Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO NÂNG CAO kỹ NĂNG THUYẾT TRÌNH CHO đội NGŨ GIẢNG VIÊN ở các TRƯỜNG đại học HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.37 KB, 12 trang )

NÂNG CAO KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY
1. Một số nhận thức xoay quanh vấn đề kỹ năng thuyết trình.
Thuyết trình hay kỹ năng thuyết trình là một trong những nhân tố
quan trọng góp phần hình thành và củng cố năng lực sư phạm của người
giáo viên. Có thể khẳng định rằng thuyết trình xuất hiện từ rất sớm cùng
với sự ra đời của giáo dục, là một trong những phương pháp truyền đạt cơ
bản nhất, chuyển tải thông tin, dung lượng kiến thức từ chủ thể giáo dục
đến đối tượng giáo dục (Từ người dạy đến người học). Kỹ năng thuyết
trình luôn được hoàn thiện cùng với sự phát triển của lý luận và thực tiễn
dạy học qua các thời kỳ lịch sử.
Ngay từ thời cổ đại, các nhà giáo dục, các nhà hiền triết phương đông
cũng như các nhà triết học phương tây đã khái quát những luận đề nổi tiếng về
ngôn ngữ và lời nói, đề cao vai trò của ngôn ngữ nói.
Khổng Tử đã khẳng định rằng: Ngôn ngữ và lời nói có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc chuyển tải nội dung tri thức từ người dạy đến người
học. Ngôn ngữ bao hàm cả trong đó ý tưởng, tâm tư, tình cảm của người thầy,
ông yêu cầu người học phải tích cực, chủ động tìm tòi, khám phá, sáng tạo
trong học tập. Trên cơ sở hướng dẫn, gợi mở của thầy học trò phải tự tìm ra
chân lý, thầy bảo cho biết cái điều đã qua thì trò phải biết cái điều đang đến,
nghĩa là nghe một mà biết mười. Khổng Tử nói: Cử nhất ngung, bất dĩ tam
ngung phản, tắc bất phục dã, có nghĩa vật có bốn góc, chỉ cho một góc mà
không tìm ra được ba góc khác, thì ta không dạy lại nữa.
Ở phương tây, các nhà giáo dục, nhà triết học cũng khẳng định vai trò
quan trọng của ngôn ngữ, lời nói, của thuyết trình trong quá trình giáo dục.
Vào thời kỳ này thầy giáo cũng như thầy tu đều được thần thánh hóa và trở
thành một thứ quyền lực trong xã hội. Thầy giáo nắm tri thức là nắm chân lý
tuyệt đối. Phương pháp dạy học chủ yếu là dùng ngôn ngữ nói, học trò chỉ
có nghe thầy giảng, học thuộc lời thầy và làm theo sách vở. Do đó, cách thức
0



người thầy sử dụng ngôn ngữ có ý nghĩa quyết định đến việc lĩnh hội tri thức
của người học. Xixeron - Nhà tư tưởng, nhà triết học cổ cho rằng: Những lời
nói và hình thức ưu tú nhất của nhà giáo dục là làm cho những người nghe
có nhu cầu thiết tha đối với kiến thức và có những hành động tích cực để thu
nhận được những kiến thức ấy. Một diễn giả ưu tú là người có thể dạy cho
những người nghe bằng lời nói của mình.
Bước sang thời kỳ văn hóa Phục Hưng, trên lĩnh vực văn hóa giáo dục
diễn ra cuộc đấu tranh rất quyết liệt nhằm chống lại nền văn hóa giáo dục
phản động, lỗi thời của giai cấp phong kiến và giáo hội, đồng thời đòi thực
hiện nền giáo dục dân chủ, tiến bộ. Trong cuộc đấu tranh đó đã xuất hiện
nhiều nhà giáo dục nổi tiếng. Chính nhờ những ý tưởng dạy học tiến bộ của
họ và những thành tựu đạt được trong thực tiễn giáo dục ở giai đoạn này đã
tạo tiền đề làm cơ sở cho sự hình thành học thuyết dạy học. Jan Amots
Komenxki (1592 – 1670), nhà giáo dục học vĩ đại người Xlavơ quan niệm:
Trong dạy học vấn đề quan trọng hàng đầu là nội dung khoa học sau đó
chính là sự truyền đạt “Khoa học là cái cốt lõi của vấn đề, còn nghệ thuật là
cái thể hiện”[4; Tr190]. Khẳng định vai trò quyết định của việc sử dụng
ngôn ngữ thuyết trình của người thầy nhằm truyền đạt những nội dung khoa
học đến người học. Nếu như không làm tốt “Nghệ thuật thể hiện” hay chính
là không làm tốt việc sử dụng ngôn ngữ thuyết trình luận giải những vấn đề
khoa học, mục đích của quá trình dạy học sẽ không đạt được. Ông bàn
nhiều, bàn sâu và sáng tạo ra nhiều phương pháp giảng dạy phong phú như:
Đàm thoại, kể chuyện, câu đố… Theo Komenxki, cùng với việc trang bị
kiến thức, giáo viên phải lôi cuốn được học sinh vào phán đoán, phân tích,
chứng minh vấn đề, tìm ra các mối liên hệ, rút ra bản chất sự vật thông qua
việc khéo léo sử dụng ngôn ngữ thuyết trình dẫn dắt, định hướng cho người
học. Như vậy, cái chủ yếu nhất, mạnh mẽ và cần thiết nhất trong quá trình
dạy học là vai trò điều khiển, hình thành và quyết định của ngôn ngữ và lời
nói, bao gồm cả ngôn ngữ khoa học.

1


Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở một số nước trên thế giới đã xuất
hiện quan điểm phủ nhận vai trò quan trọng của ngôn ngữ nói trong dạy học.
Có ý kiến nói một cách mỉa mai rằng: “Một giảng viên nào đó càng nói tốt thì
càng ít có lợi cho học sinh bởi vì chỉ có thể kể chuyện khoa học một cách hấp
dẫn trên cơ sở đơn giản hóa và tầm thường hóa khoa học” [4; Tr.15]. Khuynh
hướng quan điểm phủ nhận vai trò của ngôn ngữ nói ban đầu xuất hiện ở các
nước đi theo con đường TBCN, vào những năm giữa thế kỷ XX ở nhiều
nước tư bản phương tây, nhất là ở Mĩ đã bùng nổ cuộc cách tân về phương
pháp giáo dục trong các nhà trường đại học. Trong đó đặc biệt chú ý phải kể
đến lý thuyết dạy học lấy học sinh làm trung tâm mà nội dung của nó chủ
yếu dựa trên những quan điểm triết học và giáo dục học thực dụng của
J.Dewey (1859 – 1952). Theo lý thuyết này, khi giảng dạy bất cứ vấn đề gì
đều phải chú ý tới hứng thú của người học. Nội dung chủ đề bài học được
phân chia thành các vấn đề theo sự hứng thú, quan tâm của từng nhóm học
sinh trong lớp. Đối với các môn khoa học xã hội, trong giờ lên lớp người học
được tự do tranh luận theo quan điểm riêng của mình, được đóng vai giải
quyết các tình huống hoặc diễn kịch theo kiểu sân khấu hóa để gây hứng thú
học tập cho người học. Trong các buổi lên lớp đã sử dụng các phương tiện
nghe nhìn, máy ghi âm, máy chiếu phim, máy tính điện tử và các phương
tiện hiện đại khác.
Theo đó, vai trò của ngôn ngữ nói nói riêng và hình thức bài giảng nói
chung bị xem nhẹ. Tuy nhiên, thực tiễn của quá trình giáo dục đã chứng tỏ
rằng mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng không thể phủ nhận vai trò
của ngôn ngữ nói. Vì: “Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì tiếng nói sinh
động và sự truyền đạt những luận đề khoa học bằng tiếng nói đó vẫn chưa bao
giờ tắt” (V.L. Kirpisep) [3; Tr.292]. Chính vì vậy trong lịch sử giáo dục đã
xuất hiện khuynh hướng quan điểm nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ nói

trong thuyết trình gắn liền với bài giảng của người giáo viên.

2


Nền giáo dục Xô viết những thập niên 30, 60, 70 của thế kỷ XX đã xuất
hiện một loạt sách viết về bài lên lớp, vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ và lời
nói trong quá trình giáo dục của các nhà nghiên cứu giáo dục như B.P.Exipop,
N.M.Sulman, P.O.Aphanaxiep, R.G.Lembec, M.V.Lomonoxop…Các quan
điểm đều thống nhất cho rằng mỗi phương tiện đều có vai trò dạy học của nó
và là cái cốt yếu để giải quyết những nhiệm vụ nhất định. Nhưng có một
phương tiện tác động giáo dục đứng trên tất cả các phương tiện ấy, liên hợp
chúng, phối hợp và điều khiển chúng là lời nói của cán bộ giảng dạy và ngôn
ngữ sinh động của ông ta.
Ở Việt Nam, trong những năm chiến tranh, lý luận giáo dục đã được
quan tâm nhưng chưa có điều kiện nghiên cứu sâu. Nhưng từ những năm 80
trở lại đây, đặc biệt trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, các nghị
quyết của Đảng cộng sản Việt Nam thường xuyên đề cập đến việc đổi mới
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo ở tất cả các bậc học, ngành
học. Các nghị quyết đó đã vạch ra phương hướng cho việc tiếp tục đổi mới
toàn diện cả lý luận và thực tiễn giáo dục. Trong thời gian này, ngày càng có
nhiều người tham gia nhiên cứu vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả bài
giảng nói chung và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ thuyết trình trong giảng dạy
nói riêng dưới những góc độ và mức độ khác nhau. Rất nhiều tài liệu có giá trị
đã xuất hiện, như cuốn “Thiết kế bài học theo phương pháp tích cực” của
Nguyễn Kỳ; “Bàn về giờ học hiện đại”của PGS.PTS. Vũ Trọng Rỹ…
Nhìn chung các tác giả đều nhận thấy rằng, phải đổi mới cách dạy và
học trong các giờ lên lớp sao cho phát huy cao hơn nữa vai trò chủ thể của
người học. Quan điểm vận dụng lý thuyết hoạt động vào dạy học ngày càng
có nhiều tác giả quan tâm hưởng ứng. GS. Đặng Vũ Hoạt đã nhận định rằng,

xu hướng cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là: “Tích cực
hóa hoạt động nhận thức của học sinh, lôi cuốn học sinh vào hoạt động, học
sinh phải nắm được cách chiếm lĩnh tri thức. Tích cực hóa hoạt động nhận
thức thực chất là tôn trọng, phát huy vai trò chủ thể của học sinh”[1; Tr.22].
3


PGS.PTS. Phạm Viết Vượng cho rằng, tổ chức quá trình dạy học theo lối
mới là: “Chuyển từ cách dạy theo kiểu giải thích, minh họa để học sinh hiểu và
nhớ (cơ chế chuyển tải) sang lối dạy: Học sinh hoạt động, tự tìm phương pháp
nhận thức, tự hình thành các khái niệm khoa học (cơ chế hình thành)…có thể
khẳng định rằng dạy học lấy học sinh làm trung tâm có tư tưởng chỉ đạo là tổ
chức cho học sinh hoạt động tích cực, sáng tạo…”[2; Tr.33].
Các quan điểm trên đây nhìn chung chỉ tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới
góc độ phương pháp dạy học là chủ yếu nhưng đã chứa đựng trong đó những
ý tưởng tiến bộ về một hình thức bài giảng kiểu mới và cách thức sử dụng
ngôn ngữ nói trong các hình thức dạy học.
Ngày nay, phương châm dạy học được tiến hành theo phương châm
lấy người học làm trung tâm, biến quá trình dạy học thành quá trình tự học.
Trong dạy học, việc áp dụng các phương tiện nghe nhìn... rất phổ biến. Điều
này đã phần nào làm hạn chế bớt việc sử dụng ngôn ngữ nói, cũng như
KNTT, nhưng phải khẳng định rằng: Không thể thay thế ngôn ngữ nói bằng
bất cứ một hình thức truyền tải khác được. Vậy Kỹ năng thuyết trình nên
được hiểu nhu thế nào?
2. Hiểu về kỹ năng thuyết trình
Thuật ngữ kỹ năng đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu,
trong mỗi lĩnh vực hoạt động khác nhau có cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, có
thể thấy, tựu chung lại thì kỹ năng được biểu hiện ở hai khía cạnh sau:
- Khía cạnh thứ nhất: Xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kỹ thuật của
hành động, thao tác và ít quan tâm đến kết quả hành động. Đại diện cho quan

điểm này là các tác giả:
V.A Kruchetxki cho rằng: “Kỹ năng là thực hiện một hành động hay
một hoạt động nào đó nhờ sử dụng những thủ thuật, những phương thức
đúng đắn” [2; Tr.88]. PGS.TS Hà Nhật Thăng cho rằng: “Kỹ năng là mặt kỹ
thuật của hành động, thể hiện ra các thao tác của hành động” [9; Tr.16].

4


- Khía cạnh thứ hai: Kỹ năng không đơn thuần là mặt kỹ thuật của
hành động mà còn là biêủ hiện của năng lực của con người đồng thời có tính
đến kết quả của hành động.
P.A. Ruđich cho rằng: “Kỹ năng là tác động mà cơ sở của nó là sự vận
dụng thực tế các kiến thức đã tiếp thu được để đạt được kết quả trong một
hình thức hoạt động cụ thể” [3; Tr.124].
Theo từ điển Tiếng Việt năm 1992 do Hoàng Phê (chủ biên): Kỹ năng
là khả năng tận dụng những kiến thức thu được trong một lĩnh vực nào đó
vào thực tế.
Tuy hình thức diễn đạt các khái niệm về kỹ năng có khác nhau, nhưng
thực chất đều toát lên những dấu hiệu nổi bật sau: Kỹ năng liên quan mật thiết
đến năng lực của con người, là biểu hiện cụ thể của năng lực. Mọi kỹ năng
đều phải dựa trên cơ sở tri thức, hiểu biết. Muốn hành động, muốn thao tác
được, trước hết phải có kiến thức. Kiến thức chính là công cụ của hành động,
trên cơ sở kiến thức mới rèn luyện được kỹ xảo, kỹ năng tương ứng. Nói tới
kỹ năng là nói tới hành động có mục đích; nghĩa là, trong quá trình thực hiện
hành động, bao giờ con người cũng hình dung ra kết quả hành động, cách
thức để đạt tới kết quả đó. Để có kỹ năng con người phải nắm được cách thức
hành động trong những điều kiện cụ thể và hành động theo quy trình với sự
luyện tập nhất định.
Với cách tiếp cận đó, có thể hiểu một cách khái quát về kỹ năng chính

là khả năng thực hiện có hiệu quả một hành động hoặc một công việc nào
đó, bằng cách vận dụng những kiến thức, kỹ xảo, kinh nghiệm đã có để thực
hiện hành động, công việc đó sao cho phù hợp với những điều kiện nhất
định của thực tiễn.
Đi sâu nghiên cứu về khái niệm này, phần lớn các nhà TLH, GDH đều
cho rằng, kỹ năng là một phạm trù được biểu hiện trong những tình huống,
trình độ thể hiện khác nhau; có kỹ năng đơn giản và kỹ năng phức tạp. Kỹ
năng đơn giản là trình độ áp dụng kiến thức, kỹ xảo trong những điều kiện
5


hoàn cảnh thông thường như: kỹ năng viết, kỹ năng đọc, kỹ năng thuyết
trình… Kỹ năng phức tạp là trình độ vận dụng sáng tạo những tri thức, kỹ
xảo và kinh nghiệm vào những tình huống phức tạp và đạt được kết quả nhất
định. ở đây, kỹ năng được hiểu là trình độ của sự vận dụng sáng tạo kiến
thức, hiểu biết, kinh nghiệm để giải quyết các công việc có hiệu quả. Trong
pạm vi bài viết này khi nói đến kỹ năng nên hiểu đó là kỹ năng ở trình độ
cao, trình độ phức tạp.
Với cách hiểu như vậy, có thể thấy, kỹ năng được biểu hiện ở các mức
độ khác nhau. Theo quan niệm của Bloom thì kỹ năng có 4 mức độ:
- Bắt chước: Quan sát và lặp lại hành động (lặp lại mẫu).
- Thao tác: Ở mức độ cao hơn, chủ thể thực hiện hành động theo sự
hướng dẫn bằng lời chứ không phải bằng hành động mẫu.
- Hành động chuẩn xác: Mức độ thực hiện đúng, chuẩn xác hành động,
thao tác mà không cần quan sát mẫu hoặc nghe người khác chỉ dẫn, đòi hỏi sự
nỗ lực, cố gắng khá cao của chủ thể.
- Hành động tự nhiên: Mức độ thuần thục, thành thạo của hành động,
thao tác mà không cần sự cố gắng nhiều về thể lực và trí lực.
Kỹ năng thuyết trình là loại kỹ năng riêng, đặc trưng cho nghề giáo
viên. KNTT là các thao tác vận dụng những kiến thức tổng hợp về tự nhiên và

xã hội vào thực tế dạy học và giáo dục. Đó là khả năng sử dụng có hiệu quả
lời nói sinh động bằng cách vận dụng những kiến thức, kỹ xảo, kinh nghiệm
đã có của người nói để mô tả, giải thích, luận chứng các nội dung thuyết trình.
KNTT bao gồm một số kỹ năng bộ phận cơ bản sau đây:

.

Kỹ năng mô tả, tường thuật: Là kỹ năng mang tính chất mô tả,

tường thuật lại các nội dung thuyết trình. Kỹ năng này thường được sử
dụng trong nghiên cứu, trình bày các sự kiện lịch sử, các hiện tượng của
đời sống xã hội…

6


. Kỹ năng giảng giải: Là kỹ năng trình bày các luận điểm cụ thể, các
kiến thức riêng lẻ tương đối độc lập một cách có luận cứ, luận chứng. Kỹ
năng giảng giải thường được dùng trong nội dung thuyết trình về các phạm
trù, khái niệm, các quy luật, quy tắc…

. Kỹ năng trình bày, lý giải, phân tích mở rộng: Kỹ năng này thường
được sử dụng trong trình bày, mở rộng, phân tích, lý giải các nội dung thuyết
trình theo một chủ đề nhất định.
Để rèn luyện và sử dụng có hiệu quả kỹ năng thuyết trình, cần phải kết
hợp chặt chẽ, khéo léo các kỹ năng bộ phận trên đồng thời có sự kết hợp chặt
chẽ hài hoà với các kỹ năng sư phạm khác.
- Các trình độ của kỹ năng thuyết trình.

. Trình độ chưa thành thạo (kém; yếu; trung bình).

. Trình độ thành thạo (khá và giỏi).
KNTT không phải do thiên bẩm sinh ra đã có, mà đó là kết quả của quá
trình rèn luyện thường xuyên và liên tục trong quá trình học tập, được củng
cố, phát triển và hoàn thiện trong quá trình công tác thực tiễn hoạt động giảng
dạy và nghiên cứu khoa học.
Vì vậy, việc thường xuyên rèn luyện KNTT là yêu cầu đòi hỏi vừa
mang tính thường xuyên vừa mang tính cấp bách hiện nay đối với người giáo
viên. Rèn luyện kỹ năng thuyết trình cần tuân thủ những vấn đề mang tính quy
luật, các quan điểm chỉ đạo đối với công tác giáo dục - đào tạo của đất nước.
3. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng thuyết trình cho giảng viên
tại các trường đại học hiện nay.
Trong phạm vi bài viết này, với cương vị là một giáo viên, tôi xin đề
xuất một số giải pháp có tính chất đúc rút kinh nghiệm. Cụ thể là:
* Rèn luyện KNTT cho người giáo viên thông qua việc tự tổ chức
tốt quá trình tự học, tự nghiên cứu.

7


Sự thành thạo KNTT chủ yếu được thông qua con đường tự luyện tập,
rèn luyện một cách có ý thức và tuân thủ theo quy trình nhất định. Muốn vậy,
trước hết người giáo viên phải nắm vững kiến thức khoa học phục vụ cho hoạt
động giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Hiểu biết sâu sắc cả kiến thức chuyên môn, chuyên ngành lẫn kiến thức
liên ngành và kiến thức bổ trợ gắn liền với chức trách, nhiệm vụ người giáo
viên. Đây là cơ sở cho mọi hoạt động, do đó, để rèn luyện tốt KNTT thì trước
hết người giáo viên phải nắm chắc nội dung kiến thức thuyết trình. Và nếu
như KNTT được rèn luyện trên cơ sở nền tảng tri thức vững chắc, kỹ xảo linh
hoạt, có sự tham gia tích cực của ý thức, các hành động thuyết trình của người
giáo viên sẽ nhanh chóng thuần thục và đạt hiệu quả cao. Để thực hiện có

hiệu quả cần phải:
- Một là, phải tự đặt ra mục tiêu về hoàn chỉnh KNTT rõ ràng, cụ thể,
đầy đủ, chính xác.
- Hai là, tự xây dựng cho mình một kế hoạch tự học, tự rèn luyện
KNTT và thực hiện nghiêm túc kế hoạch đó. Phải tự xây dựng kế hoạch học
tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện cá nhân có sự cân nhắc các khả năng
và điều kiện của bản thân để xác định quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ
một cách khoa học. Tức là phải căn cứ vào sức khỏe, trí tuệ, trình độ tự tổ
chức, tự điều khiển của bản thân, tự cân đối quỹ thời gian hoạt động tập thể
và hoạt động cá nhân…). Khi đã có được kế hoạch tự học, tự rèn KNTT
hợp lý cần tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc theo đúng tiến trình biểu
của bản thân, phải khắc phục triệt để mọi khó khăn, không vì lý do không
chính đáng mà vi phạm, ảnh hưởng đến kế hoạch mà mình đã xây dựng. Từ
khâu nhận thức về mục đích, cách thức, điều kiện hoạt động, luyện tập đến
khâu tổ chức kiểm tra, đánh giá; tất cả phải thực hiện từ chưa đến có, từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, tránh thụ động, máy móc trong từng nội
dung cụ thể. Cần tiến hành theo các bước sau:

8


Bước 1: Phải nắm vững nội dung kiến thức cần thuyết trình, chủ yếu là
tài liệu lý thuyết, hiểu rõ ý nghĩa của hoạt động thuyết trình đó. Thực hiện
những thao tác tư duy và tự tìm ra cách thức tiến hành phù hợp với bản thân
để đạt được hiệu quả thuyết trình cao nhất.
Bước 2: Luyện tập thuyết trình thử. Đây chính là việc người giáo viên
đóng vai trò là người nhạc trưởng, tự điều chỉnh lời nói, cử chỉ, hành động của
mình để giải quyết một vần đề nào đó, có thể là tình huống học tập hoặc một
bài giảng... Đây được xem là bước chuyển hoá dần dần tri thức thành kỹ năng.
Bước 3: Rèn luyện để củng cố KNTT và để nó trở thành ổn định.

Bước 4: Trên cơ sở tính vững chắc cơ bản và ổn định về nội dung và
KNTT đã được hình thành, người giáo viên phát huy sự sáng tạo của bản thân.
- Ba là, đặc biệt chú ý kết hợp lời nói với các cử chỉ và hành động trước
đám đông. Tham gia tích cực vào các buổi diễn đàn, toạ đàm, hội thi để có
điều kiện, cơ hội thể hiện và rèn luyện KNTT của bản thân. Một thực tiễn cho
thấy rằng, đối với việc rèn luyện KNTT, tham gia tích cực vào các hoạt động
tập thể là một biện pháp đặc biệt có hiệu quả, đó là môi trường kiểm chứng
khả năng diễn thuyết của giáo viên, là hòn đã thử vàng đối với họ trước những
tình huống bất ngờ xảy ra. Đứng trước tập thể ban đầu giáo viên có thể còn e
ngại, thậm chí run rẩy, nhưng làm nhiều chắc chắn thành quen, tự nhiên KNTT
sẽ được hình thành.
* Xây dựng môi trường và điều kiện sư phạm thuận lợi cho giáo viên
rèn luyện kỹ năng thuyết trình
Đây là một biện pháp quan trọng, bảo đảm cho việc hình thành KNTT
được diễn ra nhanh chóng và rèn luyện nó đạt hiệu quả cao. Xây dựng môi
trường và điều kiện sư phạm thuận lợi chính là cơ sở, điều kiện thúc đẩy
người giáo viên cố gắng nỗ lực vươn lên rèn luyện KNTT. Vì trong môi
trường và điều kiện sư phạm thuận lợi đó sẽ góp phần giúp giáo viên nhanh
chóng chiếm lĩnh hệ thống kiến thức khoa học, cơ bản, hiện đại, nắm được

9


những phương thức thiết yếu của việc hình thành các kỹ năng nói chung và
KNTT nói riêng.
Để xây dựng được môi trường và điều kiện sư phạm thuận lợi cho giáo
viên rèn luyện KNTT, mỗi giáo viên cùng với tất cả lực lượng giáo dục có
liên quan cần thực hiện tốt các nội dung sau:
- Phát động và xây dựng các phong trào thi đua trong học tập, nghiên
cứu khoa học, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, trong đó chú trọng về KNTT.

Đây là nơi giúp người giáo viên thể hiện những kinh nghiệm, năng lực
của mình, vận dụng vào thực tiễn sư phạm một cách sáng tạo, tạo ra một môi
trường học tập lành mạnh, hiệu quả. Trong phát động và xây dựng các phong
trào thi đua học tập, rèn luyện cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực
lượng giáo dục, có kế hoạch sát hợp, phân công tổ chức kiểm tra, đánh giá, rút
kinh nghiệm kịp thời để phong trào thật sự ý nghĩa và đi vào chiều sâu và thu
hút được tập thể các giáo viên tham gia với tinh thần xây dựng cao nhất.
- Xây dựng bầu không khí tâm lý thoải mái, gần gũi, thân mật trong
học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện trong tổ bộ môn, khoa.
Tập thể giáo viên với những con người cụ thể, hoạt động trong một bầu
không khí cởi mở, gắn kết trong học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện sẽ
là điều kiện hết sức thuận lợi cho mỗi giáo viên rèn luyện KNTT. Vì ở đó, sẽ
phát huy được khả năng, sở trường của mỗi người, cùng trao đổi, giúp đỡ
nhau để rèn luyện những kỹ năng cần thiết. Để làm được như vậy cán bộ quản
lý bộ môn, khoa phải nắm chắc đặc điểm của mỗi thành viên trong tập thể,
đồng thời phải quan tâm, chăm lo xây dựng tập thể luôn là một khối thống
nhất, đoàn kết và tin cậy lẫn nhau. Ngoài việc chỉ đạo, tổ chức các hoạt động
sư phạm ở tập thể thì cán bộ quản lý còn có vai trò trong phát hiện, nắm bắt
và điều chỉnh dư luận theo hướng tích cực. Để làm được điều đó, cán bộ quản
lý phải am hiểu nghệ thuật sư phạm, có kiến thức về dư luận, nắm được các
đặc điểm tâm lý từng cá nhân thông qua đó điều chỉnh kịp thời dư luận hướng
vào những giá trị đúng và phù hợp.
10


Cán bộ tổ bộ môn, Khoa cần phải thường xuyên tự trau dồi, nghiên cứu
bổ sung kiến thức mọi mặt, nhất là về năng lực sư phạm để có thể giúp đỡ quá
trình tự giáo dục của các giáo viên, đặc biệt là đội ngũ giáo viên trẻ hiệu quả
hơn, vì nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình công tác có thể vượt quá khả
năng giải quyết của họ. Tăng cường kiểm tra, uốn nắn các hoạt động sư phạm

nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các biểu hiện tiêu cực trong tập thể sư phạm
đảm bảo cho mọi người thực hiện “giờ nào việc ấy” đúng chế độ quy định, đặc
biệt là chế độ tự học, tự nghiên cứu.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tổng kết kết quả nghiên cứu đề tài “Nhận thức lại một số
khái niệm, phạm trù của Giáo dục học”, Viện khoa học giáo dục, Đề tài B34 –
37 – 39, H.1996
2. Đặng Quốc Bảo, Hiệu quả kinh tế của giáo dục, Giáo dục thời đại,
Số 42/1999.
3. Lưu Xuân Mới (2003) Rèn luyện kỹ năng tự học cho sinh viên Đại
học. Tạp chí khoa học, Đại học sư phạm Hà nội, số 02/2003.
4. Trần Đình Tuấn, Luận án Tiến sĩ giáo dục học, H.2001
5. Hà Nhật Thăng (1998) - Thực hành tổ chức hoạt động giáo dục, Nxb
GD, H.1998

11



×