Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề CƯƠNG ôn THI môn NHỮNG vấn đề KINH tế CHÍNH TRỊ ở VIỆT NAM SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.74 KB, 26 trang )

1
Câu:1:Tại hội nghị giữa nhiệm kỳ Đai hôI VII: “sở hữu TLXS vừa phương tiện vừa là
mục tiêu của CNXH. Đ/C hãy làm sáng tỏ quan điểm này của Đảng từ góc độc KTCT?
Trả lời:
- Kđ, Đây là quan điểm dúng đắn của Đảng ta
- Xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác- lênin về xóa bỏ chế độ tư hữu xây dựng
chế độ công hữu.
Chế độ sở hữu xã hội (sở hữu công cộng) về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ
người bóc lột người bị thủ tiêu.
Xã hội cộng sản chủ nghĩa là xã hội dựa trên chế độ sở hữu xã hội về TLSX, cho
phép xóa bỏ tình trạng dùng TLSX làm phương tiện để nô dịch, bóc lột lao động. Người
lao động quan hệ hợp tác với nhau và có cơ hội phát triển như nhau. C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, thiết lập chế độ công hữu phải đồng thời với xoá bỏ chế độ Tư
hữu. Tuy nhiên, không thể thủ tiêu ngay lập tức chế độ tư hữu được mà chỉ có thể thực
hiện dần dần, và chỉ khi nào tạo lập được một lực lượng sản xuất hiện đại, năng suất lao
động rất cao thì mới xoá bỏ được chế độ tư hữu. Điều kiện đó chỉ có được trong giai
đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
AG: liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được hay không? không thể
được cũng như không thể làm cho llsx hiện có tăng ngay lập tức đến mức cần thiết để xây
dựng nền kinh tế công hữu (Vì sao phải xoá bỏ)
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất luôn vận động, biến đổi không ngừng theo sự
phát triển của lực lượng sản xuất, do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quy định. Lực lượng sản xuất không ngừng phát triển làm cho quan hệ sở hữu phải thay
đổi theo, qua đó tạo nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, thúc đẩy sản xuất và xã hội phát triển không ngừng.
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã cho thấy, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
từ chỗ phù hợp, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dần dần trở nên lỗi thời,
lạc hậu, cản trở sự phát triển đó. Do vậy, sự ra đời của sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất thay thế cho sở hữu tư nhân là một tất yếu khách quan để giải phóng, mở đường cho
lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển hơn nữa.
- Quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.


Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, việc xây dựng và hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới phải tuân theo quy luật khách quan, phải xuất phát từ yêu cầu của sự
phát triển lực lượng sản xuất( khi llsx pt.->nsld cao-> phá vở QHSX Củ thay thế QHSX
mới XHCN phù hợp). Những tư tưởng nóng vội chủ quan, duy ý chí trong việc xóa bỏ sở
hữu tư nhân cũng như xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất sẽ khó đưa đến thành
công mong muốn.
- Vai trò sở hữu TLSX trong nền SX, XH.
+ Về Ct: quan hệ sở hữu tlsx là mặt cơ bản nhất để phân biệt b/c xh này với xh khác,
+ Về kt – xh: SH là qhệ kt cơ bản quyết định tính chất của QHSX, qđịnh MĐ của
nền sx, QĐ b/c chế độ xh và là sự phân biệt sự khác n giữa xh này với xh khác
+ Trong qhệ với LLSX: SH là hình thức xh của llsx do llsx quyết địn. đồng t SH tác
động trở lại llsx (tích cực và tiêu cực)
+Trong qhệ với kttầng: SH là nền tảng kt xh của kttt, kttt tác động trở lại QHSH.
+ SH quyết định, chi phối các mặt khác của QHSX.(quan hệ tổ chức quản lý, quan
hệ phân phối) tuy có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu; song,
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc thiết lập chế độ sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất được xem vừa là mục tiêu, vừa là động lực quan trọng đối với
sự phát triển của sản xuất và xã hội. Chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất được xây


2
dựng với những hình thức phù hợp sẽ không chỉ góp phần từng bước giải phóng người lao
động thoát khỏi mọi sự bất công để hướng tới một xã hội văn minh, tiến bộ mà còn là
phương tiện thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển lực lượng sản xuất của xã hội. Do đó, xây dựng
và hoàn thiện chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất luôn luôn là một tất yếu khách
quan và là nhiệm vụ hết sức quan trọng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Tuy nhiên, đó là một quá trình lâu dài, phải tuân theo đúng quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tránh sự áp đặt
theo ý muốn chủ quan.`
- Thực tiễn trước và sau đổi mới Đảng ta nhận thức và chỉ đạo việc xây dựng chế độ

công hữu về TLSX
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, do trình độ của lực lượng sản
xuất còn rất thấp kém nên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chẳng những chưa
mất đi mà nó vẫn là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Bởi vậy, khuyến khích,
tạo điều kiện để sở hữu tư nhân phát triển đúng hướng và có hiệu quả là điều cần thiết
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Căn cứ vào đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khi lực
lượng sản xuất phát triển chưa cao, với nhiều trình độ cao thấp khác nhau giữa các ngành,
các vùng, các miền của nền kinh tế, dẫn đến nền kinh tế tất yếu sẽ còn tồn tại nhiều chế độ,
loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân).
+ Trước đổi mới: với quan niệm chưa đầy đủ về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã nóng vội muốn xóa bỏ ngay các loại hình sở hữu tư nhân
để xây dựng nền kinh tế chỉ có chế độ công hữu với hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể.
+Thời kỳ đổi mới: chúng ta đã khắc phục nhận thức sai lầm về quan hệ sở hữu. Đó
là một vấn đề có ý nghĩa mang tính đột phá cho công cuộc đổi mới của Đảng cả về lý luận
và thực tiễn. Về thực chất, hiện nay cần khắc phục tính hình thức của chế độ công hữu,
hình thành chế độ sở hữu đa dạng nhằm khai thác mọi tiềm năng của xã hội để phát triển
kinh tế.
Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ tồn tại
không biệt lập, tách rời nhau mà luôn có quan hệ chặt chẽ, đan xen nhau, tác động qua lại
lẫn nhau tạo nên nền kinh tế đa dạng về hình thức tổ chức và sống động, linh hoạt trong
quá trình vận động phát triển. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các hình
thức sở hữu là vấn đề hết sức quan trọng nhằm bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ và giữ vững được định hướng đã xác định. Để thực hiện mục đích giải phóng sức sản
xuất, khai thác tối đa mọi tiềm năng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, cần phải coi việc sử
dụng các loại hình sở hữu như là phương tiện không thể thiếu được cho quá trình đó. Tuy
nhiên, xét về bản chất và yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ, vấn đề đặt ra là phải coi việc củng cố, hoàn thiện chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất mục đích để xây dựng nền tảng kinh tế - xã hội cho chế độ mới ở nước

ta.
Việc hình thành và xác lập chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta với sự đa dạng hóa hình thức sở hữu nhất thiết phải được dựa trên cơ sở khách
quan như: những thay đổi về tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phân
công lao động xã hội. Vấn đề cần đặc biệt chú ý là phải gắn liền với lợi ích của người lao
động, bởi vì lợi ích kinh tế là động lực cho sự phát triển và hoàn thiện của mọi quan hệ
kinh tế. Chỉ có như vậy mới bảo đảm cho nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ, có hiệu
quả và vững chắc. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Trên
cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và


3
nhiều thành phần kinh tế”.
Kết luận:Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển biến từ sở
hữu tư nhân thành sở hữu công cộng về TLSX chuyển biến đó mang tính khách quan tùy
thuộc vào trinh độ phát triển của LLSX. Do đó Sở hữu công cộng về TLSX vừa là phương
tiện vừa là mục tiêu trong công cuộc XDCNXH.
Câu 2: Có ý kiến cho rằng: Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta hiện nay là làm suy yếu hay phá vỡ QHSX mới ,là xa rời muc tiêu của CNXH. đ/c
trình bay quan đểm của minh về vấn đề này ?
khẳng định ý kiến trên đưa ra là không đúng vì:
- Kết cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, tính đan xen của các kết cấu kinh tế.
Khái niệm: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong nền kinh tế quốc dân
thống nhất, mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò và tỉ trọng khác nhau, nhưng có mối
quan hệ tác động lẫn nhau, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là một tất yếu khách quan.

+ xp từ đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung và quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói riêng còn tồn tại đan xen hai kết cấu kinh tế - xã hội
cũ và mới:
TBCN, XHCN Cái cũ vừa bị đánh bại, chưa mất hẳn và còn có cơ hội hồi phục,
trong khi cái mới vừa ra đời, còn non yếu, đòi hỏi phải có thời gian nhất định để cải tạo
cái cũ, xây dựng cái mới mà không thể chủ quan nóng vội.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, chưa
qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên ngoài hai kết cấu kinh tế cơ bản nói trên, còn tồn tại cả
tàn dư kinh tế phong kiến, nông dân gia trưởng, kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc… Do đó,
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu tồn tại cơ cấu kinh tế với nhiều thành
phần hết sức đa dạng, đòi hỏi cần có thời gian tương đối lâu dài để cải biến, định hướng nó
theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
+ Xuất phát từ yêu cầu QL QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, lực lượng sản xuất còn ở trình
độ thấp và không đồng đều giữa các ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế; tương ứng với trình độ
của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất dựa trên những hình thức sở hữu
nhất định về tư liệu sản xuất. Tính đa dạng về sở hữu chính là do lực lượng sản xuất chưa
phát triển đủ mức độ để có thể thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu và thiết lập hoàn toàn chế
độ công hữu. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, xét về phư ơng diện kinh
tế - xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần mới phản ánh đúng quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
điều đó bảo đảm cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về kinh tế, nên yêu cầu
cấp thiết đặt ra là phải giải phóng, huy động mọi tiềm năng, nguồn lực trong xã hội phục
vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là trách nhiệm và cũng là quyền lợi của mọi cấp, mọi ngành và toàn xã hội;
trong đó thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân có vai trò to lớn và là một trong
những động lực quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần đ-



4
ược phát huy. Thực tế công cuộc đổi mới đất nước thời gian qua cho thấy, kinh tế tư nhân
(tư bản tư nhân và cá thể, tiểu chủ) có tác dụng to lớn trong việc huy động vốn, mở mang
ngành nghề, tạo việc làm và thu nhập cho nhiều đối tượng trong xã hội, góp phần phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã
hội bức xúc. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc
quyền, hình thành quan hệ hợp tác và cạnh tranh đa dạng, nên chúng đều có tác dụng tích
cực đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, là động lực của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
+ duy trì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn thể hiện sự dân chủ hoá về mặt kinh
tế, tạo nền tảng vật chất mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Quyền dân chủ về mặt kinh tế thể hiện ở chỗ mọi công dân có quyền tự do lựa
chọn hình thức tổ chức kinh tế hay tham gia một thành phần kinh tế cụ thể tuỳ theo điều
kiện, khả năng thực tế của họ mà không có sự phân biệt đối xử. Nhà nước khuyến khích
mọi cá nhân hay tổ chức được tự do phát triển sản xuất kinh doanh không hạn chế quy mô,
trình độ ở những ngành nghề, lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh mà pháp luật không
cấm; đồng thời khuyến khích quá trình hình thành các hình thức liên kết, hợp tác đa dạng
giữa các thành phần và tổ chức kinh tế nhằm tăng cường sức mạnh và nâng cao hiệu quả
trong các hoạt động kinh tế, hướng chúng đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội một cách
tự giác.
- Các thành phần kinh tế khác còn vai trò tác dụng.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có vai trò to lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Cơ cấu đó phù hợp với trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ở nước
ta, thể hiện sự vận dụng đúng đắn lý luận của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những vấn đề có tính quy
luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn cần được nhận thức và vận dụng trong thực tiễn.
+ Thực tiễn trước và sau đổi mới về cải tạo QHSX cũ xây dựng QHSX mới đã
chứng minh tính đúng đắn của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Trước đổi mới QHSX cũ chỉ 2 thành phần KT Là KTNN và KTTâp thể duy trì quá lâu

chính sách kinh tế quan liêu bao cấp làm nền kinh té trì trệ, đời sống nhân dân ngày càng
khó khăn …Từ khi thực hiện đổi mới QHSX mới với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. đã
chứng minh tinh đúng đắn  Kết luận: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần không làm suy
yếu, phá vỡ, xa rời mục tiêu CNXH mà trái lại là củng cố, phát triển, làm cho mục tiêu
CNXH được thực hiện một cách chắc chắn nhất.
- Quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
Xuất phát từ yêu cầu quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp và không đồng đều giữa các ngành, vùng,
lĩnh vực kinh tế; tương ứng với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản
xuất dựa trên những hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Tính đa dạng về sở
hữu chính là do lực lượng sản xuất chưa phát triển đủ mức độ để có thể thủ tiêu hoàn toàn
chế độ tư hữu và thiết lập hoàn toàn chế độ công hữu. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ, xét về phương diện kinh tế - xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
mới phản ánh đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và điều đó bảo đảm cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất
- Các thành phần kinh tế còn phát huy vai trò tác dụng
chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về kinh tế, nên yêu cầu cấp
thiết đặt ra là phải giải phóng, huy động mọi tiềm năng, nguồn lực trong xã hội phục vụ


5
cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đây là trách nhiệm và cũng là quyền lợi của mọi
cấp, mọi ngành và toàn xã hội; trong đó thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân có vai
trò to lớn và là một trong những động lực quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước cần được phát huy. Thực tế công cuộc đổi mới đất nước thời gian qua cho
thấy, kinh tế tư nhân (tư bản tư nhân và cá thể, tiểu chủ) có tác dụng to lớn trong việc huy
động vốn, mở mang ngành nghề, tạo việc làm và thu nhập cho nhiều đối tượng trong xã
hội, góp phần phát triển nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải
quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế tạo tiền đề khắc

phục tình trạng độc quyền, hình thành quan hệ hợp tác và cạnh tranh đa dạng, nên chúng
đều có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, là động lực của kinh
tế thịtrường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Thực hiện dân chủ hoá kinh tế
Duy trì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn thể hiện sự DC hoá về mặt KT, tạo nền
tảng VC mở rộng dân chủ XHCN trên các lĩnh vực của đời sống XH. Quyền DC về mặt
KT thể hiện ở chỗ mọi công dân có quyền tự do lựa chọn ht t/c KT hay tham gia một TP
KT cụ thể tuỳ theo điều kiện, khả năng thực tế của họ mà không có sự phân biệt đối xử.
Nhà nước khuyến khích mọi cá nhân hay tổ chức được tự do phát triển sản xuất kinh
doanh không hạn chế quy mô, trình độ ở những ngành nghề, lĩnh vực có lợi cho quốc kế
dân sinh mà pháp luật không cấm; đồng thời khuyến khích quá trình hình thành các hình
thức liên kết, hợp tác đa dạng giữa các thành phần và tổ chức kinh tế nhằm tăng cường sức
mạnh và nâng cao hiệu quả trong các hoạt động kinh tế, hướng chúng đi theo quỹ đạo của
chủ nghĩa xã hội một cách tự giác.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có vai trò to lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Cơ cấu đó phù hợp với trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ở nước
ta, thể hiện sự vận dụng đúng đắn lý luận của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những vấn đề có tính quy
luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn cần được nhận thức và vận dụng trong thực tiễn.
- Thực tiễn trước và sau đổi mới về cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới ở nước ta
đã chứng- minh
+ trước 1986: thực hiện cơ chế…. Duy trì 2 hình thức SH nhà nước, tập thể, nền kinh
tế do nhà nước,tập thể HTX QL, hạch toán sản xuất kinh doanh phân phối theo ăn chia sp,
tem phiếu.
+ sau 1986: thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. SH; Nhà nước, tập thể,
tư nhân kích thích hăng say làm việc…phân phối theo lao động, vốn tài sản, quỷ phúc lợi
xã hội. phản ánh b/c chế độ XHCN đã thúc đẩy LLSX phát triển,
- Kết luận: không phải là làm suy yếu, phá vỡ, xã rời mục tiêu CNXH mà trái lại là
củng cố phát triển, làm cho mục tiêu CNXH được thực hiện một cách chắc chắn nhất.
Câu 4: có ý kiến cho rằng: trên thế giới chưa có quốc gia nào đạt tới trình độ

kinh tế tri thức mà đảng ta xác định: đẩy mạnh cnh, hđh gắn với phát triển kinh tế
tri thức là chủ quan nóng vội. đ/c hãy bày tỏ ý kiến của minh về vấn đề này ?
- Khẳng định ý kiến này là sai. Chúng ta đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển
kinh tế trí thức là khách quan và hợp với qui luật, không hề nóng vội
- Kinh tế tri thức và đặc trưng
+ Kinh tế tri thức: là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra phổ cập và sữ dụng tri thức
giữ vt quyết định đối với sự phỏt triển kinh tế tạo ra của cảI, nâng cao chất lượng cuộc
sống.
+ Đặc trưng kinh tế tri thức


6
* tri thức trở thành nhân tố chủ yếu nhất của nền kinh tế (cần phỏt triển mạnh các
ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao)
* kinh tế tri thức có tộc độ hđ nhanh và đổi m nhanh.
* mạng lưới thông tin trở thành qt nhất của nền kinh tế.
* kinh tế tri thức là nền kinh tế hoạc tập
* kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá
* kinh tế tri thức là nền kinh tế phỏt triển bền vững
- QĐ của đảng về kinh tế tri thức:
Đại hội X chủ trương “tranh thủ cơ h do bối cảnh qtế tạo ra và tiềm năng lợi thế của
đất nước để rút ngắn quá trình CNH, HĐH PHÁT TRIểN MạNH CáC NGàNH Và SP
KINH Tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp nguồn vốn tri thức của
con người vn với tri thức mới nhất của nhân loại. Theo tinh thần ĐH: X, chúng ta nghiên
cứu sự gắn gắn kết công nghiệp hoá, hiện đại hóa với kinh tế tri thức trên 3 vấn đề lớn sau:
- các căn cứ để đảng ta xác địnhcông nghiệp hoá, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức.
+ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin Và THCM về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội;
M-LN: g/c cn phải vươn lên làm chủ tri thức

CNXH Muốn thắng cntb phải xây dựng llsx hơn hẳn CNTB
+ HCM: là Cđộ không có tư hữu, k có bóc lột, của cải đều chung, sức sx cao, ND LĐ
hoàn toàn đc GP
+ cương lĩnh xây dựng đất nước đã chỉ ra 6 đặc trưng về chủ nghĩa xã hội trong đó
có đặc trưng về LLSX (Xem cương lĩnh mới… 8 đặc trưng)
- do ND LD làm chủ
- có nền KT pt cao dựa trên LLSX hiện đại vàc Cđộ công hữu về các TLSX chủ yếu
- có nền VH tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
- con ng đc GP khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo LĐ, có
cuộc sống ấm no tự do HP, có Đk pt cá nhân
- các DT trong nc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
- có quan hệ hữu nghị và hợp tác với ND tất cả các nc trên TG
+ kinh nghiệm thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước chúng ta đã và đang đổi m tư duy
và chỉ đạo thực hiệN CNH, HĐH
Phát triển công nghiệp gắn với hiện đại hoá trong nền kinh tế mở và sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là của toàn dân.
+ Bối cảnh quốc tế hiện nay Và Y/c kinh tế Đất nước trong những năm thập niên đầu TK
XXI. (y/c phỏt triển mạnh các ngành kinh tế mủi nhọn, đI tắt đong đầu về công nghệ, phỏt triển
kinh tế nhanh bv.
- Nội dung của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức là:
- Phát triển mạnh các ngành và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri
thức (sử dụng tri thức của người Việt Nam và tri thức của nhân loại);
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng trong mỗi bước phát triển của đất
nước ở từng vùng, từng địa phương, trong từng DA KT - XH.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động tất cả các ngành lĩnh vực, nhất
là các ngành có sức cạnh tranh cao.
* Định hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức.



7
Đại hội X định hướng phát triển 6 ngành và lĩnh vực chủ yếu của quá trình này trong
những năm tới.
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải
quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng, dịch vụ.
Ba là, phát triển kinh tế vùng.
Bốn là, phát triển kinh tế biển.
Năm là, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ.
Sáu là, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự
nhiên.
- Tiêu trí đánh giá
Tăng trưởng kinh tế và thực hiên tiến bộ và công bằng XH. Khai thác hợp lý, sử dụng và
tìm hiểu tài nguyên thiên nhiên
Câu 5: Kinh tế nhà nước ở nước ta thời gian vừa qua còn bộc lộ nhiều yếu kém.
Do đó đã có ý kiến cho rằng: Nên để kinh tế tư nhân giữ vai trò chủ đạo. Đ/c hãy cho
biết chính kiến của minh về vấn đề này. ?
- Khẳng định đây là quan điểm sai trái. cần phải phê phán đấu tranh với những ý kiến
trên.
- Khẳng định phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách đúng đắn xuất phát từ
nhận thức đúng đắn về đặc trưng kinh tế TKQĐ, QLQHSX…LLSX, thực tiển kinh tế
nước ta.
Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta là một tất yếu khách quan. Điều đó xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
+ đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
LN: TKQD là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và gắn với nó là xó hội có
nhiều g/c.
quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung ở nước ta nói riêng còn tồn tại đan xen hai

kết cấu kinh tế - xã hội cũ và mới: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Cái cũ vừa bị
đánh bại, chưa mất hẳn và còn có cơ hội hồi phục, trong khi cái mới vừa ra đời, còn non
yếu, đòi hỏi phải có thời gian nhất định để cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới mà không thể
chủ quan nóng vội.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, chưa
qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên ngoài hai kết cấu kinh tế cơ bản nói trên, còn tồn tại cả
tàn dư kinh tế phong kiến, nông dân gia trưởng, kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc. Do đó,
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu tồn tại cơ cấu kinh tế với nhiều thành
phần hết sức đa dạng, đòi hỏi cần có thời gian tương đối lâu dài để cải biến, định hướng nó
theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
+ xuất phát từ yêu cầu quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, lực lượng sản xuất còn ở trình
độ thấp và không đồng đều giữa các ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế; tương ứng với trình độ
của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất dựa trên những hình thức sở hữu
nhất định về tư liệu sản xuất. Tính đa dạng về sở hữu chính là do lực lượng sản xuất chưa
phát triển đủ mức độ để có thể thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu và thiết lập hoàn toàn chế
độ công hữu. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, xét về phư ơng diện kinh
tế - xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần mới phản ánh đúng quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và


8
điều đó bảo đảm cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về kinh tế, nên yêu cầu
cấp thiết đặt ra là phải giải phóng, huy động mọi tiềm năng, nguồn lực trong xã hội phục
vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đây là trách nhiệm và cũng là quyền lợi của
mọi cấp, mọi ngành và toàn xã hội; trong đó thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân có
vai trò to lớn và là một trong những động lực quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước cần được phát huy.
+ Thực tế công cuộc đổi mới kinh tế nước thời gian qua;
Thực tiễn kinh tế tư nhân (tư bản tư nhân và cá thể, tiểu chủ) có tác dụng to lớn
trong việc huy động vốn, mở mang ngành nghề, tạo việc làm và thu nhập cho nhiều đối tượng trong xã hội, góp phần phát triển nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế tạo
tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền, hình thành quan hệ hợp tác và cạnh tranh đa dạng,
nên chúng đều có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, là động
lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
duy trì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn thể hiện sự dân chủ hoá về mặt kinh tế,
tạo nền tảng vật chất mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Quyền dân chủ về mặt kinh tế thể hiện ở chỗ mọi công dân có quyền tự do lựa chọn
hình thức tổ chức kinh tế hay tham gia một thành phần kinh tế cụ thể tuỳ theo điều kiện,
khả năng thực tế của họ mà không có sự phân biệt đối xử. Nhà nước khuyến khích mọi cá
nhân hay tổ chức được tự do phát triển sản xuất kinh doanh không hạn chế quy mô, trình
độ ở những ngành nghề, lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh mà pháp luật không cấm;
đồng thời khuyến khích quá trình hình thành các hình thức liên kết, hợp tác đa dạng giữa
các thành phần và tổ chức kinh tế nhằm tăng cường sức mạnh và nâng cao hiệu quả trong
các hoạt động kinh tế, hướng chúng đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội một cách tự giác.
+ Các thành phần kinh tế khác còn vai trò tác dụng;
kinh tế tư nhân (tư bản tư nhân và cá thể, tiểu chủ) có tác dụng to lớn trong việc huy
động vốn, mở mang ngành nghề, tạo việc làm và thu nhập cho nhiều đối tượng trong xã
hội, góp phần phát triển nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải
quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế tạo tiền đề khắc
phục tình trạng độc quyền, hình thành quan hệ hợp tác và cạnh tranh đa dạng, nên chúng
đều có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, là động lực của kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có vai trò to lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Cơ cấu đó phù hợp với trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ở nước ta,
thể hiện sự vận dụng đúng đắn lý luận của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những vấn đề có tính quy luật

từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn cần được nhận thức và vận dụng trong thực tiễn.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: Trên cơ sở ba chế độ
sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần
kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài.
- Bản chất của kinh tế nhiều thành phần vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn;
Bản chất của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay phản ánh mối quan
hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn, vừa hợp tác vừa cạnh tranh và đấu tranh giữa các thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, định
hướng lên chủ nghĩa xã hội.


9
+Tính thống nhất: biểu hiện ở chỗ, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các
thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà đan xen, hoà quyện vào nhau, mỗi thành phần
kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất, nằm trong hệ thống
phân công lao động xã hội có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng.
Các thành phần kinh tế cùng hoạt động trong môi trường chung, cùng bình đẳng trước
pháp luật, đều chịu tác động của các yếu tố thể chế và quy luật thị trường. Giữa chúng
luôn có mối quan hệ tác động, bổ sung cho nhau và hợp tác cùng nhau phát triển. Điều
đó cho phép phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, đồng thời phát huy
tính phong phú đa dạng và thế mạnh riêng của mỗi thành phần kinh tế.
+Sự mâu thuẫn: cạnh tranh và đấu tranh với nhau, bởi mỗi thành phần kinh tế mang
bản chất kinh tế khác nhau, chịu sự tác động của những quy luật kinh tế đặc thù nên có các
lợi ích kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Cạnh tranh là môi trường và động lực
quan trọng để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, phát triển lực lượng sản
xuất, loại bỏ những yếu tố lạc hậu, kém hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình cạnh tranh tìm kiếm
lợi ích giữa các chủ thể kinh tế cũng dẫn đến hậu quả tiêu cực, trái với bản chất của chủ
nghĩa xã hội, như tính tự phát, gây mất cân đối nền kinh tế, đầu cơ trốn thuế, làm hàng giả,

gian lận thương mại, huỷ hoại tài nguyên môi trường. Điều đó đặt ra yêu cầu, một mặt,
Nhà nước tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế tự do sản xuất kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, công khai, bình đẳng trước
pháp luật; mặt khác phải tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các thành phần
kinh tế, hướng kinh tế tư nhân đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng
+Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân (công
hữu) về tư liệu sản xuất; bao gồm các nguồn tài nguyên, khoáng sản thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các quỹ dự trữ
quốc gia, các quỹ bảo hiểm, hệ thống ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước,
phần vốn thuộc sở hữu toàn dân nằm trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác.
+vai trò chủ đạo. Nói đến vai trò chủ đạo là nói đến khả năng chi phối, định hướng,
dẫn dắt của một thành tố có vị trí nổi trội trong hệ thống làm cho hệ thống đó vận động
theo một khuynh hướng nhất định.
+Nội dung chủ đạo: Đi đầu về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã
hội và chấp hành luật pháp, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh
tế; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để Nhà nước thực hiện chức
năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân và chế độ xã
hội mới.
Để thực hiện tốt vai trò chủ đạo, đòi hỏi kinh tế nhà nước mà trực tiếp là các doanh
nghiệp nhà nước phải nắm giữ những vị trí then chốt, những “mạch máu” của nền kinh tế;
những cơ sở kinh tế quan trọng, đòi hỏi có lượng vốn đầu tư lớn, trình độ khoa học công
nghệ hiện đại, có khả năng chi phối nền kinh tế và đủ sức cạnh tranh bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác.
+Giải pháp để giữ vai trò chủ đạo:
Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước,
Đổi mới cơ bản mối quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp nhà nước, phân biệt rõ

chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.


10
Đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy hình thành các tập đoàn
kinh tế mạnh với sự tham gia cổ phần của nhiều tổ chức kinh tế trong và ngoài nước; trong
đó, Nhà nước giữ cổ phần chi phối.
- Thực tiễn đã chứng minh vai trò kinh tế nhà nước mà kinh tế tư nhân không thể thay
thế được.
Mặc dù kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân ) có tác dụng to lớn trong việc
huy động vốn, mở mang ngành nghề, tạo việc làm và thu nhập cho nhiều đối tượng trong
xã hội, góp phần phát triển nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Nhưng kinh tế tư nhân không thể thay thế được.
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo phát triển các tp kinh tế khác phát triển theo định
hướng XHCN
( xăng dầu, giá cả các mặt hàng…)
Câu 6: Mô hình CNH ở nước ta là: “hướng mạnh về XK đồng thời thay thế NK
những sp trong nước sản xuất có hq”nhưng từ thực tế cuộc khũng hoảng về kinh tế, tài
chính thế giới năm 2008- 2009, có ý kiến cho rằng mô hình này đã không còn phù hợp mà
nên quay về thị trường nội địa, đ/c cho biết chính kiến của mình về vấn đề này?
- Kquát mô hình CNH tập trung CNH hướng nội, CNH hướng ngoại( đặc trưng của
mô hình, trường hợp vận dụng, ưu và nhược điểm)
+ Các mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự lựa chọn của Việt Nam
Thực tiễn lịch sử thế giới cho thấy quá trình CNH ở từng nớc, trong từng giai đoạn lịch
sử có những điểm rất khác nhau. Việc nghiên cứu sự đa dạng, tìm ra những nét chung mang
tính quy luật và nét đặc thù của mỗi nớc có ý nghĩa rất quan trọng trong lựa chọn mô hình
CNH, HĐH thích hợp với Việt Nam.
* Mô hình CNH cổ điển của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ tiến hành. Mô hình CNH
này hoàn toàn khác với hiện nay. Họ chỉ có thể CNH bắt đầu từ nông nghiệp (tích luỹ vốn,

mở rộng thị trờng, tìm kiếm nguồn lao động… đều từ nông nghiệp) với những biện pháp
cỡng chế tàn bạo, đó cũng là quá trình tích luỹ nguyên thuỷ TBCN nh C.Mác mô tả “đầy
máu và bùn nhơ trong từng lỗ chân lông của nó”. Mô hình CNH cổ điển gắn liền với cuộc
cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, do vậy trong chừng mực nhất định CNH cũng đồng nghĩa
với cơ khí hoá. Là những nớc đầu tiên tiến hành CNH nên họ bắt đầu nghiên cứu phát
minh ra máy hơi nớc, máy dệt, xây dựng đờng sắt…con đờng tự nghiên cứu, tự chế tạo,
tự áp dụng vào sản xuất để CNH là con đờng vừa dài, vừa gian nan kéo dài hàng trăm
năm, thể hiện tính điển hình về phát triển tuần tự của quá trình CNH.
* Mô hình “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…” với cơ chế kế hoạch hoá tập
trung:
Mặc dù mô hình này đã tạo ra những kỳ tích của XHCN trong những năm 30, song
nó bộc lộ nhiều khiếm khuyết khi áp dụng vào các nớc XHCN đi sau Liên Xô, tạo ra gánh
nặng nợ nần cho các quốc gia nghèo, ít vốn do đồng vốn quay vòng chậm, bị thất thoát,
lãng phí, hiệu quả kinh tế – xã hội thấp, gây ra những mất cân đối nghiêm trọng do tập
trung đầu t cho công nghiệp nặng và sao nhãng đầu t cho công nghiệp nhẹ và nông nghiệp.
Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã thừa nhận những sai lầm
khi áp dụng mô hình trên là “nóng vội u tiên phát triển công nghiệp nặng” khi cha tạo ra đợc những tiền đề kinh tế – xã hội từ trong nớc cần thiết cho sự u tiên đó.
* Mô hình “CNH thay thế nhập khẩu” (CNH hướng nội):
Diễn ra vào đầu những năm 50 của thế kỷ XX hàng loạt các quốc gia Á - Phi – Mỹ
la tinh giành được độc lập dân tộc, với hy vọng xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự
chủ, thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân. Nội dung cơ bản của mô hình là: tạo


11
điều kiện cho công nghiệp chế biến trong nớc phát triển bằng một hàng rào thuế quan bảo
hộ nghiêm ngặt, loại bỏ cạnh tranh của hàng ngoại; khuyến khích các doanh nghiệp trong
nớc sản xuất những hàng hoá vốn phải nhập khẩu; cắt giảm nhập khẩu bằng hạn ngạch để
tiết kiệm ngoại tệ. Để có thể vận dụng mô hình này vào Việt Nam cần đánh giá một số u
điểm và khuyết điểm của nó:
Về ưu điểm: Với quy mô dân số trên 86 triệu người(2009), Việt Nam có một thị trường

nội địa rộng lớn. tạo điều kiện cho công nghiệp chế biến trong nớc phát triển, khuyến khích
sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu, giúp các doanh nghiệp trong nước mở rộng sản xuất, tạo
thêm việc làm, một vấn đề đang bức xúc hiện nay. Mô hình “hướng nội” cũng chống được bóc
lột tài nguyên và nhân công của tư bản nước ngoài.
Về hạn chế: Hạn chế sự phát triển của ngoại thương cả về tỷ trọng lẫn quy mô. Do phải
nhập ngày càng nhiều những yếu tố của đầu vào để thay thế nhập khẩu, trong khi xuất
khẩu ngày càng ít đi về tỷ trọng dẫn đến sự thâm hụt trong cán cân thanh toán, làm tăng
thêm gánh nặng nợ nần. Mặt khác, mô hình “hướng nội” gây ra nhiều lãng phí do chi
phí sản xuất trong nớc quá lớn, giá cả cao hơn quốc tế trong khi chất lượng lại kém hơn,
dẫn đến sức mua của hàng hoá nội địa bị bão hoà, HH dư thừa thu nhập của dân cư tăng
chậm. Ngoài ra chính sách bảo hộ còn là mảnh đất màu mỡ cho nạn buôn lậu, trốn thuế…
làm rối loạn thị trường và phần nào triệt tiêu hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô của chính
phủ. Do có bảo hộ khuyến khích hỗ trợ cho người sản xuất trong nớc thì lại làm hại đến
ngời tiêu dùng. Nó cũng dẫn đến việc di chuyển vốn, t liệu lao động và nhân công từ
những lĩnh vực sản xuất có hiệu quả sang những lĩnh vực kém hiệu quả vì có bảo hộ. Do
vậy, về lâu dài sự lựa chọn của Việt Nam không phải là mô hình này, tuy không thể bỏ
qua được nó ở những bớc khởi đầu.
+ Mô hình “CNH hướng về xuất khẩu” (hướng ngoại):
Phần lớn các nước châu Á, sau một thời gian áp dụng mô hình CNH hướng nội và
nhận ra những khuyết điểm của nó đã chuyển sang thực hiện mô hình hướng ngoại với nội
dung chính là: khai thác tối đa các lợi thế so sánh của đất nước như nguồn nhân lực, vị trí
địa lý, tài nguyên…để phát triển các ngành các lĩnh vực sản xuất hàng hoá và dịch vụ xuất
khẩu, tìm ra chỗ trống trên thị trường thế giới để từng bước xâm nhập và chiếm lĩnh. Khi
triển khai mô hình trên, tuy ở mỗi nước có sự ưu tiên khác nhau, phù hợp đặc điểm của
nước mình song họ đều thực thi một số chính sách như sau:
Thực hiện “cách mạng xanh” nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm để ổn
định kinh tế – xã hội và phát triển kinh tế nông thôn, coi đây là tiền đề quan trọng để bảo
đảm sự bền vững cho quá trình CNH.
+ Xoá bỏ mọi hàng rào hành chính ngăn cản sự giao lưu kinh tế giữa các vùng
trong nước.

+ Giữ giá lao động ở mức thấp để giảm chi phí sản xuất tạo ra lợi thế so sánh trong
cạnh tranh.
+ Áp dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt có lợi cho xuất khẩu.
+ Nâng cấp và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng để tạo thuận lợi cho các hoạt động đầu
tư và giao lưu hàng hoá.
+ Khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Trong điều kiện hiện nay, đối với Việt Nam “CNH hướng về xuất khẩu” sẽ tạo ra
được các lợi thế cơ bản sau đây: đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu là điều kiện tiên quyết
để mở rộng ngoại thơng (tăng xuất, tăng nhập). Trên cơ sở đó, các nguồn tài nguyên và
nhân lực đã và đang được khai thác sẽ đợc sử dụng có hiệu quả hơn do tận dụng đợc lợi
thế so sánh. Và do u thế mới về mở rộng quy mô sản xuất mà các nguồn tài nguyên chưa
được khai thác sẽ trở nên có giá trị như dầu khí, kim loại đen, vàng, đá quí, đất hiếm…và


12
kể cả đất đai nhằm vào xây dựng các công trình công nghiệp và dịch vụ. Việt Nam có một
thị trường lao động dồi dào, có trình độ, cần cù, có tri thức, vào loại rẻ nhất so với các nớc
trong khu vực, đó là lợi thế mà chúng ta cần khai thác để sản xuất hàng xuất khẩu, tạo ra
nhiều chỗ làm mới, rồi từ đó mà nâng dần hiệu quả sử dụng lao động. CNH hướng về xuất
khẩu sẽ tạo ra một số ngành, một số lĩnh vực và một số vùng kinh tế phát triển nhanh bởi
những lợi thế và chính sự phát triển đó sẽ có tác dụng lan toả lôi kéo sự phát triển chung
của cả nớc.
Mặc dù có nhiều ưu điểm, song chúng ta cần hết sức chú ý khi vận dụng mô hình
trên vì các nước NICs và ASEAN áp dụng nó trong điều kiện quốc tế rất khác với hiện
nay, lúc đó còn chiến tranh lạnh và chiến tranh Việt Nam để tìm kiếm các ưu đãi về thị trường, vốn, công nghệ từ các cường quốc kinh tế phương Tây và Nhật Bản, đến nay điều
kiện đó không còn nữa. Cũng trong thời gian đó chiến tranh thương mại, chính sách bảo
hộ mậu dịch của các nước lớn chưa trở nên gay gắt, chưa xuất hiện các khối kinh tế theo
kiểu liên kết khu vực nh gần đây. Vì vậy, với điều kiện quốc tế đã thay đổi, nhất là Việt
Nam lại đang nằm trong tầm ngắm của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, chúng ta
không thể áp dụng một cách máy móc mô hình “hớng về xuất khẩu” của thời kỳ chiến

tranh lạnh. Cũng cần phải lưu ý rằng xuất khẩu trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa
học- công nghệ hiện đại cũng đã bao hàm những nội dung mới không chỉ là xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ mà còn là xuất khẩu vốn, công nghệ, lao động kỹ thuật, nghệ thuật
quản lý, môi trờng thơng mại.
Từ sự phân tích những ưu khuyết điểm của các mô hình trên khi vận dụng nó vào
thực tiễn Việt Nam, Nghị quyết Đại hội VIII đã khẳng định chúng ta sẽ sử dụng mô hình
CNH, HĐH hỗn hợp: “Hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những
sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”.
- Khẳng định mô hình CNH ở VN là phù hợp.
+ các mô hình CNH đều có ưu và nhược điểm, áp dụng nguyên xi vào VN là không
phù hợp
+ h.nay toàn CH kinh tế đang là xu thế của TG, có tác động tích cực và tiêu cực, có
thời cơ (được ưu đải về thương mại, tránh PBĐ xử, n,cao thế và lực trong TM qtế, mở rộng
thị trường tăng cường XK thu hút đầu tư chuyển giao cụng nghệ n.cao vị t VN trên trường
qtế , tăn sức CT nâng cao HQ) và thách thức (sức CT HH, DV đội ngũ DN còn yếu, Hệ T
pluật, chớnh sỏch kinh tế TM chưa hoàn chỉnh, năng lực cbộ qlý còn nhiều h.chế). Tuy
nhiên các nước trong đó có nước ta muốn phát triển kinh tế có HQ, phải mở cửa hội nhập
kinh tế QT, phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; phải đổi mới nâng cao trình độ KHCN.
+ Nước ta có trên 86 t người, thu nhập đạt 1.200 USD/ người/năm, nhiều lợi thế,
tiềm năng chưa được khai thác và sử dụng có HQ.
- Kết luận; Từ sự phân tích mô hình CNH hướng nội, CNH hướng ngoại
Có những ưu, khuyết điểm của các mô hình trên khi vận dụng nó vào thực tiễn Việt
Nam là phù hợp, không nên chỉ có hướng nội, Nghị quyết Đại hội VIII đã khẳng định
chúng ta sẽ sử dụng mô hình CNH, HĐH hỗn hợp: “Hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng
thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”.
Câu 7: có ý kiến cho rằng: Kinh tế thị trường XHCN và Kinh tế thị trường TBCN
cũng không khác gì nhau. Đ/c hãy phản bác lại ý kiến này.?
_ Khái niệm kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ
kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi.
Về thực chất, kinh tế thị trường cũng chính là kinh tế hàng hoá; bởi đều gắn liền với

các phạm trù: hàng hoá, tiền tệ, trao đổi, giá cả, giá trị; nó đều là kiểu tổ chức kinh tế trong
đó từ sản xuất đến tiêu dùng phải thông qua khâu trung gian đó là thị trường. Kiểu tổ chức


13
kinh tế này chỉ ra đời, tồn tại và phát triển khi hội đủ các điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định.
Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước can thiệp trực tiếp vào
nền kinh tế. Nói cách khác, đó là nền kinh tế được điều tiết bởi cả “bàn tay hữu hình” và
“bàn tay vô hình”. Sự điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế không chỉ bằng các công
cụ pháp luật, chính sách mà còn bằng cả lực lượng vật chất, tài chính, tiền tệ. Giai đoạn
này diễn ra từ đầu thế kỷ XX, gắn liền với quá trình chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Kinh tế thị trường hiện đại phát triển rõ nét từ nửa sau thế kỷ XX cùng với sự phát
triển của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, sự thống trị của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước và quá trình toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ.
Như vậy, kinh tế thị trường tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, nó
trở thành động lực thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát triển. Song, kinh tế thị trường không
phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là kết quả của quá trình phát triển lực
lượng sản xuất, là sản phẩm của văn minh nhân loại. Tuy vậy, sự phát triển của kinh tế
hàng hoá, kinh tế thị trường chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định, nhất là
chế độ kinh tế xã hội, do đó hình thành nên các kiểu kinh tế thị trường khác nhau. Vì vậy,
nhận thức đúng về kinh tế thị trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định
mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
-Trước đây nhận thức của ta về kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường: là chỉ có ở các
nước TBCN mà thôi, chúng ta rất có quan điểm bai trừ những gì thuộc về các nước
TBCN..
- Nhận thức hiện nay chúng ta đã nhận thức đúng bản chất về về kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trường: KĐ, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa
tư bản mà là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất, là sản phẩm của văn minh

nhân loại. Nhận thức đúng về kinh tế thị trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
xác định mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sự tồn tại của kinh tế thị trường
là một tất yếu khách quan, là yêu cầu nội tại của nền kinh tế
- Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
+ Không phải là kinh tế tập trung bao cấp.
+ Không phải là kinh tế thị trường tự do tư bản.
+ Không phải là kinh tế thị trường XHCN.
+ Nền Kinh tế vừa vận động theo quy luật của thị trường vừa được dẫn dắt, quy
định bởi bản chất của CNXH.
- Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta không giống nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường hiện đại XHCN.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, còn có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới,
chưa có đầy đủ những yếu tố của CNXH. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta có những đặc trưng sau đây:
+ Mục đích của nền kinh tế thị trường là: nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; do đó, mục tiêu hàng đầu
của phát triển nền kinh tế thị trường là nhằm giải phóng sức sản xuất, động viên mọi
nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu
quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân. Đồng thời với việc phát triển lực


14
lượng sản xuất, là quy trình từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến nhằm xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Cơ sở kinh tế - xã hội của nền kinh tế thị trường: dựa trên nhiều hình thức sở

hữu, nhiều TP kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại ba chế
độ sở hữu tư liệu sản xuất cơ bản (toàn dân, tập thể, tư nhân). Từ ba chế độ sở hữu cơ bản
đó, hình thành nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân
(cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Các thành phần kinh tế tồn tại khách quan, hoạt động theo pháp luật, đều là bộ
phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Sự tồn tại
của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế sẽ tạo ra động lực cạnh tranh để hình
thành một nền kinh tế thị trường năng động và phát triển.
Tuy nhiên, mỗi thành phần kinh tế tham gia vào thị trường có bản chất kinh tế - xã
hội riêng, do đó, mục đích và xu hướng vận động khác nhau. Các thành phần kinh tế dựa
trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất sẽ hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận đơn thuần và
mang tính tự phát tư bản chủ nghĩa. Điều này dẫn tới mâu thuẫn với mục tiêu chủ nghĩa xã
hội và khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng chệch hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, cùng với việc khuyến khích các thành phần kinh tế kinh doanh hợp pháp,
làm giầu chính đáng, Nhà nước cần có nhiều biện pháp ngăn chặn và hạn chế khuynh
hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực, hướng sự phát triển các thành phần kinh tế này
theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Nhà nước phải thường xuyên quan tâm xây
dựng, củng cố và phát huy có hiệu quả thành phần kinh tế nhà nước, làm cho thành phần
kinh tế này đủ mạnh, thực sự giữ vai trò chủ đạo của mình đối với nền kinh tế. Vì vậy, phải
nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước, đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường là vấn đề có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, tất cả các nền kinh tế thị trường trên thế giới đều vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Sự quản lý của nhà nước là cần thiết nhằm sửa chữa ở
một mức độ nào đó những thất bại, khuyết tật của thị trường. Nhưng điều khác biệt trong

cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường ở nước ta là ở chỗ nhà nước quản lý nền kinh tế đó
là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước
đối với nền kinh tế thị trường thực chất là tăng cường sự tác động của yếu tố chính trị xã
hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những khuyết tật của
thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa là cực kỳ quan trọng. Nó đảm bảo
cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội
trong từng bước phát triển. Không ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt được sự chênh lệch
giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước. Đồng
thời, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế, phương pháp quản lý của


15
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất; phát huy mặt tích cực,
hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động và toàn xã hội. Như vậy, sự quản lý của nhà nước ta đối với nền kinh tế thị trường
theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường, vừa đảm bảo cho nền kinh tế phát triển
cân đối, vừa phát huy được tính năng động và nhạy cảm của thị trường, khắc phục dần sự
cạnh tranh vô chính phủ hoặc độc quyền đã từng được xem như là thuộc tính vốn có của
nền kinh tế thị trường.
+Thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Mỗi chế độ kinh tế xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối
do quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Những quan hệ phân phối
và hình thức thu nhập chỉ là hình thức biểu hiện về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên cơ sở của
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, tương ứng với nó sẽ tồn tại nhiều hình
thức phân phối thu nhập như: phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế; phân phối theo
vốn và tài sản đóng góp; phân phối theo giá trị sức lao động; phân phối thông qua các quỹ
phúc lợi xã hội. Bên cạnh các hình thức phân phối do quan hệ sản xuất chi phối cũng tồn
tại các hình thức phân phối theo nguyên tắc của thị trường. Trong các hình thức phân phối
đó, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế giữ vai trò chủ đạo nhằm giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy,
phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
thực hiện mục dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và đảm bảo
cho con người được phát triển tự do và toàn diện.
+ Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế mở của, hội nhập
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta đang xây dựng
khác với nền kinh tế khép kín, kinh tế chỉ huy, tự cấp tự túc trước đây. Ngày nay, do tác
động của cách mạng khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đã tạo nên sự
phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia trong quá trình phát triển. Do đó, mở cửa, hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới vừa phù hợp với xu thế thời đại vừa là yêu cầu khách
quan đối với nước ta. Chỉ có xây dựng nền kinh tế mở mới phát huy tối đa nội lực, tranh
thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá
các hoạt động kinh tế đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế
giới, thực hiện những cam kết và thông lệ trong quan hệ quốc tế, đồng thời giữ được độc
lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Những đặc trưng trên cho thấy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta khác về chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Do đó, cần phải kết hợp
những mặt tích cực của cơ chế thị trường với bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để phát
triển một nền kinh tế thị trường hiện đại, văn minh, xã hội chủ nghĩa. Văn kiện đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “Phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa”.

+ Tăng Trưởng Nền kinh tế gắn với công bằng xh.
- Từ ll trên chứng tỏ rằng kinh tế thị trường XHCN khác nhau về b/c với kinh tế thị
trường TBCN.( bóc lột, bất bình đẳng)
Câu 8 : Có nhận định cho rằng: Toàn cầu hóa kinh tế mang lại cả cơ hội và thách thức


16
đều lớn. Đ/c hãy làm sáng tỏ nhận đinh này.?
Trong quá trình trực tiếp chỉ đạo công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga, Lê nin đã
tiên đoán rằng: Toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, tinh thần của nhân loại ngày càng quốc
tế hóa ngay cả dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và trong tương lai CNXH sẽ hoàn toàn quốc
tế hóa đời sống của nhân loại.
K/N,ĐCSVN: toàn cầu hóa kinh tế là quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất trên
phạm vi quốc tế, các quan hệ kinh tế vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc lan tỏa ra
phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hóa, dịch vụ, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động .....vận
động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; mối quan hệ kinh tế giữa
các quốc gia, khu vực đan xen, tùy thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế
khách quan, lôi kéo ngày càng nhiều nước tam gia, xu thế này đang bị các nước phát triển
và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫm, vừa có tích
cực, vừa có tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Toàn cầu hóa kinh tế là giai đoạn phát triển cao hơn của quốc tế hóa đời sống kinh
tế. Quốc tế hóa đời sống kinh tế gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp thì toàn cầu hóa
gắn liền với những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại.
Toàn cầu hóa cũng khác với vấn đề toàn cầu. Nó diễn tả một quá trình làm giảm bớt sự
khác biệt giữa các quốc gia, cốt lõi của toàn cầu hóa là toàn cầu hóa kinh tế. Từ lĩnh vực
kinh tế, với sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông hiện đại, toàn cầu hóa lan đến các
lĩnh vực khác như văn hóa, xã hội.....đem đến cho các quốc gia trên thế giới cả những điều
tốt và điều xấu như các tệ nạn ma túy, mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em.....Cần phải lưu ý
một vấn đề là: Toàn cầu hóa của ai và vì ai? Toàn cầu hóa dưới góc nhìn của giai cấp vô
sản hay giai cấp tư sản. của các nước tư bản phát triển hay các nước đang phát triển. Rõ

ràng có hai tư tưởng đối lập nhau về toàn cầu hóa và từ đó trong thế giới ngày nay có hai
cách hành xử đối lập nhau trước xu thế toàn cầu hóa.
Theo quan điểm của C.Mác: xã hội hóa hay rộng hơn là quốc tế hóa là một trong
những biểu hiện của quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội loài người tiến tới chủ
nghĩa cộng sản, một thế giới đại đồng cả về kinh tế lẫn văn hóa của những người lao động
tự do và phát triển toàn diện. Dự báo về xã hội tương lai (thế giới đại đồng) của C.Mác có
cơ sở vật chất thực tiễn từ chính bản chất tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản
xuất sẽ dẫn tới xã hội hóa sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Những vấn đề lý luận này
C.Mác đã trình bày trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và trong bộ “Tư
bản”. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã đưa lý luận này vào thực tiễn thành lập Hội
đồng Tương trợ Kinh tế. Lý luận toàn cầu hóa kinh tế của giai cấp tư sản chính là lý luận
kinh tế của “Chủ nghĩa tự do mới” với khẩu hiệu: Tự do hóa thương mại toàn cầu, tự do
đầu tư, tự do luân chuyển vốn trên thị trường tài chính toàn cầu. Hiện nay, cùng với việc
tuyên truyền lý thuyết tự do kinh tế, các nước tư bản chủ nghĩa đang tìm mọi cách sử dụng
các thể chế kinh tế quốc tế để thực hiện một thứ chủ nghĩa thực dân kiểu mới tinh vi hơn,
hoàn hảo hơn lên các nước đang phát triển đó là: “Chủ nghĩa thực dân thương mại”, “Chủ
nghĩa thực dân thông tin”, “Chủ nghĩa thực dân công nghệ”, “Chủ nghĩa thực dân văn
hóa”. Vì vậy, hiểu rõ thực chất của toàn cầu hóa, nhận thức đầy đủ về nó là một việc hệ
trọng cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, toàn cầu hóa dù xét nó dưới nhãn quan gì, ở góc
độ nào? cũng bao hàm sự khác biệt về lợi ích của các chủ thể tham gia; lợi ích của giai
cấp này với giai cấp khác, của dân tộc này với dân tộc khác, của khu vực này với khu vực
khác. Tính không thuần nhất về lợi ích đó đang buộc các quốc gia phải chủ động tham gia
và có cách ứng xử thích hợp để tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, thách thức do toàn cầu
hóa mạng lại.
- Quan niêm khác nhau về tác động của TCH:


17
+ Một số người cho rằng với các nước đang phát triển thì toàn cầu hóa kinh tế đem
lại thách thức tối đa, lợi ích tối thiểu.

+ Quan điểm khác lại xem cả lợi ích và thách thức là tương đối lớn.
+ Nhiều nguyên thủ quốc gia các nước đang phát triển cảnh báo nguy cơ đe dọa độc
lập chủ quyền các nước này từ tác động của toàn cầu hóa kinh tế.
+Trên quan điểm Mác- xít khi xem xét tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến sự phát
triển của các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng không nên tuyệt đối hóa
mặt tích cực hoặc tiêu cực mà phải thấy rằng cả cơ hội và thách thức đều rất lớn. Vấn đề
quan trọng là mỗi nước có tranh thủ lấy cơ hội được hay không? Bởi cơ hội và thách thức
có thể chuyển hóa cho nhau.
- Những tác động tích cực, TCực của toàn cầu hóa đối với Việt Nam
+ Tác động tích cực:
* Tạo đk mở rộng thị trường
Nước ta có quy mô dân số khoảng 86 triệu người. Thu nhập bình quân đầu người
năm 2006 khoảng 729 USD, năm 2008 đạt 1030 USD, 2009 là 1200USD ( tiêu chí chung
nước nghèo kém phát triển có thu nhập bình quân đầu người là dưới 960 USD/năm). Như
vậy, dù đứng thứ 13 trên thế giới về dân số đông, nhưng dung lượng thị trường nội địa đối
với nước ta thực tế là nhỏ do thu nhập của dân cư thấp. Việt Nam đã tham gia vào các tổ
chức kinh tế khu vực và thế giới. Là thành viên của AFTA, hàng hóa của Việt Nam có thể
vào thị trường các nước ASEAN với số dân trên 500 triệu người. Là thành viên thứ 150
của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với các
nước thành viên còn lại. Theo sự thỏa thuận chung bắt đầu từ năm 2020, hàng rào thuế
quan của các nước thuộc diễn đàn hợp tác kinh tế Châu A- Thái Bình Dương (hiện có 21
nước thành viên) sẽ được rỡ bỏ, hàng hóa Việt Nam có thể dễ dàng vào các nước thành
viên APEC. Tuy nhiên, hàng hóa Việt Nam bán được hay không lại tùy thuộc vào khả
năng cạnh tranh, chất lượng, mẫu mã, giá cả, khả năng tiếp thị...
* Tăng khả năng thu hút các nguồn vốn, khả năng mở rộng thị trường sẽ quyết định
khả năng mở rộng đầu tư.
Việc mở rộng thị trường bên ngoài và thị trường nội địa là một trong những yếu tố
hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư. Lợi thế về thị trường do toàn cầu hóa mang lại sẽ kéo
theo lợi thế về thu hút đầu tư nước ngoài và nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta qua
đó sẽ thúc đẩy việc sử dụng các nguồn vốn trong nước có hiệu quả. Vốn FDI đầu tư của

nước ngoài vào nước ta năm 2006 là13,5 tỷ USD, năm 2007 là 20,3 tỷ USD(ODA=5,7 tỷ),
năm 2008 là 64 tỷ USD. Năm 2007 các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam vay 5,7 tỷ USD.
* Tạo cơ hội để Việt Nam có thể tiếp nhận công nghệ mới của thế giới.
Toàn cầu hóa kinh tế làm cho thành tựu khoa học- công nghệ được chuyển giao
nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi, qua đó các nước đi sau có thể dễ dàng tiếp cận với
chúng để phát triển. Nước ta có điều kiện để lựa chọn công nghệ ngoại sinh phù hợp nhằn
nâng cao mặt bằng công nghệ quốc gia; giá trị h h 70-80% Nvliệu, 20-30%GT hàm lượng
trí tuệ, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; thực hiện tốt hơn một trong những nội
dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ
của nền sản xuất xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng lao động với
công nghệ tiên tiến, hiện đại.
* Đẩy nhanh các bước điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước, nhằm phát huy có hiệu
quả các nguồn lực trong nước, khai thác và phát huy được các lợi thế so sánh của nước ta,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong các nguồn lực để phát triển, nguồn nhân lực (con người và trí tuệ) ngày càng
có tầm quan trọng đặc biệt. Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, tuy tỷ lệ có văn hóa phổ


18
thông cao hơn cả Thái Lan và Trung quốc nhưng đào tạo tay nghề chuyên môn kỹ thuật lại
kém. Đào tạo đại học thì nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành. Sự hiểu biết về thị trường và
nghiệp vụ kinh doanh thấp... dẫn đến lao động phổ thông và tỷ lệ lao động thất nghiệp khá
cao; thiếu lao động kỹ thuật và các chuyên gia đầu ngành. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp
Việt Nam khai thông nguồn lực. Chúng ta có thể xuất khẩu lao động sang các nước, có thể
sử dụng lao động trong nước thông qua hợp đồng gia công chế biến xuất khẩu, chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng phát huy lợi thế so sánh ...Đồng thời nước ta có thể nhập
khẩu các loại lao động kỹ thuật, chuyên gia ở các ngành, các lĩnh vực mà nước ta chưa có
hoặc còn thiếu.
* Tạo thế đan cài lợi ích giữa các nước tạo điều kiện để duy trì sự ổn định cho phát
triển của mỗi nước, cho phép nước ta lợi dụng cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc tế để

bảo vệ lợi ích của mình, tránh bị phân biệt đối xử.
Về mặt chính trị, quốc phòng, an ninh, quá trình toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo ra thế
đan cài lợi ích, tùy thuộc lẫn nhau, có lợi cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, cho hòa
bình, hợp tác và phát triển. Ngay cả các nước phát triển cũng tùy thuộc đáng kể vào các
nước đang phát triển, Do lợi ích của các nước phát triển, của ba trung tâm kinh tế Mỹ, Tây
Âu, Nhật Bản không phải lúc nào cũng thống nhất nên các nước đang phát triển có thể lợi
dụng sự chế ước lẫn nhau giữa các nước này trong quan hệ đa phương để duy trì hòa bình,
chủ quyền quốc gia dân tộc. Tuy nhiên các cơ hội tích cực trên lại luôn tồn tại đan xen với
các thách thức. Do vậy, mỗi nước có khai thác được cơ hội thuận lợi nhiều hay ít lại tùy
thuộc rất quyết định vào sự nỗ lực chủ quan của mỗi nước trong xây dựng chiến lược quốc
phòng của mình phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hay không?
+ Những tác động tiêu cực (thách thức) của toàn cầu hóa đến Việt Nam
*Sức ép của những biến động kinh tế thế giới sẽ gây áp lực lớn đối với các nước và
Việt Nam;
Do tác động t.cực làm nền kinh tế VN dễ bị tổn thương.
Thực tế đã chứng tỏ, bất kỳ có một sự trục trặc nào ở một khâu hay ở một quốc gia
nào đó cũng có thể lan rộng và nhanh ra toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài cính tiền tệ ở
Thái Lan tháng 8 năm 1997, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới bắt đầu bùng phát
từ cuộc khủng hoảng cho vay để đầu tư vào thị trường bất động sản Mỹ cuối năm 2007
đầu năm 2008; cuộc khủng hoảng năng lượng do cuộc chiến tranh ở Nam Tư, I Rắc ...đã
cho thấy rõ điều đó.
Năm 2009 bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới tốc độ tăng trưởng
kinh tế của nước ta chậm lại, để kích cầu đầu tư nhà nước phải chi 1 tỷ USD; những nền
kinh tế lớn phải chi vài trăm tỷ đến cả 1000Tỷ USD (Mỹ phải chi tới 830tỷ USD) để cứu
vãn nền kinh tế. đầu năm 2010 Giá xăng dầu TG tăng -> giá vn tăng ảnh hưởng kinh tế cp
bù 500đồng/lít...
* Nguy cơ thôn tính do cạnh tranh không cân sức với các công ty khổng lồ chèn ép.
(cạnh tranh nội bộ ngành….cá quốc gia với nhau)
Tự do hóa thương mại đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp phát triển.
Vì các sản phẩm của họ chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp do đó có sức cạnh

tranh cao, dễ chiếm lĩnh thị trường. Mặt khác, các nước ngày càng áp dụng những hình
thức bảo hộ công khai (áp dụng hạn ngạch) hoặc trá hình như tiêu chuẩn lao động, môi
trường, an sinh xã hội ...), hoặc các rào cản về kỹ thuật (quy cách, mẫu mã, dư lượng
kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm chế biến của nông nghiệp...). Cấm
chuyển giao những thành tựu công nghệ mới, họ dùng chiêu bài “sở hữu công nghiệp, sở
hữu trí tuệ” để ngăn cản các nước nghèo tiếp cận công nghệ mới, công nghệ tiên tiến.
Ngày nay thị trường đang thực sự trở thành chiến trường, trong khi đó tiềm lực kinh tế


19
của Việt Nam còn quá mỏng, chất lượng lao động, trình độ công nghệ, năng lực quản lý
còn non kém...và những điều đó đã dẫn đến sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn
thấp. Sự thua thiệt trên thị trường là điều chúng ta phải hết sức quan tâm nhất là khi
chúng ta đã là thành viên của WTO.
Một lĩnh vực của toàn cầu hóa kinh tế là toàn cầu hóa thị trường tài chính, một lọai
thị trường còn mới mẻ với Việt Nam và chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là
thị trường chứng khoán, ở đó buôn bán các tư bản giả. Đây cũng là một thách thức với
nước ta khi tham gia thị trường này.
* Lợi dụng toàn cầu hóa kinh tế, các nước đế quốc đứng đầu là Mỹ luôn lợi dụng sự
bất ổn về kinh tế để can thiệp, thực hiện chiến lược “tham dự”, áp dụng các hình thức chủ
nghĩa thực dân kinh tế để khuất phục các nước theo kiểu Mỹ; thủ tiêu chế độ XHCN ở các
nước XHCN còn lại; bản sắc văn hóa của dân tộc dễ bị đe dọa.
- C/m thông ví dụ thực tiễn:
Câu: 9: Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế, có nhận định cho rằng: Không ai
được tất cả và cũng không ai mất tất cả, nhưng chỉ có một trường hợp mất hết nếu
quốc gia nào đó không tham gia vào quá trình nay. Đ/c có nhận xét gì về nhận định
này? Đối với nước ta nên làm thế nào để đi lên trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế?
- Nhận định trên là đúng và k/q về xu thế mở cửa hội nhập kinh tế qtế hiện nay trước
tác động toàn cầu hoá về kinh tế,
- Hội nhập kinh tế qtế của nước ta là k/q

+k/n: Hội nhập kinh tế qtế là quỏ trỡnh “mở cửa” nền kinh tế nhằm kết hợp cỏc
nguồn lực trong nước với các nguồn lực nước ngoài để phát triển và xác lập vị thế của
mỡnh trong quan hệ kinh tế quốc tế.
- Là quỏ trỡnh mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên
quy mô toàn cầu.
- Là quỏ trỡnh tham gia giải quyết cỏc vấn đề KT- XH có tính chất toàn cầu như vấn
đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống…
- Là quỏ trỡnh tham gia loại bỏ dần cỏc hàng rào thương mại, thanh toán quốc tế và
việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
- Là quỏ trỡnh thực hiện những điều chỉnh về chính sách, luật lệ ở trong nước cho
thích ứng với tỡnh hỡnh và thụng lệ quốc tế.
* Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rừ: “Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế theo lộ trỡnh phự hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến
năm 2010 và tầm nhỡn đến năm 2020”1.114
+ Xuất phát từ xu thế khách quan của toàn cầu hóa kinh tế,
một xu thế lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, mà nước ta không thể đứng
ngoài cuộc. để mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học- công nghệ giữa các nước trên quy
mô toàn cầu tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội có tính chất toàn cầu như vấn
đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống... loại bỏ các hàng rào trong
thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các
nước ngày càng sâu rộng.
+Xuất phát từ nhận thức mới về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
* Quan niệm trước đây:
Thường hiểu nền kinh tế độc lập, tự chủ là một nền kinh tế đóng cửa, khép kín, tự
cung, tự cấp, không giao lưu với thị trường quốc tế.
* Quan niệm hiện nay:
1

Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,2006, tr.114



20
nền kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế đáp ứng được cơ bản những nhu cầu thiết
yếu của phát triển kinh tế, nâng cao đời sống kinh tế của nhân dân, tăng cường quốc
phòng và an ninh, chủ động hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới.
+ xuất phát từ yêu cầu của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp hiện nay.
Trong điều kiện các nước tư bản phát triển đang chi phối quá trình toàn cầu hóa thì
đối với các nước đang phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế phải được coi là một bộ phận
của cuộc đấu tranh vì độc lập chủ quyền của đất nước.
Đối với Việt Nam đang trên con đường xây dựng CNXH thì đó là cuộc đấu tranh
vừa mang sắc thái của cuộc đấu tranh dân tộc, vừa mang sắc thái của cuộc đấu tranh giai
cấp vì CNXH ( cuộc đt ai thắng ai...) . Bởi bên cạnh những thuận lợi lớn như có nhiều cơ
hội để tranh thủ được nguồn vốn, công nghệ, thị trường...của thế giới đẩy nhanh phát triển
kinh tế trong nước, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cho nước ta nhiều thách thức
gay gắt. Nổi bật là:
- Chúng ta cam kết thực hiện những quy định nhiều khi rất khắt khe trong các quan
hệ song phương và đa phương. Đáng chú ý là Mỹ và các cường quốc tư bản phương Tây
đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và quân sự của mình để chi phối các tổ chức kinh tế tài
chính toàn cầu như IMF, WB, WTO, đề ra những luật chơi mang tính áp đặt ép buộc các
nước nghèo, thách thức độc lập chủ quyền của các nước đang phát triển và kém phát triển.
Vì vậy, nếu không chủ động hội nhập với những lộ trình hợp lý, phù hợp với sự chuẩn bị
trong nước thì sẽ phải trả giá đắt về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.
- Chúng ta phải chấp nhận những bất chắc khó lường ngày càng nhiều của nền kinh
tế thế giới. Những bất chắc ấy cũng dễ làm nảy sinh những phức tạp mới về quốc phòng,
an ninh của nước ta.
- Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh trên phạm vi quốc tế. Với một nền kinh tế còn
nhỏ yếu, sức cạnh tranh thấp như nước ta, nếu lộ trình hội nhập không tạo đủ thời gian và
khả năng cho các doanh nghiệp trong nước thích ứng thì nguy cơ các doanh nghiệp này dễ
bị phá sản, bị thôn tính sẽ ngày càng nhiều. Điều đó dễ dẫn đến những bất ổn về chính trị,
an ninh quốc gia.

- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch
thâm nhập để thực hiện “dbhb” trên các lĩnh vực, nếu chúng ta chủ quan thiếu các biện
pháp phòng ngừa hữu hiệu. Trong thực tế Mỹ và các thế lực thù địch đã tận dụng triệt để
quá trình toàn cầu hóa kinh tế để thực hiện chiến lược chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Vì thế Đảng ta chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chứ không chấp
nhận bất cứ giá nào.
- Thực tiễn quá trình HNKTQT của VN đã c/m.
Toàn cầu hóa kinh tế làm cho: Chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các nớc ngày
càng sâu, rộng; Quan hệ kinh tế giữa các nớc không chỉ giới hạn trong lĩnh vực ngoại thơng mà mở rộng sang các lĩnh vực khác, bao trùm các giai đoạn của quá trình tái sản xuất
(Hoạt động ngoại thơng thúc đẩy sản xuất của nớc ta phát triển. Đến năm 2005 đã có 10
mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt mức từ 1 tỷ USD/năm trở lên. Việt Nam
thu gần 63 tỷ USD từ xuất khẩu: dầu thô10,45 tỷ USD, than đá 1,44 tỷ USD, dệt may 9,1
tỷ USD, giày dép 4,69 tỷ USD, điện tử và linh kiện máy tính 2,7 tỷ USD, đồ gỗ 2,78 tỷ
USD, thủy sản 4,56 tỷ USD, gạo 2,9 tỷ USD, cà phê 2 tỷ USD, cao su 1,6 tỷ USD, trong
năm 2008 xuất hiện thêm dây điện và cáp điện 1,014 tỷ USD.); Các nguồn lực (vốn, công
nghệ, lao động, nguyên nhiên liệu, hàng hoá, dịch vụ…) luân chuyển thông thoáng trên
phạm vi toàn cầu; Hình thành các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu với các đối t ợng sở
hữu, quản lý, thể chế… mang tính quốc tế, nh: WTO, APEC, EU....Nước ta đẩy mạnh
HNKTQT trên tất cả các lĩnh vực kinh tế -xó hội, đến nay đã quan hệ 222…


21
- HNKTQT phải nắm chắc MT, QĐ chỉ đạo.
+ Mục tiêu
Theo tinh thần Nghị quyết 07/NQ-TW, Bộ Chính trị Ngày 7/11/2001: Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức
quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt thực hiện
thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội năm 20012010.
+ Những quan điểm chỉ đạo hội nhập kinh tế quốc tế

* Một là, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tố
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường.
* Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội
nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã
hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
* Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh
hoạt trong xử lý hai mặt của hội nhập, tùy theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm
cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn,
nóng vội.
* Bốn là, nhận thức đầy đủ đặc điểm kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ
trình hợp lý vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định
của các tổ chức quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ các ưu đãi dành cho các nước đang
phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế
thị trường.
* Năm là, kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững
an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia.
Nhằm củng cố chủ quyền an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội
nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” với nước ta.
+ Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế.
* Về trao đổi thương mại: Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan bao gồm
các hạn chế định lượng như quota, chế độ giấy phép xuất- nhập khẩu thay vào đó là thuế
(trừ những lĩnh vực liên quan đến QP, AN, trật tự an toàn xã hội, đạo đức và truyền thống
dân tộc). Các tiêu chuẩn dịch tễ, tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng trên cơ sở khoa học và
công bằng, không được lạm dụng để cản trở thương mại. Toàn bộ biểu thuế nhập khẩu
được ràng buộc ở mức hiện hành và giảm dần theo lịch trình thực hiện. Công nhận quyền
kinh doanh của các chủ thể kinh tế nước ngoài trên lãnh thổ nước mình và được bình đẳng
trước pháp luật.

* Về dịch vụ: WTO quy ước 12 lĩnh vực và 155 tiểu ngành các nước mở cửa thị
trường cho nhau với tất cả bốn phương thức cung cấp dịch vụ, như cung cấp qua biên giới;
xử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ; hiện diện thương mại thông qua liên doanh, chi nhánh
hoặc công ty 100% vốn nước ngoài; hiện diện thể nhân nước ngoài.
* Về đầu tư: WTO quy ước các nước cam kết không áp dụng đối với đầu tư nước
ngoài các yêu cầu nội địa hóa, về cân bằng xuất- nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn
ngoại tệ.
- Một số kquả, hạn chế hội nhập kinh tế quốc tế
+ KQ: phá được thế bao …F mở rộng QHKT ĐN, nâng cao vị thế….


22
Khắc phục được sự hẩng hụt của thị trường, mở rộng thị trường XK
Thu hút vốnn đầu tư nước ngoài, tiếp thu KHCN, cbộ ql, kdoanh.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cc lao động nâng cao HQ sản xuất, kinh
doanh
+ Hạn chế:chưa hoàn tất ct chuẩn bị cho hội nhập(ct n/c triển khai chậm)Luật p, c s
TM chưa hoàn chỉnh.
Năng lực QL S X, K D còn yếu, quy mô nhỏ, sức ct Qtế chưa cao
đội ngũ cbộ yếu về ct t/c, chỉ đạo chưa thích hợp…
- Một số biện pháp để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, Tiến hành làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền giải thích trong tổ chức
đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và trong các tầng lớp nhân dân về
chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế
Hai là, Chính phủ cùng các bộ, ngành, doanh nghiệp khẩn trương xây dựng chiến
lược tổng thể về hội nhập với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể;
phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp trong việc tích cực
chuẩn bị hội nhập. Theo đó lộ trình hội nhập phải đảm bảo vừa từng bước rỡ bỏ các hàng
rào thuế quan và phi thuế quan một cách hợp lý, vừa khuyến khích và buộc các doanh
nghiệp trong nước phải tích cực đổi mới trình độ công nghệ, cơ chế quản lý kinh tế,

chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tìm kiếm thị trường.....để nâng dần sức cạnh tranh. ở đây, vấn
đề củng cố và đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước để hình thành những tập đoàn kinh
doanh mạnh, có hiệu quả làm nòng cốt trong hội nhập kinh tế quốc tế có vị trí đặc biệt.
Cần đặc biệt quan tâm bảo đảm sự phát triển của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân
hàng, viễn thông.....là những lĩnh vực quan trọng mà chúng ta còn yếu kém.
Ba là, chủ động và khẩn trương đẩy mạnh đổi mới công nghệ và trình độ quản lý,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
nhằm khai thác tối đa mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, tạo lên sự chuyển
biến thực sự về cơ cấu lao động, đầu tư, ngành nghề và vùng lãnh thổ; nâng cao khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, gắn thị trường
trong nước với thị trường thế giới, tập trung sức phát triển các ngành có tính cạnh tranh
cao, có lợi thế thương mại so sánh lớn, những mặt hàng mà thị trường thế giới cần. Đi theo
hướng đó, việc quy hoạch phát triển lâu dài ngành hàng nào đó cần phải tính đến các cam
kết quốc tế mà ta sẽ phải thực hiện để tránh đầu tư vào lĩnh vực không có lợi thế cạnh
tranh khi thực hiện tự do hóa thương mại.
Bốn là, Tích cực tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với một khung pháp lý được hoàn thiện cho phép tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế,
chính sách và thủ tục hành chính.
để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất kinh doanh của
mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển, phát huy tốt
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. điều đáng chú ý là các nguồn lực tạo nên lợi thế so sánh
trong quan hệ kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay không chỉ nguồn lực về tài nguyên
thiên nhiên phong phú, vị trí thận lợi, nguồn lao đông dồi dào và thông minh, nguồn vốn
trong dân cư còn tiềm tàng chưa được khai thác mấy, mà còn là lợi thế về chế độ chính trị
ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững, bản sắc văn hóa dân tộc sâu sắc, khối đại
đoàn kết toàn dân vững chắc... Do đó, để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, việc phát
huy nội lực của đất nước cần phải hướng vào phát huy hết các tiềm năng, thế mạnh đó
nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp giành lợi thế về mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Năm là, Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế,



23
trong đó đặc biệt chú ý đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tham gia quá trình này
nhằm bảo đảm cho họ có đủ năng lực và trình độ, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề
nghiệp để bảo vệ có hiệu quả lợi ích quốc gia, dân tộc trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Sáu là, Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, gắn kết
chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với quốc phòng, an ninh ngay từ khâu hình thành kế
hoạch xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không
ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội. Mặt khác, các
cơ quan quốc phòng và an ninh quốc gia phải có kế hoạch chủ động hỗ trợ làm nòng cốt
trong giữ vững sự ổn định chính trị của đất nước để tạo môi trường thuận lợi cho quá trình
hội nhập.
Bảy là, Tích cực, chủ động thực hiện các cam kết với WTO theo lộ trình, hình thức,
bước đi phù hợp.
Tám là, Kiện toàn Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và thẩm quyền giúp
thủ tướng chính phủ tổ chức chỉ đạo các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế.
Vậy HNKTQT là vấn đề hết sức cần thiết nhằm kết hợp các nguồn lực trong nước
với các nguồn lực nước ngoài để phát triển kinh tế đất nước và xỏc lập vị thế của mỡnh
trong quan hệ kinh tế quốc tế. nếu không hội nhập….nền kinh tế không thể phát triển được
Câu 10: Có quan điểm cho rằng nước ta đã xác định hội nhập kinh tế quốc tế
thì không nên đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ làm gì. Đ/C hãy phản
bác quan điểm này?
- Khẳng định hội nhập kt quốc tế là yêu cầu khách quan
+k/n: Hội nhập kinh tế qtế là quỏ trỡnh “mở cửa” nền kinh tế nhằm kết hợp cỏc
nguồn lực trong nước với các nguồn lực nước ngoài để phát triển và xác lập vị thế của
mỡnh trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên
quy mô toàn cầu.

Là quá trình tham gia giải quyết cỏc vấn đề KT- XH có tính chất toàn cầu như vấn
đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống…
Là quá trình tham gia loại bỏ dần cỏc hàng rào thương mại, thanh toán quốc tế và
việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Là quá trình thực hiện những điều chỉnh về chính sách, luật lệ ở trong nước cho
thích ứng với tỡnh hỡnh và thụng lệ quốc tế.
Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rừ: “Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phự hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến
năm 2010 và tầm nhỡn đến năm 2020”2.114
+ Xuất phát từ xu thế khách quan của toàn cầu hóa kinh tế,
Một xu thế lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, mà nước ta không thể đứng
ngoài cuộc. để mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học- công nghệ giữa các nước trên quy
mô toàn cầu tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội có tính chất toàn cầu như vấn
đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống... loại bỏ các hàng rào trong
thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các
nước ngày càng sâu rộng.
+Xuất phát từ nhận thức mới về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
* Quan niệm trước đây:
2

Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,2006, tr.114


24
Thường hiểu nền kinh tế độc lập, tự chủ là một nền kinh tế đóng cửa, khép kín, tự
cung, tự cấp, không giao lưu với thị trường quốc tế.
* Quan niệm hiện nay:
nền kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế đáp ứng được cơ bản những nhu cầu thiết
yếu của phát triển kinh tế, nâng cao đời sống kinh tế của nhân dân, tăng cường quốc
phòng và an ninh, chủ động hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới.

Để đánh giá nền kinh tế độc lập tự chủ phải hội tụ đầy đủ các yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất: Phải độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách phát triển kinh tế xó hội,
giữ vững định hướng XHCN.
Đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn phát triễn kinh tế - xó
hội của đất nước, từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không lệ thuộc vào nước
ngoài, nhưng không đồng nghĩa với đóng
cửa khép kín nền kinh tế mà chủ động, tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trước hết phải có tiềm lực kinh tế đủ mạnh cả tài nguyên thiên nhiên, vốn, và khoa học
công nghệ hiện đại, đặc biệt là nguồn nhân lực có trỡnh độ cao…để chủ động đáp ứng
kịp thời những nhu cầu cơ bản về sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, về cũng cố quốc
phũng an ninh của đất nước. Đồng thời nền kinh tế có khả năng ứng phó kịp thời với
những tác động xấu từ bên ngoài và khẳng định vị thế của mỡnh trong quan hệ kinh tế
đối ngoại hiện nay được Đảng ta đánh giá: Có mức tích luỹ cao trong nội bộ nền kinh
tế, cơ cấu kinh tế hợp lý, cú sức cạnh tranh cao, kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại,
phát triễn mạnh một số ngành công nghiệp nặng then chốt, đứng vững trong cơn bảo
khủng hoóng, suy thoỏi kinh tế, tài chớnh toàn cầu, duy trỡ mức phỏt triễn kinh tế cao
so với cỏc nước trong khu vực và trên thế giới. Có năng lực nội sinh về khoa học công
nghệ, giữ vững ổn định kinh tế, tài chính vĩ mô; đảm bảo an ninh lương thực, an toàn
năng lượng, tài chính, môi trường…
Thứ hai: Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất
nước.
Độc lập tự chủ về kinh tế sẽ tạo cơ sở vững chắc để hội nhập kinh tế quốc tế có
hiệu quả. bởi độc lập tự chủ về kinh tế mới bảo đảm an sinh xó hội, phỏt huy mọi
nguồn lực trong nước phát triển năng lực sản xuất hàng hoá với năng suất cao, chất
lượng tốt, tạo uy tín cao trong nền kinh tế thế giới, nhờ đó đẩy mạnh được xuất khẩu
thu ngoại tệ tiếp tục đẩy mạnh tái sản xuất xó hội. đồng thời tiếp thu khoa học công
nghệ hiện đại trên thế giới áp dụng vào sản xuất- kinh doanh.nhằm tạo thành nguồn lực
tổng hợp để phát triễn kinh tế nhanh và bền vững.
Quỏ trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cần thiết để xây dựng và

củng cố nền kinh tế độc lập, tự chủ. hội nhập kinh tế quốc tế là quỏ trỡnh giao lưu hợp
tác về kinh tế thu hút các nhà đầu tư, vốn và chuyển ghao khoa học công nghệ vào Việt
Nam phát triển năng lực sản xuất , kinh doanh, chất lượng sản phẩm và hiệu quả lao
®éng cao hơn, tạo cơ sở vËt chÊt, kỷ thuật ngày càng nhiều cho đất nước. Nhờ đó tính
chất độc lập, tự chủ về kinh tế được cũng cố và phát triển vững chắc hơn. bảo đảm nhu
cầu vật chất, tinh thần của nhân dân cao hơn.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan của thời đại công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, là con đường, biện pháp, cách thức hợp lý nhất tạo sức
mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xó hội của đất nước. Xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay với mục đích khai thác tốt mọi tiềm năng,
lợi thế phục vụ cho công cuộc đổi mới của đất theo định hướng XHCN, đồng thời phá
vở thế bị động về kinh tế, tránh được sự rủi ro về kinh tế và khũng hoảng kinh tế toàn


25
cầu, giảm tối đa sự phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài, phát triển kinh tế bền
vững.
Theo đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X xác định: “Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, nhân dân là chủ thể
của hội nhập và được hưởng thành quả của hội nhập. Mọi chính sách kinh tế và cơ chế
quản lý phải nhằm phát huy tính chủ động của mọi người dân, phát huy khả năng sáng
tạo và nguồn lực của nhân dân, đi đôi với việc lấy người dân làm đối tượng phục vụ.
Thực hiện đúng yêu cầu dân biết, dân bàn, dân làm dân kiểm tra, tạo ra sự đồng thuận
cao trong toàn xó hội” 3.
+ xuất phát từ yêu cầu của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp hiện nay.
Trong điều kiện các nước tư bản phát triển đang chi phối quá trình toàn cầu hóa thì
đối với các nước đang phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế phải được coi là một bộ phận
của cuộc đấu tranh vì độc lập chủ quyền của đất nước.
Đối với Việt Nam đang trên con đường xây dựng CNXH thì đó là cuộc đấu tranh
vừa mang sắc thái của cuộc đấu tranh dân tộc, vừa mang sắc thái của cuộc đấu tranh giai

cấp vì CNXH ( cuộc đt ai thắng ai...) . Bởi bên cạnh những thuận lợi lớn như có nhiều cơ
hội để tranh thủ được nguồn vốn, công nghệ, thị trường...của thế giới đẩy nhanh phát triển
kinh tế trong nước, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cho nước ta nhiều thách thức
gay gắt. Nổi bật là:
Chúng ta cam kết thực hiện những quy định nhiều khi rất khắt khe trong các quan
hệ song phương và đa phương. Đáng chú ý là Mỹ và các cường quốc tư bản phương Tây
đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và quân sự của mình để chi phối các tổ chức kinh tế tài
chính toàn cầu như IMF, WB, WTO, đề ra những luật chơi mang tính áp đặt ép buộc các
nước nghèo, thách thức độc lập chủ quyền của các nước đang phát triển và kém phát triển.
Vì vậy, nếu không chủ động hội nhập với những lộ trình hợp lý, phù hợp với sự chuẩn bị
trong nước thì sẽ phải trả giá đắt về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Chúng ta phải chấp nhận những bất chắc khó lường ngày càng nhiều của nền kinh
tế thế giới. Những bất chắc ấy cũng dễ làm nảy sinh những phức tạp mới về quốc phòng,
an ninh của nước ta.
Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh trên phạm vi quốc tế. Với một nền kinh tế còn
nhỏ yếu, sức cạnh tranh thấp như nước ta, nếu lộ trình hội nhập không tạo đủ thời gian và
khả năng cho các doanh nghiệp trong nước thích ứng thì nguy cơ các doanh nghiệp này dễ
bị phá sản, bị thôn tính sẽ ngày càng nhiều. Điều đó dễ dẫn đến những bất ổn về chính trị,
an ninh quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch thâm
nhập để thực hiện “dbhb” trên các lĩnh vực, nếu chúng ta chủ quan thiếu các biện pháp
phòng ngừa hữu hiệu. Trong thực tế Mỹ và các thế lực thù địch đã tận dụng triệt để quá
trình toàn cầu hóa kinh tế để thực hiện chiến lược chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Vì thế Đảng ta chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chứ không chấp
nhận bất cứ giá nào.
- Mối quan hệ giữa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với Xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ.
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ có mối
qhệ b/c với nhau nhằm kết hợp nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát
triển kinh tế xó hội đất nước.

3

Đảng CSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoỏ X, Nxb CTQG, H, 2007,
tr.45


×