Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Hỗ TRỢ tư PHÁP đối với HOẠT ĐỘNG của TRỌNG tài THƯƠNG mại .P1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.08 KB, 44 trang )

-

-

LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại thông qua trọng tài được xác
lập theo các giai đoạn phát triển đặc thù, dù theo quy định của pháp luật mỗi thời kỳ, cách
thức tổ chức và hoạt động của tổ chức trọng tài là khác nhau.
Ở Việt Nam sự phát triển của trọng tài thương mại chia thành 3 giai đoạn chủ yểu:
-Giai đoạn sơ khai ( trước năm 2003)
- Giai đoạn chuyển tiếp ( năm 2003- năm 2010)
- Giai đoạn hội nhập ( năm 2010- nay)
Một trong những vấn đề vẫn còn tiếp tục gây tranh luận hiện nay chính là những
quy định hiện hành của pháp luật về thỏa thuận trọng tài và các vấn đề có liên quan.
Trong quy định về thỏa thuận trọng tài còn nhiều điểm chưa được giải thích rõ ràng trong
Luật Trọng tài Thương mại 2010, gây khó khăn cho việc hiểu và áp dụng pháp luật đối
với những tổ chức, cơ quan trực tiếp áp dụng đó là các tổ chức Trọng tài Thương mại,
Tòa án và đặc biệt là các doanh nghiệp có tranh chấp yêu cầu trọng tài thương mại giải
quyết. Với các phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở của phương pháp luận của triết
học Mác- Lenin; phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các
phương pháp cụ thể như phân tích, liệt kê, tổng hợp, bình luận. Từ đó, tôi chọn đề tài
“Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài
thương mại” để nhằm tổng hợp, khái quát những cái đã có và nghiên cứu những sai sót,
chưa phù hợp với thực tế hiện nay của luật.
Bài được chia làm 3 phần chính như sau:
CHƯƠNG I Những vấn đề lí luận của TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ SỰ CẦN
THIẾT CỦA VIỆC HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI.
CHƯƠNG II CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
CHƯƠNG III THỰC TẾ THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP


HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.

1


CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CỦATRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về trọng tài thương mại.
1.1.1.
Khái niệm trọng tài thương mại
Trọng tài Thương mại là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phổ biến
trong đời sống kinh tế ở khắp nơi trên thế giới. Khái niệm này được nghiên cứu dưới rất
nhiều bình diện khác nhau trong khoa học pháp lý và hiện nay cũng có rất nhiều cách tiếp
cận về khái niệm này.
Trọng tài với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp là cách tiếp cận
chủ yếu của hệ thống các quy định pháp luật về trọng tài. Theo Điều 2.a, Luật mẫu của
UNCITRAL thì: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám
sát của tổ chức”. Hay theo Hiệp hội trọng tài Hoa kỳ (AAA) thì: “Trọng tài là cách thức
giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan
xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên
tranh chấp phải thi hành”.
Pháp luật trọng tài Việt Nam cũng có quy định tương tự về khái niệm này:
Khoản 1, Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 ghi nhận: "Trọng tài là
phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên
thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự thủ tục do pháp lệnh quy định". Khoản 1, Điều
3, Luật Trọng tài Thương mại 2010 cũng quy định: "Trọng tài Thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của
Luật này".

Bên cạnh đó, trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp cũng là
cách tiếp cận khá phổ biến. Theo từ điển tiếng Việt thì trọng tài là “Người được cử ra để
phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp”.
Ngoài ra, khái niệm này còn được tiếp cận với tư cách là một chế định pháp luật,
theo cuốn Danh từ pháp luật lược giải thì trọng tài là “một chế định cử tư nhân giải quyết
sự bất hòa cho hai bên nguyên bị trong một vụ tranh chấp”.
Như vậy, có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về trọng tài, tuy nhiên khi
nghiên cứu khái niệm này ta thường xem xét dưới hai góc độ chủ yếu: là một hình thức
giải quyết tranh chấp và là cơ quan giải quyết tranh chấp:
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
2


thương mại: Với tính chất là một phương thức giải quyết tranh chấp, Trọng tài Thương
mại được hiểu là phương thức, trong đó các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với
nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho trọng tài và
trọng tài, trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh chấp, được quyền đưa ra quyết
định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết định này có giá trị bắt buộc thi hành đối
với các bên.
- Trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp: Trọng tài Thương mại là cơ quan được
thành lập tự nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại theo yêu cầu của các bên tranh chấp. Trọng tài là một cơ quan tài phán, có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Trọng tài được
thừa nhận là một cơ quan tài phán độc lập, tồn tại song song với Tòa án.
1.1.2.
Đặc điểm của trọng tài thương mại
Về bản chất, Trọng tài Thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại không mang ý chí quyền lực nhà mà được giải quyết thông qua phán quyết
của Trọng tài Thương mại theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo, là một phương thức giải quyết
tranh chấp được tiến hành bởi các thiết chế đặc biệt, do vậy trọng tài mang một số đặc

trưng cơ bản sau:
Trọng tài Thương mại là một loại hình tổ chức phi Chính phủ, trọng tài có
quyền phán quyết như Tòa án và quyết định của trọng tài được cưỡng chế thi hành.
- Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa
thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết
thoát ly được những yếu tố đã được thỏa thuận.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài bảo đảm quyền tự định đoạt
của các đương sự rất cao. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, quy tắc tố tụng trọng
tài, luật áp dụng.
Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng
nghị và có hiệu lực thi hành với các bên. Nếu một bên không thi hành thì bên kia có
quyền yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài.
- Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại cần sự hỗ trợ
của Tòa án. Sở dĩ cần sự hỗ trợ của Tòa án vì phán quyết của trọng tài không mang tính
quyền lực Nhà nước, do đó cần phải có một cơ quan Nhà nước hỗ trợ, đó là Tòa án.
1.1.3.
Các hình thức của trọng tài thương mại

3


Với tư cách là tổ chức giải quyết tranh chấp trọng tài thường được biết đến với hai hình
thức phổ biến là trọng tài vụ việc (trọng tài ad- hoc) và trọng tài thường trực (trọng tài
quy chế).
Trọng tài vụ việc (trọng tài ad- hoc).
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của các đương sự
để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã được giải quyết.
Tính chất vụ việc của hình thức trọng tài này được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt
hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.

Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và
không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chỉ
định có thể là người có tên hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng
tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy tắc tố
tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thảo thuận xây dựng. Thông thường,
các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ quy tắc tố tụng nào, thường là quy
tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế.
Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế)
Khác với trọng tài adhoc, trọng tài thường trực luôn tồn tài không phụ thuộc vào
tranh chấp của các bên, là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường xuyên, có
điều lệ, quy tắc tố tụng riêng và có danh sách trọng tài viên. Trọng tài thường trực được
tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài
hay các viện trọng tài, nhưng chủ yếu và phổ biến vẫn là các Trung tâm Trọng tài. Có thể
kể đến những trung tâm trọng tài nổi tiếng như: Tòa án trọng tài quốc tế (IAC) thuộc
phòng thương mại quốc tế (ICC) có trụ sở ở Paris (Pháp); Hiệp hội trọng tài Mỹ (AAA);
trọng tài quốc tế Singarpore; trọng tài quốc tế Hồng Kong; ở Việt Nam có trung tâm trọng
tài quốc tế VIAC1 và một số trung tâm khác. Một số đặc điểm cơ bản về hình thức trọng
tài thường trực này:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống các
cơ quan nhà nước.
+ Hai là, các trung tâm trọng tài là tổ chức thỏa mãn các điều kiện về pháp nhân, bao gồm
được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ
1 VIAC viết tắt của(Vietnam International Arbitration Centre – Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam)

4


chức và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh chính mình tham gia các quan hệ
pháp luật một cách độc lập.

+ Ba là, tổ chức và quản lý ở trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ;
+ Bốn là, mỗi trung tâm trọng tài đều tự quyết định về lĩnh vực và có quy tắc tố tụng
riêng;
+ Năm là, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài riêng
của trung tâm.
1.1.4.
Các ưu điểm, hạn chế của phương thức trọng tài thương mại
Các ưu điểm của phương thức trọng tài thương mại
Thứ nhất, phán quyết của trọng tài thương mại có tính chung thẩm: đa số các quyết định
trọng tài không bị kháng cáo, chỉ trừ trường hợp một bên trong tranh chấp yêu cầu và có
một trong các căn cứ quy định tại Khoản 2 điều 68 Luật trọng tài năm 2010 thì quyết
định trọng tài bị hủy theo quyết định của tòa án.
Thứ hai, các quyết định trọng tài được công nhận quốc tế thông qua một loạt các công
ước quốc tế được kí kết đặc biệt là công ước New York năm 1958 (Convention on the
Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards). về thi hành quyết định trọng
tài nước ngoài, hiện nay có khoảng 120 quốc gia là thành viên của công ước này.
Thứ ba, cơ quan trọng tài hoàn toàn trung lập, các trọng tài viên có trình độ chuyên môn
cao. Để trở thành trọng tài viên thì cá nhân phải đáp ứng những yêu cầu mà pháp luật quy
định, theo Luật trọng tài 2010 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì người
đáp ứng đủ các yêu cầu quy định tại Điều 20 thì có thể làm trọng tài viên.
Thứ tư, trọng tài thương mại mang tính linh hoạt, đảm bảo tốt hơn quyền tự định đoạt của
các bên. Nghĩa là các bên có quyền tự quyết định chọn hình thức tổ chức trọng tài cũng
như trọng tài viên mà mình ưa thích; có quyền lựa chọn địa điểm, thời gian sao cho tiện
với doanh nghiệp. Khi sử dụng trọng tài, phán quyết của trọng tài là quyết định chung
thẩm, có hiệu lực thi hành và 2 bên không được kháng cáo. Nguyên tắc này xuất phát từ
bản chất của trọng tài là nhân danh ý chí và quyền định đoạt của các bên thì 2 bên phải
phục tùng quyết định của người đó. Trong khi toà án có nhiều cấp xét xử từ sơ thẩm tới
phúc thẩm, thậm chí giám đốc thẩm và tái thẩm. Điều này kết hợp với việc tố tụng toà án
phải tuân thủ các quy định, thủ tục nghiêm ngặt và toà án phải giải quyết nhiều tranh
chấp cùng một lúc thường gây ra việc kéo dài thời gian xét xử cũng như chi phí cho

doanh nghiệp. Quy trình của tố tụng Trọng tài cũng linh hoạt cho thời gian và lịch làm
việc của các bên và năng động hơn so với toà án do trọng tài chỉ chịu sự điều chỉnh của
5


quy định của từng Trung tâm và Luật Trọng tài thương mại 2010.Ngoài ra, nếu tranh chấp
có yếu tố quốc tế, thì các bên có quyền thoả thuận chọn tổ chức trọng tài, địa điểm, tiếng
dùng trong xét xử và luật áp dụng. Trong khi toà án Việt Nam chỉ có thể xét xử theo tiếng
Việt và luật Việt Nam.
Như vậy so với tòa án, các công việc đó do thẩm phán có thẩm quyền quyết định và
doanh nghiệp phải tuân theo thì hình thức trọng tài thương mại tạo cho các bên tranh
chấp có thể chủ động hơn.
Thứ năm, trọng tài thương mại mang tính bí mật: các phiên họp giải quyết tranh chấp của
trọng tài không được tổ chức công khai và chỉ có các bên nhận được quyết định. Đây là
một ưu điểm lớn của phương thức trọng tài khi các tranh chấp liên quan đến các bí mật
thương mại và phát minh. Việc bảo đảm bí mật của trọng tài cũng sẽ tránh cho các bên
nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có, trong khi đó việc xét xử
công khai tại toà thường làm cho các bên rơi vào thế đối đầu nhau và một bên được coi
như là người chiến thắng còn bên kia là thua cuộc.
Thứ sáu, giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài có thế giúp các
bên tiết kiệm được thời gian và chi phí hơn so với phương thức thông qua tòa án. Trọng
tài có thể tiến hành rất nhanh trong vòng vài tuần hoặc vài tháng nếu các bên mong
muốn. Trong hợp đồng với tổ chức trọng tài, các bên có thể thỏa thuận giới hạn thời gian
cần thiết để đưa ra quyết định trọng tài.
Các hạn chế của phương thức trọng tài thương mại:
Thứ nhất, các trọng tài viên có thể gặp khó khăn trong quá trình điều tra, xác minh và thu
thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng vì tuy pháp luật có ghi nhận các quyền này
tại Điều 45, Điều 46 và Điều 47 Luật trọng tài 2010 nhưng quyền của họ chỉ dừng lại ở
mức được “yêu cầu ” còn việc có cung cấp chứng cứ hay không phải dựa vào sự tự
nguyện và thiện chí của các bên và người làm chứng.

Thứ hai, trọng tài ad-hoc phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu một
bên không có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn, và nhiều khi
không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì không có quy tắc tố tụng nào được áp
dụng và không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành trọng tài và giám sát các Trọng tài
viên. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và khả năng kiểm
soát quá trình tố tụng của các Trọng tài viên. Cả Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ
hội nhận được sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng tài thường trực trong
trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các Trọng tài viên
6


không thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là từ
các Tòa án.
Thứ ba, hình thức trọng tài thường trực có nhược điểm là tốn kém nhiều chi phí. Rõ ràng
giải quyết tranh chấp tại Trọng tài quy chế, ngoài việc phải trả chi phí thù lao cho các
Trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm các chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ
của các trung tâm trọng tài. Ngoài ra trong một số trường hợp quá trình giải quyết tranh
chấp bị kéo dài mà Hội đồng Trọng tài các các bên bắt buộc phải tuân thủ vì phải tuân
theo các thời hạn theo quy định của Quy tắc tố tụng trọng tài làm giảm hiệu quả của việc
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
1.2. Khái quát về sự hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương
mại.
1.2.1.
Khái niệm hỗ trợ tư pháp
Theo Đại từ điển tiếng Việt, hỗ trợ có nghĩa là giúp đỡ lẫn nhau giúp thêm vào 2, tư
pháp là việc xem xét theo pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật 3. Từ hai khái niệm hỗ
trợ và tư pháp, ta có thể hiểu hỗ trợ tư pháp là việc giúp đỡ trong xét xử một vụ việc, một
hành vi vi phạm pháp luật, giúp cho quá trình xét xử được tiến hành một cách thuận tiện,
nhanh chóng và có hiệu quả.
Như vậy có thể hiểu hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại là việc hỗ

trợ cần thiết từ các cơ quan tư pháp bao gồm tòa án và cơ quan thi hành án cho hoạt động
giải quyết tranh chấp trong quá trình tố tụng của trọng tài, mang lại kết quả tốt nhất là
giải quyết thỏa đáng được các tranh chấp giữa các bên.
1.2.2.
Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của
trọng tài thương mại.
So với việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án, việc giải quyết tranh chấp
thương mại theo thủ tục trọng tài có nhiều ưu điểm như: giải quyết nhanh chóng, dứt
điểm các tranh chấp thương mại, đảm bảo được sự thỏa thuận và định đoạt của các đương
sự, quyết định của trọng tài là chung thẩm, không bị kháng nghị, kháng cáo; đảm bảo bí
mật và giữ uy tín cho các nhà kinh doanh… là tổ chức phi chính phủ, Trọng tài thương
mại ở tất cả các nước đều không mang trong mình quyền lực Nhà nước khi giải quyết
tranh chấp. Điều này tạo nên cho Trọng tài những thuận lợi về việc chủ động trong quá
2 Bộ giáo dục và đào tạo, trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa –Thông
tin, 1998, tr 835.
3 Bộ giáo dục và đào tạo, trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa –Thông
tin, 1998, tr 1756

7


trình tố tụng, giải quyết tranh chấp, tôn trọng và bảo đảm cho các bên quyền tự do định
đoạt tối đa về mọi lĩnh vực liên quan đến giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên cũng đặt ra cho
Trọng tài thương mại những khó khan khi không có sự đồng thuận, hợp tác thiện chí của
cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng như trong việc thi hành phán quyết
trọng tài. Trên thế giới mối quan hệ đặc trưng giữa Tòa án và Trọng tài là mối quan hệ hỗ
trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát của Tòa án mà Trọng tài tuy là tổ chức tài
phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động được một cách có hiệu quả. Việc thi hành án
vẫn có thể có tính cưỡng chế bằng cơ quant hi hành án thuộc cơ quan tư pháp. Việc thừa
nhận vai trò, trách nhiệm của Tòa án và cơ quan thi hành án trong hỗ trợ, giám sát hoạt

động tố tụng giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại là một bước tiếp sức cho
trọng tài, thể hiện quan điểm của nhà nước vè mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao
dịch thương mại.
1.2.3.
Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Cơ quan tư pháp
Theo quy định cùa Luật trọng tài thương mại 2010 thì hai cơ quan tư pháp có thẩm
quyền hỗ trợ đối với hoạt động của trọng tài thương mại là tòa án và cơ quan thi hành án;
gồm các hoạt động hỗ trợ như: áp dụng biện pháp khản cấp tạm thời, hỗ trợ đối với hội
đồng trọng tài do các bên thành lập, triệu tập nhân chứng, thu thập chứng cứ; xem xét
thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, xen xét
hủy quyết định Trọng tài và thi hành quyết định Trọng tài.
Sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước trong quá trình trọng tài là một vấn đề đã được
đề cập đến rất nhiều trong khoa học pháp lý. Xung quanh vấn đề này cũng có nhiều ý
kiến tranh cãi và tiếp cận dưới nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng thống nhất
với nhau ở khía cạnh : trọng tài không thể thoát ly khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Nhà
nước cần phải đóng một vai trò nhất định trong quá trình tố tụng trọng tài. Vấn đề là Nhà
nước sẽ tác động trọng tài đến đâu và liệu Nhà nước can thiệp một cách tích cực hay tiêu
cực vào trọng tài. Sự can thiệp của Nhà nước có thể tích cực nhưng cũng có thể tác động
không tốt đến trọng tài. Sự can thiệp đó sẽ là tích cực nếu Nhà nước quan tâm đến kết
quả trọng tài và can thiệp khi cần thiết nhằm giúp các bên tham gia trọng tài đạt được
mục đích trọng tài trên cơ sở công lý, công bằng. Sự can thiệp đó có thể là không tích cực
nếu nó nhằm chỉ để bảo vệ quyền lợi của một bên tham gia mà không công bằng đối với
tất cả các bên. Vai trò của Nhà nước là bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi chung và
quyền lợi riêng của các bên tham gia trọng tài. Chính vì vậy, sự cần thiết phải duy trì
“mối quan hệ lẫn nhau và năng động giữa mong muốn của các bên tham gia trọng tài và
8


quyền lợi của hệ thống pháp luật quốc gia trong việc bảo đảm công bằng cho quá trình
trọng tài và quyền lợi to lớn của quốc gia” là mối quan tâm của Luật trọng tài ở tất cả các

nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thực tế ở các nước cho thấy, sự hỗ trợ, can
thiệp của Nhà nước trong quá trình tố tụng trọng tài được thể hiện thông qua tòa
án, thông qua vai trò của tòa án trong quá trình tố tụng trọng tài.
1.2.3.1.
Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Tòa án
Là một Tổ chức phi chính phủ, Trọng tài thương mại ở tất cả các nước không mang
quyền lực Nhà nước khi giải quyết tranh chấp. Trên thực tế, trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp độc lập với Tòa án. Nhưng bản chất là phương thức tài phán tư, trọng tài
có những hạn chế nhất định về thẩm quyền và trong một số trường hợp cần thiết phải cần
đến sự hỗ trợ của Tòa án. Luật trọng tài thương mại 2010 đã xác lập vai trò hỗ trợ và
giám sát của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài. Tuy nhiên, nhằm bảo đảm tính độc
lập của trọng tài, Luật nhấn mạnh Tòa án chỉ hỗ trợ trọng tài trong các trường hợp cụ thể,
không can thiệp và quá trình tố tụng của Trọng tài. Phán quyết của trọng tài là chung
thẩm và có hiệu lực thi hành bắt buộc đối với các bên tranh chấp, nên sẽ ảnh hưởng tới
quyền và lợi ích của các bên nếu có sự vi phạm, không trung thực, sai sót từ phía trọng
tài. Vì vậy, cần có sự hỗ trợ cũng như giám sát từ phía Tòa án góp phần tăng tính khách
quan khi giải quyết tranh chấp.
Với Tòa án, trọng tài thương mại giúp chia sẻ gánh nặng giải quyết tranh chấp
thương mại. Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng phát triển và hội nhập vào nên kinh tế
phát triển năng động trên thế giới thì việc giao lưu kinh tế ngày càng nhiều, việc dẫn đến
tranh chấp ngày càng tăng là việc không thể tránh khỏi.
Theo thông lệ và tập quán thương mại của nhiều nước trên thế giới và quốc tế, xét
về bản chất, trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp dựa trên sự lựa chọn tự
nguyện của các bên tranh chấp. Bằng một Điều khoản trọng tài (trong hợp đồng kinh tế,
thương mại) hay bằng một Thỏa thuận trọng tài (lập ra sau khi tranh chấp đã phát sinh),
các bên tự nguyện đưa tranh chấp ra giải quyết bằng một cơ quan trọng tài (Ủy ban trọng
tài hoặc trọng tài viên) do các bên lựa chọn. Các bên tự thỏa thuận về phạm vi các tranh
chấp mà trọng tài được quyền giải quyết, thỏa thuận về luật áp dụng (luật nội dung và các
qui tắc tố tụng), thỏa thuận về tính chung thẩm và hiệu lực bắt buộc của phán quyết trọng
tài đối với các bên tranh chấp,… Như vậy, thẩm quyền của cơ quan trọng tài bắt nguồn từ

“quyền lực theo hợp đồng” hay “quyền lực đại diện” do các bên tranh chấp giao phó, ủy
nhiệm.
9


Tòa án là người đại diện của quyền lực Nhà nước (quyền tư pháp) để xét xử theo
pháp luật của Quốc gia các tranh chấp trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật cho phép.
Các bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực bắt buộc đối với mọi công dân, tổ chức có
liên quan và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Chính sự
khác biệt về nguồn gốc quyền lực của tòa án và trọng tài như đã phân tích ở trên đã đặt ra
ít nhất hai vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa hai loại cơ quan này trong việc đảm
bảo hiệu quả của trong tài, đó là :
Trong quá trình tố tụng trọng tài, theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, trọng
tài có quyền ra các quyết định có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp nhưng lại
không có quyền ra lệnh bắt buộc đối với bất kỳ bên thứ ba nào khác có liên quan
đến tranh chấp. Chính sự hạn chế về quyền lực này nên không phải lúc nào trọng tài cũng
có khả năng bảo đảm cho quá trình trọng tài diễn ra suôn sẻ, có hiệu quả (ví dụ: trọng tài
không thể bắt buộc nhân chứng, giám định viên tham gia phiên họp xét xử của trọng tài
nếu họ không tự nguyện,…). Sau khi có phán quyết của trọng tài về vụ tranh chấp, cho
dù các bên đã thỏa thuận rằng phán quyết trọng tài là chung thẩm và có giá trị bắt buộc
nhưng nếu một trong hai bên không tự nguyện thi hành thì trọng tài cũng không có quyền
và nghĩa vụ cưỡng chế thi hành phán quyết hay quyết định do chính mình ban hành.
Trong những trường hợp như vậy, hiệu quả của việc thi hành phán quyết trọng tài sẽ phụ
thuộc hoàn toàn vào mức độ hợp tác giữa tòa án và trọng tài, trong đó tòa án với quyền
lực Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, giúp đỡ trọng tài khi cần thiết.
Trong quá trình tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ có thể hoạt động trong phạm vi thẩm
quyền do các bên giao phó, cụ thể là trọng tài chỉ được giải quyết một số loại tranh chấp
nhất định và theo cách thức nhất định do các bên lựa chọn và thỏa thuận trong điều khoản
trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài. Nếu trọng tài vượt quá thẩm quyền được ủy nhiệm
hoặc không tuân thủ các nguyên tắc tố tụng trong thỏa thuận trọng tài, không thực hiện

đầy đủ, đúng đắn, khách quan, vô tư, công bằng trách nhiệm được các bên giao phó thì
theo nguyên tắc đại diện, các quyết định của trọng tài sẽ có thể bị chính các bên tranh
chấp yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, hủy bỏ, không công nhận và
không cho thi hành để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của họ và để thực thi công lý. Như
vậy, cũng như đối với mọi “quyền lực hợp đồng” hay “quyền lực đại diện” khác, ở đây
cần có một cơ chế kiểm tra, giám sát của quyền lực Nhà nước đối với trọng tài để bảo
đảm cho trọng tài ngay từ khi bắt đầu thành lập và trong suốt quá trình giải quyết tranh
chấp sẽ không vượt quá thẩm quyền được giao, sẽ thực hiện đúng đắn, vô tư, khách quan,
10


trung lập các trách nhiệm của mình, do đó hiệu lực của các quyết định trọng tài cũng sẽ
được bảo đảm, hiệu quả trọng tài được nâng cao. Đa số các quốc gia đều quy định Tòa án
chính là cơ quan đại diện cho quyền lực Nhà nước để thực hiện việc giám sát đối với
trọng tài.
Có thể nói, mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài trong quá trình tố tụng trọng tài
chính là thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ và giám sát quá trình tố tụng
trọng tài. Nội dung của mối quan hệ này luôn được công nhận và quy định ở trong luật về
trọng tài ở tất cả các nước trên thế giới, mặc dù có thể khác nhau ở góc độ này hoặc góc
độ khác. Bên cạnh đó, trong khi xử lý mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài cần phải đảm
bảo hai yêu cầu đặt ra là vừa phòng ngừa, hạn chế sự can thiệp không cần thiết của tòa án
vào quá trình trọng tài, vừa bảo đảm được vai trò hỗ trợ và kiểm tra giám sát cần thiết của
tòa án để nâng cao hiệu quả của tố tụng trọng tài. Tùy theo điều kiện, truyền thống pháp
luật, các học thuyết và quan điểm pháp lý về tố tụng trọng tài ở từng quốc gia mà quan hệ
giữa tòa án và trọng tài được thể chế hóa ở những mức độ khác nhau tại những văn bản
khác nhau nhưng thông thường là trong luật trọng tài, luật tố tụng dân sự hoặc tố tụng
thương mại của từng nước và trong các điều ước quốc tế về trọng tài.
Sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại đã tạo điều kiện
thuận lợi cho trọng tài thương mại, tránh bế tắc trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
trọng tài thương mại. Và đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động trọng tài, đảm bảo tính khả

thi của phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Qua đó góp phần tạo điều kiện tốt
cho thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển.
1.2.3.2. Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Cơ quan thi hành án
Theo quy định tại điều 8 của Luật TTTM, việc xác định Cơ quan thi hành án có
thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Hội đồng trọng tài được quy định như sau:
1. Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là Cơ quan thi
hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán
quyết.
2. Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài là Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng
Với sự hỗ trợ từ phía cơ quan tư pháp, phán quyết trọng tài được thi hành một
cách triệt để tạo điều kiện cho tranh chấp được giải quyết dứt điểm, tránh tình trạng một
11


bên kéo dài thời hạn thi hành án. Đây là một biện pháp đảm bảo phán quyết của trọng tài
sẽ được thi hành bởi cơ quan thi hành án trong trường hợp bên phải thi hành không tự
nguyện thi hành.
Nếu phán quyết trọng tài không bị tòa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của một trong
các bên, mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày
hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài, bên được thi hành phán quyết trọng tài có
quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng
tài.
Còn trong trường bên phải thi hành phán quyết trọng tài đã không tự nguyện thi hành
trong phán quyết trong thời hạn quy định mà bên được thi hành cũng không làm đơn yêu
cầu đến cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài thì pháp
luật về trọng tài cũng không đặt ra chế tài xử lý trong trường hợp này.Hơn nữa, trọng tài
thương mại là một chủ thể ra phán quyết nhưng là tổ chức phi chính phủ nên không có

một quyền cưỡng chế nhà nước. Mà chỉ tùy trong trường hợp, điều kiện cụ thể thì phán
quyết trọng tài được đảm bảo thi hành bởi cơ quan thi hành dân sự. Từ đó có thể khẳng
định rằng, pháp quyết trọng tài “có thể” được cưỡng chế thi hành nếu phán quyết này là
hợp pháp.
Kết luận: Với các mối quan hệ đặc thù với cơ quan tư pháp, trọng tài thương mại
phát huy được các yếu tố quan trọng của mình là một cơ quan tài phán tư. Dưới gốc độ
pháp lí, Tòa án và trọng tài thương mại là hai hình thức tài phán khác nhau, nhưng có
cùng một chức năng xét xử để giữ vững trật tự kinh doanh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho các bên. Còn việc thi hành quyết định của trọng tài thương mại là giai đoạn cuối cùng
của quá trình giải quyết tranh chấp, nếu công đoạn này không được thực hiện hoặc thực
hiện không phù hợp thì sẽ làm cho việc xét xử tranh chấp trở nên vô nghĩa. Nếu các bên
không tình nguyện thi hành quyết định của trọng tài thì sẽ có thể có sự cưỡng chế của của
cơ quan thi hành án- mang tính quyền lực Nhà nước, bảo đảm việc thi hành của các bên,
điều này làm cho việc thi hành quyết định của trọng tài thương mại mang tính bắt buộc
cao hơn.

12


CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI
2.1.
Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Để phân tích rõ sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại, trước
hết chúng ta cần phải xem xét khi có một tranh chấp thương mại được giải quyết bằng
con đường trọng tài thương mại thì tòa án nào có thẩm quyền hỗ trợ? Theo quy định tại
khoản 1 Điều 7 Luật Trọng tài thương mại 2010, nếu các bên đã có thỏa thuận lựa chọn
một tòa án cụ thể thì tòa án có thẩm quyền là tòa án mà các bên lựa chọn Trong trường
hợp các bên không có thỏa thuận thì Tòa án có thẩm quyền được xác định theo khoản 2

điều này như sau:
- Đối với việc chỉ định trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa
án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi
có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức. Trường hợp có nhiều bị đơn thì Tòa án
có thẩm quyền là tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của một trong các bị đơn đó.
Trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở tại nước ngoài thì tòa án có thẩm
quyền là tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn.
- Đối với việc thay đổi trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc thì tòa án có
thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp.
- Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu, thảo thuận trọng tài không thể thực hiện được, Thẩm
quyền cảu Hội đồng trọng tài thì tòa án có thẩm quyền là tòa án nơi Hội đồng
trọng tài ra quyết định.
- Đối với yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án có thẩm
quyền là tòa án nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng.
- Đối với yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì tòa án có thẩm quyền là tòa án nơi
có chứng cứ cần được thu thập.
- Đối với việc triệu tập người làm chứng thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư
trú của người làm chứng.
- Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng kí phán quyết trọng tài vụ việc thì
Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng
tài.

13


2.1.1.
Tòa án hỗ trợ trọng tài thương mại trong việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời.
- Thời điểm áp dụng: Bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời là mang tính nhanh

chóng, khẩn trương, kịp thời. Vì vậy, biện pháp này phải được áp dụng ngay khi một bên
thấy quyền lợi hợp pháp của mình có nguy cơ bị xâm phạm, không nhất thiết phải chờ
đợi đến khi khởi kiện hoặc Hội đồng trọng tài được thành lập.
- Về trách nhiệm của Tòa án khi từ chối áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Điều 48 Luật trọng tài có quy định "Trước hoặc sau khi khởi kiện tại trọng tài, nếu
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại,
các bên có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời".
Ngoài ra pháp luật về Trọng tài thương mại còn thiếu hướng dẫn về các vấn đề:
chuyển hồ sơ cho Tòa án như thế nào khi có yêu cầu hủy quyết định Trọng tài; Nguyên
tắc xác định khoản tiền bảo đảm mà người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
phải nộp; Yêu cầu áp dụng loại biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật Tố tụng dân sự
mà pháp lệnh không quy định.
- Về thẩm quyền của Hội động trọng tài áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Điều 48 Luật Trọng tài quy định rất rõ các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, có thể là Tòa án hoặc Hội đồng trọng tài tùy theo sự lựa chọn của các
bên tranh chấp, theo đó bên cạnh thẩm quyền đương nhiên của Tòa án, Hội đồng trọng tài
cũng có thẩm quyền yêu cầu các bên tranh chấp (và chỉ các bên đó mà thôi và không là
yêu cầu đối với cá nhân hay cơ quan khác) áp dụng sáu biện pháp khẩn cấp tạm thời như
được quy định. Đồng thời Điều 50 của Luật Trọng tài cũng buộc bên yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời chứng minh và chịu trách nhiệm về sự cần thiết áp dụng biện
pháp đó.
Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng thẩm quyền áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời cho cả hai cơ quan tài phán hiện nay, đó là, tòa án nhân dân cấp
tỉnh - thành phố trực thuộc trung ương và Hội đồng trọng tài đang giải quyết tranh chấp.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã giao thẩm quyền xem xét để áp dụng, thay
đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời cho Hội đồng trọng tài trong quá trình
giải quyết tranh chấp.
2.1.2.
Hỗ trợ của Tòa án đối với Hội đồng trọng tài do các bên thành
lập.


14


Nếu Hội đồng trọng tài đã xem xét và giải quyết khiếu nại của một bên về việc
Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; mà một trong các bên
đương sự không đồng ý giải quyết thì có quyền khởi kiện ra tòa án, để yêu cầu xem xét
lại yêu cầu quyết định của trọng tài. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nếu tòa án quyết định vụ
tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì các bên có quyền khởi
kiện ra tòa án có thẩm quyền để giải quyết theo thủ tục chung.
2.1.3.
Tòa án hỗ trợ trọng tài thương mại trong việc triệu tập nhân
chứng và thu thập chứng cứ.
Luật trọng tài thương mại 2010 không xác lập cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với
trọng tài trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Đây là quy định quan
trọng trong tố tụng trọng tài. Quá trình giải quyết tranh chấp không chỉ có các bên mà
nhiều trường hợp có liên quan đến người thứ ba hoặc bên thứ ba. Trong khi Tòa án có
thẩm quyền đương nhiên trong việc triệu tập các đối tượng này thì trọng tài lại không có
thẩm quyền. Vấn đề này, Luật Trọng tài các nước có quy định rất rõ Hội đồng trọng tài
hoặc một bên được sự đồng ý của Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền trợ giúp thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng có mặt tại trọng tài. Do không có
cơ chế hỗ trợ nêu trên, các luật sư và doanh nghiệp vẫn băn khoăn khi lựa chọn trọng tài
Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Do vậy, cần quy định cụ thể, chi tiết "trách nhiệm của
Tòa án" trong việc thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ về hình thức và nội dung yêu cầu
của trọng tài, cụ thể là trong thời hạn cụ thể mà Tòa án phải xem xét và chỉ định một
thẩm phán có trách nhiệm thu thập chứng cứ; Tòa án thông báo bằng văn bản về việc chỉ
định thẩm phán. Đặc biệt phải xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm sự
có mặt của người làm chứng, xác định rõ trình tự thủ tục nhanh chóng, thuận tiện trong
việc yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời.
2.1.4.

Tòa án hỗ trợ trong việc xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm
quyền xem xét đối với thẩm quyền giải quyết tranh chấp của hội đồng trọng tài.
Thẩm quyền giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể của hội đồng trọng tài là do thỏa thuận
trọng tài của các bên về việc hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh
chấp, vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, hội
đồng trọng tài phải xem xét quyết định vụ tranh chấp có thuộc thẩm quyền của mình hay
không. Nếu các bên không đồng ý với quyết định này của hội đồng trọng tài thì có quyền
yêu cầu Tòa án xem xét lại quyết định của hội đồng trọng tài. Theo điều 6 Luật trọng tài
thương mại 2010 thì “trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà
15


một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng
tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Đây là nỗ lực rất quan
trọng của tòa án đối với hoạt động trọng tài, thể hiện thái độ dứt khoát của Tòa án khi
không thụ lí vụ tranh chấp mà các bên thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên điều này cũng quy
định trường hợp các bên đã có thỏa thuân nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thảo
thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Tòa án vẫn có thẩm quyền giải quyết. Có thể
nói tòa án hỗ trợ trọng tài thương mại trong trường hợp này. Những thảo thuận trọng tài
vô hiệu được quy định tại Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010, vấn đề đặt ra ở đây là
ai có quyền tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu.Theo quy định tại điều 44 Luật Trọng
tài thương mại 2010 thì nếu các bên không đồng ý với quyết định của hội đồng trọng tài
quy định tại điều 43 thì các bên cso quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem
xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài và Tòa án có thể tuyên bố thảo thuận trọng tài
vô hiệu, quyết định của tòa án là cuối cùng và khi đó các bên có quyền khởi kiện vụ tranh
chấp ra tòa theo quy định tại Khoản 6 điều 44 Luật trọng tài thương mại 2010. Đây là sự
hỗ trợ lớn đối với Hội đồng trọng tài trong việc xem xét, kiểm tra lại quyết định của
mình. Thể hiện sự không thể tách rời của hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài
thương mại.
2.1.5.

Tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài.
2.1.5.1.

Khái quát về hủy phán quyết trọng tài.

Bản chất của việc hủy PQTT là PQTT đó sẽ bị hủy bỏ và không có hiệu lực thi
hành đối với các bên tranh chấp. Ý nghĩa tích cực của việc hủy PQTT thể hiện ở chỗ
việc hủy PQTT buộc tòa án phải cẩn trọng xem xét lại PQTT, xem xét kỹ đơn đề nghị
hủy, xem xét từng căn cứ hủy và nếu PQTT đã vi phạm pháp luật, tức là có đủ căn cứ để
tuyên hủy thì tòa án phải tuyên hủy PQTT. Tuy nhiên, việc hủy PQTT cũng có ý nghĩa
tiêu cực: Với những PQTT bị hủy bỏ toàn bộ, việc hủy bỏ PQTT sẽ có tác động tiêu cực
trước hết là đối với bên thắng kiện, cũng tức là bên mà khi PQTT được thực thi sẽ có lợi
cho họ, bởi vì điều mà họ chờ đợi khi PQTT được thi hành sẽ không còn và nếu muốn
bảo vệ quan điểm của mình thì họ lại phải bắt đầu một thủ tục mới kéo dài, tốn kém về
cả thời gian và công sức là khởi kiện ra tòa án và điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: phá vỡ chiến lược và kế hoạch kinh doanh, xáo
trộn về công việc, ách tắc về tài chính… uy tín và thương hiệu bị ảnh hưởng. Hủy PQTT
là một chế định đặc biệt trong pháp luật trọng tài. Đặc biệt vì dù nằm trong luật trọng tài
nhưng nó lại đưa ra các quy định liên quan đến tòa án theo hướng trao khá nhiều quyền
cho tòa án trong việc hủy PQTT: tòa án có thẩm quyền xem xét đơn yêu cầu hủy PQTT;
16


tòa án có thẩm quyền ra quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ PQTT; tòa án có quyền
trả lại PQTT để các TTV xem xét lại…Như vậy, chế định này đóng vai trò quan trọng
không thể thiếu và trở thành nội dung quan trọng của pháp luật trọng tài.
Nguyên nhân hủy phán quyết trọng tài:
Thứ nhất, do bất cập của pháp luật - Là một chế định của pháp luật về trọng tài, các
quy định của pháp luật về hủy PQTT được ban hành liên quan đến hiệu lực của PQTT,
căn cứ hủy PQTT, thủ tục hủy PQTT… và những quy định này được đặt trong mối quan

hệ mật thiết với các quy định về thẩm quyền của trọng tài và của HĐTT; các quy định về
hình thức và nội dung của TTTT; các quy định về TTTT vô hiệu; các quy định về quy
trình và tố tụng trọng tài…, do đó việc quy định không rõ ràng, không đầy đủ hay thiếu
cụ thể về những vấn đề này cũng sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng yêu cầu hủy
PQTT và cũng là nguyên nhân khiến cho tòa án dễ dàng tùy tiện hủy PQTT do việc xem
xét căn cứ hủy PQTT trở nên khó khăn trong thực tiễn áp dụng.
Thứ hai, do xung đột lợi ích của các bên tranh chấp- Trong thực tế, không ít trường
hợp bên thua kiện không tự nguyện thi hành PQTT, ngược lại, họ tìm mọi cách để yêu
cầu tòa án hủy PQTT với hy vọng rằng PQTT sẽ bị hủy và như vậy họ sẽ thoát khỏi việc
phải thi hành PQTT mà PQTT đó bất lợi cho mình.Tuy nhiên, vẫn có trường hợp bên
thắng kiện muốn hủy PQTT. Đó là khi mà họ không hài lòng với PQTT được tuyên vì
cho rằng lợi ích của mình vẫn chưa được bù đắp thỏa đáng theo quan điểm của họ so với
bên thua kiện. Cuối cùng, cũng không loại trừ trường hợp cả hai bên, cả bên thắng và
bên thua đều không thỏa mãn với PQTT và do đó, cả hai bên đều tìm cách để hủy PQTT
với hy vọng tìm kiếm một cơ chế bảo vệ tốt hơn lợi ích của mình.
Như vậy, chính sự xung đột về lợi ích của các bên tranh chấp là một trong những
nguyên nhân phổ biến dẫn đến tình trạng yêu cầu hủy PQTT.
Thứ ba, do năng lực chuyên môn của thẩm phán và trọng tài viên- Về năng lực
chuyên môn của TTV. Hiện nay, nội dung, hình thức cũng như chất lượng của PQTT
phụ thuộc vào trình độ, sự hiểu biết, kỹ năng cũng như năng lực của TTV. Một cách tổng
quan nhất, năng lực chuyên môn của TTV được đánh giá thông qua các tiêu chuẩn nhất
định, như tiêu chuẩn về đạo đức, tiêu chuẩn về trình độ và kỹ năng, tiêu chuẩn về kinh
nghiệm. Điều này đặt ra yêu cầu là TTV phải đáp ứng các tiêu chuẩn để làm TTV. Như
vậy, nếu TTV không đáp ứng tiêu chuẩn về đạo đức, về tính độc lập, vô tư của TTV
hoặc không thực hiện nghĩa vụ giải trình để chứng minh về sự vô tư của mình thì đây
cũng là một nguyên nhân dẫn đến hủy PQTT và là nguyên nhân chủ quan do bản thân
TTV gây ra.
17



Năng lực chuyên môn của thẩm phán cũng là một trong những nguyên nhân của hủy
PQTT, bởi vì nếu các thẩm phán không am hiểu về trọng tài, pháp luật về trọng tài và
đặc thù của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài thì việc hủy PQTT có thể sẽ được
xem xét một cách không thỏa đáng.
Bên cạnh đó, khi bên bị thua kiện trong PQTT cố tình tìm cách để yêu cầu hủy PQTT
đối với những PQTT bất lợi cho họ bị hủy, họ sẽ tìm mọi cách tiếp cận với thẩm phán
và có thể sử dụng cả nghệ thuật “đi đêm”, điều này cũng sẽ đẩy các thẩm phán vào tình
trạng “khó” và từ đó ảnh hưởng đến việc ra quyết định hủy PQTT. Ngoài ra, có một vấn
đề liên quan đến nguyên nhân chủ quan, đó là về nhận thức của thẩm phán. Ví dụ, ở
Việt Nam vẫn tồn tại tình trạng là thẩm phán không thiện chí với trọng tài, không thiện
chí với HĐTT, với các TTV vì cho rằng trọng tài ra đời sẽ cản trở việc giải quyết tranh
chấp tại tòa án, đặc biệt là tranh chấp trong KDTM và do đó trong tư duy và nhận thức
của thẩm phán thiên về hủy PQTT hơn là phải xem xét để nó không bị hủy.
Căn cứ hủy phán quyết trọng tài thương mại bao gồm:
Thứ nhất, Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Thứ hai, Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, phán quyết trọng
tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Căn cứ này được quy
định tại điểm c khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010. Tuy nhiên, Luật TTTM 2010 không
hướng dẫn cụ thể những tranh chấp như thế nào sẽ không thuộc thẩm quyền của HĐTT.
Kiến nghị:
Cần phải sửa lại Nghị quyết 01/2014 theo hướng loại bỏ sự “dẫn chiếu qua lại”, thay vào
đó là nên đưa ra hướng dẫn cụ thể bằng cách chỉ rõ những trường hợp như thế nào được
coi là không thuộc thẩm quyền của trọng tài, của HĐTT.
Thứ ba, Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với
thỏa thuận của các bên hoặc trái quy định của pháp luật. Căn cứ này được quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 và được giải thích cụ thể tại điểm b khoản 2
Điều 14 Nghị quyết 01/2014. Theo đó, PQTT bị hủy trong trường hợp các bên có thỏa
thuận về thành phần HĐTT, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng HĐTT thực hiện không
đúng thỏa thuận của các bên hoặc HĐTT thực hiện không đúng quy định Luật TTTM
2010 mà tòa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu HĐTT

không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của tòa án.
Vấn đề đặt ra là thế nào là vi phạm nghiêm trọng? Quy định hiện hành không có
sự giải thích rõ ràng và việc xem xét đến tính nghiêm trọng của sự vi phạm sẽ thuộc thẩm
quyền của tòa án. Điều này sẽ cho phép tòa án được “tự do” xác định, nếu tòa án “xét
thấy” vi phạm đó là nghiêm trọng thì đó sẽ là “vi phạm nghiêm trọng” mà không có
18


một căn cứ “trực quan” nào nên cũng sẽ dễ tạo cơ sở để tòa án có thể lạm quyền.
Kiến nghị:
Từ những phân tích này, tác giả đề xuất giải pháp sửa đổi Luật TTTM 2010 và
kiến nghị bổ sung vào điểm b khoản 2 Điều 68 nội dung cụ thể như sau: “Nếu thành
phần của HĐTT được thực hiện phù hợp với thỏa thuận của các bên nhưng trái với quy
định của Luật TTTM 2010 (tức TTTT trái với quy định của pháp luật) và điều này có ảnh
hưởng tới PQTT thì đây là căn cứ để hủy PQTT”.4
Thứ tư, Thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên
hoặc trái quy định của Luật Trọng tài thương mại. Căn cứ này được quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010. Một số thủ tục tố tụng trọng tài thường bị vi phạm
trong thực tế và là căn cứ để PQTT phổ biến hiện nay có thể kể đến như: thông báo của
HĐTT gửi cho bị đơn không phải là giấy triệu tập hay việc tống đạt văn bản của HĐTT
bị tòa án cho là “chưa hợp lệ”; việc triệu tập người làm chứng tham gia tố tụng trọng
tài; việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng tố tụng… Thông
qua việc phân tích một số vụ việc thực tiễn có liên quan đến hủy PQTT do thủ tục tố
tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận các bên hoặc trái luật, Luận án cũng đã
phần nào làm rõ hơn thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về vấn đề này cũng như
phân tích một số nguyên nhân của tình trạng này trong thực tế.
Thứ năm, chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó
để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết
trọng tài. Căn cứ này được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 và

được hướng dẫn cụ thể tại điểm d khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014. Theo đó, nếu
“chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết
là giả mạo” thì đây sẽ là căn cứ để tòa án hủy PQTT.
Từ quy định trên của pháp luật hiện hành, nhận thấy, tòa án chỉ huỷ PQTT dựa trên
căn cứ liên quan đến “chứng cứ giả mạo” nếu có đủ hai điều kiện.
Điều kiện 1: Có “chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó”.
Điều kiện 2: Chứng cứ đó phải có liên quan đến việc ra phán quyết, có ảnh
hưởng đến tính khách quan, công bằng của PQTT.
Tuy nhiên, có thể thấy, để chứng cứ đang bị xem xét tính giả mạo có thể ảnh
hưởng đến tính khách quan, công bằng của PQTT thì đương nhiên chứng cứ đó phải “có
4 Phan Thông Anh, Luật án tiến sỹ - ĐH Luật TP. HCM, Hủy phán quyết trọng tài, 2016, trang 16.

19


liên quan đến” việc ra phán quyết. Do đó, ở điều kiện 2 này, Nghị quyết 01/2014 không cần
thiết phải sử dụng thêm cụm từ “… có liên quan đến việc ra phán quyết trọng tài…” để
làm dài dòng và rắc rối về mặt hành văn của điều luật. Việc ghi nhận trường hợp hủy
PQTT do sử dụng chứng cứ giả mạo của pháp luật Việt Nam là cần thiết vì quy định
này cho phép tòa án kiểm tra lại tính xác thực và đúng đắn của các chứng cứ mà HĐTT
dựa vào để ra PQTT. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần có các “chuẩn mực nghiêm ngặt
hơn” cho việc hủy bỏ một PQTT dựa trên cơ sở của chứng cứ giả mạo nhằm đảm bảo
“các lập luận đó không trở thành biện pháp cửa hậu cho việc công kích nội dung lập
luận của Trọng tài và phán quyết”5
Căn cứ này cũng được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010,
theo đó PQTT sẽ bị hủy nếu “Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của
phán quyết trọng tài”. Căn cứ này cũng được ghi nhận trong pháp luật của nhiều nước
trên thế giới.
Theo quy định trên, căn cứ hủy PQTT này yêu cầu phải đáp ứng đủ 3 điều

kiện.
Điều kiện 1: Đối tượng mà TTV nhận từ các bên chỉ là “tiền”, “tài sản” và
“lợi ích vật chất khác”.
Điều kiện 2: Chủ thể mang đến các lợi ích trên cho TTV là “một bên tranh
chấp”.
Điều kiện 3: Việc thực hiện hành vi hối lộ phải dẫn đến hệ quả là “làm ảnh
hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài”.
Tuy nhiên, 03 điều kiện theo quy định trên lại chưa toàn diện. Quy định tại
điểm d khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 nên được sửa đổi như sau: “Trọng tài viên
nhận lợi ích làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng
tài”.6
Thứ sáu, phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.Căn
cứ này được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010, theo đó PQTT sẽ bị
hủy nếu PQTT đó “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Quy định hiện hành về “thế nào là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”
cũng như “thế nào là xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của một hoặc các bên, của người thứ ba” vẫn còn khá mơ hồ, thiếu cụ thể dẫn đến
5 Gary B. Born (2009), International commercial arbitration, tlđd, tr. 2633.
6 Phan Thông Anh, Luật án tiến sỹ - ĐH Luật TP. HCM, Hủy phán quyết trọng tài, 2016, trang 18.

20


trong thực tiễn áp dụng pháp luật, các tòa án khác nhau đưa ra những lập luận khác nhau về
căn cứ này để dựa vào đó hủy PQTT. Cần bổ sung vào Nghị quyết 01/2014 các quy định
giải thích rõ thế nào là nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây
dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam. Đồng thời, nên đưa ra một số tiêu chí minh bạch
để xác định một nguyên tắc có cơ bản hay không, có hiệu lực bao trùm đối với việc xây
dựng và thực hiện pháp luật.7
- Bổ sung quy định hướng dẫn cách hiểu về “xâm phạm nghiêm trọng”.

- Nên thay thế cụm từ “người thứ ba” trong quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 14 của
Nghị quyết 01/2014 thành “cá nhân, cơ quan, tổ chức khác”.
- Nên thay thế cụm từ “phải xác định được” trong quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 14
của Nghị quyết 01/2014 thành cụm từ “phải xem xét” để phù hợp tính chất hành vi mà
tòa án sẽ thực hiện ở giai đoạn này.
- Nên sửa quy định PQTT “trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” thành
“trái với lợi ích công cộng” như cách quy định của Pháp lệnh TTTM 2003.
2.1.5.2. Phạm vi thẩm quyền của Toà án trong giải quyết yêu cầu huỷ
phán quyết trọng tài
Khoản 4 Điều 71 Luật TTTM 2010 và khoản 2 Điều 15 Nghị quyết 01/2014 quy
định về phạm vi Toà án được xem xét lại đối với PQTT. Thiết nghĩ, cần giải thích rõ hơn
nghĩa của từ “nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết” theo hướng
sau: Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp để đưa
ra quyết định về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên mà chỉ kiểm tra phán quyết trọng tài
có thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 hay
không.
Trình tự thủ tục hủy phán quyết trọng tài.
Liên quan đến vấn đề nhận đơn yêu cầu hủy PQTT thì không thể không nhắc
đến trường hợp bị trả lại đơn yêu cầu và yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu. Nội
dung này cũng không được pháp luật TTTM quy định. Khoản 1 Điều 364 BLTTDS
2015 đã quy định về các trường hợp trả lại đơn yêu cầu là hợp lý và phù hợp để áp
dụng đối với việc dân sự nói chung và Luật TTTM 2010 nên quy định các trường
hợp cụ thể như BLTTDS về trả lại đơn yêu cầu hủy PQTT.
Về vấn đề thụ lý đơn yêu cầu và chỉ định Hội đồng xét đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài
BLTTDS 2004 không có quy định về việc thụ lý đơn yêu cầu mà chỉ quy
7 Phan Thông Anh, Luật án tiến sỹ - ĐH Luật TP. HCM, Hủy phán quyết trọng tài, 2016, trang 19.

21



định về thủ tục thụ lý vụ án dân sự. Tuy nhiên, BLTTDS 2015 đã có quy định bổ sung
về vấn đề này.
- Phương thức thông báo thụ lý đơn yêu cầu của Toà án: Pháp luật TTTM chưa
có quy định về vấn đề này. Ở đây, nên quy định cụ thể hình thức phải thực hiện trong
trường hợp trên bằng văn bản nhằm đảm bảo sự áp dụng pháp luật một cách thống nhất
giữa các Tòa, tránh sự tùy tiện dẫn đến những hệ quả pháp lý không mong muốn có thể
xảy ra.
- Về thời hạn chỉ định Hội đồng xét đơn yêu cầu và thông báo thụ lý đơn yêu
cầu, thiết nghĩ, Luật TTTM 2010 nên theo hướng quy định của BLTTDS 2015 là giới
hạn khoảng thời gian tối đa Tòa án phải thông báo cho các chủ thể có liên quan.
- Nội dung của thông báo thụ lý đơn yêu cầu: Luật TTTM 2010 chỉ quy định
Tòa án phải thông báo mà không cho biết phải thông báo về việc gì và nội dung của
thông báo gồm những vấn đề gì. Pháp luật TTTM nên quy định kèm theo thông báo về
việc thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải gửi bản sao các tài liệu, chứng cứ do người yêu
cầu cung cấp để trên cơ sở đó các chủ thể mới có thể thực hiện được quyền của mình là
đưa “ý kiến” đối với yêu cầu hủy PQTT của bên yêu cầu.
Về trình tự, thủ tục tòa án chuẩn bị xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Theo quy định tại khoản 2 Điều 71 Luật TTTM 2010 thì trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày được chỉ định, Hội đồng xét đơn yêu cầu phải mở phiên họp để xét
đơn yêu cầu hủy PQTT. Thiết nghĩ, khoảng thời gian quy định nêu trên là hợp lý
nhưng trong thực tế, Tòa án lại áp dụng chưa đúng quy định trên. Nguyên nhân của
thực trạng này không xuất phát từ quy định của pháp luật mà từ thực tế quản lý và áp
dụng pháp luật của cơ quan xét xử. Do đó, để khắc phục, cần có chế tài cụ thể nếu cơ
quan xét xử không thực thi đúng quy định của pháp luật cũng như cần hoàn thiện lại
hệ thống quản lý trong nội bộ cơ quan xét xử đó.
2.1.6. Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài trong việc triệu tập người làm chứng,
thu thập chứng cứ.
Theo quy định của pháp luật thì Hội đồng trọng tài có quyền thu thập chứng cứ,
các bên có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Hội đồng trọng tài để chứng minh

các sự việc có nội dung lien quan tới vấn đề đang tranh chấp. Trong trường hợp Hội
đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng
cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể gửi văn bản đề nghị Tòa án có
thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được,
nhìn được hoặc bằng hiện vật khác lien quan tới vụ tranh chấp (Khoản 5 Điều 46).
Chánh án Tòa án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu
22


thu thập chứng cứ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm
phán phải có văn bản yêu cầu cơ quan, cá nhân, tổ chức cung cấp. Trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được chứng cứ, Tòa án phải thông báo cho Hội đồng
tọng tài, bên yêu cầu biết để tiến hành việc giao nhận chứng cứ.8
Ngoài ra, Tòa án cũng có thể ra quyết định triệu tập người làm chứng liên quan
đến vụ tranh chấp theo yêu cầu của Hội đồng trọng tài 9. Việc pháp luật quy định cho
phép Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu
tập người làm chứng đảm bảo sự có mặt của người làm chứng trong trường hợp cần thiết
nhằm làm sáng tỏ vụ việc. Sự hỗ trợ của Tòa án trong việc triệu tập người làm chứng thể
hiện ở chỗ, bằng quyền lực cũng như những công cụ cưỡng chế của mình, Việc tòa án ra
quyết định triệu tập người làm chứng sẽ được người làm chứng thực hiện một cách
nghiêm minh hơn, góp phần làm cho hoạt động, cũng như phán quyết của hội đồng
trọng tài được chuẩn xác hơn, hoạt động của trọng tài được thực hiện một cách thuận lợi
hơn.
Việc pháp luật quy định Hội đồng trọng tài không thể thu thập được chứng cứ có
thể gửi văn bản đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ
tranh chấp được nhanh chóng và chính xác. Tòa án, với tư cách là cơ sở quyền lực của
Nhà nước, là cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước và có quyền nhân danh Nhà nước khi
cần thiết thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng sẽ thuận
lợi hơn, các cá nhân tổ chức lien quan chấp hành yêu cầu về thu thập chứng cứ nhanh
chóng hơn.

2.2.
Sự hỗ trợ của cơ quan thi hành án đối với hoạt động của trọng tài
thương mại.
2.2.1.
Sự hỗ trợ của cơ quan thi hành án trong việc thi hành phán
quyết trọng tài.
2.2.2.

Trình tự, thủ tục thi hành phán quyết trọng tài.

8 Khoản 6, Điều 46, Luật Trọng tài thương mại 2010.
9 Khoản 2, 3, Điều 47, Luật trọng tài thương mại 2010

23


CHƯƠNG III THỰC TẾ THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ TƯ PHÁP
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
3.1.

Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật của trọng tài thương

mại.
Trọng tài đang dần dần được doanh nghiệp Việt Nam sử dụng trong hoạt động
thương mại. Tuy nhiên, do lịch sử cũng như do nhận thức, trọng tài chưa có một vai trò
đúng như nó cần phải có. Mấy chục năm qua, do ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp đã không quan tâm đến trọng tài. Nhiều doanh
nghiệp không phân biệt được sự khác nhau giữa trọng tài kinh tế (Nhà nước) với trọng tài
phi Chính phủ, không tín nhiệm trọng tài vì thiếu hiệu lực cưỡng chế quyết định trọng tài.

Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp không "mặn mà" với trọng tài.
Tại Việt Nam hiện nay, cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt động của trọng tài thương mại
được tạo thành bởi quy định trong các văn bản sau đây:
1.Quyết định 264/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức Trung
tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam.
2.Nghị định 16/NĐ-CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
trọng tài kinh tế.
2.Quyết định 114/TTg ngày 16/02/1996 của Thủ tướng Chính phủ về mở rộng thẩm
quyền cho trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
3.Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành các Quyết định của Trọng tài
nước ngoài mà Việt Nam là thành viên, nội dung cơ bản của công ước đã được luật hóa
tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
4.Bộ luật Dân sự năm 2005
5. Bộ luật tố tụng Dân sự được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/06/2004 có hiệu
lực từ ngày 01/01/2005 (Phần thứ năm: Chương XXV thủ tục giải quyết các việc dân sự
liên quan đến hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam; Phần thứ sau: Chương XXI thủ
tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước
ngoài).
6. Luật thương mại 2005 được Quốc hội khóa XI ngày 14/05/2005 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2006, quy định việc giải quyết tranh chấp với hình thức trọng tài tại
Điều 317.
24


7.Pháp lệnh Thi hành án dân sự số 13/2004/PL-UBTVQH11 được Ủy ban thường vụ
quốc hội thông qua ngày 14/01/2004 có hiệu lực từ ngày 01/07/2004, trong đó, có quy
định về tổ chức thủ tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt
Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam và quyết định của Trọng tài Thương mại
Việt Nam.
8. Pháp lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH11 được UBTVQH khóa

XI thông qua ngày 25/02/2005 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2003.
9. Nghị quyết số 05/2003/ HĐTP/TANDTC của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao ngày 31/07/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định Pháp lệnh Trọng tài Thương
mại 2003.
10.Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 5/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.
11.Luật trọng tài thương mại năm 2010
12.Bộ luật dân sự 2015
13.Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Sau 06 năm thi hành Luật Trọng tài thương mại (TTTM), nhận thức của các cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp về vai trò, tính hiệu quả của hoạt động trong tài đã được nâng lên một
bước mới trên một tư duy mới, từ đó đã có sự chuyển biến cơ bản trong hành động, sự
quan tâm và hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức đối với tổ chức và hoạt động trọng tài ở nước
ta. Thể chế về TTTM cơ bản đã được hoàn thiện; chất lượng đội ngũ trọng tài viên ngày
càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu thực tiễn; hoạt động trọng tài đã có bước khởi sắc,
số lượng vụ, việc được giải quyết bằng trọng tài đang có xu hướng tăng, loại tranh chấp
được Trung tâm trọng tài giải quyết cũng đa dạng hơn; công tác quản lý nhà nước về
trọng tài thương mại cũng thu được những kết quả khích lệ. Việc giải quyết tranh chấp
bằng phương thức trọng tài được đánh giá là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa
án thuận tiện, thủ tục linh hoạt, nhanh chóng; có tính chung thẩm; giữ được bí mật kinh
doanh cũng như uy tín trên thương trường, đồng thời tiết kiệm thời gian cho các bên
tranh chấp hơn so với việc giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án 10. Trọng tài thương
mại từ lâu đã là một phương thức phổ biến trên thế giới dùng để giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các doanh nghiệp, tổ chức với nhau. Một số
Tòa án nhận thức trọng tài là một phương thức hỗ trợ đắc lực cho Tòa án để giảm tải số
lượng các tranh chấp thương mại. Ngược lại, có một số Tòa án lại giành cả việc xét xử
10 Phan Hồng Nguyên, Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài bằng trọng tại tại Việt Nam”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012, trang 26.

25



×