Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tác phẩm kinh điển CHỦ NGHĨA đế QUỐC là GIAI đoạn tột CÙNG của CHỦ NGHĨA tư bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.69 KB, 20 trang )

ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN VỀ ĐỘC QUYỀN CỦA LÊNIN TRONG TÁC PHẨM
“CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC LÀ GIAI ĐOẠN TỘT CÙNG CỦA CHỦ NGHĨA
TƯ BẢN”
MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển từ giản đơn đến phức tạp, xã hội tư bản trải qua
hai giai đoạn cơ bản: Giai đoạn đầu tiên gọi là giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh giai đoạn này đã được C. Mác- Ăngghen nghiên cứu một cách
toàn diện, chỉ ra được các quy luật kinh tế tư bản của chủ nghĩa tư bản, trong
giai đoạn này đã bắt đầu xuất hiện mầm móng của độc quyền. Đến cuối thế kỷ
XIX, sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873, chủ nghĩa tư bản đã phát triển
sang một giai đoạn mới, giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển
sang thành chủ nghĩa tư bản độc quyền; chủ nghĩa đế quốc.
Và Lênin vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác và điều kiện lịch sử
mới, phân tích một cách khoa học về những hiện tượng trong giai đoạn phát
triển mới của chủ nghĩa tư bản, đồng thời tìm ra đẳng cấp, hiện tượng mới nảy
sinh và rút ra những kết luận quan trọng có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực
tiễn. Trong tác phẩm thiên tài “chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ
nghĩa tư bản” lênin là người đầu tiên phân tích, chứng minh chỉ ra những
nguyên nhân dẫn đến sự chuyển biến chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do thành
chủ nghĩa tư bản độc quyền, chỉ ra những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa tư bản độc quyền, và độc quyền là đặc trưng nhất, nổi bật nhất của chủ
nghĩa đế quốc. Lênin viết: “Ta thấy rõ rằng khi phát triển đến mức độ nhất
định, thì có thể nói, sự tập trung tự nó sẽ dẫn thẳng đến đốc quyền. Vì vài
chúc xí nghiệp khổng lổ có thể dễ dàng thoả thuận với nhau; mặt khác chính
quy mô to lớn của các xí nghiệp làm cho cạnh tranh ngày càng khó khăn và
làm nảy sinh ra khuynh hướng đi đến độc quyền. Sự cạnh tranh biến thành


độc quyền, đó là một trong những hiện tượng quan trọng nhất. Nhưng không
phải bất cứ ngành công nghiệp nào cũng có những xí nghiệp lớn; mặt khác
khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến tột mức, thì có một đặc điểm cực kỳ trọng


yếu mà người ta gọi là chế độ liên hợp hoá, nghĩa là sự tập hợp vào trong tay
một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp khác nhau”.

(trang 25. V.I. Lê-nin,

Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Trong học thuyết tích luỹ tư bản, Mác đã khái quát những nội dung cơ bản
sau tích luỹ tư bản gắn liền với tái sản xuất mở rộng, mặt khác nó gắn liền với
quá trình thay đổi cấu thành hữu cơ (C/ V) dẫn đến quy mô sản xuất mở rộng
mang lại thất nghiệp cao. Vì quá trình tích tụ và tập trung tư bản tái sản xuất
mở rộng ngày càng tăng và nó trở thành một tất yếu kinh tế, vì đây là sự đòi
hỏi khách quan của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, quá trình cách
mạng ấy đòi hỏi các nhà tư bản phát triển ứng dụng khoa học công nghệ để
thu thêm lợi nhuận siêu ngạch trong quá trình kinh doanh, khách quan của
cạnh tranh dẫn đến quy mô sản xuất tăng lên một cách nhanh chóng, quá trình
cạnh tranh một cách gay gắt đưa đến quá trình tích tụ và tập trung tư bản diễn
ra một cách mạnh mẽ hơn làm cho quá trình cạnh tranh gay gắt hơn, từ quá
trình cạnh tranh đó đưa đến các nhà tư bản lớn thoả hiệp với nhau và các nhà
tư bản vừa và nhỏ bị thôn tính hoặc sát nhập thành những nhà tư bản lớn. Lênin viết: << liên hợp hoá Hin-phéc-dinh viết san bằng những sự lên xuống
trên thị trường và do đó, bảo đảm cho xí nghiệp liên hợp có một tỷ suất lợi
nhuận ổn định hơn. Hai là, chế độ liên hợp hoá dẫn đến chỗ loại trừ được
thương nghiệp. Ba là, nó cho phép thực hiện được những sự cải tiến kỹ thuật
và, do đó, so với xí nghiệp “đơn thuận” không liên hợp, nó cho phép kiếm
thêm được lợi nhuận. Bốn là, so với xí nghiệp “đơn thuận”, chế độ liên hợp
hoá củng cố được địa vị của xí nghiệp liên hợp trong cuộc cạnh tranh lúc đó


tình trạng tiêu biểu nặng (kinh doanh bị định đốn, khủng hoảng), khi giá cả
những chế phẩm sụt nhanh hơn giá nguyên liệu>>.


(trang 26. V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế

quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Mặt khác do khủng hoảng kinh tế làm phá sản các xí nghiệp vừa và nhỏ để
chống khủng hoảng, các xí nghiệp cần đổi mới kỹ thuật vào sản xuất, để nâng
cao năng suất lao động và thoát khỏi khủng hoảng thì phải hợp tác tập trung
vấn đề mua khoa học kỹ thuật công nghệ để cạnh tranh với các xí nghiệp tư
bản lớn, do đó thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản, những xí nghiệp
và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh tranh với nhau vô cùng
khốc liệt, khó khăn phức tạp, vì thế này sinh xu hướng thoả hiệp từ đó hình
thành các tổ chức độc quyền. Lê nin viết: “Độc quyền chiếm đoạt những lực
lượng công nhân có chuyên môn và thuê các kỹ sư giỏi nhất; họ nắm lấy
những con đường và những phương tiện giao thông. Trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản tiến sát tới chỗ xã hội hoá việc sản xuất một cách
toàn diện nhất, có thể nói là chủ nghĩa tư bản bất chấp ý thức và ý chí của bọn
tư bản, đã đưa chúng vào một trật tự xã hội mới nào đó, trật tự này là bước
quá độ từ chỗ hoàn toàn tự do cạnh tranh đến chỗ hoàn toàn xã hội hoá.

(trang

39, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
1975)”.

“Thời kỳ trước 1860 có thể cho ta vài ví dụ về các tổ chức độc quyền tư

bản chủ nghĩa, trong đó người ta có thể tìm ra được những mầm mống của các
hình thức hiện nay đã trở nên rất quen thuộc; nhưng tất cả những cái đó chắc
chắn là thuộc về tiền sử của những các-ten. Thời kỳ bắt đầu thật sự của các tổ

chức độc quyền hiện đại sớm nhất là vào khoảng những năm 1860. Thời kỳ
bắt quan trọng đầu tiên trong sự phát triển của các tổ chức đó bắt đầu cùng
với thời kỳ tiêu biểu của công nghiệp toàn thế giới vào những năm 1870 và
kéo dài đến thời kỳ đầu những năm 1890. Một cuộc chuyển biến lớn bắt đầu
từ sự phá sản năm 1873, hay nói cho đúng hơn từ thời kỳ tiêu biểu tiếp sau sự


phá sản đó”. (trang 31. V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB
Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Cạnh tranh dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất dẫn đến hình thành các tổ
chức độc quyền, là kết quả của việc xã hội hoá sản xuất tiến trên một bước
lớn trong đó có cả quá trình phát minh và cải tiến kỹ thuật cũng được xã hội
hoá. Điều đó hoàn toàn không còn giống trong tình trạng tự do cạnh tranh của
những người chủ phân tán, không biết gì nhau và sản xuất để bán trên một thị
trường mà họ chưa hề biết tới. Sự tập trung đã lên đến mức độ khiến có thể
kiểm kê được gần đúng tất cả các nguồn nguyên liệu, vật liệu trong một nước
và thậm chí cả trong nhiều nước hay trên toàn thế giới. Sản xuất trở nên có
tính chất xã hội nhưng chiếm hữu vẫn mang tính chất tư nhân, các tư liệu sản
xuất xã hội vẫn là sở hữu tư nhân của một số ít người. Khuôn khổ chung của
cạnh tranh tự do về danh nghĩa vẫn còn được thừa nhận sự xuất hiện của các
tổ chức độc quyền không thủ tiêu cạnh tranh nói chung. Độc quyền và cạnh
tranh song song và thống nhất với nhau một cách biện chứng trong thời đại
chủ nghĩa đế quốc, tính chất cạnh tranh đã thay đổi căn bản. Đó là cạnh tranh
khốc liệt của các tổ chức độc quyền lớn trong nội bộ ngành, giữa các ngành
trong một quốc gia tư bản chủ nghĩa, giữa các quốc gia tư bản chủ nghĩa với
nhau. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa các loại cạnh tranh: cạnh tranh giữa
các tổ chức độc quyền và các xí nghiệp độc quyền, tất cả các cuộc cạnh tranh
này là sự phá sản của các xí nghiệp ngoài độc quyền, các tổ chức độc quyền
ngày càng chiếm đoạt nhiều nguồn nguyên liệu quan trọng nhất, ngày càng

tăng cường quyền lực kinh tế làm cho sự đối kháng giữa độc quyền hoá và
công nghiệp ngoài tổ chức độc quyền ngày càng trở nên quyết liệt. Đây là loại
cạnh tranh cơ bản nhất, khối liệt nhất. Lê nin viết: “cạnh tranh biến thành độc
quyền, kết quả là việc xã hội hoá sản xuất tiến một bước lớn, trong đó cả quá
trình phát minh và cải tiến kỹ thuật cũng được xã hội hoá. Điều đó hoàn toàn


không còn giống tình trạng tự do cạnh tranh cũ giữa những chủ phân tán,
không biết gì nhau và sản xuất để bán trên thị trường mà họ chưa hề biết tới.
Sự tập trung đã lên đến mức độ khiến có thể kiểm kê được gần đúng tất cả các
nguồn nguyên vật liệu (như những nơi có mỏ sắt chẳng hạn) trong một nước,
và thậm chí, như dưới đây chúng ta sẽ thấy, cả trong nhiều nước hay trên toàn
thế giới nữa”.

(trang 39, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản.

NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau bằng nhiều hình thức, các
nhà tư bản tham gia Các Ten, Xanh đi ca... cạnh tranh với nhau để giành thị
trường sản xuất độc quyền tiêu thụ có lợi nhuận hơn các thành viên Tơ Rớt,
Công-Xoóc-Xi-om, cạnh tranh với nhau số cổ phiếu từ đó chiếm vị trí lãnh
đạo và phân chia lợi nhuận cao hơn. Mặc dù cạnh tranh có nhiều loại, nhiều
hình thức, nhiều biện pháp khác nhau nhưng mục đích cuối cùng vẫn là thu
lợi nhuận độc quyền cao của các nhà tư bản nó lấy giá cả làm vũ khí cạnh
tranh. Cạnh tranh tự do đặc tính của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất
hàng hoá nói chung. Độc quyền là cái trực tiếp và ngược lại của cạnh tranh tự
do. Nhưng độc quyền không thủ tiêu cạnh tranh tự do là cái đã sinh ra chúng,
chúng tồn tại ở bên sự cạnh tranh của cạnh tranh tự do và cùng với cạnh tranh
tự do gây ra một số mâu thuẫn, va chạm, xung đột đặc biệt gay gắt và kịch

liệt. Lê nin viết: “Nói rằng các các-ten thủ tiêu được những cuộc khủng
hoảng, đó là câu chuyện hoang đường của những nhà kinh tế học tư sản vẫn
cố hết sức tô điểm cho chủ nghĩa tư bản. Trái lại, tổ chức độc quyền được
thành lập trong một vài ngành công nghiệp, lại làm cho tình trạng hỗn loạn
vốn có trong toàn bọ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tăng lên và trầm trọng
thêm. Tình trạng không cân đối giữa sự phát triển của công nghiệp và nông
nghiệp lại càng tăng”. (trang 44, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa
tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).


Lê nin viết: Nhà kinh tế học Đức Kê-xtơ-nơ đã dành một tác phẩm riêng
để nói về “cuộc đấu tranh giữa những các-ten với những kẻ đứng ở ngoài”,
nghĩa là với những nhà công nghiệp không tham gia các-ten . Ông đặt tên tác
phẩm đó là {{Sự cưỡng bách vào tổ vhức}}, nhưng nếu không muốn tô điểm
cho chủ nghĩa tư bản thì tất nhiên phải nói đến cưỡng bách phải phục tùng các
liên minh cuả bọn độc quyền. Thật là bổ ích nếu ta nhìn qua một chút bản kê
những thủ đoạn đấu tranh hiện đại, tối tân, văn minh, cho “tổ chức”, những
thủ đoạn mà các liên minh của bọn độc quyền đã dùng đến như:
1)

Tước nguồn nguyên vật liệu (… một trong những phương sách quan
trọng nhất để bắt buộc gia nhập các-ten).

2)

Tước nguồn nhân công bằng cách duàng những “liên minh” (tức là
những hợp đồng giữa bọn tư bản với những công đoàn, quy định các
công đoàn này chỉ nhận làm việc trong những xí nghiệp đã các-ten
hoá).


3)

Tước các phương tiện vận chuyển.

4)

Tước nơi tiêu thụ.

5)

Ký hợp đồng với người mua, quy định người mua chỉ giao dịch với
những các-ten thôi.

6)

Đánh sụt giá một cách có hệ thống (để làm phá sản các xí nghiệp “ở
ngoài”, tức là các xí nghiệp không phục tùng độc quyền; người ta
tiêu phí hàng triệu để bán hạ hơn giá thành trong một thời gian nào
đó).

7)

Tước nguồn tín dụng.

8)

Tuyên bố tầy chay.

(trang 40, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mátxcơ-va. 1975).



Trước mắt chúng ta, đó không còn là sự cạnh tranh giữa những xí nghiệp
nhỏ và xí nghiệp lớn, giữa những xí nghiệp lạc hậu về kỹ thuật và những xí
nghiệp tiên tiến về kỹ thuật nữa. Trước mắt chúng ta, đó là tình trạng bọn độc
quyền bóp chết những người không chịu phục tùng độc quyền, ách thống trị
và sự chuyên chế của chúng. ( trang 41, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của
chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản”. Lênin phân tích và chứng minh: chủ nghĩa đế quốc không phải là một
chính sách của chủ nghĩa tư bản, không phải là sản phẩm của chủ nghĩa tư
bản công nghiệp phát triển cao không phải là một quan hệ tự nhiên: như quan
niệm của các nhà kinh tế học phi Mácxít, mà đặc điểm cơ bản của tư bản độc
quyền là sự thống trị của các liên minh độc quyền của bọn kinh doanh lớn
nhất phân tích bản chất giai đoạn mới chủ nghĩa tư bản về mặt kinh tế. Lênin
đã khái quát thành 5 đặc trưng cơ bản là: tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn
đến hình thành các tổ chức độc quyền, tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài
chính, xuất khẩu tư bản, sự phân chia thị trường thế giới của các tổ chức độc
quyền, các cường quốc đế quốc phân chia lãnh thổ thế giới. Trong đó tích tụ
và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc
trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc, những liên minh độc quyền thoạt
đầu hình thành theo sự liên kết ngang, tức là sự liên kết những doanh nghiệp
trong cùng ngành, dưới những hình thức Các-ten, Xanhdica, Tờrớt, tiếp đó
xuất hiện sự liên kết dọng, nghĩa là sự liên kết không chỉ những xí nghiệp lớn
mà cả những Xanhđica, Tờrớt... thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên
quan với nhau về kinh tế và kỹ thuật, hình thành các Công-Xoóc-xi-om, nhờ
nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức
độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối
với những hàng hoá mà họ bán ra và giá cả độc quyền thấp dưới giá cả sản



xuất đối với những hàng hoá mà họ mua, trước hết là nguyên liệu, qua đó họ
thu được lợi nhuận độc quyền trong chủ nghĩa tư bản độc quyền. Các đồng
minh độc quyền chiếm ưu thế trong nền kinh tế cho nên chúng có thể dùng
các phương pháp khác nhau để giữ giá cao cho hàng hoá. Một trong những
thủ đoạn chủ yếu đảm bảo lợi nhuận độc quyền cao. Thủ đoạn quan trọng
nhất để tính giá hàng hoá cao là thi hành chính sách thuế quan cao để bảo hộ
các tổ chức độc quyền trong nước, sử dụng bộ máy Nhà nước để đảm bảo giá
cả độc quyền cho những sản phẩm cung cấp theo đơn đặt hàng của Nhà nước.
Tuy nhiên, giá cả độc quyền không thủ tiêu tác động của quy luật giá trị
không thể làm thay đổi tổng số giá trị và giá trị thặng dư trong các nước tư
bản chủ nghĩa. Lê nin viết: Sự phát triển rất lớn của công nghiệp và quá trình
tập trung cực kỳ nhanh chóng của sản xuất vào trong các xí nghiệp ngày càng
to lớn, là một trong những đặc điểm tiêu biểu nhất của chủ nghĩa tư bản . (tr 22,
V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Ví dụ: Ở Đức nếu người ta gọi công nghiệp theo nghĩa rộng, có nghĩa là bao
gồm cả thương nghiệp và đường giao thông… thì tổng số 3 265 623 xí
nghiệp, thì có số xí nghiệp lớn là 30 588, tức là chỉ có 0,9%. Nhưng các xí
nghiệp này dùng 5,7 triệu công nhân trong tổng số 14,4 triệu công nhân, tức là
39,4%; dùng 6,6 triệu mã lực hơi nước trong tổng số 8,8 triệu mã lực, tức
75,3%, và dùng 1,2 triệu ki-lô-oát điện trong tổng số 1,5 triệu ki-lô-oát, tức là
77,2%. (trng 23, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ,
Mát-xcơ-va. 1975).

Ở Mỹ năm 1904, loại xí nghiệp thuộc các công ty lớn chiếm

23,6% đến năm 1909 thì chiếm 35,9%, tức là quá 1/4 tổng số xí nghiệp. Năm
1904, các xí nghiệp ấy dùng 70,6% tổng số công nhân, đến năm 1909 thì
dùng 75,6%, tức là 3/4 tổng số công nhân; giá tri sản lượng năm 1904 là 10,9

tỷ đô-la và năm 1909 là 16,3 tỷ đô-la, tức là 73,7% năm 1904 và 79% năm


1909 tổng giá trị sản lượng.

(trang 34, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của

chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Như vậy, làm cho hàng vạn xí nghiệp nhỏ biến đi để hình thành những xí
nghiệp lớn, các xí nghiệp lớn này tuy chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nhưng lại có vai
trò to lớn trong nền kinh tế. Lê-nin viết: “Một số xí nghiệp ngày càng trở nên
lớn hơn; ngày càng có nhiều xí nghiệp thuộc cùng một ngành công nghiệp
hoặc thuộc nhiều ngành công nghiệp khác nhau, tập hợp lại thành những xí
nghiệp khổng lồ, mà chỗ tựa và đồng thời cũng là người chỉ đạo là nửa tá
ngân hàng lớn”. (trang 27. V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản.
NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Sự thật chứng minh rằng những sự khác nhau giữa

các nước tư bản, chẳng hạn về chế độ mậu dịch hoặc tự do buôn bán chỉ quyết
định những sự khác nhau không đáng kể về hình thức các tổ chức độc quyền,
hoặc về thời gian chúng xuất hiện, còn việc tập trung sản xuất đẻ ra các tổ
chức độc quyền thì lại là một quy luận phổ biến và cơ bản trong giai đoạn
phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản.

(trang 30. V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai

đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).


Trước đây nửa thế kỳ, khi Mác viết bộ “Tư bản”, người đã chứng minh
thông qua sự phân tích chủ nghĩa tư bản về mặt lý luận và lịch sử rằng: tự do
cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất, và sự tập trung sản xuất này khi phát triển
đến một mức độ nhất định lại dẫn tới độc quyền. Giờ đây, độc quyền đã trở
thành một sự thật.

(trang 29. V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư

bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Trong thời kỳ phồn vinh ngắn ngủi, 1889- 1890, người ta đã sử dụng mạnh
mẽ các các-ten để lợi dụng tình hình thị trường. Một chính sách thiếu chín
chắn đã lam cho giá cả tăng lên còn nhanh và mạnh hơn so với khi không có
những các-ten, và hầu nhưng các các-ten đã tiêu vong một cách không vẻ
vang(trong cái mồ phá sản). Nhưng 5 năm sau các phong trào các-ten đã bứoc
vào giai đoạn thứ hai của nó. Từ chỗ là hiện tượng nhất thời, những các-ten đã


trở thành một trong những cơ sơ của toàn bộ đời sống kinh tế. Những các-ten
đó chiếm hết ngành công nghiệp này sang ngành công nghiệp khác, và trước
hết là ngành chế biến nguyên liệu. (trang 31-32. V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột
cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Ngay từ đầu 1890, khi tổ chức xanh-đi-ca than cốc, mà sau xanh-đi-ca
than đá cũng được tổ chức rập theo, những xanh-di-ca đó đã xây dựng cho
mình một kỹ thụât các-ten mà về thực chất phong trào lúc đó không thể vượt
xa được. (trang 32. V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến
bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Thời kỳ phồn vinh lớn vào cuối thế kỷ XIX và cuộc khủng hoảng 19001903 đều diễn ra ít nhất là trong công nghiệp mỏ và công nghiệp luyện thép

lần đầu tiên hoàn toàn dưới hình thức các-ten.

(trang 32. V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là

giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Ví dụ: Số lượng các-ten ở Đức năm 1896 ước độ 250, năm 1905 là 385 với
sự tham gia của gần 12 000 xí nghiệp.

(trang 33, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn

tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Xanh-đi-ca than đá miền Rê-

na-ni – Ve-xtơ-pha-li, khi được thành lập năm 1893, đã nắm được 86,7% số
than đá vùng này, và đến năm 1910, thì xanh-đi-ca ấy nắm được 95,4%. (trang
34, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
1975).

Bản báo cáo của chính phủ Mỹ về các tơ-rớt nói như sau: các tơ-rớt có

ưu thế đối với những xí nghiệp canh tranh với mình, là nhờ những xí nghiệp
của các tơ-rớt đó có quy mô to lớn và trang bị kỹ thuộc rất tốt.

( trang 36, V.I. Lê-

nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Sản xuất trở nên có tính chất xã hội, nhưng chiếm hữu vẫn mang tính chất

tư nhân. Các tư liệu sản xuất xã hội vẫn là sở hữu tư nhân của một số ít người.
Khuôn khổ chung của cạnh tranh tự do, mà về danh nghĩa còn được thừa
nhận, thì vẫn tòn tại và ách áp bức của một nhóm người độc quyền đối với số
dân cư còn lại đã trở thành nặng nề, rót rệt, không thể chịu nổi, hơn trước gấp


trăm lần. (trang 39, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến
bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Những chữ chúng ta viết ngả chỉ rõ thực chất của vấn đề mà những nhà
kinh tế học tư sản rất ít khi thừa nhận và không sẵn lòng thừa nhận, và những
kẻ hiện nay bênh vực chủ nghĩa cơ hội đứng đầu là C. Cau-xky, đều tích cực
tìm cách lần tránh và bỏ qua. Quan hệ thống trị và bạo lực do những quan hệ
ấy nảy sinh ra, đó là những hiện tượng têu biểu trong “giai đoạn mới nhất
trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản”, đó là kết quả tất yếu phải xảy ra do
sự hình thành những tổ chức kinh tế độc quyền vạn nặng.

(trang 43, V.I. Lê-nin, Chủ

nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Chỗ nào có thể chiếm được toàn bộ nguồn nguyên liệu hay những nguồn
chủ yếu về nguyên liệu thì ở đó đặc biệt đễ xuất hiện những các-ten và hình
thành lên các tổ chức độc quyền. (trang 43, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng
của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Tổ chức độc quyền mở đường cho mình ở khắp mọi nơi và bằng đủ mọi
cách, từ việc trả tiền bồi thường “nho nhỏ” đến việc theo lối Mỹ “dùng” thuốc
nổ đối với kẻ cạnh tranh với mình.


(trang 44, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột

cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Líp-man, người một mực bênh vực chủ nghĩa tư bản viết: <quốc dân càng phát triển thì nó càng hướng về những xí nghiệp có tính chất
mạo hiểm hơn hoặc những xí nghiệp ở nước ngoài, những xí nghiệp cần có
một thời kỳ lâu dài để phát triển, hoặc cuối cùng hướng về những xí nghiệp
chỉ có ý nghĩa địa phương>>. (trang 45, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của
chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Trong lĩnh vực kỹ thuật, chắc chắn sẽ còn nhiều cuộc biến đổi lớn đáng
chờ đợi loài người trong một tương lai gần đây; những cuộc biến đổi ấy sẽ tác
động đến cả việc tổ chức kinh tế quốc dân. (trang 46, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).


Sự tiến bộ rất nhanh của khoa học kỹ thuật cũng lại làm cho những yếu tố
không cân đối giữa các mặt khác nhau của nền kinh tế quốc dân, những yếu tố
hỗn loạn và khủng hoảng ngày càng tăng thêm.

(trang 45, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc

là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Và những cuộc khủng hoảng có đủ mọi thứ khủng hoảng, thường nhất là
những cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng không phải chỉ những cuộc khủng
hoảng kinh tế mà thôi, lại làm cho xu hướng tập trung và độc quyền tăng lên
với những quy mô rất lớn. (trang 46, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ
nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).


Khi cuộc khủng hoảng 1900 xảy ra thì bên cạnh những xí nghiệp khổng lồ
thuộc các ngành công nghiệp chủ yếu vẫn còn có nhiều xí nghiệp mà tổ chức
theo quan niệm hiện nay thì đã lỗi thời rồi, đó là những xí nghiệp đơn thuận
(tức là không liên hợp). Nổi lên trên đỉnh sóng của ngọn trào công nghiệp, giá
cả hạ xuống, lượng cầu tụt xuống đã đẩy các xí nghiệp đơn thuận ấy vào một
tình trạng nguy khốn, tình trạng này hoặc giả hoàn toàn không làm tồn hại gì
đến các xí nghiệp liên hợp khỏng lồ, hoặc giả chỉ gây tồn hại cho những xí
nghiệp khổng lồ đó trong một thời gian hết sức ngắn mà thôi. Vì thế cuộc
khủng hoảng năm 1900 đã dẫn đến một sự tập trung công nghiệp mạnh mẽ
hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng 1873 trước kia. Cuộc khủng hoảng 1873
cũng đã làm việc chọn lọc ra những xí nghiệp khá nhất, nhưng với trình độ kỹ
thuật thời bây giờ, sự chọn lọc đó đã không thể dẫn đến sự độc quyền của
những xí nghiệp biết thoát khỏi khủng hoảng một cách thắng lợi.

(trang 46-47, V.I.

Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Như chúng ta đa từng biết cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất
trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ tư bản trong ngân hàng. Ngân
hàng có một vai trò mới từ chỗ chỉ làm trung gian trong việc thanh toán và tín
dụng nay do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội. Ngân hàng đã trở
thành người có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế xã hội. Lý


do, do tập trung sản xuất các tổ chức độc quyền thu được khối lượng các giá
trị thặng dư lớn, đây chính là điều kiện để tập trung ngân hàng. Mặt khác độc
quyền trong công nghiệp ra đời và phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và đồng
thời tạo ra một khối lượng tư bản nhàn rối lớn. Hơn nữa dưới sự tác động của

cạnh tranh tự do làm cho độc quyền ngân hàng xuất hiện bằng cách các ngân
hàng lớn thôn tính các ngân hàng nhỏ hoặc các ngân hàng lớn thoả hiệp và
liên minh với nhau để trở thành độc quyền lớn hơn, nhằm chi phối hoạt động
về tài chính, tín dụng ngân hàng để thu lợi nhuận độc quyền cao. Từ chỗ chi
phối toàn bộ lượng tiền tệ trong xã hội, nắm quyền lực về kinh tế nay đã có
quyền lực vạn năng tức là nó nắm tài khoản các tổ chức độc quyền công
nghiệp thông qua việc vay vốn tại nó giám sát quá trình sản xuất kinh doanh,
nó chi phối hoạt động của cả công thương nghiệp và nó còn tham gia vào các
hoạt động chính trị xã hội của một đất nước. Lê nin viết: Công việc cơ bản và
thoạt đầu của cá ngân hàng là làm trung gian trong viẹc trả tiền. Nhờ thế, các
ngân hàng biến tư bản tiền tệ không hoạt động thành tư bản hoạt động, nghĩa
là tư bản đem lại lợi nhuận, và tập hợp mọi khoản thu nhập bằng tiền để giao
cho giai cấp các nhà tư bản sử dụng. Công việc kinh doanh ngân hàng càng
phát triển và càng tập trung vào một số ít cơ quan, thì từ chỗ đóng vai trò
khiêm tốn của những kẻ trung gian, các ngân hàng đã trở thành những tổ chức
độc quyền vạn năng, sử dụng được hầu hết tổng số tư bản tiền tệ của toàn thể
các nhà tư bản và tiểu chủ, cũng như phần lớn những tư liệu sản xuất và
những nguồn nguyên liệu của một nước nhất định hay của cả một loạt nước.
Việc biến đông đảo những kẻ độc quyền là một trong những quá trình cơ bản
của sự chuyển biến chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa đế quốc. (trang 48-49, V.I. Lênin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Rõ ràng là một ngân hàng đứng đầu một tập đoàn đã thoả thuận với nửa tá
ngân hàng kém hơn nó đôi chút về những hoạt động tài chính đặc biệt to lớn


và có lợi như: công trái quốc gia chẳng hạn thì nó đã vượt ra ngoài vai trò một
kẻ trung gian và trở thành một liên minh của một nhúm nhỏ bọn độc quyền.
(trang 53, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơva. 1975).

Cùng với sụ tập trung tư bản và sự tăng thêm số chu chuyển của ngân

hàng, ý nghĩa của chúng cũng thay đổi một cách can bản. từ những nhà tư bản
riêng rẽ đã hình thành nên một nhà tư bản tập thể. Trong khi tính những tài
khoản đi, đến của một số nhà tư bản, ngân hàng tựa hồ như tiến hành một hoạt
đồng thuần tuý kỹ thuật hoàn toàn có tính chất phụ thêm mà thôi. Nhưng khi
các hoạt đồng này bành trướng lên tới quy mô to lớn thì ta lại thấy rằng một
nhúm nhỏ bọn độc quyền chi phối được các hoạt đồng công thương nghiệp
của toàn xã hội tư bản chủ nghĩa; nhóm này nhờ những mối liên hệ về ngân
hàng, nhờ những tài khoản đi, đến và những hoạt động tài chính khác mà
trước hết có thể biết được một cách chính xác tình hình kinh doanh của từng
nhà tư bản, rồi sau đó kiểm soát bọn này. Ảnh hưởng đến chúng bằng cách
mở rộng hoặc thu hẹp tín dụng, làm dễ hoặc gây khó khăn cho việc tín dụng
rồi sau cùng hoàn toànquyết định số phận của chúng, quyết định số thu nhập
của chúng, tước mất tư bản của chúng hoặc tạo khả năng cho chúng tăng
nhanh chóng số tư bản của chngs lên đến những quy mô to lơn …

(trang 56-57,

V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Dù sao thì trong hết thảy các nước tư bản, mặc dù pháp luật ngân hàng ở
các nước đó có những bến thể như thế nào đi nữa thì cá ngân hàng vẫn tăng
cường và đẩy nhanh cấp bội quá trình tập trung tư bản và quá trình hình thành
những tổ chức độc quyền. (trang 59, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ
nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Về nội dung thì sự phân phối về tư liệu sản xuất đó hoàn toàn không phải
mang tính chất chung, mà lại có tính chất riêng, nghĩa là phù hợp với quyền
lợi của đại tư bản và trước hết là của tư bản lớn nhất, tư bản độc quyền hoạt



động trong hoàn cảnh quần chúng nhân dân bị ăn đói và toàn bộ sự phát triển
của nông nghiệp thì lạc hậu một cách tuyệt vọng so với sự phát triển của công
nghiệp mà trong công nghiệp thì ngành công nghiệp nặng bắt tất cả mọi
ngành công nghiệp khác phải nộp cống cho mình.

(trang 60, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế

quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Việc chủ nghĩa tư bản mới trong đó chế độ độc quyền giữ địa vị thống trị
thay thế chủ nghĩa tư bản cũ, trong đó chế độ cạnh tranh tự do thống trị, còn
được thể hiện ở chỗ tác dụng của sở giao dịch bị giảm bớt. Mỗi ngân hàng là
một sở giao dịch, ngân hàng càng lớn bao nhiêu và sự hoạt động ngân gàng
càng tiến bộ bao nhiêu, thì câu danh ngôn hiện đại đó càng đúng sự thật bấy
nhiêu. (trang 62-63, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư

bản. NXB Tiến

bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Một số ít ngân hàng, do quá trình tập trung mà đứng đầu toàn bộ nền kinh
tế tư bản, tự nhiên ngày càng biểu lộ và ngày càng tăng cường khuynh hướng
muốn đi đến sự thoả thuận độc quyền, đi đến thành lập tơ-rớt các ngân hàng.
Việc các ngân hàng ngày càng tập trung làm cho con số những cơ quan mà
nói chung, người ta có thể hỏi vay được, bị giảm đi do đó ngành công nghiệp
lớn ngày càng phụ thuộc vào một số nhỏ những tập đoàn ngân hàng. Mối liên
hệ chặt chẽ giữa công nghiệp và giới tài chính đã thu hẹp sự tự do hoạt động
của các công ty công nghiệp cần đến vốn của ngân hàng. Cho nên, ngành
công nghiệp lớn nhìn với nhiều tình cảm khác nhau tơ-rớt hoá (tập hợp thành
hay biến thành các tơ-rớt) ngân hàng ngày càng tăng; thật vậy, đã nhiều lần

người ta thấy rằng đã có những mầm mống toả thuận nào đó giữa những công
xoóc-xi-om nào đó của các ngân hàng lớn với nhau nhằm hạn chế cạnh tranh.
Lại một lần nữa ta thấy rằng mức phát triển cao nhất của hoạt động ngân hàng
là độc quyền. (trang 65-66, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản.
NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).


Mặt khác, độc quyền ngân hàng và độc quyền công nghiệp đã thâm nhập
và nhau, sự thâm nhập này bằng hai cách đó là: độc quyền ngân hàng bỏ tiền
ra mua cổ phiếu phát hành của các tổ chức công nghiệp, hai là, độc quyền
ngân hàng dưa người của mình vào tham gia các ban quản trị của độc quyền
công nghiệp. Và quá trình này cũng được tiến hành ngược lại, đó là sự thâm
nhập của độc quyền công nghiệp vào độc quyền ngân hàng cũng theo hai cách
trên. Lê nin viết: “người ta có thể phát triển cái có thể gọi là sự liên hợp về
người giữa các ngân hàng với những doanh nghiệp lớn nhất, sự hợp nhất giữa
những ngân hàng này với những doanh nghiệp kia bằng cách mua cổ phần,
bằng cách đưa các giám đốc ngân hàng vào trong các hội đồng giám sát(hay
các ban quản trị) của các doanh nghiệp công thương nghiệp và ngược lại”.
(trang 67, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơva. 1975).

Kết quả của sự thâm nhập giữa độc quyền ngân hàng và độc quyền công
nghiệp đã dưa tới xuất hiện một loại tư bản mới về chất, đó là tư bản tài
chính. Lê nin viết: “Một bộ phần ngày càng lớn của tư bản công nghiệp không
thuộc về các nhà kinh doanh công nghiệp vẫn sử dụng nó. Nhưng người này
chỉ có thông qua ngân hàng mới sử dụng được tư bản, và đối với họ ngân
hàng là những người hở hữu tư bản đó. Mặt khác, ngay ngân hàng cũng bắt
buộc phải bỏ một bộ phận tư bản ngày càng lớn của nó vào công nghiệp. Nhờ
đó ngân hàng với mức độ luôn luôn tăng lên, trở thành nhà tư bản công
nghiệp. Tư bản ngân hàng ấy tức là tư bản dưới dạng tiền tệ, qua đó trên thực
tế đã biến thành tư bản công nghiệp, tôi gọi nó là tư bản tài chính. Tư bản tài

chính là tư bản do ngân hàng chi phối và do các nhà công nghiệp sử dụng”.
(trang 79, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơva. 1975).

Độc quyền có vai trò vạn năng đi vào mọi ngành, mọi lĩnh vực, theo
Lênin: “Điểm tiêu biểu của chủ nghĩa đế quốc chính lại không phải là tư bản


công nghiệp mà là tư bản tài chính”, mà tổ chức độc quyền lại luôn có xu
hướng “thôn tính” các tổ chức độc quyền và không độc quyền ở các ngành
khác nhau. Tư bản tài chính với “sức mạnh” của nó đã thực hiện vai trò “thao
túng” tất cả các ngành, đã làm cho tư bản độc quyền đi vào mọi ngành, mọi
lĩnh vực như: công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải...,
các tổ chức độc quyền đã thực hiện độc quyền về giá cả, về thị trường về
nguồn nguyên liệu. Bằng việc độc quyền như vậy chúng đã thu được lợi
nhuận cao (gọi là lợi nhuận độc quyền). Về mặt quan hệ sản xuất, độc quyền
chính là hình thức vận động mới về cả ba phương diện: sở hữu, quản lý, phân
phối và là sự thích ứng có tính chất tư bản chủ nghĩa trước sự phát triển của
lực lượng sản xuất (trong khi có sự thích ứng hoàn toàn bằng việc thay đổi
bản chất quan hệ sản xuất). Lê nin viết: “Chúng tôi nhấn mạnh diểm nói về
những ngân hàng “phụ thuộc”, vì đó là một trong những đặc điểm quan trọng
nhất của sự tập trung tư bản chủ nghĩa hiện đại. Các xí nghiệp lớn nhất là các
ngân hàng, không những chỉ trực tiếp nuốt những xí nghiệp nhỏ, mà chúng
còn làm cho những xí nghiệp nhỏ này “gắn liền” vào chúng, phục tùng chúng,
sáp nhập vào tập đoàn của chúng. Nếu dùng thuật ngữ chuyên môn thì tức là
“công-xoóc-xi-om” của chúng bằng cách tham dự vào tư bản của những ngân
hàng nhỏ ấy, bằng lối mua hay trao đổi cổ phần, bằng hệ thống quan hệ vay
mượn …” (trang 50-51,

V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB


Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).

Như vậy, đến thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX độc quyền đã xuất hiện. Độc
quyền là sự liên minh giữa các nhà tư bản nắm phần lớn việc sản xuất và tiêu
thụ một số hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao, độc
quyền là một bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên một chế độ cao hơn.


Quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp cũng có những biến
đổi khác trước. Thông qua mạng lưới chi nhánh ở khắp nơi, các tổ chức độc
quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và nhận gửi
những số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp trong một thời gian
dài, nên lợi ích của chúng xoắn xuýt với nhau, hai bên đều quan tâm đến hoạt
động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau, tư bản tài chính đẩy nhanh quá
trình xã hội hoá sản xuất tức là thúc đẩy chuyên môn hoá, hợp tác hoá trong
quá trình sản xuất, ngoài ra còn tham gia như hoạch định chiến lược phát triển
kinh tế, trách nhiệm về phân bố vốn.
Độc quyền là giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản; Độc quyền là
do cạnh tranh sinh ra, nó là sự phát triển, kế tục trực tiếp cơ bản của chủ nghĩa
tư bản. Song nó là một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, và chủ
nghĩa tư bản trở thành điều trái ngược với những đặc tính đó chẳng hạn: trước
là tự do cạnh tranh này thay bằng độc quyền, trước là sự thống trị của tư bản
công nghiệp nay là tư bản tài chính. Điều đó có nghĩa là độc quyền đã làm
biến đổi mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội của chủ nghĩa tư bản.
Về lực lượng sản xuất, khi độc quyền ra đời đã thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển cực kỳ nhanh chóng, thậm chí là sự nhảy vọt so với trước đây.
Lực lượng sản xuất đã được xã hội hoá một cách toàn diện trong sản xuất, lưu
thông, xã hội hoá cả quá trình phát sinh, cải tiến kỹ thuật. Khi lực lượng sản
xuất biến đổi tất yếu quan hệ sản xuất phải biến đổi theo, tất nhiên là không
phải thay đổi một cách căn bản về bản chất của chủ nghĩa tư bản mà thay đổi

có tính chất cục bộ cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trước đây là sở hữu riêng của từng nhà tư bản, còn nay là sở hữu của tập thể
các nhà tư bản độc quyền, của bọn tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính. Nhưng
chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa không hề mất đi, do đó quan hệ bóc lột càng


trở nên nặng nề và từ đó làm nảy sinh những mâu thuẫn mới trong nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa.
Lê nin viết: những kết quả chủ yếu trong lịch sử các tổ chức độc quyền là
như sau:
1)

những năm 1860 và năm 1870, tự do cạnh tranh phát triển đến tột
điểm, các tổ chức độc quyền chỉ là những mầm mống chưa rõ rệt
lắm.

2)

Sau cuộc khủng hoảng năm 1873, là giai đoạn phát triển rộng rãi của
những các-ten, nhưng các-ten đó vẫn còn là ngoại lệ. Chúng vẫn còn
là một hiện tượng nhất thời.

3)

Thời kỳ phồn vinh cuối thế kỷ XIX và cuộc khủng hoảng của những
năm 1900-1903; các-ten trở thành một trong những cơ sở của toàn
bộ đời sống kinh tế. Chủ nghĩa tư bản đã biến thành chủ nghĩa đế
quốc.

(trang 33, V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. NXB Tiến bộ, Mátxcơ-va. 1975).



Danh mục tài liệu tham khảo
1). V.I. Lê-nin, Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 1975).



×