Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO lý LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG dư TRONG tác PHẨM tư bản của các mác, ý NGHĨA đối với NHIỆM vụ PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.74 KB, 27 trang )

1
LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG TÁC PHẨM TƯ BẢN
CỦA CÁC MÁC VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
LỜI MỞ ĐẦU
“Tư bản” là tác phẩm đồ sộ, vĩ đại của C.Mác. Tác phẩm thiên tài này của
Mác không chỉ là một công trình nghiên cứu kinh tế hết sức vĩ đại, mà còn có ý
nghĩa to lớn về mặt triết học. Có thể coi “Tư bản” là tác phẩm kinh điển, chủ yếu
của chủ nghĩa Mác, có giá trị lịch sử nhất, hàm chứa nhiều nội dung và gắn bó
với Mác suốt 40 năm từ năm 1843 đến năm 1883.
Các nội dung Mác nghiên cứu đề cập trong bộ “Tư bản” đã để lại cho
nhân loại nói chung và đặc biệt là giai cấp vô sản trên toàn thế giới một kho tàng
tri thức khoa học, đồ sộ. Điều đó, đòi hỏi các thế hệ sau Mác cần phải tiếp tục
nghiên cứu bổ sung, làm cho học thuyết kinh tế của Mác ngày càng hoàn thiện
và đáp ứng ngày càng tốt hơn những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Trong các nội
dung của tác phẩm, chúng ta thấy: Học thuyết giá trị thặng dư có một vị trí đăc
biệt quan trọng, là một trong những phát kiến vĩ đại của Mác. Chính học thuyết
giá trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đưa học thuyết chủ nghĩa chủ
nghĩa xã hội trở thành một khoa học thực sự. V.I Lê-nin chỉ rõ: “Học thuyết giá
trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác”.
Tuy nhiên, từ khi lý luận giá trị thặng dư của Mác ra đời cho đến nay các
thế lực chống Mác luôn luôn tìm mọi cách tấn công vào lý luận này. Đăc biệt,
hiện nay có một số quan điểm cho rằng học thuyết giá trị thặng dư của Mác
không còn giá trị nữa, họ phê phán, hoài nghi thậm chí có người phủ nhận học
thuyết giá trị thặng dư không chỉ về phương pháp nghiên cứu mà cả những luận
điểm cơ bản trong lý luận này. Do đó, việc đánh giá một cách khách quan, khoa
học và khẳng định những giá trị lý luận - thực tiễn to lớn của học thuyết này là
việc làm hết sức cần thiết nhằm đập tan những luận điểm sai trái phản động,
khẳng định sức sống của chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết giá trị thặng dư
nói riêng trong thời đại ngày nay.




2
Do điều kiện thời gian nghiên cứu tác phẩm còn có những hạn chế nhất
định, mặt khác các nội dung của bộ “Tư bản” rất rộng và bao chứa trên nhiều
lĩnh vực. Do đó, trong bài thu hoạch này, tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ vấn
đề: Lý luận giá trị thặng dư trong bộ “Tư bản” của C.Mác và ý nghĩa đối với
nhiệm vụ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
1. LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ - HÒN ĐÁ TẢNG TRONG BỘ
“TƯ BẢN” CỦA C. MÁC.
1.1. Khái lược tiểu sử của C.Mác, sự ra đời và kết cấu của bộ “Tư
bản”.
Bộ “Tư bản” là tác phẩm thiên tài và là một công trình nghiên cứu kinh tế
to lớn của C.Mác. Sinh ngày 5/5/1818, trong một gia đình thuộc tầng lớp trung
lưu Do Thái ở Trier miền Rénani nước Đức, năm 1835, C.Mác vào trường đại
học tổng hợp Bon và sau đó học đại học tổng hợp Béclin, khoa luật, sử, triết
học. Năm 1841, ông nhận bằng tiến sĩ triết học. Năm 1842, ông làm chủ tờ báo
Sông Ranh và bắt đầu nghiên cứu kinh tế chính trị. Năm 1843, C.Mác cưới
Gienni Phôn Vextơphalen, sau đó đến Pari để xuất bản tạp chí Niên giám Pháp Đức. ở đó, C.Mác đã gặp Ph. Ăngghen và từ đó hai ông đã trở thành những người bạn thân thiết của nhau suốt đời và có thể nói tình bạn của các ông hiếm có
tình bạn nào sánh được.
Là người sáng lập chủ nghĩa Mác, nhà lý luận kiệt xuất, nhà tư tưởng của
giai cấp vô sản và người hoạt động thực tiễn, C.Mác luôn theo dõi sát phong trào
cách mạng thế giới, đặc biệt là Công xã Pari. Trong quãng đời hoạt động cách
mạng của mình C.Mác đã để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm nổi tiếng, đặc biệt
là bộ “Tư bản”.
Để viết tác phẩm đồ sộ, vĩ đại này, Mác đã phải làm việc suốt hơn bốn
mươi năm, từ những năm 40 của thế kỷ 19 tới khi người qua đời (14-3-1883).
Quyển I được xuất bản năm 1867, các quyển tiếp theo được xuất bản ngay sau
khi Mác mất và do Ph.Ăngghen biên tập.



3
Tác phẩm thiên tài này của Mác là một công trình nghiên cứu hết sức vĩ
đại. Chúng ta biết, “Tư bản”ra đời là sự nối tiếp, phát triển các tác phẩm nghiên
cứu kinh tế trước đó như: Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850, Ngày 18 tháng
sương mù của Lui Bonapacte, Cách mạng ở Trung Quốc và ở châu Âu, Sự thống
trị của Anh ở Ấn Độ, Tình cảnh của công nhân công xưởng… Trong đó Bản
thảo kinh tế 1857 tuy không được xuất bản, nhưng có thể coi đó là di bản đầu
tiên của bộ Tư bản. Cuối năm 1859, C.Mác xuất bản tác phẩm: Góp phần phê
phán khoa kinh tế chính trị. Đến tháng 7- 1863, Mác đã hoàn thành một bản thảo
lớn: Phê phán kinh tế chính trị học, với 23 quyển vở, gồm 1472 trang. Tác phẩm
có thể coi là bản thảo thứ 2 của bộ “Tư bản”
Bản thảo lần thứ ba của bộ “Tư bản” được viết năm 1864-1865. Lần này,
Mác đã thay đổi cơ cấu của tác phẩm và có dự kiến viết bộ “Tư bản” gồm 4
quyển. Trong đó, 3 quyển đầu trình bày hầu như toàn bộ các học thuyết kinh tế
của Mác.
Bộ “Tư bản” được C.Mác trình bày bao gồm 4 quyển (hay 7 tập từ tập 23
đến tập 26 phần III – C.Mác và Ăng ghen toàn tập ), được khái quát bằng kết
cấu như sau:
Quyển I: Quá trình sản xuất của tư bản, gồm 8 phần, 32 chương, và có
thể khái quát thành 4 nội dung quan trọng đó là: Lý luận giá trị, lý luận giá trị
thặng dư, lý luận về tiền công, lý luận về tích luỹ tư bản và tích luỹ nguyên thuỷ
tư bản. Mác mở đầu công trình của mình bằng việc nghiên cứu hàng hoá. Bởi,
“trong những xã hội do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối thì của
cải biểu hiện ra là một “đống hàng hoá khổng lồ”, còn từng hàng hoá một thì
biểu hiện ra là hình thái nguyên tố của của cải ấy”1. Nhưng vấn đề trung tâm của
quyển I bộ “tư bản” là giá trị thặng dư. Mác nghiên cứu, vạch rõ thực chất của
giá trị thặng dư và sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành tư bản…nghiên cứu bản
thân tư bản được sản xuất ra như thế nào trong lịch sử.

Tổng kết toàn bộ quyển I, Mác viết: “Phương thức chiếm hữu tư bản chủ
nghĩa do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra, và do đó cả chế độ tư hữu
1

C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 61


4
tư bản chủ nghĩa nữa đều là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân
dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra
sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. đó là sự
phủ định cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu, mà
khôi phục là chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư
bản chủ nghĩa: trên cơ sở hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất
và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra”2
Quyển II: Quá trình lưu thông tư bản, Có 3 phần 21 chương, gồm 3 nội
dung: Những biến hoá hình thái của tư bản và tuần hoàn của những biến hoá
hình thái ấy, chu chuyển của tư bản, tái sản xuất và lưu thông tư bản xã hội.
Trong quyển này, Mác đi sâu phân tích quá trình tuần hoàn của tư bản nhằm
vạch rõ hơn nữa bản chất của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các tư bản cá biệt và tư
bản xã hội nói chung được trình bày trong một thể thống nhất- dưới dạng tư bản
công nghiệp- coi như những nhà tư bản công nghiệp đảm nhiệm toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh và chiếm đoạt toàn bộ giá trị thặng dư của xã hội.
Trong quá trình lưu thông của tư bản, tư bản đã biểu hiện dưới những hình
thái cụ thể hơn như: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá. Trong
các hình thái ấy, quan hệ giai cấp bị xuyên tạc và bị che dấu; sự tự lớn lên của tư
bản biểu hiện thành kết quả của sự vận động của tư bản, của sự thay thế hình
thái của tư bản; và sự vận động đó càng diễn ra nhanh bao nhiêu thì tư bản càng
tự lớn lên bấy nhiêu. Trong tuần hoàn của tư bản đã diễn ra sự thống nhất giữa
sản xuất và lưu thông, và những hình thái nói trên của tư bản bắt nguồn từ sự

thống nhất ấy.
Quyển III: Toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, gồm 7 phần,
52 chương, với 7 nội dung đó là: Sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành lợi nhuận
và tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận, sự chuyển hoá lợi nhuận thành
lợi nhuận bình quân,quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân có xu hướng giảm
xuống, sự chuyển hoá tư bản hàng hoá thành tư bản kinh doanh hàng hoá và tư
bản kinh doanh tiền tệ( thương nghiệp và ngân hàng), Sự phân chia lợi nhuận
2

C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 1059


5
thành lợi tức và thu nhập của chủ xí nghiệp. Tư bản cho vay, sự chuyển hoá của
lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô, các loại thu nhập và những nguồn của chúng.
Mác quay trở về điểm xuất phát khi bắt đầu nghiên cứu, tức là quay về với hiện
thực tư bản chủ nghĩa như nó đã trực tiếp biểu hiện ra. Quan hệ giai cấp biểu
hiện ra một cách xuyên tạc và bị che dấu nhất, nhưng đồng thời cũng cụ thể
nhất, và do đó cũng hiện thực nhất.
Đặc điểm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa
không phải là quan hệ giai cấp, sự bóc lột giai cấp nói chung, mà là quan hệ giai
cấp nằm cái vỏ tư bản chủ nghĩa. Do đó, Mác nghiên cứu mối quan hệ giai cấp
ấy bắt đầu trong quyển I và kết thúc việc nghiên cứu đó ở quyển III bộ “tư bản”.
Quyển IV: Phê phán lịch sử lý luận giá trị thặng dư. Đến năm 1865, bản
thảo hoàn chỉnh với ba quyển đầu đã viết xong, chỉ còn bản thảo quyển IV đang
ở giai đoạn tài liệu ban đầu.
Năm 1867, quyển I bộ Tư bản được xuất bản bằng tiếng Đức, số lượng
1000 bản. Ngay từ khi C.Mác còn sống, nó đã được tái bản tới 138 lần, bằng 14
thứ tiếng với khối lượng 5- 6 triệu bản. Quyển I bộ Tư bản ra đời đánh dấu bước
ngoặt thực sự trong khoa kinh tế chính trị và được đánh giá như là “tiếng sét nổ

giữa bầu trời quang đãng của chủ nghĩa tư bản”. Trong quyển I bộ “Tư bản”,
C.Mác đã trình bày ba học thuyết kinh tế quan trọng nhất: giá trị- lao động; giá
trị thặng dư và tích luỹ tư bản.
Như vậy, lý luận giá trị thặng dư được Mác trình bày ở quyển I bộ “Tư bản”.
1.2. Vị trí, đối tượng, phương pháp nghiên cứu và kết cấu của lý luận
giá trị thặng dư.
Lý luận giá trị thặng dư của C.Mác có vị trí đặc biệt quan trọng, là một
trong hai phát kiến vĩ đại về mặt xã hội của Mác ở thế kỷ XIX. Chính học thuyết
giá trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đưa học thuyết chủ nghĩa xã hội
trở thành một khoa học thực sự. V.I. Lênin cho rằng: “ học thuyết giá trị thặng
dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác” 3, mà “học thuyết kinh tế của
Mác lại là nội dung chủ yếu của Chủ nghĩa Mác”4
3

V.I. Lª nin : Toµn tËp, tËp 23, Nxb TiÕn bé, M, 1980, , Tr: 55.

4

S®d, t. 26, 1980, tr 60.


6
Nếu như ở phần I của bộ “Tư bản” đối tượng nghiên cứu của lý luận giá
trị là nghiên cứu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong trạng thái mầm mống,
thì đối tượng nghiên cứu của lý luận giá trị thặng dư là nghiên cứu sự tồn tại và
phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thông qua việc tìm ra hàng hoá
sức lao động với tư cách là điều kiện quyết định để tiền chuyển hoá thành tư
bản, tìm ra quy luật giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB và sứ
mệnh của giai cấp vô sản, tức là nghiên cứu trực tiếp quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa trong trạng thái hình thành và tồn tại.

Phương pháp Mác sử dụng để nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung, giá
trị thặng dư trong xã hội tư bản nói riêng là phương pháp trừu tượng hoá khoa
học. Đây là phương pháp này đòi hỏi phải loại bỏ khỏi quá trình và hiện tượng
được nghiên cứu những cái đơn nhất, ngẫu nhiên, tạm thời; để tách ra những
hiện tượng và quá trình phổ biến, vững chắc để nắm lấy cái bản chất, tất yếu của
các hiện tượng và các quá trình kinh tế ấy. Phương pháp trừu tượng hoá đi từ
hiện tượng để lần mò tìm bản chất của nó, bên cạnh đó, Mác còn sử dụng
phương pháp kết hợp giữa lôgic và lịch sử.
Chính nhờ phương pháp trừu tượng hoá khoa học mà Mác đã làm cho học
thuyết giá trị thặng dư của mình trở thành một trong hai phát kiến vĩ đại. Các
nhà kinh tế học tư sản thời Mác cũng đã phải thừa nhận phương pháp của Mác
và nhờ đó, Mác đã được đặt lên ngang hàng những trí tuệ có năng lực kiệt xuất.
Lý luận giá trị thặng dư của C.Mác được C.Mác trình bày tập trung trong
quyển I bộ “Tư bản”, được kết cấu từ phần thứ hai đến phần thứ năm, với 13
chương. Cụ thể là:
Phần thứ hai: Nghiên cứu sự chuyển hoá của tiền thành tư bản đồng thời
với sự chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá.
Phần thứ ba: Nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối, vạch rõ
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản là sản xuất giá trị thặng dư, cơ sở tồn tại
và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Phần thứ tư: Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư tượng đối
Phần thứ năm: Phân tích tổng hợp hai hình thức sản xuất giá trị thặng dư
tương đối, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và mối quan hệ của chúng.


7
Các phần trên C.Mác đã vạch rõ bản chất bóc lột, mục đích và phương
tiện bóc lột của chủ nghĩa tư bản là sản xuất giá trị thặng dư, nhưng Mác chưa
nói đến quy luật giá trị thặng dư. Chỉ đến chương XXIII, khi phân tích quy luật
phổ biến của tích luỹ tư bản chủ nghĩa, Mác mới nói đích danh quy luật giá trị

thặng dư: “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất này”5. Đến đây, Mác đã xây dựng hoàn chỉnh lý luận giá
trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây là nền tảng, cơ sở lý luận
quan trọng nhất để Mác tiếp tục nghiên cứu, phân tích quá trình lưu thông của tư
bản và toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa.
1.3. Nội dung cơ bản của lý luận giá trị thặng dư
Ở phần thứ nhất, trong chương hàng hoá và tiền Mác đã cho rằng; Hàng
hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con
người thông qua mua bán, trao đổi với nhau. Hàng hoá là một phạm trù lịch sử.
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính đó của
hàng hoá do tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định. Lich
sử phát triển của kinh tế hàng hoá qua nhiều giai đoạn, với nhiều hình thức trao
đổi từ hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị đến hình thái mở rộng, hình
thái chung, và đến hình thái tiền tệ. Như vậy, tiền tệ tự phát ra đời trong quá
trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Mác cho rằng tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hoá, là sản phẩm của
quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Bản chất của tiền là một hàng
hoá, nhưng đó là hàng hoá đặc biệt và nó đóng vai trò làm vật ngang giá chung
cho tất cả các hàng hoá khác.
Để tiến hành nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư, trước hết Mác đi sâu
phân tích và trình bày sự chuyển hoá của tiền tệ thành tư bản thông qua việc
phân tích công thức chung của tư bản (T- H - T’).
C.Mác cho rằng: lưu thông hàng hoá là khởi điểm của tư bản, khi kinh tế
hàng hoá phát triển đến một trình độ nhất định thì cùng với lưu thông hàng hoá
giản đơn theo công thức (H - T - H), tức là sự chuyển hoá của hàng hoá thành
tiền tệ và sự chuyển hoá ngược lại của tiền thành hàng hoá, tức là bán để mà
5

C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, TËp 23, Nxb, CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 872.



8
mua. Nhưng bên cạnh đó, lại xuất hiện sự vận động của công thức (T - H - T),
tức là sự chuyển hoá của của tiền thành hàng hoá, và sự chuyển hoá ngược lại
của hàng hoá thành tiền, tức là mua để mà bán. Và C.Mác chỉ rõ: “trong sự vận
động của chúng, những đồng tiền nào đi theo vòng lưu thông cuối cùng này đều
được chuyển hoá thành tư bản, trở thành tư bản, và do mục đích của chúng cũng
đã là tư bản rồi”6. So sánh hai công thức trên giúp chúng ta nhận thấy sự giống
và khác nhau giữa lưu thông hàng hoá giản đơn và lưu thông hàng hoá tư bản
chủ nghĩa, nhưng đồng thời thông qua đó nó phản ánh trình độ phát triển khác
nhau trong từng giai đoạn của kinh tế hàng hoá. Mác nhận thấy trong công thức
này nó có mâu thuẫn. Đó là, nhìn bề ngoài sự vận động của tư bản qua công thức
(T - H - T) thì dường như tiền lớn lên trong lưu thông (lớn hơn so với số tiền đã
ứng ra lúc ban đầu). Số tăng thêm đó hay số dư so với giá trị lúc ban đầu, C.Mác
gọi đó là giá trị thặng dư và ký hiệu là (m). Mâu thuẫn này được C.Mác làm rõ
khi phân tích chúng.
Sự vận động của công thức chung của tư bản nhìn bề ngoài dường như
mâu thuẫn với các quy luật của sản xuất hàng hoá, dường như giá trị thặng dư do
lưu thông hàng hoá tạo ra. Thực tế nhiều người đã lầm tưởng rằng cả sản xuất và
lưu thông hàng hoá đều tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Bàn về vấn đề này,
C.Mác viết: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất
hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời
không phải trong lưu thông”7.
Giá trị thặng dư không thể xuất hiện từ lưu thông. Xét các trường hợp:
Trao đổi ngang giá; mọi người đều bán cao hơn giá trị hoặc mọi người đều mua
thấp hơn giá trị; hoặc có trường hợp chuyên mua rẻ, bán đắt. Các trường hợp
trên đều không làm tăng thêm giá trị hàng hoá. Do đó, lưu thông không tạo ra
giá trị và giá trị thặng dư. Song, nếu không lưu thông, tức là tiền để trong tủ sắt,
hàng hoá để trong kho, trong bãi thì cũng không thể có được giá trị thặng dư.
Như vậy, giá trị thặng dư vừa sinh ra trong quá trình lưu thông lại vừa không thể

sinh ra trong quá trình ấy. Đó chính là mâu thuẫn của công thức chung của tư
6
7

C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 222
C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb,CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 249


9
bản. Chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công công thức chung là nhà tư bản
phải mua được trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt, mà giá trị sử dụng của
nó có đặc tính là khi tiêu dùng thì đem lại lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản
thân nó, tức là đem lại giá trị thặng dư. Hàng hoá ấy chính là sức lao động,
C.Mác viết: “Một thứ hàng hoá mà khi tiêu dùng nó thực sự thì vật hoá được lao
động và do đó sẽ tạo ra được giá trị. Và người chủ tiền đã tìm được thứ hàng hoá
đặc biệt ấy trên thị trường: đó là năng lực lao động hay sức lao động” 8. Sự tiêu
dùng nó trong sản xuất đã tạo thêm giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Như vậy,
Mác là người đầu tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn công thức chung đó
bằng lý luận về hàng hoá sức lao động.
Định nghĩa về sức lao động Mác viết: “Sức lao động hay năng lực lao
động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể,
trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” 9. Như vậy, sức lao động gồm cả lao động cơ
bắp và lao động trí óc, cả thể lực và trí lực. Trong mọi xã hội, sức lao động đều
là yếu tố cơ bản của sản xuất. Nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có
hai điều kiện: thứ nhất, là người lao động phải có khả năng chi phối sức lao
động ấy, phải là người tự do sở hữu năng lực lao động, thân thể của mình và chỉ
bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định, Mác viết: “ Muốn cho người
chủ sức lao động ấy có thể bán được nó với tư cách là hàng hoá, thì người đó
phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó, người ấy phải là kẻ tự do

sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình” 10. Thứ hai, người chủ
sức lao động không có khả năng bán cái gì ngoài sức lao động chỉ tồn tại trong
cơ thể của anh ta, Mác viết: “...và mặt khác, anh ta không còn có một hàng hoá
nào khác để bán, nói một cách khác là trần như nhộng, hoàn toàn không có
những vật cần thiết để thực hiện sức lao động của mình”. 11 Sức lao động trở
thành hàng hoá thì nó cũng giống như các hàng hoá khác, có hai thuộc tính là
giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng nó là một hàng hoá đặc biệt, đặc biệt ở chỗ,
8

C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb,CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 251
C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 251
10
C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 251
11
C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 253
9


10
trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra
một hàng hoá nào đó thì sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.
Đây chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động.
Đặc điểm này là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của
tư bản. Để làm rõ hơn giá trị thặng dư được tạo ra như thế nào? C.Mác tiếp tục
nghiên cứu về quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Từ việc Mác nghiên cứu và đi đến kết luận: hàng hoá có hai thuộc tính là
giá trị sử dụng và giá trị; lao động sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt là lao
động cụ thể và lao động trừu tượng, nên quá trình sản xuất hàng hoá nói chung
và sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa nói riêng cũng có tính chất hai mặt. Một

mặt, đó là quá trình lao động, tức là quá trình kết hợp sức lao động với tư liệu
sản xuất để tạo ra những giá trị sử dụng với quy cách, phẩm chất nhất định, đáp
ứng nhu cầu xã hội. Trong bất cứ xã hội nào, quá trình lao động cũng là sự kết
hợp hai nhân tố người và vật, nhưng nó chỉ khác nhau ở trình độ phát triển của
lao động mà thôi. Mặt khác, lao động sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa nó là
quá trình tạo ra và làm tăng giá trị của hàng hoá, đây là quá trình mang tính đặc
thù của riêng của xã hội tư bản. Sở dĩ, nó có tính đặc thù như vậy là vì nó gắn
với hai điều kiện ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, gắn với cơ
sở kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và cơ sở xã hội là việc
cấu thành hai giai cấp cơ bản đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Đồng thời,
nó gắn với đặc điểm của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản phẩm mà
người công nhân tạo ra bị nhà tư bản bóc lột; người công nhân làm việc dưới sự
liểm kê, kiểm soát của nhà tư bản và do đó xuất hiện quan hệ tư bản thống trị lao
động làm thuê. Quá trình sản xuất, nhà tư bản cũng phải tuân theo quy luật giá
trị tức phải căn cứ vào thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng
hoá. Để làm rõ nội dung này C.Mác đã đưa ra ví dụ cả bằng thời gian lao động
cần thiết và cả biểu hiện tiền. Mác đã làm rõ quá trình tạo ra giá trị và quá trình
làm tăng giá trị. So sánh quá trình tạo ra giá trị với quá trình làm tăng giá trị
thấy: “Quá trình làm tăng giá trị chẳng qua cũng chỉ là quá trình tạo ra giá trị


11
được kéo dài quá một điểm nào đó mà thôi. Nếu quá trình tạo ra giá trị chỉ kéo
dài đến cái điểm ở đó giá trị sức lao động do tư bản trả được hoàn lại bằng một
vật ngang giá mới, thì đó chỉ là một quá trình giản đơn tạo ra giá trị. Còn nếu
như quá trình tạo ra giá trị vẫn tiếp diễn quá điểm đó, thì nó trở thành một quá
trình làm tăng giá trị”12.
Tiếp tục phân tích Mác làm rõ thời gian lao động tất yếu và thời gian lao
động thặng dư. Từ những ví dụ đó, Mác đã chứng minh rằng nhờ năng suất lao
động cao nên người công nhân chỉ dùng một phần ngày lao động để sản xuất ra

vật ngang giá với giá trị sức lao động của mình, được gọi là thời gian lao động
tất yếu (hay cần thiết). Phần ngày còn lại được gọi là thời gian lao động thặng
dư, trong đó người công nhân tạo ra một bộ phận giá trị mới dư ra ngoài giá trị
sức lao động. Như vậy, ngày lao động được chia làm hai phần; thời gian lao
động tất yếu và thời gian lao động thặng dư. Đến đây, chúng ta đi đến kết luận :
giá trị thặng dư là giá trị mới do lao động của người công nhân tạo ra ngoài giá
trị sức lao động, là kết quả lao động không công của công nhân cho nhà tư bản.
Mác viết: Bí quyết của sự tăng thêm giá trị của tư bản, quy lại là ở chỗ tư bản
chi phối được một số lượng lao động không công nhất định của người khác.
Nguồn gốc của giá trị thặng dư là lao động không được trả công của người lao
động làm thuê và được tạo ra trong quá trình sản xuất.
Tiếp tục làm rõ vai trò của mỗi bộ phận tư bản trong quá trình làm tăng
thêm giá trị. C.Mác phân tích tư bản bất biến và tư bản khả biến. Để sản xuất giá
trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao
động, tức là chuyển hoá tư bản tiền tệ thành hai hình thái khác nhau của tư bản
sản xuất. Một bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất trong quá
trình sản xuất. Giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công
nhân chuyển vào sản phẩm mới không tăng lên hay giảm đi. Bộ phận tư bản ấy
được gọi là tư bản bất biến (c). Bộ phận tư bản này không tạo ra giá trị thặng dư,
Mác viết: “ Trong quá trình sản xuất bộ phận tư bản biến thành nguyên liệu, vật
liệu phụ và tư liệu lao động, không thay đổi đại lượng giá trị của nó. Vì vậy tôi
gọi nó là bộ phận lao động bất biến của tư bản hay vắn tắt hơn là tư bản bất
12

C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 291-292


12
biến”13. Đối với bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì lại khác. Sau quá
trình sản xuất, bằng lao động trừu tượng của mình, người công nhân tạo ra một

giá trị mới không những đủ bù đắp lại giá trị sức lao động do nhà tư bản đã trả
cho công nhân, mà còn có một bộ phận giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do vậy,
bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến đổi về lượng trong quá
trình sản xuất. Bộ phận này gọi là tư bản khả biến (v), Mác viết: “ Bộ phận tư
bản biến thành sức lao động lại thay đổi giá trị của nó trong quá trình sản xuất.
Nó tái sản xuất ra vật ngang giá với bản thân nó và ngoài ra lại còn sản xuất ra
một số dư, tức là giá trị thặng dư; giá trị thặng dư này có thể thay đổi, có thể lớn
hơn hoặc nhỏ hơn. từ một đại lượng bất biến, bộ phận này của tư bản không
ngừng chuyển hoá thành một đại lượng khả biến. Vì thế tôi gọi nó là bộ phận
khả biến của tư bản hay vắn tắt hơn là tư bản khả biến” 14. Thực tiễn, người ta
thấy xí nghiệp nào sử dụng máy móc và công nghệ hiện đại thì năng suất lao
động cao hơn, do đó thu được lợi nhuận nhiều hơn. Thực tiễn này gây ra một
cảm tưởng sai lầm là máy móc cũng tạo ra giá trị thặng dư. Cũng như mọi bộ
phận cấu thành khác của tư bản bất biến, máy móc không tạo ra giá trị mặc dù
đó là một nhân tố không thể thiếu của bất cứ quá trình sản xuất hiện đại nào.
Máy móc dù có hiện đại như thế nào cũng chỉ là lao động chết. Nó phải được lao
động sống cải tử hoàn sinh để biến thành nhân tố của quá trình lao động. Nó chỉ
là phương tiện, nhờ đó sức sản xuất của lao động tăng lên.
Để có khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn, nhà tư bản đã dùng nhiều
phương pháp khác nhau, tuỳ theo điều kiện kinh tế - kỹ thuật trong từng giai
đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Có hai phương pháp cơ bản sản xuất giá trị
thặng dư là đó là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Để xây dựng phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tuyệt đối, Mác xây dựng giả thiết khi thời gian lao động tất yếu là cố
định, còn thời gian lao động thặng dư và ngày lao động là biến đổi, sau đó Mác
đi viết sơ đồ, phân tích sơ đồ và rút ra kết luận: “Giá trị thặng dư được sản xuất
ra bằng cách kéo dài ngày lao động, thì tôi gọi đó là giá trị thặng dư tuyệt đối” 15.
13
14
15


C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23 Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 311
C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 31
C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 458


13
Phương pháp này ứng dụng ở thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản khi kỹ thuật còn
thủ công (nhưng nó gặp phải giới hạn ngày lao động có 24h). Để xây dựng
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối Mác cũng xây dựng giả thiết đo
độ dài ngày lao động và việc phân chia thành lao động cần thiết và lao động
thăng dư là đã cho sẵn, phân tích và rút ra kết luận: “Giá trị thặng dư có được do
rút ngắn thời gian lao động cần thiết và do sự thay đổi tương ứng trong tỷ lrệ các
đại lượng của hai bộ phận cấu thành ngày lao động, thì tôi gọi đó là giá trị thặng
dư tương đối”16. Vậy là muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải hạ thấp
giá trị hàng hoá sức lao động, tức là hạ thấp giá trị tư liệu sinh hoạt của công
nhân và con cái họ. Việc đó chỉ diễn ra trong lĩnh vực sản xuất, điều quyết định
là tăng năng suất lao động trong hai nghành cơ bản: Nghành sản xuất ra tư liệu
sinh hoạt và nghành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt
cần thiết cho người công nhân và con cái họ. Phương pháp này áp dụng phổ biến
ở thời kỳ sau của chủ nghĩa tư bản khi kỹ thuật công nghệ phát triển ngày càng
tăng lên. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản không gạt bỏ phương pháp sản xuất giá trị
tuyệt đối, mà trái lại nó vận dụng gắn bó chặt chẽ với nhau. Đồng thời C.Mác
cũng chỉ ra giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp
dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị
trường của nó.
Khi nghiên cứu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối, Mác
cũng đã phân tích ba giai đoạn phát triển, cũng là ba nấc thang tăng năng suất
lao động, để tạo ra giá trị thặng dư tương đối trong chủ nghĩa tư bản. Đó là: hiệp
tác lao động giản đơn, sự phân công trong công trường thủ công, máy móc và

đại công nghiệp. Và Mác cho rằng: Sự phát triển ba giai đoạn nói trên của chủ
nghĩa tư bản trong công nghiệp đây thực chất là ba giai đoạn phát triển từng
bước của lực lượng sản xuất và do đó nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư tương đối
đối với công nhân lao động làm thuê.
Đồng thời Mác tiếp tục phân tích mối quan hệ giữa phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối,
Mác đưa ra luận điểm rất quan trọng đó là hai phương pháp này nó có quan hệ
16

C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 458


14
chặt chẽ với nhau nó vừa có những điểm giống nhau và cũng vừa có những điểm
khác nhau. Nó giống nhau ở chỗ về mục đích là đều tăng thời gian lao động
thặng dư để tăng tỷ suất giá trị thặng dư. Điểm khác nhau của hai phương pháp
này là về giả thiết; về phương pháp (nếu như phương pháp sản xuất giá trị tuyệt
đối là giới hạn thì phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là vô hạn); và
về kết quả thu được cũng khác nhau.
Để khẳng định rõ ràng rằng giá trị và giá trị thặng dư là do lao động không
công của công nhân lao động làm thuê tạo ra, Mác tiếp tục phân tích về tiền
công trong chủ nghĩa tư bản. Bản chất của tiền công là giá cả của hàng hoá sức
lao động nhưng bề ngoài lại biểu hiện như là giá cả của lao động. Nếu tiền công
là giá cả của lao động, nghĩa là người công nhân hao phí bao nhiêu lao động
được trả công đầy đủ bấy nhiêu, thì sẽ không có giá trị thặng dư. Nghiên cứu
vấn đề này Mác chỉ rõ: lao động không thể là đối tượng mua và bán, nguyên
nhân dẫn đến nhận thức thức nhầm lẫn trên là do chính đặc điểm của hàng hoá
sức lao động. Hàng hoá sức lao động có đặc điểm là không bao giờ tách khỏi
người bán, hơn nữa người bán chỉ nhận được giá cả sau khi đã cung cấp giá trị
sử dụng cho người mua, tức sau khi đã lao động. Nhìn bề ngoài chỉ thấy nhà tư

bản trả cho cái công dụng mà công nhân đã cung cấp cho nhà tư bản. Đối với
công nhân thì lao động là phương tiện để sinh sống và phải lao động trong cả
ngày mới nhận được tiền công. Do đó, công nhân tưởng rằng mình bán lao động.
Nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao động nên họ tưởng rằng cái mình mua là lao
động. Bề ngoài, tiền công được nguỵ trang rất kín đáo che dấu sự bóc lột tư bản
chủ nghĩa. Nó đã biểu hiện quan hệ bóc lột thành một quan hệ thuận mua vừa
bán, bình đẳng giữa công nhân và nhà tư bản. Nó đã xoá nhoà mọi dấu vết của
sự phân chia ngày lao động thành lao động tất yếu và lao động thặng dư. Ngay
trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác đã chỉ rõ: “Giá cả trung bình của
lao động làm thuê là số tiền công tối thiểu, nghĩa là tổng số những tư liệu sinh
hoạt cần thiết cho công nhân duy trì đời sống với tính cách là công nhân. Cho
nên cái mà người công nhân làm thuê chiếm hữu được bằng hoạt động của mình
cũng chỉ vừa đủ để tái sản xuất ra đời sống mà thôi”17
17

C.M¸c vµ Ph.¡nghen Toµn tËp, TËp 4, Nxb CTQG, H, 1995, Tr: 617


15
Tiền công này được trả theo những hình thức cơ bản là: tiền công theo thời
gian và tiền công theo sản phẩm. Thông qua hai khái niệm tiền công danh nghĩa
và tiền công thực tế Mác tìm ra xu hướng hạ thấp tiền công và Mác không đồng
tình với một số kết luận của các học giả tư sản khi cho rằng ở các nước tư bản
phất triển thì tiền công cao hơn những nước nghèo. Đồng thời mác còn đề cập đến
tiền công dân tộc và tiền công quốc tế, mối quan hệ của hai loại tiền công này gắn
với xuất nhập khẩu. Như đã trình bày, tiền công là giá cả của hàng hoá sức lao
động nên nó cũng chịu ảnh hưởng của những nhân tố: Giá trị của sức lao động,
quan hệ cung cầu trên thị trường (cung và cầu về sức lao động), giá trị của tiền
hay sức mua của tiền. Tóm lại, tiền công là giá cả hàng hoá sức lao động chứ
không phải là giá cả của lao động như lập luận của một số học giả tư sản.

Ở phần VII của quyển I, Mác đi vào nghiên cứu quá trình tích luỹ tư bản
tức là nghiên cứu quan hệ sản xuất tư bản ở giai đoạn phát triển. Đề cập vấn đề
tích luỹ tư bản, trước hết, Mác nghiên cứu tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa
và những nhận xét rút ra từ tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghiã; đồng thời, đã
đưa ra ý kiến lập luận của các nhà tư bản khi họ cho rằng: sở dĩ họ có tiền để mở
rộng sản xuất, tái sản xuất mở rộng là do họ tiết kiệm mà có, đó là một sự hy
sinh lớn lao đối với xã hội, là một sự tiết dục… Mác cho rằng: thực chất không
phải vậy, mà tích luỹ tư bản không phải do ý muốn chủ quan của nhà tư bản,
không phải là sự hy sinh lớn lao đối với xã hội mà là quy luật kinh tế khách quan
buộc nhà tư bản phải tích luỹ. Nguồn gốc của tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư.
Sự chuyển hoá một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản hay việc sử dụng
giá trị thặng dư làm tư bản được gọi là tích luỹ tư bản. Đặc trưng của chủ nghĩa
tư bản là tái sản xuất mở rộng do quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản và
sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà tư bản quyết định. Nếu trong tái sản xuất
giản đơn, nhà tư bản chi hết số giá trị thặng dư thu được vào mục đích tiêu dùng
cá nhân, thì tái sản xuất mở rộng, giá trị thặng dư được chia làm hai phần: một
phần dành cho tiêu dùng, một phần vào mục đích tăng thêm tư bản ứng trước.
Mác cũng chỉ ra những nhân tố quyết định quy mô tích luỹ tư bản: trình độ bóc
lột giá trị thặng dư, năng suất lao động, chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư


16
bản tiêu dùng, đại lượng tư bản ứng trước. Chỉ rõ quy luật chung của tích luỹ tư
bản chủ nghĩa: Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư
bản, là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, là quá trình làm bần
cùng hoá giai cấp vô sản cả tuyệt đối và tương đối. Việc phân tích quá trình tích
luỹ tư bản giúp chúng ta nhận thức rõ tư bản lại sinh ra từ giá trị thặng dư như
thế nào. Nói cách khác, toàn bộ của cải của giai cấp tư sản đều do lao động của
công nhân lao động làm thuê tạo ra.
Tóm lại, Lý luận giá trị thặng dư không những là một trong hai phát kiến vĩ

đại của Mác về khoa học xã hội ở thế kỷ XIX, làm cho học thuyết kinh tế của
C.Mác trở thành một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác mà lý luận này
cho đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa cả về lý luận và thực
tiễn.
Lý luận giá trị thặng dư đã được các nhà kinh tế học cổ điển tiền bối trước
Mác đi vào đề cập nhưng họ chỉ mới nghiên cứu những hiện tượng và biểu hiện
của giá trị thặng dư. Trái lại Mác đã đi sâu tìm nguồn gốc và bản chất của giá trị
thặng dư, không ngừng hoàn thiện học thuyết đó mà còn làm cho học thuyết đó
trở thành hòn đá tảng của khoa kinh tế chính trị. Cái tạo ra giá trị thặng dư là sức
lao động của công nhân làm thuê, chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị, trong
đó có giá trị thặng dư. Mọi sự bí mật là ở chỗ quá trình sản xuất giá trị mới dài
hơn thời gian tái sản xuất sức lao động. Như vậy, quá trình này chia thành quá
trình tái sản xuất sức lao động và quá trình tái sản xuất giá trị thặng dư; đồng
thời nguồn gốc của giá trị thặng dư là sự tiêu dùng sức lao động kéo dài ngoài
thời gian tái sản xuất ra giá trị của nó. Mác viết: “Nếu chúng ta so sánh quá trình
tạo ra giá trị với quá trình làm tăng giá trị, thì chúng ta sẽ thấy rằng quá trình
làm tăng giá trị chẳng qua cũng chỉ là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá
một điểm nào đó mà thôi” 18. Như thế, rõ ràng là khối lượng giá trị mới do công
nhân làm thuê tạo ra lớn hơn giá trị sức lao động của anh ta. Người công nhân
chỉ được tiếp tục làm thuê cho nhà tư bản chừng nào mà còn tạo ra khối lượng

18

C.M¸c vµ Ph.¡ngghen: Toµn tËp, tËp 23, Nxb, CTQG, Hµ Néi, 1995, Tr: 291


17
giá trị mới lớn hơn hẳn giá trị sức lao động mà nhà tư bản trả cho họ dưới hình
thái tiền công.
Lý luận gía trị thặng dư của C.Mác luôn luôn là vũ khí tư tưởng sắc bén

của giai cấp công nhân. nó đập tan mọi học thuyết tư sản, những học thuyết
nhằm bào chữa cho chủ nghĩa tư bản; vũ trang và động viên giai cấp công nhân
và nhân dân lao động đứng lên đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây
dựng một chế độ xã hội mới văn minh đó là chế độ xã hội - xã hội chủ nghĩa,
đỉnh cao là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, đồng thời chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh thích nghi trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội và cho dù chủ nghĩa tư bản hiện đại có những biến
dạng mới, song những vấn đề lý luận của giá trị thặng dư không vì thế mà mất đi
giá trị của nó.
2. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của học thuyết giá trị thặng dư.
a. Về mặt lý luận
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính
chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước tối
thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong
chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của
những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra
trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi
phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy
cho loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục
đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu".
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy
rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực
nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận



18
giáo điều, xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta
càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất
và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp
nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và
xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách,
cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời
thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là
quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật
thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy
luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả
hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận
và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ
bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội
thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một
mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối
thông qua Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã
hội. Thiết nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh
được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như
việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản
xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền
kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người
lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể
mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích

trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy
như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp
thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những
quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên


19
trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan
hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản
nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
b. Về mặt thực tiễn
Trong thời đại ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học công nghệ; giai cấp tư
sản chủ yếu thực hiện việc bóc lột những người lao động bằng hình thức bóc lột
giá trị thặng dư tương đối. Những người lao động làm thuê bị bóc lột ngày càng
nhiều. Cái gọi là “trung lưu hoá” một số bộ phận lao động làm thuê, về thực
chất, cũng chỉ là một biểu hiện mới của sự bóc lột TBCN.
Trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Thị trường lao động
cũng có sự biến đổi sâu sắc, sự di chuyển lao động từ nước này sang nước khác
ngày càng tăng. Tác động quy luật giá trị đối với thị trường này sẽ càng tăng lên
mạnh mẽ và tác động đến GTTD. Sự chuyển dịch mâu thuẫn giữa các quốc gia
diễn ra mạnh mẽ, sự phân cực xã hội cũng biến đổi, do đó điều kiện chín muồi
về mâu thuẫn cũng sẽ không đều giữa các quốc gia. Mặt khác trong điều kiện
bành trướng thị trường của các công ty xuyên quốc gia thì GTTD có những nét
đặc thù và đặc biệt mang tính quốc tế cao. Sự phân phối GTTD trong điều kiện
quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra không chỉ ở trong điều kiện quốc gia mà cả
trong phạm vi quốc tế. Sự phân chia GTTD của Mác chủ yếu giới hạn trong các
tập đoàn tư bản của một quốc gia, bởi vì nhà nước hồi đó còn đứng ngoài quá
trình kinh tế. Nhà nước mới sử dụng quyền lực để “canh gác” cho các tư bản
hoạt động, còn về cơ bản vẫn tuân thủ sự can thiệp của bàn tay vô hình và thực

hiện khẩu hiệu “để mặc cho người ta làm”. Do vậy Mác cho rằng người công
nhân làm thuê chỉ được hưởng phần tư bản khả biến chứ không tham gia vào
phần phân chia giá trị thặng dư.
Ngày nay với sự điều tiết của nhà nước, “chế độ tham dự” đã có sự thay
đổi. Người công nhân đã được tham dự dù là một lượng rất nhỏ so với nhà tư
bản về phần GTTD thông qua quỹ phúc lợi xã hội và lợi tức cổ phần. Tuy nhiên
với tỷ lệ nhỏ chưa làm thay đổi về bản chất của GTTD phân chia.


20
Trong quá trình phát triển của CNTB, sản xuất ra GTTD được tiến hành
thông qua nhiều phương pháp thích ứng với từng giai đoạn và trình độ phát triển
của LLSX, NSLĐ, tương quan lực lượng giữa các giai cấp, trong đó “sự sản
xuất ra GTTD tuyệt đối tạo thành cái cơ sở chung của chế độ TBCN và là điểm
xuất phát của sự sản xuất ra GTTD tương đối”. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện
của CNTB và của GTTD tương đối phải dựa trên cơ sở NSLĐ xã hội đạt tới một
trình độ nhất định, cho phép ngày lao động của người công nhân đã có thể chia
làm hai phần: lao động tất yếu tạo ra giá trị ngang bằng với giá trị nhà tư bản trả
cho anh ta dưới hình thức tiền công – tiền lương hay giá cả lao động và lao động
thặng dư, tạo ra GTTD cho nhà tư bản để được nhà tư bản thuê. Khi năng suất
lao động còn thấp, thời gian lao động còn chiếm phần khá lớn, muốn có nhiều
GTTD CNTB phải kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động để bòn rút
được nhiều lao động không công của công nhân làm thuê. Nhưng phương thức
bóc lột GTTD tuyệt đối, do bị hạn chế cả về mặt tự nhiên – sinh lý, xã hội,
GCTS không thể đáp ứng nhu cầu thu GTTD tối đa của GCCN. Cho nên khi
luật công xưởng được ban hành, CNTB không còn sử dụng phương pháp bóc lột
GTTD tuyệt đối như là phương pháp chủ yếu nữa. Khi đó, nhằm mục đích kéo
dài lao động thặng dư, người ta rút ngắn lao động cần thiết bằng những phương
pháp cho phép sản xuất ra vật ngang giá với tiền công, trong một thời gian ít
hơn, tức là sản xuất GTTD tương đối. Vì thế, nếu việc sản xuất ra GTTD tuyệt

đối chỉ gắn với độ dài ngày lao động hay tăng cường độ lao động, thì việc sản
xuất ra GTTD tuyệt đối, cách mạng hoá đến tận gốc các quá trình kỹ thuật của
lao động cũng như những tập quán xã hội… Cho nên để hiểu rõ sự sản xuất ra
GTTD bằng cách biến lao động cần thiết thành lao động thặng dư thì phải gạt bỏ
quan niệm giản đơn cho rằng: tư bản vẫn nắm quá trình lao động dưới hình thức
do lịch sử để lại hay hiện có.
Dưới tác động của quy luật GTTD, CNTB đã vận động, phát triển qua ba
giai đoạn, từng bước thực hiện cuộc đảo lộn… có tác dụng đẩy nhanh tăng
NSLĐ xã hội để giảm thời gian lao động tất yếu xuống mức tối thiểu cần thiết,
tăng tối đa thời gian cho việc sản xuất GTTD.


21
Bước khởi đầu của quá trình đó diễn ra trong buổi “Bình minh” của
CNTB (vào cuối thế kỷ XV và nhiều thập niên đầu của thế kỷ XVI). Khi đó, các
nhà tư bản chỉ mới có vốn liếng ít ỏi và công cụ lao động thủ công lạc hậu,
nhưng có khát vọng thu được nhiều GTTD, CNTB đã khắc phục mâu thuẫn này
bằng quá trình cách mạng hoá tổ chức lao động – biến lao động cá thể, manh
mún thành lao động hiệp tác phù hợp với yêu cầu tất yếu kinh tế, tạo ra sức lao
động của một số lao động cá thể tương đương. Ưu thế đó của lao động hiệp tác,
một mặt, làm cho NSLĐ xã hội được nâng cao, cho phép giảm lao động tất yếu,
tăng lao động thặng dư, do đó mà tạo được nhiều GTTD cho nhà tư bản, mặt
khác, tạo tiền đề cho CNTB tiến lên giai đoạn cao hơn bằng quá trình cách mạng
hoá sức lao động – phân chia người lao động có chức năng sản xuất sản phẩm
hàng hoá hoàn chỉnh thành người lao động chuyên môn hoá vào khâu công việc
mà họ có sở trường nhất trong quy trình sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh.
GTTD nhiều – lợi nhuận lớn, lại kích thích lòng thèm khát của các nhà tư
bản làm sao thu được nhiều hơn nữa. Bản thân các nhà tư bản khác cũng đua
tranh áp dụng máy móc để thu được nhiều GTTTD. Kết quả tất yếu là việc sử
dụng máy móc trở thành phổ biến trong các công xưởng và nền sản xuất TBCN.

Với đại công nghiệp cơ khí, ưu thế của hiệp tác và phân công lao động đã được
vật hoá bằng hệ thống máy móc và hệ thống máy móc là sự “nối dài” của các
giác quan và “khuyếch đại” năng lực của con người lên gấp bội, tạo nên bước
phát triển nhảy vọt về NSLĐ xã hội. Sự phát triển của máy móc như vậy đã làm
phát sinh GTTD tương đối bằng cách trực tiếp làm cho sức lao động giảm giá,
gián tiếp làm cho sức lao động rẻ đi nhờ tăng NSLĐ xã hội, làm cho những hàng
hoá cấu thành giá trị sức lao động giảm xuống. Do đó, người ta chỉ cần dùng
một phần ít hơn của ngày lao động để bù đắp lại giá trị sức lao động; làm cho
việc sản xuất GTTD tương đối trở thành phương pháp chủ yếu trong việc tăng
GTTD cho nhà tư bản.
Bằng những thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ
hiện đại nắm giữ được, CNTB đã thực hiện sự bóc lột tinh vi gắn quyện và rất
hiệu nghiệm ở cả 3 phương pháp. Nhưng chủ yếu là bóc lột GTTD tương đối và
bóc lột GTTD siêu ngạch. Ở các nước tư bản phát triển, nhờ áp dụng khoa học


22
và phương tiện kỹ thuật hiện đại một cách phổ biến trong tất cả các ngành sản
xuất và dịch vụ mà NSLĐ xã hội tăng cao. Do đó, làm cho giá trị các hành hoá
đều giảm xuống và giá trị hàng hoá sức lao động cũng giảm xuống, vì nó do giá
trị các hàng hoá liên quan đến tái sản xuất sức lao động quyết định. Cho nên,
trong các nước này động lực trực tiếp, thường xuyên thúc đẩy các nhà tư bản
chăm lo cải tiến tổ chức sản xuất và áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật mới là
GTTD siêu ngạch..
Trong điều kiện của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện
đại, các nước tư bản phát triển, nhất là các công ty độc quyền xuyên quốc gia và
đa quốc gia, có ưu thế hơn hẳn trong việc áp dụng những thành tựu mới nhất của
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Do đó các
nước tư bản phát triển và các công ty độc quyền đó có nhiều khả năng sản xuất
GTTD siêu ngạch. Đây là nguồn rất to lớn và khá ổn định của lợi nhuận siêu

ngạch khổng lồ mà các nước tư bản phát triển và các công ty độc quyền thu
được trong quan hệ kinh tế với các nước kém phát triển. Hậu quả của quá trình
này là các nước tư bản phát triển thu được lợi nhuận siêu ngạch kếch xù và giầu
lên nhanh chóng. Trái lại các nước kém phát triển thì tài nguyên ngày một cạn
kiệt, sức người mòn mỏi, nợ nần chồng chất và nạn đói kinh niên…
3. Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
3.1. Các giải pháp về vấn đề vốn đầu tư
* Chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung đầu tư cho công nghiệp
Cần phải chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu vốn đầu tư theo ngành theo
hướng tăng đầu tư cho ngành sản xuất vật chất và giảm đầu tư đối với ngành
dịch vụ. Vì chỉ có phát triển công nghiệp, chúng ta mới thực sự phát huy được
năng lực nội sinh. Tập trung đầu tư cho công nghiệp, với mục tiêu lấy đó làm đà
để phát triển các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, trong đó đặc biệt phải
đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến, cần phải chú ý đầu tư cho ngành công
nghiệp chế biến nông – lâm sản, vì đây là chìa khoá, nhằm nâng cao giá trị, khả
năng cạnh tranh của hàng hoá nông lâm sản trên thị trường thế giới.


23
Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư này cần được coi là nhiệm vụ của tất cả
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chứ
không phải chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước hay một vài doanh nghiệp nhà nước.
Cần gắn việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư với việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện tự do di chuyển vốn giữa các ngành kinh tế, nhưng đồng thời
Nhà nước phải đóng vai điều tiết đầu tư bằng những chính sách kinh tế vĩ mô
(như thuế, và những ưu đãi, khuyến khích đối với những ngành cần đầu tư)
nhằm đảm bảo việc chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư cũng như cơ cấu kinh tế theo
định hướng phát triển kinh tế - xã hội.

* Khuyến khích và thu hút đầu tư:
Cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Thực hiện sự bình đẳng giữa
các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực vay vốn ở các ngân hàng.
Tiếp tục tiến hành cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ tục cho
các doanh nghiệp, vì trong kinh doanh cơ hội tốt chỉ xuất hiện trong thời gian
ngắn.
Tăng cường khả năng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Băng cách
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với các kỹ thuật sản xuất tiên tiến,
hiện đại thông qua các buổi thuyết trình, giới thiệu sản phẩm của các công ty
nước ngoài. Xây dựng một hệ thống thông tin về tình hình khoa học kỹ thuật của
thế giới cho các doanh nghiệp. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, mở
rộng thị trường cho các doanh nghiệp trong nước.
Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần thông qua các hoạt động ngoại
giao, thuyết phục các nước công nhận rằng hiện nay Việt Nam đang thực hiện
kinh tế thị trường, thông qua các buổi thuyết trình hay triển lãm tại nước ngoài
để giới thiệu về môi trường đầu tư tại Việt Nam, các chính sách ưu đãi đầu tư
đối với đầu tư nước ngoài cho các doanh nhiệp, doanh nhân nước ngoài, cũng
như với kiều bào Việt Nam ở nước ngoài.
* Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:


24
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hoạt
động đầu tư. Khi nói đến hiệu quả đầu tư là không chỉ nói đến hiệu quả kinh tế
mà còn phải nói đến hiệu quả xã hội (tức là việc đầu tư đó, có thể thu hút được
bao nhiêu lao động; ảnh hưởng đến môi trường ở mức độ nào…). Việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phụ thuộc vào mục đích của hoạt động đầu tư là
hiệu quả kinh tế hay hiệu quả xã hội. Vì vậy, khi đầu tư phải xác định rõ mục
đích đầu tư và không được thay đổi mục đích đó trong quá trình tiến hành hoạt

động đầu tư.
Thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh của các thành phần kinh tế, tận
dụng tính năng động của các thành phần kinh tế tư nhân, phát triển sản xuất.
Chủ đầu tư phải được độc lập trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và phương án
đầu tư, tránh tình trạng đầu tư theo phong trào.
Đối với các doanh nghiệp, sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế là chú ý đến
việc thực hiện giá trị thặng dư, theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, giá trị
được sinh ra trong lĩnh vực sản xuất, chứ không phải trong lưu thông, nhưng quá
trình lưu thông lại là quá trình thực hiện giá trị, mà nếu giá trị không được thực
hiện thì cũng không có giá trị thặng dư. Vì vậy, trong quá trình sản xuất, doanh
nghiệp phải chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường,
đồng thời phải sử dụng các phương thức có hiệu quả để bán hàng, nhằm thực
hiện giá trị thặng dư.
Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến,
nhằm nâng cao năng suất lao động, thu giá trị thặng dư siêu ngạch.
Đối với các địa phương khi tiến hành đầu tư cần phát huy lợi thế so sánh
của mình, nhằm tận dụng tối đa những thế mạnh của địa phương mình.
3.2. Nâng cao chất lượng và sử dụng nguồn nhân lực
một cách phù hợp
Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động trong
nước, có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Phát triển thị trường lao động với
tư cách là một yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất, theo đó cung về
lao động phải đáp ứng cầu về lao động cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.


25
Cần phải chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, phù hợp với mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tăng
cả về số lượng và chất lượng của lao động trong ngành công nghiệp, giảm về số
lượng lao động trong ngành nông nghiệp.

Nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp. Cải cách phương pháp đào tạo, gắn việc dạy lý thuyết với
thực hành, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học. Nhằm tăng
lao động lành nghề, lao động có tri thức để tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ mới.
Tăng nhanh tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ thuật.
Thường xuyên đào tạo mới và đào tạo lại lao động, để đáp ứng nhu cầu
trên thị trường sức lao động, đồng thời phải đảm bảo cơ hội bình đẳng về việc
làm cho người lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với nhà
trường trong việc đào tạo.
Đối với các doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc việc tổ chức
khám chữa bệnh định kỳ cho công nhân, đặc biệt là với những ngành nghề lao
động trong môi trường độc hại.
Để phát triển thị trường sức lao động ở nước ta còn cần phải nhanh chóng
cải cách chế độ tiền lương, chế độ tiền lương mới cần phải có sự phân biệt đáng
kể về thu nhập trên cơ sở lấy hiệu quả lao động làm chính, phân biệt giữa người
làm ít với người làm nhiều, giữa lao động phức tạp với lao động giản đơn. Sự
phân biệt này góp phần thúc đẩy quá trình tự nâng cao chất lượng lao động đối
với mỗi người lao động, khuyến khích người lao động bán sức lao động của họ ở
những nơi có mức tiền lương cao. Mặt khác vẫn phải duy trì những ưu đãi xã hội
và thực hiện tốt vấn đề bảo hiểm xã hội…
3.3. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế và giữ vững
định hướng XHCN
Cần tiến hành phân cấp quản lý nhà nước, đặc biệt là việc phân cấp quản
lý nhà nước về kinh tế. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước,
tránh sự quản lý chồng chéo, gây ra sự phiền hà đối với việc kinh doanh của các
doanh nghiệp. Nhất là, trong việc quản lý đăng ký kinh doanh của các doanh
nghiệp, hiện nay còn có nhiều cơ quan thuộc các cấp khác nhau quản lý việc



×