bàn tay chỉ còn hai
đốt, mỗi ngón vẫn cầm giao, cầm súng để Tnú lên đường rửa hận. Và cuối cùng với
chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú.


Kết Luận:
Như vậy câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú vừa có ý nghĩa cụ thể, cá thể, vừa
có ý nghĩa điển hình tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường
đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Nhân vật Tnú có
cái gì đó phảng phất như những anh hùng trong các trường ca Đam San, Xinh Nhã.


Đề 3: Phân tích hình tượng cây xà nu trong tác phẩm “Rừng xà nu”. Vì sao tác
giả lại đặt cho thiên truyện của mình cái tên “Rừng xà nu”?
Mở Bài:
Đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành viết năm 1965 rút từ tập “Trên quê
hương những anh hùng Điện Ngọc” điều để lại ấn tượng sâu đậm cho độc giả chúng ta
không chỉ là những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai những con người Tây Nguyên
bất khuất kiên trung, thuỷ chung với Cách Mạng, mà còn là ở hình tượng cây xà nu,
một hình tượng độc đáo bao trùm toàn bộ tác phẩm. Chính hình tượng cây xà nu đã tạo
nên vẻ đẹp hùng tráng chất sử thi, lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất
kiên cường.
Thân Bài:
I. Đọc tác phẩm này, điều mà độc giả nhận ra trước tiên là hình tượng cây
xà nu là một hình tượng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm gắn bó với cuộc sống và
mọi sinh hoạt của người dân xô Man.
1. Trong bài “Viết về truyện ngắn rừng xà nu”, tác giả Nguyên Ngọc (bút danh
Nguyễn Trung Thành) đã tâm sự “Ngay từ năm 1962, trên đường vào miền Nam công
tác, đến tỉnh Thừa Thiên, giáp Lào, tôi được chứng kiến những rừng xà nu bát ngát, xanh

tít tận chân trời. Đấy là những cây họ thông, hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong
sạch. Mỗi cây cao vút vạm vỡ, nhựa ứa ra, tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi”. Những cây
xà nu có phẩm chất đặc biệt ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ và khơi nguồn cảm hứng cho
tác giả ba năm sau (1965) tạo dựng nên hình tượng cây xà nu đặc sắc này.
(Truyện viết khi đế quốc Mĩ ồ ạt đổ quân vào miền Nam nước ta. Truyện đăng lần
đầu tiên trên tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng trung trung bộ-số 2/năm 1965” được đưa
vào tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”).
2. Hình tượng cây xà nu được tác giả miêu tả từ nhiều góc độ và đưa lại hiệu
quả thẩm mĩ đặc biệt, trong truyện ngắn này,nhà văn không chỉ mở đầu và kết thúc
truyện bằng hình ảnh rừng xà nu bát ngát đến chân trời, mà đã gần hai mươi lần nói
đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, khói, lửa xà nu. Chất sử thi của tác phẩm sẽ
không trở thành giọng điệu chính, nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ
nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần đến như vậy, nhất là các “đồi xà nu” bốn
lần, “rừng xà nu” năm lần. Thủ pháp trùng điệp khi mô tả cây xà nu đó, vừa làm nền
cho toàn bộ diễn biến của câu chuyện, vừa gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
3. Nhưng xà nu không chỉ có mặt trong đoạn mở đầu và đoạn kết, mà nó còn
hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu gắn bó với
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như đã từ ngàn đời nay thân thuộc với dân làng: Ngọn
lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp, đuốc xà nu soi sáng đường rừng đêm, lửa xà nu cháy
bập bùng trong nhà Rông tập hợp cả dân làng. Khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ;
làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ cụ Hồ, xà nu còn tham dự
vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xô Man; ngọn đuốc xà nu cháy sáng
trên tay cụ Mết và cả dân làng đi vào rừng sâu lấy giáo mác đã dấu kĩ về chuẩn bị cho


cuộc nổi dậy, đêm đêm cả dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu. Giặc đốt hai
bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu. Rồi ngọn lửa các đuốc xà nu soi sáng rực cả
làng cái đêm khởi nghĩa; soi rõ xác mười tên lính nằm ngổn ngang quanh đống lửa.
II. Hình tượng cây xà nu qua ngòi bút của Nguyễn Trung Thành đã trở
thành một nhân chứng về tội ác của chiến tranh huỷ diệt; là người chứng kiến

cho sự giác ngộ, hi sinh thầm lặng và sự quật khởi của người dân Xô Man.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh
về nỗi đau thương do bom đạn giặc Mĩ gây ra: cây xà nu vừa là người chứng kiến sự
tàn khốc của chiến tranh, vừa là đối tượng huỷ diệt của bom đạn kẻ thù “Cả rừng xà
nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang
thân mình, đổ ào như một cơn bão”.Ở một chỗ khác, tác giả tả kĩ hơn “nơi chỗ vết
thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần
bầm lại, đen và đặc lại quện thành cục máu lớn”. Hình ảnh đó cũng gợi lên lòng căm
thù, kết tụ ý chí phản kháng. Hình ảnh cây xà nu còn là người chứng kiến sự quật khởi
của người dân Xô Man; Khi khí thế cách mạng ở dân làng dâng lên như thác lũ, thì cả
rừng xà nu ào ào chuyển động.
III. Hình tượng cây xà nu còn là hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống và
phẩm chất người dân Xô Man nói riêng, Tây Nguyên nói chung như: giàu khát
vọng tự do giải phóng, phẩm chất anh hùng, sức sống mãnh liệt của các thế hệ nối
tiếp nhau.
Chính vì hình ảnh cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng nên sự miêu tả loài cây
này, luôn luôn được tác giả đặt trong sự đối chiếu với con người gợi ra những liên
tưởng về đời sống, số phận cùng những phẩm chất của họ. Cây xà nu rất ham ánh sáng
và khí trời “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng cũng như Tnú, người dân làng
Xô Man yêu tự do khát vọng ánh sáng bất chấp sự huỷ diệt tàn khốc của kẻ thù. Cây
xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt không có gì có thể tiêu diệt tàn phá được.
Bên cạnh cây xà nu mới ngã gục đã có bốn, năm cây con xanh rờn, hình nhọn như tên lao
thẳng lên bầu trời cũng như “các thế hệ làng Xô Man lớp này đến lớp khác đứng lên tiếp
tục cuộc chiến đấu”
“Ta lại viết bai thơ trên báng súng
Con lớn lên viết tiếp theo cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua”
(Hoàng Trung Thông)
Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai. Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn

đầy sức sống như cây xà nu bị chặt đứt ngay giữa thân mình thì Dít đã lớn lên và
nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội, rồi những bé
Heng, thế hệ tiếp theo đang tiếp bước đàn anh.


- Nhưng trong rừng xà nu còn những cây khác vững chãi không chịu khuất
phục trước dông bão, đạn bom của kẻ thù “ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho
xóm làng”. Phải chăng đó là hình ảnh cụ Mết - hiện thân của tinh thần quật khởi, người
đã nuôi ngọn lửa, khát vọng tự do, gắn bó với Cách Mạng? “Có những cây xà nu cành
lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ, đạn đại bác không giết nổi
chúng. Những vết thương của chúng chóng lành như trên một cơ thể cường tráng”. Tất
cả nối tiếp nhau tạo thành một đội ngũ trùng trùng điệp điệp như rừng xà nu nối tiếp
chạy đến chân trời.
Kết Luận:
Tóm lại hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn
Trung Thành. Nó được dùng như một ẩn dụ gợi cho người đọc nghĩ đến con người Tây
Nguyên yêu tự do, dồi dào sức sống, bất khuất kiên trung, thuỷ chung với Cách Mạng.
Như thế là hình tượng cây xà nu đã được tác giả đưa lại cho biết bao ý nghĩa mới mẻ
giàu tính chất thẩm mĩ, ý nghĩa nhân sinh. Vì vậy tác giả đã đặt cho truyện của mình
cái tên thật có ý nghĩa: “Rừng xà nu”.


Đề 4: Phân tích chất sử thi hùng tráng, trang nghiêm trong tác phẩm "Rừng xà
nu" của Nguyễn Trung Thành
MỞ BÀI:
“Rừng xà nu” là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trung Thành nói riêng, văn
xuôi chống Mĩ nói chung. Tác phẩm hấp dẫn không chỉ đã khai thác được một đề tài
miền núi của Tây Nguyên hùng vĩ, mà còn ở chỗ, nó mang đậm tính chất sử thi hùng
tráng, trang nghiêm.
THÂN BÀI:

I. Giới thiệu tác giả, tác phẩm :
- Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nếu như Tô Hoài là nhà văn có công
khai sơn, phá thạch đề tài miền núi thì Nguyên Ngọc sau này là Nguyễn Trung Thành
được xem là nhà văn đi tiên phong về đề tài Tây Nguyên.
- Từ những năm kháng chiến chống Pháp, Nguyên Ngọc đã có tác phẩm “Đất
nước đứng lên” nổi tiếng với nhân vật anh hùng Núp làm say mê hàng triệu trái tim
độc giả. Vào cuộc kháng chiến chống Mĩ do gắn bó mật thiết với chiến trường Tây
Nguyên, gần gũi, hiểu biết sâu sắc cuộc sống và tinh thần bất khuất, yêu tự do, gắn bó
với Cách mạng của nhân dân các dân tộc thiểu số sống trên mảnh đất này, ông đã sáng
tác nên một thiên truyện nổi tiếng “Rừng xà nu”.
- Truyện viết vào mùa hè 1965, rút từ tập “Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc”. Truyện được giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu 1965
II. Thế nào là tác phẩm sử thi và những biểu hiện của nó :
1.Thế nào là sử thi?
Thơ ca lấy lịch sử làm đề tài chép sự tích nhân vật và truyền thuyết lịch sử. Đây
là thể loại tự sự miêu tả các sự kiện quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với đời sống
tinh thần và vận mệnh của dân tộc. Nó chủ yếu biểu hiện ý thức cộng đồng của nhân
dân, dân tộc đối với quá khứ vẻ vang của chính mình. Với quan niệm ấy “Rừng xà nu”
không là tác phẩm sử thi mà là bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng
lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên.
2.Những biểu hiện tính sử thi trong “Rừng xà nu”
a. Về đề tài chủ đề :
- Tính sử thi trước hết được thể hiện bằng đề tài chủ đề. Truyện có đề tài về lịch
sử của làng Xôman và nói rộng ra là nhân dân Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh chống
tên đế quốc hùng mạnh nhất để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đây là một sự kiện trọng
đại. Qua tác phẩm, tác giả muốn nêu bật lên sức mạnh quật khởi, tinh thần và ý chí
mãnh liệt không có gì có thể lay chuyển được của buôn làng, của một dân tộc quyết
lấy máu mình viết nên một chân lý mới : “chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Nghĩa là vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để giải phóng nhân dân
b. Nhân vật :

- Dân làng Xô Man trong “Rừng xà nu” là một tập thể mang những phẩm chất
tiêu biểu cho cộng đồng, sống chết vì buôn làng, vì dân tộc. Đó là một tập thể anh
hùng tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, khát vọng tự do, tinh thần đoàn kết, bất khuất,
hiên ngang và sức sống mãnh liệt.
- Các nhân vật trong “Rừng Xà Nu” được cấu tạo theo nhiều lớp, nhiều thế hệ.
Các thế hệ này được hình tượng hoá bằng những thế hệ xà nu khác nhau trong Rừng
xà nu bạt ngàn tít tắp đến tận chân trời. Thế hệ già làng ( tiêu biểu là cụ Mết), thế hệ


thanh niên ( tiêu biểu là Tnú, Mai, Dít ). Truyện còn hé mở cho ta thấy thế hệ thứ ba,
thế hệ của những bé Heng, để hoàn thiện bức tranh về chiến tranh nhân dân “ lớp cha
trước, lớp con sau”, nối tiếp nhau tạo thành một sức mạnh vô địch.
Nét chung nhất của các nhân vật này là phẩm chất anh hùng, rất kì vĩ, mạnh mẽ.
Họ đều là những con người yêu buôn làng, yêu nước, yêu dân, bất khuất kiên trung,
thuỷ chung với cách mạng, giàu khát vọng tự do, giàu sức sống.
- Yêu buôn làng, yêu nước, yêu dân sâu nặng và lòng căm thù giặc sâu sắc cháy
bỏng.
- Quyết tâm đứng lên đánh giặc, bất chấp sự khủng bố dã man của kẻ thù.
- Kiên cường bất khuất, dũng cảm táo bạo, tạo nên khí thế đồng khởi chống Mĩ,
Điều đặc biệt là : tuy cùng mang phẩm chất anh hùng, nhưng mỗi người do tuổi
tác, giới tính, cương vị khác nhau mà có những cách biểu hiện khác nhau làm nên vẻ
đep, đặc điểm riêng rất đa dạng, sinh động và hấp dẫn.
Cụ Mết:
Cụ đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp. Theo tác giả, cụ cùng hoạt động
một thời với anh hùng Núp và cả hai rất nổi tiếng ở hai vùng khác nhau của Tây
Nguyên. Núp được phong tặng anh hùng. Cụ Mết, con người của hai thế hệ lại tiếp tục
hướng dẫn chỉ huy con cháu tham gia vào cuộc đấu tranh chống Mĩ-Diệm. Cụ là một
già làng sừng sững uy nghi như một cây đại thụ. Cụ luôn đứng đầu, có tác phong trang
trọng đàng hoàng, có phong thái đĩnh đạc và uy tín lớn trong làng. Cụ Mết trở thành
người cha tinh thần, người truyền ngọn lửa khát vọng tự do giải phóng và trở thành

linh hồn của phong trào đồng khởi người dân XôMan.
Cụ Mết xuất hiện muộn khiến cho Tnú nóng ruột chờ đợi. Con người này có
hình dáng bên ngoài rất đặc sắc. “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài
tới ngực.. ông ở trần, ngực như một cây xà nu lớn. Tay rắn chắc như hai gọng kìm,
giọng nói trầm vang như cồng chiêng”, cách nói của cụ không bào giờ khen “tốt”.
Những khi vừa ý nhất, cụ chỉ nói “được”. Mệnh lệnh của cụ phát ra đơn giản chắc nịch
: “Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên”. Tấm lòng của cụ đối với Tnú, với dân làng và đối
với Cách mạng bao la như núi ngàn. Nghĩa tình của của cụ với nhân dân, đất nước như
nước nguồn Tây Nguyên không bao giờ vơi cạn. Cụ Mết đã chỉ huy dân làng xông lên
giết sạch bọn ác ôn trong nhà Rông, đốt lên ngọn lửa đồng khởi rực sáng với chân lý
thật giản dị mà sâu xa “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Cụ Mết còn là
người của niềm tin, người tổ chức tập hợp đoàn kết dân làng đánh giặc.
Tóm lại cụ Mết là người tiêu biểu kết tinh tính cách quật cường, bất khuất của
các dân tộc Tây Nguyên nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung. “Yêu nước thiết tha,
căm thù giặc cháy bỏng, kiên cường thuỷ chung, son sắt, giàu sức sống. Ưỡn tấm ngực
lớn của mình ra che chở cho xóm làng”.
Tiếp đến là thế hệ Tnú, Mai, Dít (Tnú quyết liệt, mạnh mẽ, trung thực, ngay
thẳng, căm thù như lửa cháy bốc ngùn ngụt, trả thù dứt khoát, giàu dũng khí, giàu sức
sống… Tnú trở thành niềm tự hào, kiêu hãnh của buôn làng và tập thể người dân
XôMan)
Dít là một cô gái trẻ giàu nghị lực, có bản lĩnh, trưởng thành trong đấu tranh gian khổ
và trở thành người lãnh đạo cao nhất của làng XôMan : bí thư chi bộ, chính trị viên xã
đội. Nét tính cách nổi bật của Dít : là một cô gái có đôi mắt mở to, trong suốt, tính tình
lặng lẽ kín đáo, nhưng rất gan dạ, giặc bắn để uy hiếp tinh thần, áo quần rách tơi tả
nhưng vẫn bình thản như không ; kiên quyết nguyên tắc (kiểm tra giấy của Tnú rất kĩ,
mặc dù có quan hệ thân tình). Song Dít là một cô gái rất giàu tình cảm (bùi ngùi, lưu
luyến khi Tnú phải đi ngay).


c. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả thật hùng vĩ hoành tráng, giàu màu sắc

tạo hình như khắc như chạm, tạo thành hình, thành khối, có màu sắc, có mùi vị. Đặc
biệt là hình tượng cây xà nu mang đậm màu sắc sử thi. Nó được miêu tả từ nhiều góc
độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần, mang ý nghĩa tượng trưng cho phẩm chất, vẻ đẹp của
con người Tây Nguyên. Những cảnh “suốt đêm nghe cả rừng XôMan ào ào rung
động. Lửa cháy khắp rừng” và đặc biệt những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời mở đầu
và kết thúc đã làm nền cho diễn biến câu chuyện bi hùng của Tnú và làng XôMan thật
giàu ý nghĩa thẩm mĩ, nghệ thuật.
d. Ngôn ngữ của thiên truyện “Rừng xà nu” đã được Nguyễn Trung Thành viết
với giọng say mê, trang trọng tạo nên chất thơ dạt dào, hùng tráng. Truyện được kể lại
bên bếp lửa, cách kể trang nghiêm, xúc động như muốn nhắc nhở con cháu nhớ kỹ
những trang sử đẫm máu và nước mắt của cả cộng đồng “người già chưa quên, người
chết, quên hết rồi, thì để lại cái nhớ cho người sống..hãy lắng nghe mà nhớ…” Câu
chuyện của Tnú mà cụ Mết kể cho dân làng nghe xảy ra chưa lâu, nhưng vẫn được kể
như câu chuyện lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng của sử thi
KẾT LUẬN:
Tóm lại “Rừng xà nu” là tác phẩm mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn
về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên. Lâu nay người đọc say mê tác phẩm
ngoài ý nghĩa một đề tài mới mẻ về miền núi, còn là ở chất sử thi bi tráng ấy.


Đề 5: So sánh sự giống nhau và khác nhau cơ bản của hai tác phẩm "Rừng xà nu"
của Nguyễn Trung Thành và "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi.
Mở bài 1:
"Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành và "Những đứa con trong gia đình" của
Nguyễn Thi đều là hai tác phẩm xuất sắc viết về đề tài chiến tranh cách mạng ở miền
Nam vào những năm 60 thế kỷ trước. Cả hai tác phẩm đều xứng đáng là bản anh hùng
ca ca ngợi những con người miền Nam anh hùng, bất khuất, căm thù giặc cháy bỏng,
yêu quê hương đất nước thiết tha, thủy chung tình nghĩa sắt son với cách mạng, kháng
chiến. Tuy nhiên hai tác phẩm đã có những vẻ đẹp riêng mang đậm hương vị của mỗi
miền đất và mang dấu ấn tài năng của mỗi tác giả.

Mở bài 2:
"Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành và "Những đứa con trong gia đình" của
Nguyễn Thi xứng đáng được xem là hai bông hoa đẹp bừng nở trên mảnh đất miền
Nam cháy đỏ lửa căm thù quân xâm lược và xanh ngời một niềm tin chiến thắng. Cùng
viết về đề tài chiến tranh cách mạng, ra đời vào những năm 60 của thế kỷ trước, một
tác phẩm là bông hoa rừng của Tây Nguyên hùng vĩ, một tác phẩm là bông hoa hồng
của đồng bằng Nam bộ cho đến nay vẫn toả ngát hương thơm trong tâm hồn hàng triệu
độc giả chúng ta.
Thân bài:
A. Những điểm giống nhau
1. Cả hai tác phẩm đều là những bản anh hùng ca hào hùng, ca ngợi chủ nghĩa
anh hùng của những con người miền Nam "Kiêu hãnh trên tuyến đầu chống Mỹ", miền
Nam "anh dũng tuyệt vời", miền Nam "Trong lửa đạn sáng ngời" (Tố Hữu). Đó là
những con người kiên cường, bất khuất, căm thù giặc ngùn ngụt và yêu quê h ương tha
thiết, giàu tình nghĩa, thủy chung son sắt với gia đình, với cách mạng và nguyện sống
chết cho quê hương
2. Hai tác phẩm đều là truyện ngắn rất thành công của mỗi tác giả, được viết ra
khi tài năng của họ đã đạt đến độ chín muồi
3. Bằng tài năng nghệ thuật đặc sắc, bằng vốn hiểu biết sâu rộng và tinh tế về
con người Tây Nguyên, con người Nam bộ kiên cường mà giàu tình nghĩa, Nguyễn
Trung Thành và Nguyễn Thi đã tạo dựng được những nhân vật điển hình, những anh
hùng tiêu biểu cho con người miền Nam nói riêng, con ng ười Việt Nam nói chung
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sôi nổi, quyết liệt, đầy gian khổ hy sinh mà rất đỗi
vui tươi hào hùng
B. Những điểm khác nhau cơ bản
Tuy nhiên do tài năng, cá tính, phong cách nghệ thuật khác nhau của mỗi tác
giả, mà mỗi tác phẩm đã có những nét khác nhau rất hấp dẫn.



×