Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ đề CƯƠNG ôn THI học PHẦN các mô HÌNH KINH tế THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.01 KB, 35 trang )

1
Vấn đề 1
Câu 1: Đánh giá đặc trưng mô hình KTTT tự do Hoa Kỳ
1. Đặc trưng của mô hình:
Kinh tế Hoa Kỳ có quy mô lớn nhất thế giới. Đây là một nền kinh tế hỗn hợp, nơi mà các công ty, các
tập đoàn lớn và các công ty tư nhân là những thành phần chính của nền kinh tế vi mô, ảnh hưởng đến toàn bộ
nền kinh tế của Hoa Kỳ. Là nền kinh tế có sự chiếm ưu thế của sở hữu tư nhân, cơ chế thị trường cạnh tranh có
sự năng động của các doanh nghiệp, sự can thhiệp của chính phủ ở mức hạn chế, chấp nhận phân hóa xã hội ở
mức độ cao. Kinh tế Hoa Kỳ cũng duy trì được năng suất lao động cao, mức độ tăng trưởng kinh tế vừa phải, tỉ
lệ thất nghiệp thấp, trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ, khả năng nghiên cứu, và đầu tư vốn cao. Các mối
quan tâm chính trong nền kinh tế Hoa Kỳ gồm nợ quốc gia, nợ nước ngoài, nợ của người tiêu dùng, tỉ lệ tiết
kiệm thấp, và sự thâm hụt tài chính lớn.
Hoa Kỳ là một quốc gia công nghiệp phát triển vào bậc nhất thế giới, có thu nhập bình quân đầu người
và tổng lượng sản phẩm – dịch vụ cao hơn nhiều quốc gia khác. Mô hình Hoa Kỳ có đặc trừng là sự chiếm ưu
thế của sở hữu tư nhân, cơ chế thị trường cạnh tranh và sự năng đọng của kinh doanh, sự can thiệp thấp của
Chính phủ và do đó, chấp nhận sự phân hóa xã hội ở mức cao.
1.1. Đặc trưng về sở hữu
Sự phát triển các doanh nghiệp tư nhân là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường tự
do Hoa Kỳ. Tất cả các doanh nghiệp tư nhân được phân chia thành 2 loại: những thập đoàn lớn (bao gồm các
tập đoàn quốc gia và siêu quốc gia), bên cạnh là hàng trăm nghìn công ty nhỏ. Sự tập trung nhiều ngành công
nghiệp trong tay một số ít doanh nghiệp lớn là mộ trong những đặc điểm của nền kinh tế thị trường Hoa Kỳ.
Xu hướng tập trung các doanh nghiệp quy mô lớn bắt đầu từ thế kỷ XIX. Vào những năm 1920 các tập đoàn
lớn được khuyến khích phát triển. Đặc biệt, Chiến tranh thế giới thứ hai đã thúc đẩy hình thành các tập đoàn
lớn nhằm sản xuất máy bay và xe tăng cho quân đội đồng minh, nhờ sáp nhập thành các tổng công ty
(Conglomerate merger).
Bên cạnh các tập đoàn lớn, ở Mỹ còn có hàng trăm nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc hình thành
các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là xu thế đang phát triển hiện nay. Các doanh nghiệp này có thể do một số
người trước đây vốn điều hành tập đoàn lớn nay tách ra thành lập công ty riêng, hoặc là các công ty gia đình
được hình thành trên cơ sở vốn riêng, nhằm tận dụng những công nghệ hiện đại, thuê lao động có trình đọ cao,
sử dụng kỹ năng quản lý tài chính tiên tiến.
Bên cạnh sở hữu tư nhân, nền kinh tế thị trường Hoa Kỳ còn có bộ phận không lớn kinh tế nhà nước. Sở


hữu nhà nước trong các ngành công nghiệp ở Hoa Kỳ khá hạn chế, nhưng chính phủ các cấp, từ trung ương đến địa
phương đều sở hữu và vận hành những doanh nghiệp thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Ví dụ như Tennessee
Valley Authority (TVA), một xí nghiệp công rất lớn chuyên sản xuất và phân phối năng lượng công cộng cho khu
vực Đông Nam Hoa Kỳ. TVA được thành lập để xây dựng những công trình thủy lợi, những nhà máy thủy điện,
cung cấp điện năng, cải thiện dòng chảy của dòng sông Tennessee, kiểm soát lũ lụt trên con sông này và ngăn chặn
nạn xói mòn đất. Các cơ quan khác của Chính phủ cũng sở hữu các hệ thống vận tải và các nhà máy sản xuất nước,
gas và điện. Chính phủ cũng trực tiếp hay gián tiếp sản xuất năng lượng nguyên tử và các hàng hóa khác, thực hiện
các dự án nhà ở nhằm xóa các khu nhà ổ chuột.
1.2. Đặc trưng về sự can thiệp của Chính phủ trong nền kinh tế Hoa Kỳ
* Lý do sự can thiệp của Chính phủ đối với nền kinh tế
- Khi cạnh tranh trên thị trường xuất hiện những trục trặc, những khiếm khuyết, ví dụ như độc quyền,
độc quyền nhóm hay những cấu trúc không hoàn hảo của thị trường cạnh tranh, khiến việc phân bổ các nguồn
lực không hiệu quả và hiệu quả kinh tế - xã hội không được đảm bảo.
- Khi trong nền kinh tế thị trường, cơ chế giá cả không đảm bảo cung cấp thông tin chuẩn xác, hoặc
việc phản ứng đối với quá trình sản xuất và bán ra những hàng hóa độc hại.
- Khi tiến bộ công nghệ tạo nên những ngoại ứng thị trường. Ví dụ quá trình phát triển ngành chế tạo
ôtô đã có những tác động rất sâu rộng đến nền kinh tế Hoa Kỳ trong thời kỳ đầu của thế kỷ XX, tạo ra hàng
nghìn việc làm trong những ngành có liên quan như thép và cao su. Tuy nhiên, ngành công nghiệp ôtô cũng là
thủ phạm chính dẫn đén tình trạng ô nhiễm không khí và tiếng ồn.
- Trợ cấp thất nghiệp và các quỹ an sinh xã hội để cung cấp một công cụ bảo vệ những người lâm vào
tình trạng khó khăn mà không phải hoàn toàn do lõi của họ. Cần lưu ý rằng các chương trình phúc lợi xã họi ở
Hoa Kỳ được đưa vào thực hiện chậm hơn nhiều chưa được hoàn thiện như ở nhiều quốc gia khác.
* Một số lĩnh vực can thiệp chủ yếu của Chính phủ Hoa Kỳ trong nền kinh tế.
Tài chính công là một chỉ số đánh giá mức độ tham gia của chính phủ trong nền kinh tế thị trường, mà thuế
là công cụ quan trọng. Các chính sách bình ổn kinh tế. Những quy định và sự kiểm soát Chính phủ đối với doanh
nghiệp. Khuyến khích cạnh tranh. Thi hành luật chống độc quyền để tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường
bằng việc ngăn cấm các hoạt động liên kết giữa một nhóm doanh nghiệp nhằm thao túng thị trường. Ban hành các


2

quy định xã hội đối với doanh nghiệp trên các phương diện như thuê mướn người tàn tật, an toàn lao động, bảo vệ
người tiêu dùng, bảo vệ môi trường…
2. Đánh giá mô hình KTTT tự do Hoa Kỳ
* Ưu điểm:
Trong suốt thế kỷ XX và giai đoạn đầu của thế kỷ XXI, với sức mạnh kinh tế và tiềm năng khoa học công nghệ, Hoa
Kỳ đã và đang có vai trò hết sức quan trọng trên thế giới. Hoa Kỳ không chỉ đã giành lại được mà còn mở rộng vai trò dẫn đầu
thế giới về thị phần trong các ngành công nghệ cao như hàng không, dược phẩm, phần mềm và viễn thông. Nhưng Hoa kỳ
đang đối mặt với những thách thức về những “bong bóng” kinh tế và những “tài sản ảo” tồn tại trong nền kinh tế, sự ra đời
Liên minh châu Âu và đồng tiền chung Euro cũng đang đe dọa vị thế của Hoa Kỳ.
Khả năng cạnh tranh quốc tế của Hoa Kỳ có được là do hội đủ 4 yếu tố cơ bản sau: đó là ưu thế tự nhiên về nhân tố
sản xuất, những điều kiện thuận lợi về cầu hàng hóa trong nước, những ngành công nghiệp liên quan hỗ trợ và chiến lược
cũng như sự cạnh tranh toàn cầu của các công ty, mà các công ty này chiếm đa phần số công ty lớn của thế giới.
* Nhược điểm
Đây là quốc gia nợ nhiều nhất thế giới, thâm hụt thương mại hàng hóa và cán cân ngoại thương liên tục
tăng từ năm 1986. Vào năm 1997, tài sản nước ngoài tại Hoa Kỳ đã vượt tài sản của Hoa Kỳ ở nước ngoài. Đa
phần nợ nước ngoài của Hoa Kỳ là dưới dạng người nước ngoài nắm giữ các khoản nợ của kho bạc, ví dụ như
trái phiếu kho bạc. Tài khoản thương mại hàng hóa, bao gồm việc xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Hoa Kỳ với
nước ngoài, đã âm 114 tỷ USD (năm 1997). Tài khoản vãng lai, bao gồm 4 tài khoản cấp nhỏ hơn là tài khoản
thương mại hàng hóa, tài khoản dịch vụ, tài khoản về thu nhập và chi trả tài sản với nước ngoài, tài khoản chuyển
giao đa phương đã âm hơn 100 tỷ USD từ năm 1997.
Quy luật cạnh tranh và đào thải ở Hoa Kỳ rất nghiệt ngã. Sự cạnh tranh để giành ngôi vị dẫn đầu trên các thị
trường đã đào luyện nên những người giỏi nhất, nhưng nó cũng gây sự lãng phí lớn: thứ nhất, thu hút và tiêu diệt
quá nhiều đối thủ cạnh tranh; thứ hai, khiến những khoản tiêu dùng và đầu tư trở nên phi sản xuất.
Sự bất bình đẳng thu nhập và tài sản ở Hoa Kỳ rất trầm trọng và có chiều hướng gia tăng kể từ thập
niên 1980. Đối với 20% các gia đình nghèo nhất nước Mỹ, thu nhập thực tế của họ hầu như không được cải
thiện gì đáng kể; chỉ có 5% những người giàu nhất nước Mỹ là có lợi. Nếu vào năm 1970, 20% dân cư nghèo
nhất nhận được khoảng 5,4% thu nhập thực tế của xã hội so với 40,9% của 20% những người giàu nhất; thì
đến năm 1996 những con số tương ứng là 4,2% và 46,8% - tỷ số phần thu nhập thực tế giữa hai nhóm dân cư
này là 1/11,2. Khi bất bình đẳng thu nhập gia tăng, nhất là trong những năm của thập niên 1980-1990 thì cùng
với nó sự bất bình đẳng về tài sản cũng tăng theo.

Nghèo đói chính là mặt bên kia tấm huân chương của sự giàu có ở Hoa Kỳ. Mặc dù số người sống
trong mức nghèo đói giảm từ 22,3% (năm1960) xuống còn 13,7% dân số (năm 1996), nhưng con số tuyệt đối
những người sống dưới mức nghèo đói vẫn là khoảng 36,5 triệu người. Trong số đó có 13,8 triệu trẻ em. Đặc
biệt, mức độ nghèo đói của da đen và người nói tiếng Tây Ban Nha ở Hoa Kỳ rất trầm trọng.
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định phương châm “Việt Nam là bạn với tất cả các nước và tổ chức quốc tế trên
cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi”. Là nước đi sau do những hoàn cảnh lịch sử, chúng ta rất xem
trọng học tập và tiếp thu những thành tựu của các quốc gia đi trước một cách có chọn lọc và vận dụng thích hợp với tình hình
thực tế của nước ta. Vì vậy, trước những luận thuyết kinh tế mới chúng ta phải thận trọng cân nhắc, biết chọn lọc cái đúng, gạt
bỏ cái sai, không phủ định hết cũng không học tập một cách giáo điều.....
- Tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Giữ vững vai trò nòng cốt của Doanh nghiệp nhà
trong toàn bộ nền kinh tế đất nước, đáp ứng cơ bản những yêu cầu về quốc phòng và an ninh, về những dịch vụ
công ích hướng về người nghèo. Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, Nhà nước giữ cổ phần chi phối trong những doanh
nghiệp quan trọng với quốc kế dân sinh. Chúng ta cổ phần hóa chứ không tư hữu hóa, kiên quyết chống lại những
khuynh hướng lệch lạc nhằm biến cổ phần hóa thành tư hữu hóa. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất, chứ không dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
- Thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, coi trọng chính sách an sinh xã hội.Thực hiện có
hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa
dạng, linh hoạt, cú khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn
thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá
đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
Hàng loạt các chương trình đã ra đời và đi vào cuộc sống như xây dựng nhà tình thương cho người
nghèo không đủ tiền để xây nhà; xây dựng nhà tình nghĩa cho người thân của các liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc; khám chữa bệnh miễn phí đối với trẻ em dưới 6 tuổi; giảm 50% học phí và các khoản đóng
góp xây dựng trường đối với những học sinh bị khuyết tật; miễn 100% học phí và các khoản đóng góp xây
dựng trường đối với những học sinh bị khuyết tật thuộc diện hộ nghèo; học sinh dân tộc thiểu số thuộc diện


3

nghèo; học sinh mồ côi cha mẹ, mồ côi cha hoặc mẹ mà người còn lại không đủ khả năng nuôi dưỡng; học sinh
bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng. Đó là những cố gắng hỗ trợ thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở
cho những học sinh nghèo trong hoàn cảnh một nước nghèo như Việt Nam
- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Phát triển đa dạng, đồng bộ, ngày càng văn minh, hiện đại các thị trường hàng hoá, dịch vụ; thị trường
tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, vận hành an toàn, được quản lý, giám sát hiệu quả. Phát triển và kiểm soát có
hiệu quả thị trường chứng khoán. Phát triển lành mạnh thị trường bất động sản, tập trung vào đổi mới, hoàn
thiện các thể chế về quyền sử dụng đất. Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ gắn với việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ; thị trường lao động gắn với tăng cường quản lý nhà nước..
Đổi mới, hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, về ký kết,thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh
chấp; không hình sự hoá các tranh chấp dân sự trong hoạt động kinh tế. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước. Xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và
đối với môi trường. Nâng cao trình độ hiểu biết của doanh nghiệp về thị trường, pháp luật VN pháp luật và thông lệ quốc tế; xây
dựng các tổ chức tư vấn có trình độ cao để giúp doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh ở trong và ngoài nước.
Hình thành đồng bộ một số quỹ hỗ trợ cho kinh doanh. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, đoàn thể để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của cả người KD và người tiêu dùng.
- Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ. Đặc biệt là chính sách liên quan đến nợ công, lãi suất, tỉ giá hối đoái.
Chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực
cho phát triển kinh tế - xã hội; phân phối lợi ích công bằng. Tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, cơ
chế quản lý giá, pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng, các
chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công. Thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỉ lệ tích luỹ hợp lý cho đầu tư
phát triển; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà
nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ chính
phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn (hiện nay nợ công của Vn là 64% GDP) . Tăng cường vai trò giám sát
ngân sách của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị
đồng tiền. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng. Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân
hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Điều hành chính sách lãi suất, tỉ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Đổi mới
chính sách quản lý ngoại hối và vàng; từng bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn; tăng cường kiểm tra, kiểm soát tiến
tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam. Tăng cường vai trò của Ngân

hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài
khoá. Kiện toàn công tác thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, tiền tệ.
Câu 2: Phân tích đặc trưng sở hữu mô hình KTTT Nhật Bản. Ý nghĩa.
Nhật Bản là một trong những nước có tầm ảnh hưởng rất lớn trong nền kinh tế thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng. Đất nước được mệnh danh “xứ sở hoa Anh Đào” là một cường quốc kinh tế đã trải qua
nhiều năm phát triển thần kỳ vào trước thập niên 90 của thế kỷ 20 khiến cho cả thế giới khâm phục. Tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Nhật Bản giai đoạn “thần kỳ” đã trở thành mô hình nghiên cứu đối với
nhiều quốc gia đang phát triển. Nhiều nước trong khu vực Châu Á đã học hỏi theo mô hình phát triển của Nhật
Bản, trong đó một số quốc gia đã nhanh chóng trở thành con rồng, con hổ kinh tế, giải quyết thành công nhiều
vấn đề đời sống kinh tế - xã hội.Chính vì vậy việc phân tích, học hỏi những chính sách, chiến lược mà chính
phủ Nhật Bản đã áp dụng để so sánh với thời kỳ “đổi mới” của Việt Nam là một việc rất cần thiết nhằm tạo ra
sự tăng trưởng cao và bền vững cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc trưng sở hữu mô hình KTTT Nhật Bản
- Sở hữu tư nhân đã được đề cao và khuyến khích phát triển trong nền kinh tế thị trường Nhật Bản.
Chính phủ Nhật Bản đã ban hành nhiều đạo luật khiến nhiều ngành công nghiệp không còn chịu sự điều
chỉnh của các đạo luật chống độc quyền. Nhật Bản đã cho phép một số hình thức cartel trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu được thành lập và đi vào hoạt động nhằm cải thiện vị trí là một nhà xuất khẩu lớn của thế giới.
Người Nhật nhận được từ Hoa Kỳ những ưu đãi, những khoản vay lãi suất thấp và những máy móc kỹ thuật có
khả năng phục hồi sức sản xuất vốn có nhiều ngành công nghiệp, nhát là công nghiệp dệt may.
Nhật Bản ưu tiên đáp ứng nhu cầu trong nước, nhất là công nghiệp đóng tàu – ngành được sự trợ giúp của
Chính phủ đã phát triển nhanh chóng và năm 1956 trở thành quốc gia sản xuất tàu thủy lớn nhất thế giới.
Nhật Bản tập trung cho các chính sách xuất khẩu sản phẩm những ngành công nghiệp mà Nhật Bản có lợi
thế nhờ chi phí nhân công thấp như thủ công mỹ nghệ, dệt may và các ngành công nghiệp quy mô nhỏ khác. Nguồn
lực con người là nhân tố rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế Nhật Bản thời kỳ hậu chiến.
- Các tổ chức công nghiệp giữ vai trò lớn trong nền kinh tế thị trường Nhật Bản với số lượng các tập
đoàn lớn đứng thứ hai thế giới chỉ sau Hoa Kỳ.
Đó là các doanh nghiệp theo chế độ gia đình trị với hình thái tổ chức là 6 Keiretsu ngang (tập đoàn gia


4

đình mà tầm hoạt động của nó vươn tới nhiều ngành công nghiệp khác nhau và tập trung lại thông qua một
ngân hàng, chúng nằm trong số 500 tập đoàn lớn nhất thế giới) và 39 Keiretsu dọc (bao gồm một tập đoàn
công nghiệp và các công ty trực thuộc) có sự ủng hộ và giúp sức của Chính phủ đã sản xuất ra tới 90% GNP
của đất nước. Hình thái Sogo Shosha (các công ty thương mại) - có thể là một thành viên trong Keiretsu là những
công ty hàng đầu thế giới hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau và cung cấp nhiều dịch vụ khác
nhau cho các hãng thành viên. Các Sogo Shosha tham gia vào cả các hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu và có thể
giúp tập đoàn trong xử lý, hạn chế rủi ro ngoại hối. Họ cũng tham gia vào các nghiệp vụ kinh tế ở nước ngoài cho
các hãng của Nhật Bản cũng như cho những người mua và bán của các quốc gia khác. Các Sogo Shosha hoạt
động như một cơ chế xét duyệt để loại ra những mặt hàng nhập khẩu có khả năng gây tổn hại đến các thành viên
của Keiretsu. Sự liên minh công nghiệp trên quy mô lớn giữ vai trò thống trị trong quan hệ thương mại giữa Nhật
Bản với nước ngoài.
Mô hình Keiretsu đã có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản. Nhiều học giả
và nghiên cứu thế giới đã lý giải cho hiện tượng phát triển “kinh tế thần kỳ” sau chiến tranh thế giới thứ hai của
Nhật Bản là nhờ có sự thành công của mô hình Keứetsu. Keiretsu chính là nguồn gốc, nền tảng của hàng loạt siêu
thương hiệu hiện nay, những Tập đoàn có mức độ đa dạng hoá cực cao như Honda, Toyota, Mitsubishi và Fuyo
(Tập đoàn sản sinh ra các thương hiệu Canon, Hitachi, Nissan và Yamaha). Tuy nhiên, qua thời gian phát triển, mô
hình này đã bộc lộ nhiều nhược điểm cố hữu, gây rủi ro cho nền kinh tế và khó chống chọi được những cú sốc
khủng hoảng kinh tế. Trong những năm 1990, phương thức thực hành kinh doanh phương Tây đã bắt đầu đạt hiệu
quả ở các nhà sản xuất Nhật Bản. những người đã bị thu hút mạnh mẽ bởi sự cạnh tranh giá cả. Cùng với đó, suy
thoái mạnh mẽ của Nhật Bản vào thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các Keiretsu. Nhiều ngân hàng lớn đã
chịu tác động mạnh mẽ bởi các khoản nợ xấu và buộc phải sáp nhập hoặc đi đến phá sản. Tình trạng này làm lu mò'
ranh giói giữa các Keừetsu, ví dụ như Ngân hàng Mitsui và ngân hàng Sumitomo đã trở thành ngân hàng Sumitomo
Mitsui Banking Corporation vào năm 2001, trong khi ngân hàng Sanwa (ngân hàng thuộc Hankyu - Toho Group)
trở thành một phần của ngân hàng Tokyo- Mitsubishi). Thêm vào đó, nhiều công ty ngoài hệ thống Keiretsu như
Sony bắt đầu thực hiện tốt hơn vai trò đối tác trong hệ thống. Các nguyên nhân này đã tạo ra một quan niệm mạnh
mẽ trong giới kinh doanh ở Nhật Bản, rằng Keiretsu cũ không phải là mô hình hiệu quả và dẫn đến việc nới lỏng
hoàn toàn các liên minh Keiretsu. Mặc dù vẫn tiếp tục tồn tại nhưng từ những năm 1990 trở đi, các Keiretsu không
còn sự tập trung hay liên kết như trước nữa. Mô hình này trở nên kém hiệu quả, khả năng sinh lời kém dẫn đến
hàng loạt vụ phá sản, giải thể, sát nhập. Nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng Keiretsu có trách nhiệm lớn trong việc
tạo ra những bong bóng kinh tế vào những năm 1980.

- Nhiều ngành công nghiệp quy mô nhỏ (như sản xuất thức ăn và công nghệ bán lẻ…) phát triển nở rộ để đáp
ứng nhu cầu rất đặc thù của những người tiêu dùng Nhật Bản. Năng suất của cách ngành này thường thấp nhưng họ
lại được Nhà nước bảo hộ trước sự cạnh tranh của nước ngoài. Cũng có những công ty gia đình sử dụng từ 2 - 100 lao
động, họ thường sản xuất những bộ phận hoặc chỉ cung cấp dịch vụ thường xuyên cho các khách hàng lớn và phụ
thuộc nhiều vào sự thành bại của các khách hàng này.
- Trong nửa cuối thế kỷ XIX, ngân hàng lớn đóng vai trò then chốt trong việc thực hiện các chính sách
phát triển của chính phủ Nhật Bản. Họ thực hiện cho vay đối với các thành viên của Keiretsu và mua cổ phiếu
phổ thông của các công ty này. Họ hoạt động trên phạm vi toàn cầu. Ngoài ra, có một số ngân hàng tư nhân
khác với quy mô nhỏ hơn rất nhiều và quan hệ với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, còn có vai trò
của một số định chế tài chính thuộc sở hữu nhà nước (ngân hàng Phát triển Nhật Bản, Ngân hàng Tiết kiệm
Bưu chính, Ngân hàng Xuất nhập khẩu) trong việc hỗ trợ hoạt động cho các tổ chức tài chính tư nhân, cho vay
dài hạn với lãi suất thấp đối với các ngành công nghiệp cơ bản trong nước, huy động tiết kiệm trong nước và
cho vay dài hạn với lãi suất mang tính trợ cấp cho các nhà xuất khẩu sản phẩm. Hệ thống ngân hàng Nhật Bản
đã lâm vào khủng hoảng đầu những năm 1990 với tỷ lệ nợ xấu lớn, tạo ra “bong bóng” bất động sản và khi nền
kinh tế “bong bóng” sụp đổ, thị trường cổ phiếu cũng đổ theo. Có 5 ngân hàng thất bại nặng nề nhất trên thị
trường tài chính thế giới chính là các ngân hàng Nhật Bản.
Ý Nghĩa
Đối với một đất nước bị tàn phá nặng nề do chiến tranh, lại vừa bị đè nặng bởi những tàn dư của xã hội cũ kìm hãm
sự năng động và sáng tạo. Từ bài học của Nhật Bản trong phát triển kinh tế có thể rút ra kinh nghiệm cho các nước trên thế
giới trong đó có Việt Nam, đó là cần thiết kế thể chế nào để tăng cường năng lực xã hội, tránh tham nhũng .. Thể chế phải phát
huy được vai trò của Nhà Nước, trí tuệ của nhân dân, vạch ra phương hướng phát triển đất nước, xây dựng bộ máy hành chính
hiệu quả gồm đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực và phẩm chất
- Đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Thực hiện nhất quán quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các
hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối
với các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước..., quy định rõ quyền, trách
nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.



5
Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện đối với đất đai, tài
nguyên, vốn và các tài sản công để các nguồn lực này được quản lý, sử dụng có hiệu quả. Đẩy mạnh đổi mới, cổ phần
hoá, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết chống lại những khuynh hướng lệch lạc nhằm biến cổ
phần hóa thành “tư nhân hóa”; xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai
trò chi phối. Cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước để doanh nghiệp
nhà nước thực sự trở thành nòng cốt của kinh tế nhà nước. Phát triển mạnh kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã.
Khuyến khích phát triển mạnh kinh tế tư nhân, loại hình doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp theo quy hoạch và quy định
của pháp luật. Thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước góp
phần tăng cường tiềm lực kinh tế đất nước, làm tăng khả năng bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.
Một là, thực hiện cải cách thủ tục hành chính tại các cơ quan đại diện chủ sở hữu tập đoàn. Tổng cty
NN để giảm chi phí về thời gian, công sức và tiền bạc do thủ tục giao dịch, xin ý kiến nhiều cơ quan cùng đại
diện sở hữu nhưng không có đầu mối quản lý.
Hai là, tách chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nước; bảo đảm tính chuyên
trách, chuyên nghiệp, có đầu mối của đại diệný chủ sở hữu đối với các TĐKTNN, hoặc có thể thành lập một tổ
chức chuyên trách đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các TĐKTNN.
Ba là, cổ phần hóa các TĐKT, Tổng công ty NN. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của tập đoàn.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới trên cơ sở
tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị trường. Vận dụng và
phát huy mặt tích cực; hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường; tạo ra những tiền đề để nền kinh tế
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tập trung duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng phát
triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính
sách kinh tế; đổi mới công tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng của các tổ chức kinh doanh vốn và tài
sản nhà nước.
Cần phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ linh hoạt. Thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ,
bên cạnh thực hiện chính sách thắt chặt tài chính. Quốc hữu hóa một số ngân hàngể
Chính phủ nên có các thông điệp rõ ràng đến thị trường về các mục tiêu ngắn hạn và tuyên bố tiếp tục hỗ trợ thị

trường cho đến khi nền kinh tế phục hồi. Chuyển dịch cơ cấu ngành như: chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp từ các
ngành cần nhiều nguyên liệu sang các ngành tốn ít nguyên liệu, đồng thời chyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ
trọng của khu vực dịch vụ giảm tỉ trọng khu vực nông lâm, ngư nghiệp. Đồng thời khuyến khích tăng thị trường trong
nước, nước ngoài và xuất khẩu. Ban hành một số chính sách khuyến khích nội địa hoá sản phẩm. Từng bước tạo ra mặt
bằng pháp luật và áp dụng chính sách thuế, các loại giá cả dịch vụ (thuế đất, điện, nước, bưu chính) đối với các nhà đầu
tư vào trong nước. Tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin, tin học.

Vấn đề 2
Câu 3: Đánh giá mô hình KTTT Đức.
Mô hình này có đặc trưng: phối hợp sức mạnh của cơ chế thị trường tự do với sự can thiệp của Nhà nước
để đạt được các mục tiêu xã hội đề ra. Nhà nước luôn đảm bảo sự tồn tại của cả hai bộ phận: kinh tế tự do (tư
nhân) và kinh tế mệnh lệnh (Nhà nước).
* Kết cấu sở hữu và tổ chức kinh doanh
- Hệ thống doanh nghiệp với đẳng cấp trung lưu đóng một vai trò rất độc đáo đối với sự phát triển của nước
Đức. Nó làm được hai việc cho nền kinh tế Đức: thứ nhất, thu hút khoảng 2/3 tổng số việc làm mà một nửa trong số
đó là việc làm trong lĩnh vực kinh doanh buôn bán, và trên 40% trong tổng lượng đầu tư của nền kinh tế; thứ hai, duy
trì một hệ thống giáo dục hướng nghiệp xuất sắc, một hệ thống giáo dục được đánh giá là đứng hàng đầu thế giới.
- Hệ thống ngân hàng Đức có sức mạnh tài chính hơn các ngân hàng Hoa Kỳ. Họ cung cấp nguồn tài


6
chính chủ yếu cho nền công nghiệp; đồng thời là cổ đông lớn nhất trong nền kinh tế. Họ cũng cung cấp đa
phần các dịch vụ môi giới chứng khoán cho các khách hàng ở Đức
-Ủy ban kiểm soát và hội đồng lao động quy định về các chính sách kinh doanh và bảo đảm lao động.
Mục đích của việc này là tạo cho người công nhân có tiếng nói trong các quyết sách, tăng cường sự hợp tác
trong sản xuất kinh doanh giữa chủ lao động và lao động
- Hoạt động ở cấp độ nhà máy, Hội đồng lao động có mặt ở hầu hết các doanh nghiệp Đức và tham gia
vào mọi vấn đề về đảm bảo điều kiện lao động. Bất cứ một quyết định thải hồi công nhân nào cũng phải được
trình lên Hội đồng này trước khi ra quyết định chính thức và Hội đồng có thể can thiệp bằng cách đưa vấn đề
này lên tòa án lao động để chống lại việc thải hồi

* Gải quyết vấn đề xã hội ở Đức
- Giáo dục hướng nghiệp: hệ thống giáo dục là một trong những điểm mạnh nhất của người Đức, nó
giúp tạo ra một lực lượng lao động kỹ năng cao, có khả năng tiếp nhận và sử dụng những công nghệ hiện đại
nhất. Lực lượng lao động Đức hàng năm còn có các chương trình đào tạo nghề nghiệp cho khoảng một nửa số
thanh thiếu niên Đức từ độ tuổi 15-19 trong khoảng 400 nghề chuyên môn khác nhau.
- An sinh xã hội và các thước đo phúc lợi khác: Năm 1911, khi Sắc luật về bảo hiểm tổng hợp đã thống
nhất tất cả các chương trình bảo hiểm ở Đức lại với nhau thì tất cả công nhân Đức đã được bảo hiểm khi không
may bị bệnh tật hay tàn phế, mất khả năng lao động. Bảo hiểm thất nghiệp đã được áp dụng ở Đức từ năm 1927.
Các vấn đề liên quan tới chiến tranh là một bộ phận quan trọng trong hệ thống phúc lợi xã hội của Đức. Trong đó,
có các biện pháp khác nhau để thiết lập và duy trì các trại chuyển giao và tiếp nhận người tị nạn. Các khoản trợ cấp
sinh con không thuộc hệ thống bảo hiểm xã hội và được tài trợ bởi nguồn thu ngoài ngân sách.
Các khoản chi tiêu dành cho mục đích an sinh xã hội nằm trong Ngân sách xã hội và được quản lý bởi
Chính phủ Liên bang nhưng tách hẳn khỏi Ngân sách Liên bang. hệ thống an sinh xã hội được tài trợ từ các
khoản thuế lương đối với cả chủ và các khoản thu chung từ Ngân sách Liên bang. Vào năm 1997, tổng chi trả
cho an sinh xã hội của Đức là khoảng 758 tỷ DM (348 tỷ USD), tương đương khoảng 24% GNP nước Đức.
Đánh giá mô hình KTTT Đức
- Ưu điểm:
Tạo nên thành tựu kinh tế được cả thế giới công nhận, nhất là trong thời kỳ ngay sau khi Chiến tranh
thế giới II kết thúc và kéo dài tới năm 1960. Những thành tựu này được hỗ trợ một phần nhờ kế hoạch viện trợ
Marshall của Mỹ và từ khoản chi tiêu của NATO. Chính sách kinh tế thời hậu chiến của Đức xoay quanh sự
kết hợp giữa tự do cá nhân và phúc lợi xã hội đặt trong khuôn khổ của một nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Các
chương trình phúc lợi xã hội của Đức trở thành một trong những hệ thống toàn diện, hiệu quả nhất châu Âu.
Những khuyến khích về thuế được thiết kế để kích thích đầu tư vào các doanh nghiệp Đức. Các chính sách tài khóa
và tiền tệ của Đức sau chiến tranh được thực hiện theo hướng nhằm nâng cao sản xuất. Nền kinh tế thị trường xã
hội Đức có từ sau Chiến tranh thế giới II vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Nền kinh tế Đức có những điểm mạnh riêng và trở thành nền kinh tế bá chủ trong Liên minh
châu Âu. Chính sách tiền tệ dựa vào lý thuyết mà chính Deutsche Bank đã theo đuổi trong suốt 40 năm
qua là tập trung vào mục tiêu ổn định giá cả. Nước Đức rất mạnh trong các ngành chế tạo động cơ ôtô,
hóa chất, dệt may và công nghiệp cơ khí. Ngoài ra, còn lợi thế so sánh về sản xuất các sản phẩm quang
học và các hàng hóa gia dụng (gốm sứ và trang thiết bị gia dụng…). Các ngân hàng của Đức nằm trong

số những ngân hàng có tính cạnh tranh nhất thế giới. Những tác động dài hạn của EU tới Đức là tích cực
vì Đức nằm ở trung tâm châu Âu. Bất chấp hai cuộc chiến tranh thế giới với những thảm họa đã tàn phá
nền kinh và con người Đức, nước Đức đã phát triển mạnh trong thế kỷ XX.
Vào năm 2005, Đức có 4,9 triệu người thất nghiệp. Đến cuối năm 2012, số đó giảm xuống còn 2,3
triệu. Tỷ lệ thất nghiệp ở Đức hiện vào khoảng 6 % trong khi chỉ số đó tại Pháp vẫn là gần 11 %. Bên cạnh
chủ trương mạnh dạn cải tổ của Berlin, phải nêu lên ba yếu tố khác để giải thích về phép màu kinh tế của Đức
trong hơn một chục năm qua.
Thứ nhất, trong 15 năm trở lại đây, dân số Đức không hề tăng mà còn có khuynh hướng giảm sút- giảm
đi 400 ngàn trong thời gian từ 2000 đến 2010. Đức lại không hề bị tác động của hiện tượng bong bóng địa ốc.
Hai yếu tố đó cộng lại, khiến các nguồn tiết kiệm của Đức chủ yếu được dùng để đầu tư vào sản xuất, vào các
doanh nghiệp thay vì đầu tư vào giáo dục hay nhà ở.
Nét tiêu biểu thứ nhì là về cơ cấu thì từ đầu những năm 2000, nền công nghiệp của Đức đã chọn cho
mình một hướng đi riêng, chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu của các nền kinh tế đang trỗi dậy (xe hơi, xe tải, máy
cày, máy móc sản xuất …). Vì vậy Đức vẫn là nhà xuất khẩu lớn thứ 3 trên thế giới.
Lợi thế thứ ba là ngành ngân hàng Đức tương đối được coi là « mở rộng », các chi phí ngân hàng cũng
như lãi suất tín dụng trung bình thấp hơn so với ở những nơi khác trong khối euro. Đó là động cơ khuyến
khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư.
- Hạn chế:
+Thành công của mô hình này cũng không vững chắc. Những định hướng dịch vụ phi xuất khẩu đang
ở tình trạng ảm đạm, tiềm năng phát triển dự báo sẽ suy sụp xuống dưới 1% vào nào 2020.
+ Mô hình đang gia tăng thất nghiệp (Đông Đức), nhiều năm kể từ ngày tái thống nhất đất nước, tỷ lệ
thất nghiệp vẫn rất cao. Cấu trúc thất nghiệp đã thay đổi, thất nghiệp dài hạn tăng dần khi những công nhân
lớn tuổi là đối tượng thất nghiệp chủ yếu. Ngoài ra, cũng phải kể đến hiện tượng “thất nghiệp ngầm” bao gồm
những người phải về hưu sớm.


7
Hiện nay Tỷ lệ thất nghiệp của Đức luôn được coi là thấp vào bậc nhất tại châu Âu. Nhưng cái giả phải trả
của phép màu kinh tế đó là tại nền kinh tế số 1 châu Âu này, lại có tới 20 % dân số Đức trong cảnh bị coi là « bấp
bênh ». Hơn 6 triệu người lao động đi làm với đồng lương chỉ bằng 75 % so với mức lương tối thiểu của Pháp.

+ Dân số già và cơ cấu tuổi là vấn đề lớn của nước Đức. Cùng với sự gia tăng về tuổi tác dân số, lực lượng
lao động của Đức sẽ sụt giảm, tỷ lệ chết cao hơn tỷ lệ sinh. Ngoài ra, khi quá trình thống nhất đất nước diễn ra đã
buộc phải chấp nhận hàng triệu người Đông Đức đang được hưởng trợ cấp - những người vốn không thực hiện nghĩa
vụ với hệ thống an sinh xã hội Tây Đức. Cho nên gánh từ chi phí phúc lợi xã hội đang ngày một tăng.
Đức hiện không có mức lương tối thiểu. Từ năm 2000 đến 2010, lương trung bình tại Đức chỉ tăng 1
%. Nhưng khi nhìn đến thu nhập thực sự của người lao động Đức, tức là sau khi họ phải đóng thuế thì lương
của những tầng lớp có thu nhập thấp nhất, chẳng những đã không tăng mà lại còn bị giảm đi từ 16 đến 22 %
trong cùng thời kỳ. Cuộc chạy đua để nâng cao năng suất và lợi nhuận của các doanh nghiệp đã khiến xã hội
Đức trở nên bất công hơn.
Ngoài ra, chính sách khuyến khích phụ nữ sinh con là một điều tốt cho tương lai, nhưng trong ngắn
hạn chính sách đó đòi hỏi nhà nước phải đầu tư vào trường học, nhà trẻ, phải tạo điều kiện cho phụ nữ có con
mà vẫn có thể đi làm … tất cả những biện pháp đó đè nặng lên ngân sách của nhà nước.
Câu 4: Phân tích mô hình KTTT Thụy Điển. Ý nghĩa với VN.
Mô hình Thụy Điển là mô hình tăng trưởng gắn với thực hiện công bằng. Trải qua sự thách thức hơn
hai thập kỷ trước thập kỷ 1970, nền kinh tế Thụy Điển đã nhận được nhiều sự thán phục, được xem như “con
đường trung gian” của cải cách và thay đổi thể chế.
* Đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi Thụy Điển
- Các đặc trưng về tác động của chính phủ tới phân phối.
Vai trò nhà nước tác động tới phân phối được đánh giá cao. Tuy khu vực tư nhân chi phối lĩnh vực sản xuất, nhưng
trong lĩnh vực phân phối sản phẩm thì nhà nước lại có vai trò chi phối thông qua chi tiêu chính phủ. Trong đó, cơ cấu chi
tiêu của chính phủ chủ yếu cho nhà ở, tiện nghi công cộng, bảo hiểm xã hội, phúc lợi; chi tiêu cho giáo dục cũng chiếm tỷ
lệ lớn hơn, còn chi tiêu quốc phòng thì có tỷ lệ giảm đi; trái lại, chi tiêu y tế chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn.
Các chương trình chính phủ được tài trợ chủ yếu từ các khoản thuế. Cơ cấu các nguồn thu cũng khác
nhau đáng kể: cũng năm 1988, thuế từ thu nhập, lợi nhuận và vốn chiếm 17,8% doanh thu của chính phủ trung
ương (Hoa Kỳ 51,5%), đóng góp từ bảo hiểm xã hội chiếm tỷ lệ cao. Tuy nhiên, Thụy Điển dựa chủ yếu vào
các khoản thuế đánh vào hàng hóa và dịch vụ - số thu này chiếm 29% doanh thu của chính phủ trung ương
(Hoa Kỳ 3,6%). Tác động của nhà nước phúc lợi tới tái phân phối thu nhập được thể hiện thông qua phân phối thu
nhập thực tế giữa các nhóm dân cư: vào giữa những năm 1980, 20% số hộ có thu nhập thấp nhất ở Thụy Điển nhận
được 8% tổng thu nhập của tất cả các hộ gia đình, trong khi 20% số hộ có thu nhập cao nhất nhận được 26,9% tổng
số thu nhập (Hoa Kỳ, tương ứng là 4,7% và 41,9%).

Tuy Thụy Điển vẫn là nền kinh tế thị trường dựa trên sở hữu tư nhân, nhưng do Nhà nước thực hiện
vai trò như là cơ quan tái phân phối thu nhập, nên có những thay đổi quan trọng và bản chất của nó cũng trở
nên phức tạp, Thụy Điển đề cao quan điểm về môi trường, dựa vào nhập khẩu nguyên liệu, có nguồn lực lao
động được giáo dục cao, do đó, đã hình thành một cơ cấu sản xuất và chính sách kinh tế phù hợp với các
nguồn lực trên. Cốt lõi của mô hình Thụy Điển là khung cảnh của một nền dân chủ xã hội, trong đó có sự bổ
sung và hợp tác thay cho cạnh tranh xã hội, các mục tiêu và quan điểm của dân chúng đạt được sự thống nhất
thông qua việc tham dự vào những tổ chức đoàn thể như công đoàn, hiệp hội và các tổ chức khác. Thông tin
thị trường được phân bố sao cho có thể mang lại lợi ích xã hội cho tất cả mọi người, ví dụ, thị trường lao động
phát triển và hoạt động hiệu quả, với việc áp dụng các hình thức hợp đồng lao động tập thể toàn ngành. Người
lao động có thể tham gia vào quản lý doanh nghiệp và sở hữu thông qua các quỹ đầu tư của mình – một cơ chế
chuyển lợi nhuận thành sở hữu của người lao động. Nhà nước còn có vai trò tích cực thông qua cac công cụ
truyền thống như chính sách tài khóa và tiền tệ. Thụy Điển đảm bảo phân phối thu nhập công bằng chủ yếu
thông qua các hình thức chuyển giao về hưu trí, y tế, giáo dục và các khoản tương tự, cùng với cam kết về việc
làm đầy đủ đã tạo ra một môi trường xã hội ổn định cho phát triển kinh tế.
- Đặc trưng về sự điều chỉnh chính sách của chính phủ
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, các nền kinh tế trên thế giới đều gặp khó khăn do tác động của cuộc khủng
hoảng dầu lửa. Nền kinh tế Thụy Điển cũng không ngoại lệ. Chi phí sản xuất trong nước tăng lên, năng suất giảm sút. Khó
khăn về kinh tế thực sự là một thách thức lớn đối với mô hình nhà nước phúc lợi. Duy trì mức sống tăng cao như trước đây
trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn là điều không thể. Hơn nữa, sự can thiệp quá nhiều của Nhà nước vào phân phối đã làm
giảm sự hấp dẫn của đầu tư, bất lợi cho các xí nghiệp tham gia cạnh tranh quốc tế, tạo ra mức thất nghiệp cao có tính chất
nhân tạo. Tình hình này đã buộc Đảng cầm quyền ở Thụy Điển phải điều chỉnh các chính sách cho hợp lý.
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, chính phủ đã hạ tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân: từ mức cao nhất
70% trước đây xuống dưới 50%, thuế suất danh nghĩa của xí nghiệp cũng từ 56% hạ xuống 28%; bên cạnh đó
là điều chỉnh mạnh chính sách phúc lợi xã hội, ví như mức bù bảo hiểm xã hội từ 80% xuống còn 75%.
Những điều chỉnh này nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế. Nhìn chung nỗ lực của chính phủ là bảo vệ
chế độ phúc lợi, nhấn mạnh những nhu cầu cơ bản của dân chúng như khám chữa bệnh, giáo dục và hỗ trợ người
già, trẻ nhỏ…không để cơ chế thị trường chi phối.
Để phát triển kinh tế, chính phủ đã đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, cải cách cơ cấu kinh tế. Chính phủ
ra sức tài trợ ngành công nghệ thông tin và các ngành sản xuất kỹ thuật cao phát triển. Nhờ những điều chỉnh
về chính sách nên từ năm 1995 đến năm 2000, GDP của Thụy Điển bình quân hàng năm tăng 3%, lạm phát



8
giảm xuống dưới 2% và tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm một nửa. Trên cơ sở phát triển kinh tế, từ năm 1988 chính
phủ quyết định điều chỉnh mức trợ cấp bảo hiểm xã hội trở lại mức 80%, khôi phục hoàn toàn bộ phúc lợi,
nâng tiền dưỡng lão, bổ sung tiền nghỉ hưu sớm, phụ cấp trẻ em, phụ cấp nhà ở… Đời sống của người dân lao
động được nâng lên, tuy nhiên khoảng cách giàu nghèo so với trước đây có xu hướng nới rộng. Ví dụ, năm 2000 thu
nhập thực tế của gia đình công nhân Thụy Điển chỉ tăng 4,2% nhưng của gia đình viên chức cao cấp tăng 11,1%.
* Ưu điểm và hạn chế của mô hình kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi Thụy Điển.
- Ưu điểm:
Đây là mô hình kinh tế hỗn hợp tiên tiến hướng ngoại và có ngành khai thác tài nguyên phát triển. Các
ngành công nghiệp chủ đạo là chế tạo ô tô, viễn thông, dược phẩm và lâm nghiệp.
Mô hình kinh tế Thụy Điển có hai đặc trưng chú ý là dựa vào các ngành công nghệ cao và giải quyết
vấn đề phúc lợi. Đem lại cho nhân dân mức sống cao nhất châu Âu ngày từ những năm 1980.
Việc cải cách ban hành trong những năm 1990 đã tạo ra một mô hình, trong đó lợi ích, phúc lợi xã hội
rộng lớn có thể được áp dụng trong nền kinh tế toàn cầu.
- Hạn chế:
Mô hình kinh tế phúc lợi Thụy Điển với bất động sản và tài chính hình thành nên “bong bóng” được thúc đẩy
bởi sự gia tăng nhanh chóng trong việc cho vay. Chuyển dịch cơ cấu của hệ thống thuế duy trì lạm phát thấp.
Khủng hoảng kinh tế trong mô hình kinh tế phúc lợi Thụy Điển hiện nay do: mức sống của người dân Thủy
Điển phát triển kém thuận lợi hơn so với các nước công nghiệp hoá khác. Hệ thống phúc lợi xã hội vốn là thế mạnh,
song không thể duy trì lâu dài do GDP giảm xuống dưới 5%; tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt.
Mô hình kinh tế Thụy Điển với việc thực hiện chính sách xã hội hào phóng nhờ kinh tế tăng trưởng
cao nhưng việc tăng lên liên tục mức thuê (từ 40% GNP vào năm 1970 lên 55% vào năm 1990) của dân cư đã
làm mất động lực làm việc.
Tiền thuế được dùng cho các chính sách xã hội hòa phóng đến mức mọi người dường như được “bao cấp” kể
từ khi lọt lòng đến khi qua đời làm cho người dân thấy không được thoải mái, bởi quá ít tự do và lựa chọn.
=> Có thể khái quát lại đặc điểm nổi bật của “mô hình Thụy Điển” là trên cơ sở
chủ thuyết “tăng trưởng đi đôi với công bằng” hình thành một nhà nước có các thiết chế
chi phối hoàn toàn việc cung ứng các dịch vụ phúc lợi cho dân chúng để đạt được việc

làm cho mọi người dân thoả mãn với mức sống cao. Chính vì thế mô hình nhà nước
phúc lợi này đã có một khu vực công rất phát triển trong cung ứng các dịch vụ xã hội
cho toàn thể dân chúng bên cạnh một thị trường lao động có mức bảo đảm an ninh việc
làm tương đối cao cùng với các chính sách y tế, giáo dục, gia đình và bình đẳng giới
v..v.. công bằng hợp lý. Tăng trưởng với tốc độ cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp, hệ thống
phúc lợi xã hội không đâu sánh được-.
Ý nghĩa với VN.
- Kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội
Nước ta xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên coi tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tính định hướng XHCN
đòi hỏi phải bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng, tiến bộ xã hội ngay trong từng giai đoạn phát triển và trong từng chính sách kinh tế. Tăng trưởng kinh tế
đồng thời với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và bảo vệ môi trường, vì mục tiêu phát triển con người Việt
Nam là những nội dung cấu thành của sự phát triển nhanh, hiệu quả, hiện đại và bền vững trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tập trung tạo việc làm để thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo là
giải pháp tích cực và cơ bản nhất để thực hiện công bằng xã hội
- Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân, tạo điều điệu cho cho mỗi cá nhân được tự do tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh, tự do cạnh tranh, tự do trao đổi trong khuôn khổ luật pháp và trên cơ sở tín
hiệu, sự điều tiết của thị trường. Nhờ đó vừa cho phép khai thác có hiệu quả cao tiềm lực (về vốn, tay nghề, tư
liệu sản xuất…) của mỗi cá nhân trong xã hội để kích thích năng lực nội sinh, tạo động lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế; tận dụng triệt để những ưu thế của thị trường; vừa hạn chế được sự phân cực giàu – nghèo do
thuộc tính của thị trường gây ra. Cần phân biệt rõ ràng vấn đề độc quyền của Nhà nước với sự độc quyền của
doanh nghiệp và đầu tư Nhà nước chỉ hướng trọng tâm vào những ngành, những lĩnh vực nhiều rủi ro hoặc tư
nhân chưa đủ tiềm lực về tài chính, kỹ thuật, hoặc tư nhân không muốn đầu tư. Còn những ngành, lĩnh vực
nào tư nhân có khả năng đầu tư và đầu tư có hiệu quả (trừ lĩnh vực luật pháp cấm) thì Nhà nước tạo điều kiện
thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển; nâng đỡ, hỗ trợ, định hướng, hướng dẫn cho kinh tế tư nhân hoạt động.
- thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong đời sống kinh tế – xã hội; nâng cao vai trò và hiệu
quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên Cộng sản, Công đoàn, Hội
phụ nữ…. Đồng thời tăng cường kiểm tra việc ký thỏa ước lao động tập thể và ký kết hợp đồng lao động; mở
rộng bàn bạc thảo luận công khai dân chủ để vừa tạo sự nhất trí về tư tưởng, hành động và sự đồng thuận,

đồng hướng về lợi ích; vừa đảm bảo lợi ích hợp pháp của người lao động và của người sử dụng lao động. Trên
cơ sở đó vừa phát huy hết trí tuệ, tính năng động sáng tạo cá nhân, vừa đảm bảo kỷ cương, phép nước và sự
phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng, mục tiêu thống nhất.
- gắn liền với thực thi dân chủ trong kinh tế, chính trị, xã hội là tăng cường và nâng cao vai trò điều tiết kinh tế
vĩ mô, hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước. Yêu cầu đặt ra ở đây trước hết là phân biệt vai trò, chức năng
kinh tế của Nhà nước với sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào những hoạt động kinh tế có tính nghiệp vụ trong từng


9
doanh nghiệp. Vai trò quản lý xã hội và điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng gia tăng, còn sự can thiệp trực tiếp của Nhà
nước vào kinh tế vi mô thì phải giảm dần; phải tôn trọng những nguyên tắc, thể chế của thị trường.
Công cuộc cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân nói riêng ở Việt Nam, do vậy cần được đẩy mạnh và thực
hiện một cách đồng bộ.
- phát triển hệ thống ASXH phải nuôi dưỡng được nguồn cung bền vững
Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã
hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn
thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Tăng tỉ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm.
Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội sang cung cấp dịch vụ
bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn
vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu. Thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi
phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ chế độ quy định đối với mọi đối tượng.
Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức xoá đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp,
nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xoá đói, giảm nghèo bền vững; tạo điều
kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo.
- Toàn cầu hóa, khu vực hóa đã trở thành xu hướng vận động chính của nền kinh tế thế giới. Vì vậy,
trong thời đại ngày nay không một nền kinh tế nào có thể tồn tại, phát triển trong sự co cụm, khép kín. Do đó,
mỗi doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế phải chủ động tham gia vào sự phân công lao động, liên kết,
hợp tác, cạnh tranh khu vực và quốc tế, trên cơ sở khai thác tốt nhất lợi thế của mình. Đồng thời những công

cụ, biện pháp bảo hộ mậu dịch sẽ phải giảm dần và tiến tới loại bỏ trên nhiều lĩnh vực, ngành hàng.

Vấn đề 3
Câu 5: Đánh giá mô hình KTTT Nics. Ý nghĩa với VN
Mô hình kinh tế thị trường của các NICs là một mô hình kinh tế thị trường mới và hiện đại. Một mặt,
nó vừa hội tụ được ưu điểm của con đường phát triển rút ngắn cổ điển nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển
KTTT hiện đại với sự điều tiết mạnh và “thông minh” của nhà nước, mặt khác, có sự khác biệt cơ bản so với
mô hình phát triển rút ngắn cổ điển ở mức độ sử dụng tư bản nước ngoài và độ mở cửa kinh tế. Hay còn gọi là
mô hình kinh tế thị trường đặc thù hướng ngoại ( hướng về xuất khẩu). Các nước NICs: Hàn Quốc, Đài Loan,
Hong Kong, Singapore.Tuy mỗi quốc gia có những nét riêng biệt, nhưng mô hình kinh tế thị trường các nước và
vùng lãnh thổ NIC Châu Á có những đặc đặc trưng cụ thể, đó là:
Thứ nhất, đặc trưng vai trò của doanh nhân dưới sự điều tiết của “bàn tay thị trường” được đề cao
trong phát triển kinh tế. Thực chất đặc trưng này là các NICs châu Á chú trọng phát triển kinh tế tư nhân, coi
khu vực kinh tế tư nhân là hạt nhân, là giường cột và động lực của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, đặc trưng vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường.
Chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ NIC Châu Á hạn chế sự tham gia vào hoạt động kinh doanh.
Chính phủ tập trung vào việc thực thi hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân
phát triển. Vì vậy, tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước luôn rất nhỏ và sự tồn tại của khu vực kinh tế nhà nước
không bao giờ dẫn đến lấn át, chèn ép kinh tế tư nhân, mà là để giúp đỡ kinh tế tư nhân. Chính phủ chỉ đầu tư vào
những ngành nhiều rủi ro hoặc tư nhân chưa đủ tiềm lực về tài chính hoặc kỹ thuật.
Thứ ba, đặc trưng khuyến khích “hướng ngoại” mạnh mẽ.
NICs Châu Á tuy có thực hiện sản xuất thay thế nhập khẩu, nhưng chỉ trong thời gian ngắn, không
đáng kể. Vì vậy, có thể nói rằng chiến lược “hướng ngoại“, hướng về xuất khẩu là chiến lược chủ yếu trong
đường hướng phát triển của mô hình NICs châu Á. Chủ trương công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu được
thực thi một cách nhất quán theo phương thức: vốn, kỹ thuật, phương pháp quản lý hiện đại là của các công ty
xuyên quốc gia, còn lao động và nguyên liệu (một phần nào đó) là của nước sở tại và thị trường tiêu thụ là các
nước công nghiệp phát triển. Gắn liền song song với phương thức phát triển như vậy là hệ thống giải pháp, chính
sách để khuyến khích xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài rất hữu hiệu.
Thứ tư, đặc trưng phát triển các hoạt động nghiên cứu,ứng dụng, triển khai tiến bộ khoa học – công nghệ.
Chính phủ NICs Châu Á rất chú trọng đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học –

công nghệ (thường từ 1,5 - 2% GNP) để gia tăng nhanh chóng năng lực khoa học – công nghệ quốc gia. Trong


10
phát triển khoa học - công nghệ, bước đi của NICs Châu Á là, lúc đầu chủ yếu thực hiện sao chép, bắt chước
và khi đã làm chủ được một số công nghệ phức tạp thì Chính phủ tăng đầu tư cho các phòng thí nghiệm và
nghiên cứu; đẩy nhanh việc phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học, chất xám cao; nhờ đó
tăng nhanh tỷ lệ giá trị gia tăng, tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm và của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ năm, đẩy mạnh sự hình thành và phát triển các loại thị trường gắn với củng cố, kiện toàn và hiện
đại hóa hệ thống tài chính, ngân hàng.
Mô hình NICs châu Á quan tâm phát triển các loại thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính - tiền tệ và thị
trường sức lao động. Mục tiêu phát triển thị trường tài chính - tiền tệ gắn với củng cố, kiện toàn và hiện đại hóa hệ
thống tài chính, ngân hàng nhằm thu hút nhiều vốn đầu tư của tư bản nước ngoài. Hầu như những dự án tài chính
lớn do hệ thống ngân hàng xuyên quốc gia điều khiển. Hệ thống đó tiếp nhận và phân phối lại tiến bộ trên qui mô
thế giới. Hoạt động của nó ngày càng ít phụ thuộc vào chính phủ quốc gia. Bởi thế, các ngân hàng xuyên quốc gia
buộc chính phủ phải tuân thủ những qui tắc tài chính - tiền tệ do họ định ra.
. Ưu điểm và nhược điểm của mô hình kinh tế thị trường các nước và vùng
lãnh thổ NIC châu Á
* Ưu điểm
Thực hiện mô hình kinh tế thị trường mới các nước và cùng lãnh thổ NICs chấu Á đã làm nên sự thần
kỳ về phát triển kinh tế, liên tục đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. GDP bình quân đầu người - tính theo sức
mua tương đương (PPP) được điều chỉnh theo mức sống ở mỗi quốc gia là một phương pháp so sánh chuẩn sống
hữu hiệu. Theo tiêu chuẩn này, Singapore, Hong Kong, và Đài Loan đã vượt qua Nhật Bản lần lượt vào các năm
1993, 1997 và 2010. Các quốc gia và vùng lãnh thổ này có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức hơn 90% chỉ
số trung bình của Liên minh châu Âu, riêng Hàn Quốc là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD). Với khả năng kết hợp hài hòa giữa văn hóa phương Đông với văn minh công nghiệp và kinh tế thị trường
phương Tây để tạo ra một hình thức tổ chức kinh tế đầy sức sống. Ví dụ như mô hình kinh tế thị trường Singapore
phát triển theo đường lối kinh tế tư bản. Sự can thiệp của chính phủ vào vào nền kinh tế được giảm thiểu tối
đa. Singgapore có môi trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính cao, giá cả ổn định, và là
một trong những nước có GDP bình quân đầu người cao nhất thế giới. Đặc biệt, các mặt hàng điện tử và hóa chất

và dịch vụ là nguồn cung cấp chính cho thu nhập kinh tế và mua được các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hàng
chưa gia công mà trong nước không có. Sự kết hợp hữu cơ các yếu tố mà thời đại tạo ra với năng lực bên trong có
thể nắm bắt thời cơ, nội sinh hóa các điều kiện kinh tế và khoa học công nghệ bên ngoài. Trên cơ sở đó thiết lập
được một cơ chế thị trường để vận hành nền kinh tế vừa chắc chắn, vừa linh hoạt, phù hợp với điều kiện của mình.
Sự điều tiết của “bàn tay thị trường” đối với phát huy vai trò của doanh nhân được đề cao trong phát triển kinh tế.
Cơ chế thị trường điều tiết ở mức cao nhất với sự can thiệp của chính phủ ở mức thấp nhất và cơ chế kết hợp
“Chính phủ cứng” với “thị trường mềm”.
Một mặt vừa rất tôn trọng những nguyên tắc, quy luật, thể chế thị trường; vừa xác định đúng giới hạn
về sự can thiệp vào kinh tế của Nhà nước: chỉ đầu tư vào những ngành nhiều rủi ro hoặc tư nhân chưa đủ tiềm
lực về tài chính hoặc kỹ thuật. Nhà nước với tư cách đại diện cho lợi ích quốc gia, luôn đi đầu trong những
lĩnh vực khó khăn phức tạp. Không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước. (tỷ trọng của khu
vực kinh tế Nhà nước luôn rất nhỏ và sự tồn tại của khu vực kinh tế nhà nước không bao giờ dẫn đến lấn át,
chèn ép kinh tế tư nhân, mà là để giúp đỡ kinh tế tư nhân.) Do đó Nhà nước phải mạnh và hoạt động hiệu quả;
đội ngũ công chức được đào tạo kỹ càng, chuyên nghiệp hóa cao, để thực thi nhiệm vụ; đề xuất và thực thi tốt
những chính sách thông minh, sáng suốt. Kích thích khả năng sáng tạo và chủ động của các công ty tư nhân;
bảo vệ quyền lợi chính đáng của tư nhân trong các cuộc xung đột; điều hòa tốt lợi ích tư nhân với nhau; điều
hòa được lợi ích tư nhân với lợi ích Chính phủ, lợi ích cục bộ với lợi ích toàn cục. Thực hiện mở cửa nhằm thu
hút vốn nước ngoài, tiếp thu khoa học và công nghệ, phát triển mậu dịch đối ngoại (thương mại quốc tế) thông
qua việc đẩy mạnh phát triển các loại thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường sức lao
động; gắn với củng cố, kiện toàn và hiện đại hóa hệ thống tài chính, ngân hàng.
* Nhược điểm
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa, bên cạnh những ưu điểm, mô hình kinh
tế thị trường của các nước và vùng lãnh thổ NICs châu Á cũng bộc lộ những khuyết điểm có thể nhận thấy đó là:
Đặc thù mô hình kinh tế thị trường hướng ngoại cho nên mô kinh tế thị trường NICs châu Á dễ bị tác
động (sự phụ thuộc) lớn từ bên ngoài, nhất là từ Mỹ, Nhật và EU, khi nào kinh tế Mỹ, Nhật và EU - ba thị
trường xuất khẩu chính hồi phục, lúc đó kinh tế các NIC châu Á mới phát triển thuận lợi. Bởi vậy, các NIC
châu Á muốn thoát khỏi sự phụ thuộc về vốn, công nghệ, thị trường và sức ép về chính trị...chỉ bằng cách
hướng mạnh vào đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa. Một minh chứng điển hình là “Chaiwan” - sự kết hợp
giữa vốn của Trung Quốc (đại lục) và công nghệ Đài Loan.. Chính điều này tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng đến
các ngành của một số quốc gia láng giềng chẳng hạn như Hàn Quốc.

Mặc dù ở NICs châu Á, các công ty và trung tâm nghiên cứu đã phát triển mạnh trong những thập kỷ
qua tại nhiều hệ thống sản xuất trình độ cao và theo kịp phương Tây, các trung tâm này vẫn chưa đủ khả năng
tạo ra đột phá nào mới. Để tiếp tục duy trì khả năng cạnh tranh, các NICs châu Á cần phát triển công nghệ của
riêng mình chứ không phải chỉ sản xuất các sản phẩm công nghệ. Bởi thế cải cách công nghệ trở nên sống còn
trong bối cảnh thế giới hiện nay.
Mô hình NICs châu Á hiện đang thiếu nguồn nhân lực. Một trong nhũng nguyên nhân là hệ thống giáo
dục tuy phát triển nhưng còn nhiều điểm chưa hoàn thiện, lối suy nghĩ độc lập chưa phát triển, tính sáng tạo
kém. Do đó cần phải thay đổi để thích nghi với điều kiện mới của thế giới.


11
Mô hình kinh tế thị trường NICs châu Á chịu áp lực rất lớn về cải cách. Hiện nay, xu hướng khu vực
hóa và toàn cầu hóa đang và sẽ bao quát và chi phối toàn diện các hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội quốc gia và quốc tế. Một trong những biểu hiện là sự gia tăng các yêu cầu và hoàn thiện các
định chế quốc tế mang tính chất khu vực và toàn cầu quản lý các quá trình phối hợp và trao đổi; gia tăng sức
mạnh và khả năng giải quyết các vấn đề quốc gia, khu vực và toàn cầu; có sự đồng nhất ngày càng cao giữa
các yêu cầu hội nhập tiểu khu, khu vực, với hội nhập toàn cầu.
Xu thế các tổ chức khu vực hóa mở kiểu APEC sẽ tăng lên; Bên cạnh đó cũng sẽ xuất hiện nhiều hơn
các loại Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, khu vực và xuyên khu vực. Đồng thời sẽ
ngày càng đậm nét hơn xu hướng hội tụ cả về mô thức tổ chức các khối kinh tế khu vực, cũng như về các yêu
cầu chỉ tiêu phát triển kinh tế - tài chính - tiền tệ chủ yếu của các nước thành viên, mà EMU (Liên minh kinh
tế - tiền tệ châu Âu) là điển hình nhất.
Trong bố cảnh mới, mô hình kinh tế thị trường NICs châu Á đang đối điện với thị trường xuất khẩu thu hẹp,
nguồn thu ngoại tệ suy giảm. Vì vậy, NICs châu Á đang có những thay đổi chính sách cho phù hợp. Ví dụ: Đài Loan đang
cố gắng bán hàng trực tiếp cho khách hàng tại Đại Lục, vì thế giảm phụ thuộc vào thị trường Mỹ. Ông Sun Ta-wen, chủ
tịch một công ty lớn tại Đài Loan nói rằng: “Chúng tôi làm giàu ở Trung Quốc nhưng mang tiền về xây dựng Đài Loan.”
Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam trong phát triển KTTT định hướng XHCN.
Nghiên cứu mô hình kinh tế thị trường các nước và vùng lãnh thổ NIC châu Á, có thể rút ra những bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Một là, kết hợp hài hòa giữa đảm bảo phúc lợi xã hội với tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được tự do tiến

hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các NIC châu Á chú trọng vấn đề tự do cạnh tranh, tự do trao đổi
trong khuôn khổ luật pháp và trên cơ sở tín hiệu, sự điều tiết của thị trường. Nhờ đó vừa cho phép khai thác có
hiệu quả cao tiềm lực (về vốn, tay nghề, tư liệu sản xuất…) của mỗi cá nhân trong xã hội để kích thích năng
lực nội sinh, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tận dụng triệt để những ưu thế của thị trường; vừa hạn
chế được sự phân cực giàu - nghèo do mặt trái của thị trường gây ra.
Hai là, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Phát huy vai trò và hiệu quả hoạt
động của tổ chức công đoàn trogn bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tăng cường kiểm tra việc ký thỏa ước lao động tập
thể và ký kết hợp đồng lao động; mở rộng bàn bạc thảo luận công khai dân chủ để tạo sự đồng thuận, đồng hướng về lợi ích;
vừa đảm bảo lợi ích hợp pháp của người lao động và của người sử dụng lao động. Trên cơ sở đó vừa phát huy trí tuệ, tính
năng động sáng tạo cá nhân, đảm bảo kỷ cương, phép nước và sự phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu.
Ba là, gắn với thực thi dân chủ trong kinh tế, chính trị, xã hội là tăng cường và nâng cao vai trò điều tiết kinh
tế vĩ mô, hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước; phân biệt rõ ràng vai trò của Nhà nước với vai trò tự chủ
của doanh nghiệp. Vai trò quản lý xã hội và điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng gia tăng, còn sự can thiệp trực tiếp của
Nhà nước vào kinh tế vi mô thì phải chấm dứt; phải tôn trọng những nguyên tắc, thể chế của thị trường.
Bộ máy Nhà nước phải thật sự gọn, nhẹ, hiệu quả, hiệu lực, trong sạch, trong suốt và không ngừng
được hoàn thiện. Đầu tư Nhà nước chỉ hướng trọng tâm vào những ngành, những lĩnh vực nhiều rủi ro hoặc tư
nhân chưa đủ tiềm lực về tài chính, kỹ thuật, hoặc tư nhân không muốn đầu tư. Những ngành, lĩnh vực mà tư
nhân có khả năng đầu tư và đầu tư có hiệu quả (trừ lĩnh vực luật pháp cấm) thì Nhà nước tạo điều kiện thuận
lợi để kinh tế tư nhân phát triển; nâng đỡ, hỗ trợ, định hướng, dẫn dắt cho kinh tế tư nhân hoạt động. Đồng
thời phải giảm dần và tiến tới loại bỏ những công cụ, biện pháp bảo hộ mậu dịch trên nhiều lĩnh vực, ngành
hàng. Doanh nghiệp phải chủ động tham gia vào sự phân công lao động, liên kết, hợp tác, cạnh tranh khu vực
và quốc tế, trên cơ sở khai thác tốt nhất lợi thế của mình.
Bốn là, xây dựng chiến lược GD - ĐT, KH - CN quốc gia gắn với chiến phát triển kinh tế - xã hội.
Vì vậy, cải cách đồng bộ hệ thống giáo dục - đào tạo bao gồm: nội dung, phương pháp, diều kiện dạy
và học, đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý cũng như phương pháp, cách thức quản lý giáo dục - đào tạo
để giáo dục - đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu trở thành một yêu cầu cấp bách trong phát triển đất nước.
Phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, một cách toàn diện, coi trọng giáo dục lý tuởng,
giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong
công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, vãn hoá đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động

lành nghề. Ðẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối
liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo
Cùng với giáo dục - đào tạo phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tãng nhanh nãng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước; nâng tỉ lệ đóng góp của yếu tố
năng suất tổng hợp vào tăng trưởng.
Năm là, mỗi doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế phải chủ động tham gia vào sự phân công lao
động, liên kết, hợp tác, cạnh tranh khuc vực và quốc tế.
Câu 6: Phân tích bản chất XHCN trong mô hình KTTT Trung Quốc
* Việc làm sáng rõ bản chất của CNXH và kinh tế thị trường XHCN có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, là
đòi hỏi khách quan của công cuộc cải cách, xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung cũng như ở TQ nói riêng.
- Các nhà sáng lập CNMLN đã bàn về những đặc trưng cơ bản của CNXH từ những góc độ khác nhau,
nhưng tuyệt nhiên không dùng từ “bản chất” để khái quát CNXH.


12
- Trên cơ sở phát triển nội dung cốt lõi, thực chất quan niệm mácxít về CNXH, đồng thời tổng kết lịch sử
xây dựng CNXH trong thực tiễn, ông Đặng Tiểu Bình đã đưa ra quan niệm mới về bản chất của CNXH: “Bản chất
của CNXH là giải phóng LLSX, xóa bỏ bóc lột, loại bỏ phân hóa hai đầu, cuối cùng là cùng giàu có”.
Tư tưởng của Đặng Tiểu Bình thể hiện được những vấn đề có tính nguyên tắc của CNXH:
+ Giữ vững và kiên trì chế độ cơ bản của CNXH, đồng thời khắc phục những những quan điểm phiến
diện quá cường điệu mặt QHSX tới mức tách rời LLSX, chỉ bàn luận chung chung về CNXH, do đó góp phần
nâng cao nhận thức khoa học về CNXH.
+ Bảo đảm sự thống nhất giữa LLSX và QHSX XHCN; giữa nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của CNXH;
giữa cơ sở vật chất và quan hệ xã hội của CNXH; sự thống nhất giữa phương tiện phát triển và mục tiêu cuối
cùng của CNXH.
+ Đặc biệt nhấn mạnh đến việc “giải phóng và phát triển LLSX” là nhu cầu bức thiết phải đặc biệt được chú
trọng trong suốt thời kỳ lịch sử lâu dài xây dựng CNXH nhất là trong giai đoạn đầu XD CNXH ở TQ.
+ Xác định rõ ràng sau khi xây dựng chế độ cơ bản của CNXH phải dần dần giải phóng sức LĐ thông qua cải cách.
+ Nó chỉ ra cách thức để TQ giữ vững và phát triển chế độ XHCN trong quá trình cải cách, đổi mới đất

nước là phải kiên trì hai nguyên tắc:
Lấy chế độ công hữu XHCN làm chủ thể .
Thực hiện cùng giàu có,
Kiên trì không giao động chế độ công hữu làm chủ thể và phân phối theo lao động là tiền đề để thực hiện bản
chất của CNXH; còn hình thức thực hiện chế độ công hữu và cơ cấu chế độ công hữu chỉ có thể căn cứ vào nhu cầu
thực tế của giải phóng và phát triển sức SX, căn cứ vào tiến trình thực tế dần dần thực hiện cùng giàu có để xác định.
+ Nó phá vỡ quan niệm truyền thống coi kinh tế kế hoạch là đặc trung bản chất của CNXH.
Ông Đặng Tiểu Bình nói: “Kế hoạch nhiều hơn một chút hay thị trường nhiều hơn một chút, không
phải là sự khác biệt về bản chất giữa CNXH và CNTB. Kinh tế kế hoạch không phải là CNXH, CNTB cũng có
kinh tế kế hoạch; kinh tế thị trường không phải là CNTB, CNXH cũng có thị trường. Kế hoạch và thị trường
đều là công cụ kinh tế”1. Những nhận thức mới này đã loại bỏ tư tưởng trói buộc, thủ cựu, mở ra phương
hướng mới cho việc cải tổ thể chế kinh tế kế hoạch hóa trước đây của TQ và là một cống hiến cho kho tàng lý
luận CNXH khoa học.
+ Quan niệm bản chất của CNXH cũng phản ánh lợi ích thiết thân của nhân dân TQ và nhu cầu của thời đại.
Khẳng định nghèo đói không phải là CNXH.
Phát triển quá chậm và tụt hậu, chủ nghĩa bình quân không phải là CNXH.
Hai cực phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng cũng không phải là CNXH.
Không có luật pháp và không coi trọng văn minh tinh thần cũng không làm tốt CNXH.
Tóm lại: CNXH mang đặc sắc TQ là không ngừng giải phóng, phát triển LLSX, là thực hiện cùng giàu
có, cải cách mở cửa, phát huy dân chủ và kiện toàn pháp chế, phát triển văn minh vật chất và văn minh tinh
thần, chủ trương duy trì hòa bình thế giới, lấy CNMLN, tư tưởng Mao Trạch Đông và lý luận Đặng Tiểu Bình
làm kim chỉ nam, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thực hiện chuyên chính dân chủ nhân dân.
* Ý nghĩa với Việt Nam
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Những thành tựu mà nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong cuộc cách mạng kinh tế đã chứng tỏ sự
đúng đắn của Đảng Cộng sản Trung Quốc trên con đường đi tìm lời giải đáp cho con đường phát triển của đất
nước. Trung Quốc đã có những bước tiến với tốc độ đáng ngạc nhiên. Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về
tính khoa học, thực tiễn, sáng tạo ngày càng rõ nét. Không có con đường sẵn, không có công thức nào đúng
cho mọi chỗ mọi nơi. Cách mạng là sáng tạo. Đại hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định rõ là:
"Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và

vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế phải gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc".
Trung Quốc đã chủ trương thực hiện “chính trị thông suốt, nhân dân hoà thuận”, “quyết không thực hiện chế độ đa
đảng và tam quyền phân lập”, “quyết không làm tư hữu hoá”. Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn luôn là hạt nhân lãnh đạo của
sự nghiệp xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc… đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân Trung Quốc.
Việt Nam chúng ta cũng đã nhận thức sâu sắc rằng: Càng đi sâu vào kinh tế thị trường, thực hiện dân
chủ hoá xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế, càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng chính là tăng cường sự tác động chính trị xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế
thị trường, để thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; ngược lại, sự phát triển
của kinh tế thị trường sẽ buộc Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo cho
phù hợp với yêu cầu, quy luật của kinh tế thị trường VK 11 " Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản".
Phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải tăng cường và điều hành vĩ mô của nhà nước về
kinh tế, mà chủ yếu là giữ cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định. Đi đôi với việc tăng cường điều hành
vĩ mô, dần chuyển dịch chức năng của chính quyền theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
1

Sđd tr 290


13
tinh giản bộ máy nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, những việc có thể giải quyết
qua cơ chế thị trường thì để cho thị trường làm, chức năng của chính quyền chủ yếu là điều tiết kinh tế, giám
sát và quản lý thị trường, quản lý xã hội và phục vụ công cộng. Những công việc gì mà nhà nước cần nắm thì
phải nắm cho tốt, còn những công việc gì không cần nắm thì kiên quyết không nắm, tránh gây phương hại cho
hiệu quả thị trường do sù can thiệp quá mức của chính quyền.
- Giai quyêt tôt MQH giữa phát triển LLSX và xây dựng, hoàn thiện từng bước
QHSX xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường chỉ xuất hiện và phát triển khi lực lượng sản xuất đã phát triển tới trình độ cho phép đạt
được khối lượng lao động thặng dư và tương ứng với nó là khối lượng sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều. Do đó, ở
nước ta hiện nay, muốn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH.
Vấn đề rất cơ bản có ảnh hưởng lớn tới định hướng xã hội chủ nghĩa là phải phân bố lực lượng sản xuất như
gắn kết một cách hợp lý tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Nếu phân bố theo cơ chế thị trường tự
phát, người ta chỉ phân bố lực lượng sản xuất tập trung vào ngành, vùng có nhiều lợi nhuận, không quan tâm đến một
số ngành, vùng khác, dù đó là ngành, vùng xung yếu. Hậu quả là tạo nên sự cách biệt quá xa về trình độ phát triển và
tình trạng chênh lệch quá mức về thu nhập và đời sống giữa các tầng lớp dân cư.
Những vấn đề kinh tế khác như hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế tự chủ, giải quyết mối
quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng v.v... đều có quan hệ trực tiếp đến định hướng xã hội chủ nghĩa.
Biểu hiện tập trung nhất và thước đo cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở
quan hệ sản xuất. Trong quan hệ sản xuất thì vấn đề sở hữu là quan trọng nhất. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền
kinh tế của chúng ta hiện nay là: sở hữu công cộng đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu, ở những lĩnh vực huyết
mạch, những vị trí then chốt của nền kinh tế quốc dân do Nhà nước nắm. Kinh tế nhà nước cần thông qua hợp tác liên
doanh, liên kết kinh tế với các thành phần kinh tế khác mà phát huy vai trò chủ đạo để cùng với kinh tế tập thể, nòng cốt
là hợp tác xã, hợp thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Cùng với nền tảng đó là đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
chú trọng phát triển hình thức sở hữu cổ phần, đa dạng hóa các thành phần kinh tế và các thành phần kinh tế phi công
hữu đều là những bộ phận cấu thành quan trọng, tất yếu của nền kinh tế quốc dân.
Sở hữu là vấn đề quan trọng nhất, nhạy cảm nhất, có ý nghĩa sống còn đối với mọi chế độ chính trị. Do đó,
các thế lực thù địch trên thế giới thường nhằm vào vấn đề sở hữu để chống phá. Chúng gây sức ép trong các mối
quan hệ để đòi chúng ta phải tư nhân hóa nền kinh tế và tìm mọi cách ủng hộ, khuyến khích sở hữu tư nhân phát triển.
Cùng với việc xác định vị trí của chế độ sở hữu công cộng và cơ chế thực hiện thì cần phân định các
loại hình sở hữu và các thành phần kinh tế. Vì đây là một công cụ rất quan trọng trong thực thi lãnh đạo, quản
lý nền kinh tế. Có phân định, chúng ta mới thấy được tỷ trọng của mỗi loại hình sở hữu và của mỗi thành phần
kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Từ đó có giải pháp sát hợp, hữu hiệu trong lãnh đạo, quản lý.
- Nội dung thứ hai của quan hệ sản xuất là tổ chức quản lý. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta về mặt tổ chức quản lý phải bảo đảm được sự gắn kết hợp lý giữa 3 yếu tố cơ bản:
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng, phát triển đất nước và Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, phản ánh đúng xu thế khách quan của thời đại và điều kiện cụ thể của đất nước. Sự quản

lý, điều hành phù hợp, có hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân bằng
một hệ thống đồng bộ luật pháp, các chính sách, công cụ, phản ánh đúng ý Đảng, lòng dân và thực lực kinh tế của Nhà
nước. Vai trò làm chủ và tham gia quản lý của nhân dân lao động thực sự được phát huy thông qua thực hiện quyền hạn,
trách nhiệm và lợi ích của họ đối với những tư liệu sản xuất thuộc sở hữu cá nhân, đối với vốn cổ phần, đối với những tư
liệu sản xuất được Nhà nước phân giao quyền sử dụng và kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế có liên quan. Đây là
những yếu tố cấu thành tất yếu về tổ chức quản lý trong mô hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm cho mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
- Một nội dung khác của quan hệ sản xuất liên quan rất mật thiết đến định hướng xã hội chủ nghĩa và
rất nhạy cảm đối với chính trị của chúng ta là vấn đề phân phối. Trong mô hình nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải đề cao nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và các nguồn lực
khác đầu tư vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Vì định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phân phối sẽ làm nổi bật tính ưu việt của chế độ ta trong điều kiện sức sản xuất còn thấp kém. Điều này
được thể hiện thu nhập giữa những người hưởng lương, chính sách tiền lương không để cách nhau quá xa giữa
bậc lương thấp nhất và cao nhất. Trong quá trình xử lý vấn đề tiền lương đã không ngừng nâng mức lương tối
thiểu, đã chú trọng các nghề cần khuyến khích; chú ý lao động nặng nhọc, độc hại...
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phân phối còn là tạo ra các nguồn lực xã hội hóa trợ giúp người có
thu nhập thấp, có hoàn cảnh khó khăn, người nghèo, góp phần làm cho hố ngăn cách mức sống không bị
doãng ra, tỷ lệ đói nghèo được giảm xuống một cách nhanh chóng.
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phân phối không chỉ là cho người nghèo "con cá", như trong thời
kỳ bao cấp trước đây, mà quan trọng hơn là phải tạo cho họ cái "cần câu cá", tức là tạo cho họ cơ hội và
phương tiện để tham gia các hoạt động kinh tế đem lại thu nhập để bảo đảm cuộc sống, khắc phục những tư
tưởng trông chờ, ỷ lại một cách thụ động vào sự cứu trợ của Nhà nước và xã hội.


14

Vấn đề 4
Câu 7: Phân tích đặc trưng về sở hữu và phân phối mô hình KTTT Trung Quốc
Quá trình xây dựng mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã trải qua hơn một
phần ba thế kỷ. Trên con đường đó, Trung Quốc đã phải “dò đá qua sông”, vừa cải cách, vừa tìm tòi các biện

pháp thích hợp, vừa không ngừng rút kinh nghiệm. Thời điểm đánh dấu sự thay đổi có tính lịch sử – chính
thức chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc
Trung Quốc – là Hội nghị Trung ương 3 Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 12- 1978. Quá trình cải cách,
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường ở Trung Quốc được thực hiện với
những bước đi thận trọng, từ thực hiện thí điểm để rút kinh nghiệm, sau đó mới mở rộng trong từng ngành và
toàn bộ nền kinh tế qua các giai đoạn khác nhau. Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc
chính là một nỗ lực nhằm đưa xã hội Trung Quốc phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội “mang đặc sắc
Trung Quốc”. Thành công bước đầu của mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là biểu
trưng cho thành công của sự đột phá về lý luận và quả cảm trong thực tiễn.
1.Đặc trưng về sở hữu: Xây dựng chế độ kinh tế đa sở hữu, trong đó lấy công hữu làm chủ thể,
kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển.
- Đây là kết quả tổng kết kinh nghiệm và bài học về chế độ sở hữu trước đây ở TQ.
- Hội nghị TW3 khóa XI Đảng Cộng sản TQ cho rằng cần thiết phải xây dựng chế độ kinh tế đa sở
hữu, trong đó xác lập chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển.
- Đây là chế độ kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường XHCN đặc sắc TQ.
- Sở dĩ phải kiên trì xây dựng chế độ công hữu làm chủ thể vì: Nhà nước TQ là nhà nước XHCN, do đó
để bảo đảm từng bước đạt tới mục tiêu cùng giàu có; củng cố và phát triển nền chuyên chính dân chủ nhân
dân, cần phải kiên trì địa vị chủ thể của kinh tế công hữu.
- Kinh tế công hữu bao gồm: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; thành phần quốc hữu và tập thể tham
gia trong kinh doanh sở hữu hỗn hợp.
- Địa vị chủ thể của kinh tế công hữu:
+ Tài sản vốn công hữu chiếm ưu thế trong tổng tài sản vốn xã hội.
Ưu thế này thể hiện ở chỗ cần bảo đảm về chất lượng nhất định nhưng phải chú trọng nâng cao chất
hiệu quả. Vận dụng vào thực tế, xem xét trong phạm vi cả nước thì tùy nơi, tùy ngành mà có sự khác biệt.
+ Kinh tế quốc hữu khống chế huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, có vai trò then chốt đối với việc phát
huy tính ưu việt của chế độ XHCN, tăng cường thực lực kinh tế, sức mạnh quốc phòng và sự gắn bó của dân tộc TQ.
- Giải pháp để thực hiện vai trò của kinh tế quốc hữu:
+ Điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế nhà nước.
Đối với những ngành quan trọng và lĩnh vực then chốt, liên quan đến huyết mạch của nền kinh tế quốc
dân, kinh tế quốc hữu phải chiếm vị trí chi phối.

Ở những lĩnh vực khác có thể thông qua việc tổ chức lại tài sản và điều chỉnh cơ cấu kinh tế mà tăng
cường trọng điểm, nâng cao chất lượng chung cho kinh tế quốc hữu.
Tiêu chuẩn về tối ưu hóa kết cấu và bố cục kinh tế quốc hữu không phải là nhất thành bất biến mà sẽ
thay đổi cùng với sự thay đổi của tình hình phát triển và môi trường kinh tế.
+ Chỉ cần kiên trì kinh tế quốc hữu là chủ thể, kinh tế quôc hữu khống chế các huyết mạch của nền
kinh tế quốc dân, sức điều tiết và sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân sẽ được tăng cường.
Dưới tiền đề này, tỷ trọng kinh tế quốc hữu có thể giảm đi một chút cũng sẽ không ảnh hưởng đến tính
chất XHCN của TQ.
- Kinh tế tập thể: là bộ phận hợp thành quan trọng của kinh tế quốc hữu (công hữu). Kinh tế tập thể có
ba đặc trưng cơ bản:
+ Người làm việc trong các doanh nghiệp vừa là chủ sở hữu vừa là người lao động, họ tạo thành tập
thể và có quyền điều hành doanh nghiệp;


15
+ Thành quả kinh doanh được phân phối trong nội bộ doanh nghiệp. Mọi tổ chức, cá nhân không thuộc
doanh nghiệp, không được chiếm hữu tài sản doanh nghiệp cũng như không được hưởng thành quả của nó.
+ Về quan hệ với bên ngoài, doanh nghiệp không chịu sự can thiệp trực tiếp của chính phủ cũng như sự ràng
buộc của kế hoạch pháp lệnh, mà chủ yếu quan hệ với thị trường và chịu sự chi phối của cơ chế thị trường.
Thực tiễn cải cách kinh tế ở TQ đã chứng minh, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tập thể ở cả thành
thị và nông thôn có sức sống và khả năng thích ứng với những nhu cầu và trình độ phát triển SX khác nhau, do
đó nó không thể được thay thế bằng kinh tế nhà nước.
Ví dụ, chế độ hợp tác cổ phần nhiều hình thức là một biện pháp có hiệu quả thực hiện sự kết hợp giữa
sức lao động và vốn, giữa phân phối theo lao động và phân phối theo yếu tố SX.
- Một đột phá quan trọng trong lý luận cải cách chế độ sở hữu của TQ là tách chế độ công hữu với hình
thức thực hiện chế độ công hữu. TQ lập luận về vấn đề này như sau:
+ Chế độ sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể truyền thống là hai hình thức thực hiện chế độ công hữu, ngoài
ra còn bao gồm thành phần nhà nước và thành phần tập thể trong chế độ sở hữu hỗn hợp. Nếu đồng nhất chế độ
công hữu và hình thức thực hiện nó sẽ làm cản trở sự phát triển và hạn chế tính ưu việt của chế độ công hữu.
+ Hình thức thực hiện chế độ công hữu không hề quyết định trực tiếp tính chất của chế độ công hữu,

thậm chí hình thức này có thể đa dạng hóa.
+ Tất cả phương thức SXKD và hình thức tổ chức kinh tế phản ánh quy luật xã hội hóa đều có thể
được mạnh dạn sử dụng. Hình thức tổ chức doanh nghiệp cụ thể không hề quyết định công hữu hay tư hữu,
điểm mấu chốt là phải xem xét quyền kiểm soát cổ phần nằm trong tay ai.
Nếu Nhà nước và tập thể kiểm soát cổ phần doanh nghiệp thì tính chất công hữu rõ ràng điều này có lợi cho việc
mở rộng phạm vi chi phối của tài sản công hữu cũng như tăng cường vai trò chủ đạo của chế độ công hữu.
- Đặc biệt, chế độ cổ phần cũng là một hình thức tổ chức tiền vốn và quản lý của doanh nghiệp hiện đại, cho phép
tách quyền sở hữu với quyền kinh doanh, nâng cao hiệu quả vận hành của doanh nghiệp cũng như hiệu quả tiền vốn. Chủ
nghĩa tư bản đã sử dụng và chủ nghĩa xã hội cũng có thể áp dụng hình thức doanh nghiệp cổ phần.
Từ những năm 1980, khi áp dụng doanh nghiệp chế độ cổ phần đã phát huy và tận dụng tốt các mặt sau:
+ Mở các kênh huy động tiền vốn mới; nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản quốc hữu, thúc đẩy điều
chỉnh kết cấu sản nghiệp và chuyển đổi cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với thị trường.
+ Đồng thời, chế độ HTX cổ phần thành lập rất nhiều ở thành phố và nông thôn TQ lấy liên hiệp lao
động và tiền vốn của người lao động làm chủ yếu, bắt đầu trở thành hình thức quan trọng tổ chức doanh
nghiệp hợp tác.
Kinh tế chế độ hợp tác xã cổ phần cũng phát huy vai trò quan trọng thu hút tiền vốn phân tán trong xã
hội, làm dịu áp lực việc làm, gia tăng tích lũy công cộng và tăng thuế cho nhà nước.
- Thực tiễn TQ chứng minh, kinh tế công hữu chỉ cần tìm được hình thức thực hiện thích hợp thì sẽ có sức sống
mạnh mẽ, có thể chiếm được địa vị ưu thế trong cạnh tranh thị trường, thực sự củng cố địa vị chủ thể của chế độ công hữu.
TQ cũng đưa ra khuyến cáo, trong quá trình tìm tòi hình thức thực hiện chế độ công hữu, cần giữ được tỉnh
táo và xử lý thận trọng, chú ý phòng ngừa phát sinh tình huống lượng hóa không giới hạn, biến tài sản quốc hữu
thành tài sản cá nhân (cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở VN đã xuất hiện tình trạng tiêu cực này) và cuối cùng
tập trung vào tay một số ít người, tránh để cho chế độ XHCN mất đi nền móng kinh tế. (Hội nghị TW 3 khóa XVI,
Đảng Cộng sản TQ coi chế độ cổ phần trở thành hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu XHCN).
- Kinh tế phi công hữu.
TQ xác định kinh tế phi công hữu là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN.
Lý luận của TQ là:
+ Phát triển kinh tế phi công hữu trong điều kiện kinh tế quốc hữu làm chủ thể là yêu cầu khách quan
của sự phát triển sức sản xuất của giai đoạn đầu của CNXH.
+ Quá trình cải cách chế độ công hữu của TQ hướng vào việc cải tạo chế độ công hữu đơn nhất cũng

chính là quá trình phát triển từng bước của kinh tế phi công hữu.
+ Sự nhìn nhận, đối xử đúng đắn hay không đối với kinh tế phi công hữu có liên quan trực tiếp đến sự
phát triển kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc, bởi lẽ: Giữa kinh tế phi công hữu và kinh tế thị trường có
mối quan hệ chặt chẽ, tự nhiên; Kinh tế phi công hữu có đặc trưng là quyền sở hữu được xác định rõ rệt,
quyền tự chủ trong các quyết sách và do đó cơ chế vận hành linh hoạt.
Những đặc điểm trên là thống nhất với các nguyên tắc và yêu cầu của thị trường.
“Không có chế độ công hữu thì không có CNXH; không có chế độ phi công hữu thì cũng không thể xây
dựng thành công kinh tế thị trường XHCN đặc sắc TQ”.
+ Thực tiễn TQ chứng minh vai trò của kinh tế phi công hữu: đóng vai trò quan trọng với việc thỏa
mãn các nhu cầu đa dạng của đời sống vật chất và văn hóa XH; mở rộng việc làm; tăng tích lũy của nhà nước;
thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
+ Quan điểm của TQ đối với kinh tế phi công hữu là:


16
Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp của kinh tế phi công hữu theo pháp luật và khuyến khích phát
triển lành mạnh, liên hệ mật thiết với kinh tế công hữu đang chiếm vai trò chủ thể, làm cho kinh tế thị trường
XHCN đặc sắc TQ phát triển sôi động, mạnh mẽ và tràn đầy sức sống;
Đáng chú ý, kinh tế phi công hữu không chỉ được nhìn nhận, đánh giá như một lực lượng quan trọng
trong phát triển nền kinh tế quốc dân, mà còn dưới góc độ biến đổi tính chất của nó dưới ảnh hưởng của hạ
tầng cơ sở cũng như thượng tầng kiến trúc trong một nền kinh tế mới - kinh tế thị trường XHCN đặc sắc TQ.
- Về sở hữu đất đai:
+ Đất đai ở thành phố thược sở hữu của nhà nước.
+ Đất đai ở nông thôn thuộc sở hữu tập thể.
Nông dân chỉ có quyền duy nhất với đất đai là quyền sử dụng, không có quyền chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp.
Khi nông dân chuyển ra thành phố hay đi nơi khác thì phải trả lại đất cho tập thể để giao cho người khác sử dụng.
Tuy nhiên, một số nơi vẫn có sự chuyển nhượng đất nông nghiệp, theo đó, đất đai được tập trung vào
một số người có ưu thế để hình thành doanh nghiệp tư nhân, nhưng phải có điều kiện: Công nghiệp phải phát
triển để thu hút nông dân ly nông và ly hương và phải bảo đảm tốt về mặt xã hội cho nông thôn.
Ngoài ra, đất đai ở TQ còn được tập trung theo phương thức di chuyển theo gia đình.

(Việc quản lý, sử dụng đất đai ở nông thôn TQ không phải nhất nhất theo một phương thức cụ thể mà
cũng rất linh hoạt cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương).
2. Đặc trưng về phâp phối
Xây dựng và hoàn thiện phương thức phân phối xã hội chủ nghĩa, lấy phân phối theo lao động làm chủ
thể, cho phép một bộ phận người và khu vực giàu có trước, lôi kéo giúp đỡ những người, khu vực khác giàu
có sau, từng bước đi tới cùng giàu có.
Đảng Cộng sản TQ và giới lý luận cho rằng:
- Chế độ kinh tế cơ bản lấy công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển thực
hiện ở giai đoạn đầu của CNXH, quyết định phương thức thực hiện phân phối, trong đó phải kiên trì chế độ
phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều phương thức phân phối cùng tồn tại.
- Lý luận phân phối mới đã phá vỡ lý luận phân phối truyền thống ở những nội dung sau:
+ Một là, Lấy chế độ phân phối theo lao động làm chủ thể, các phương thức phân phối song song cùng
tồn tại, kết hợp phân phối theo lao động với phân phối theo yếu tố sản xuất;
Một mặt, kiên trì lấy phân phối theo lao động làm chủ thể trong XH, làm cho tỷ trọng phân phối theo
lao động chiếm địa vị chủ thể trong tất cả các phương thức phân phối; lượng thu nhập phân phối theo lao động
của người lao động trong kinh tế công hữu làm tiêu chuẩn đối chiếu về mức thu nhập của người lao động trong
các hình thức sở hữu khác.
Mặt khác, song song phát triển các hình thức phân phối khác, kết hợp phân phối theo lao động với
phân phối theo yếu tố SX, cho phép khuyến khích các yếu tố SX như vốn, kỹ thuật tham gia vào phân phối.
Lý luận phân phối trên không chỉ thể hiện quy luật khách quan của sự phát triển LLSX trong giai đoạn
đầu của CNXH mà còn thể hiện yêu cầu vận hành nền kinh tế thị trường XHCN.
 Tất cả các hình thức sở hữu phù hợp với ba điều có lợi đều có thể và nên khuyến khích sử dụng để phục vụ cho CNXH.
 Tương tự như vây, tất cả các phương thức phân phối phù hợp với ba điều có lợi đều có thể và nên
khuyến khích sử dụng.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường XHCN, muốn phát huy vai trò mang tính nền móng của thị
trường đối với việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực thì phải phát triển mạnh thị trường các yếu tố SX như
LĐ, tiền vốn, kỹ thuật, thông tin…
Trong quá trình SX hàng hóa, đối với LĐ sống tạo ra giá trị thì yêu cầu thực hiện chế độ phân phối theo LĐ
làm chủ thể; các yếu tố SX khác như tiền vốn, kỹ thuật, thông tin… là những điều kiện quan trọng mà SX hàng hóa
không thể thiếu được thì đòi hỏi cho phép tham gia vào phân phối lợi ích thu được ở giai đoạn đầu của CNXH.

Kết hợp phân phối theo LĐ với phân phối theo yếu tố SX tạo điều kiện thuận lợi cho việc động viên
tính tích cực của quảng đại thành viên XH, có lợi cho việc phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực, có lợi
cho phát triển sức SX của XH.
+ Hai là, thực hiện chính sách ưu tiên năng suất, hiệu quả và chú trọng công bằng;
TQ cho đây là một nguyên tắc nên phải kiên trì ưu tiên năng suất, chú trọng công bằng.
Nguyên tắc này thể hiện phát triển LLSX là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNXH; năng suất là
nền tảng của công bằng, công bằng lại là tiền đề cho năng suất, thực hiện tốt hai điều này cũng là yêu cầu cơ
bản của kinh tế thị trường XHCN TQ.
Đồng thời, trong các tầng bậc phân phối khác nhau, lại có sự xử lý khác nhau trong mối quan hệ giữa
năng suất và công bằng.


17
 Trong quá trình tái sản xuất, lĩnh vực phân phối lần đầu phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên năng suất,
chú ý hơn nữa tới năng suất, hiệu quả là chính để thúc đẩy SX.
 Trong lĩnh vực phân phối lại thì nên kiên trì nguyên tắc chú trọng công bằng, đề xướng công bằng
nhiều hơn để hạn chế phân hóa hai đầu.
+ Ba là, cho phép khuyến khích một bộ phận người giàu lên trước bằng lao động và kinh doanh trung
thực, đề xướng người giàu trước giúp người giàu sau, cuối cùng thực hiện xã hội cùng giàu có.
Về vấn đề này, TQ cho rằng:
Trong chính sách phân phối phải xóa bỏ chủ nghĩa bình quân, xóa bỏ “nồi cơm lớn”; cho phép cổ vũ
một số người, một số khu vực giàu lên trước, dần đạt được mục đích cùng giàu có.
Chính sách này lấy việc thừa nhận sự khác biệt làm tiền đề, lấy LĐ chính đáng và kinh doanh hợp pháp
làm điều kiện, cuối cùng lấy thực hiện cùng giàu có làm mục tiêu.
Cách thực hiện như trên nhờ thế mà kết hợp được tính nguyên tắc của CNXH với tính linh hoạt của
chính sách và phản ánh được yêu cầu khách quan của LLSX.
Cùng giàu có thể hiện bản chất của CNXH nhưng không phải cùng giàu có của chủ nghĩa bình quân.
Thực hiện quá trình cùng giàu có chỉ có thể bằng cách khuyến khích một số nơi, một số người giàu lên
trước, hình thành hiệu ứng làm mẫu và thông quan những người giàu lên trước, giúp đỡ những người giàu có
sau, cuối cùng thực hiện cùng giàu có.

+ Bốn là, xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội nhiều tầng nấc, hoàn thiện chế độ cứu tế xã hội, xã hội
hóa việc cung cấp bảo hiển xã hội cơ bản nhất.
Cùng với quá trình cải cách, để duy trì sự ổn định xã hội, TQ đã thực hiện nguyên tắc công bằng trong
kinh tế, luôn chú ý xây dựng và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường XHCN.
TQ xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội nhiều tầng nấc, xã hội hóa công tác bảo hiểm, đặc biệt là bảo
hiểm y tế, dưỡng lão…
Ngoài ra trong quá trình hoàn thiện cơ cấu và phương thức phân phối thu nhập còn phải chú ý bảo hộ
thu nhập hợp pháp theo luật. Chống các hình thức thu nhập bất chính, điều chỉnh thu nhập bất hợp lý; thông
qua chính sách phân phối thu nhập và thuế, Nhà nước điều tiết những thu nhập quá cao, phòng ngừa phân hóa
hai cực và sự cách biệt quá lớn về giàu nghèo.
* Bài học cho Việt Nam.
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền KTTT
Những thành tựu mà nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong cuộc cách mạng kinh tế đã chứng tỏ sự đúng
đắn của Đảng Cộng sản Trung Quốc trên con đường đi tìm lời giải đáp cho con đường phát triển của đất nước.
Trung Quốc đã có những bước tiến với tốc độ đáng ngạc nhiên. Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về tính khoa
học, thực tiễn, sáng tạo ngày càng rõ nét. Không có con đường sẵn, không có công thức nào đúng cho mọi chỗ mọi
nơi. Cách mạng là sáng tạo. Đại hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định rõ là: "Trong bất kỳ điều kiện và
tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới
toàn diện, đồng bộ với bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc".
Trung Quốc đã chủ trương thực hiện “chính trị thông suốt, nhân dân hoà thuận”, “quyết không thực hiện chế độ đa
đảng và tam quyền phân lập”, “quyết không làm tư hữu hoá”. Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn luôn là hạt nhân lãnh đạo của
sự nghiệp xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc… đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân Trung Quốc.
Việt Nam chúng ta cũng đã nhận thức sâu sắc rằng: Càng đi sâu vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hoá xã
hội, mở rộng hợp tác quốc tế, càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng chính là tăng cường sự tác động chính trị xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị trường, để thúc đẩy kinh tế thị
trường phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; ngược lại, sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ buộc Đảng phải tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp với yêu cầu, quy luật của kinh tế thị trường VK
11 " Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo

cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản".
Phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải tăng cường và điều hành vĩ mô của nhà nước về
kinh tế, mà chủ yếu là giữ cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định. Đi đôi với việc tăng cường điều hành
vĩ mô, dần chuyển dịch chức năng của chính quyền theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
tinh giản bộ máy nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, những việc có thể giải quyết
qua cơ chế thị trường thì để cho thị trường làm, chức năng của chính quyền chủ yếu là điều tiết kinh tế, giám
sát và quản lý thị trường, quản lý xã hội và phục vụ công cộng. Những công việc gì mà nhà nước cần nắm thì
phải nắm cho tốt, còn những công việc gì không cần nắm thì kiên quyết không nắm, tránh gây phương hại cho
hiệu quả thị trường do sù can thiệp quá mức của chính quyền.
- Đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế


18
Điều chỉnh cơ cấu, chế độ sở hữu và cải cách doanh nghiệp quốc hữu là khâu then chốt trong xây dựng
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn chứng minh trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, nếu không
thực hiện cơ cấu nhiều loại chế độ sở hữu, nếu không cải cách hình thức chế độ công hữu truyền thống, nếu
không làm cho doanh nghiệp quốc hữu trở thành doanh nghiệp thực sự và là chủ thể cạnh tranh thị trường, thì
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa sẽ khó có thể xây dựng được.
Để nhận thức được bài học này, cả Trung Quốc và Việt Nam đều phải trải qua nhiều thập kỷ để tìm ra
con đường hợp quy luật khách quan nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Trước đây, do sự chủ
quan nóng vội và nhận thức chưa đầy đủ, hơn nữa do chế độ tư hữu phát triển rất mạnh ở các nước tư bản chủ
nghĩa dẫn đến hình thành một sai lầm khá phổ biến khi cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ tồn tại chế độ công hữu
đơn nhất, dẫn tới việc phủ nhận vị trí của sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá
thể và kinh tế tư doanh). Vị trí và vai trò của chế độ sở hữu tư nhân được nhìn nhận ngày một đầy đủ và khoa
học hơn, từ chỗ được thừa nhận vị trí “hợp pháp” đã được đánh giá là có vai trò “quan trọng” đối với sự phát
triển kinh tế – xã hội.
Nhận thức được bài học về sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân, Việt Nam đã quan tâm và tạo điều
kiện cho bộ phận kinh tế này phát triển. Chính sách đối với thành phần kinh tế tư nhân đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Văn kiện của Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “Kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể

ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động
lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn
hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”.
- .Bài học về phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Chính sách phân phối thu nhập của Trung Quốc đã trải qua các giai đoạn. Từ việc khắc phục chủ nghĩa bình
quân, trước lấy nông thôn làm khâu đột phá, thi hành chế độ khoán sản phẩm tới hộ, từng bước Trung Quốc phá bỏ
cơ chế bao cấp, thực hiện nguyên tắc “ưu tiên hiệu suất, tính tới công bằng” nhằm huy động tính chủ động và sáng
tạo của đông đảo các tầng lớp nhân dân, vừa chống chủ nghĩa bình quân, lại phòng ngừa thu nhập chênh lệch quá lớn.
Việt Nam đã và đang xây dựng một chế độ phân phối vừa đảm bảo tính hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, vừa đảm bảo tính công bằng, giữ vững ổn định xã hội. Nghị quyết Đại hội XI Đảng cộng sản Việt
Nam khẳng định: "Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội".
- Phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công băng xã hội trên th.tế.
Nước ta xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên coi tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tính định hướng XHCN
đòi hỏi phải bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng, tiến bộ xã hội ngay trong từng giai đoạn phát triển và trong từng chính sách kinh tế. Tăng trưởng kinh tế
đồng thời với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và bảo vệ môi trường, vì mục tiêu phát triển con người Việt
Nam là những nội dung cấu thành của sự phát triển nhanh, hiệu quả, hiện đại và bền vững trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tập trung tạo việc làm để thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo là giải pháp tích cực và cơ bản nhất để
thực hiện công bằng xã hội
Tiếp tục thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo theo hướng bền vững.
Điểm nổi bật của chiến lược này là Đảng và Nhà nước ta đã gắn chặt mục tiêu xoá đói, giảm nghèo với chiến
lược phát triển, coi xoá đói, giảm nghèo là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển, là mục tiêu xuyên
suốt của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xoá đói, giảm nghèo vừa là mục tiêu, vừa là tiền đề, điều kiện và
là thước đo phát triển bền vững, là yếu tố cơ bản bảo đảm công bằng xã hội.
Tăng cường công tác đào tạo nghề cho lực lượng lao động (đặc biệt là lao động ở nông thôn, nông nghiệp)
nhằm xây dựng đội ngũ lao động có tay nghề phục vụ yêu cầu CNH, HĐH và yêu cầu xuất khẩu lao động. Tiếp tục
thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá, giáo dục và đào tạo; chương trình phát triển kinh tế

- xã hội các xã đặc biệt khó khăn và thực hiện thắng lợi Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27-12-2008 của Chính
phủ "Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo".
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội,
triển khai có hiệu quả hình thức bảo hiểm thất nghiệp, khuyến khích mở rộng hình thức bảo hiểm xã hội tự
nguyện, bảo hiểm nhân thọ, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân...


19

Vấn đề 5
Câu 8: Phân tích đặc trưng thể chế KTTT Trung Quốc. Ý nghĩa.
TQ cho rằng, phương thức phân bổ các nguồn tài nguyên là yếu tố quyết định hiệu quả vận hành của
hệ thống kinh tế. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN làm cho vai trò nền móng của thị
trường trong phân bổ các nguồn tài nguyên được phát huy một cách đầy đủ, sẽ nâng cao mạnh mẽ hiệu quả
vận hành của nền kinh tế, tăng cường sức sống của cả nền kinh tế. Để xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường XHCN, TQ đề ra nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc 1: xử lý tôt môi quan hệ giữa điều hành vĩ mô của nhà nước với vai trò
điều tiêt của cơ chê thị trường.
+ Trong điều kiện kinh tế thị trường, tất cả các hoạt động kinh tế đều phải tuân theo yêu cầu quy luật
giá trị, thích ứng với sự thay đổi của cung - cầu; cần phải thông qua công năng của đòn bẩy giá cả và cơ chế
cạnh tranh để phân bổ tài nguyên vào đúng khâu có hiệu quả, loại bỏ cơ chế xin - cho và đặc quyền của doanh
nghiệp nhà nước. Cần phải sử dụng ưu điểm của thị trường phản ứng nhanh nhạy với các tín hiệu kinh tế, thực
hiện cơ chế chọn lọc tự nhiên, tốt thì chiến thắng, yếu kém thì bị đào thải đối với doanh nghiệp, thúc đẩy cân
đối giữa sản xuất và nhu cầu.
+ Tuy nhiên, vai trò mang tính nền móng của thị trường đối với phân bổ các nguồn lực cần phải được
tiến hành dưới sự điều hành vĩ mô của Nhà nước. Bởi vì, để khắc phục những nhược điểm và bất cập của tính
tự phát thị trường, cần phải dựa vào sự chỉ đạo, điều hành vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động kinh tế. Đặc
biệt ở thời kỳ đang chuyển đổi thể chế kinh tế khi nâng cấp kết cấu sản nghiệp và kinh tế phát triển với gia tốc
nhanh, thì củng cố và hoàn thiện vai trò điều hành vĩ mô của nhà nước càng quan trọng.
- Nguyên tắc 2, cần phải giữ vững cân bằng tổng lượng kinh tế, thúc đẩy kết cấu kinh tế tối ưu hóa,

thực hiện kinh tế tăng trưởng ổn định.
+ Sự cân bằng tổng cung xã hội với tổng cầu xã hội là tiền đề cơ bản cho sự tăng trưởng ổn định của
nền kinh tế quốc dân. Chỉ khi tổng lượng kinh tế cân bằng, toàn bộ sản phẩm và dịch vụ hình thành tổng cung
đều có thể thực hiện được giá trị của chúng, tức tổng sức mua của XH có năng lực chi trả thể hiện tổng nhu
cầu có thể thực hiện thì nền kinh tế quốc dân mới vận hành thông suốt.
Vì vậy, sự cân bằng giữa kết cấu cung sản phẩm và dịch vụ trong tổng cung xã hội với kết cấu nhu cầu
là cơ sở của cân bằng tổng lượng kinh tế. Bất kỳ sự cân bằng tổng lượng nào cũng lấy sự cân bằng kết cấu
nhất định làm nội dung. Chỉ có trên cơ sở cân bằng kết cấu kinh tế mới có khả năng tránh được tình hình:
trong khi một sản phẩm ngắn hạn cung thấp hơn so với cầu lại tồn tại một số sản phẩm dài hạn nào đó cung
vượt quá cầu.
Nền kinh tế quốc dân không thể phát triển lành mạnh trong tình huống kết cấu kinh tế không cân bằng như
vậy. Nhiệm vụ điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước chính là hiểu biết những tình huống và nắm được toàn cục
phát triển của nền kinh tế, dựa vào xu thế thay đổi của nền kinh tế quốc dân và tính quy luật mà vận dụng các biện
pháp điều tiết dựa trên vai trò của cơ chế thị trường, điều hành quan hệ kinh tế trên các mặt nhằm giữ vững cân
bằng tổng lượng kinh tế, thúc đẩy kết cấu kinh tế đạt tối ưu, thực hiện kinh tế tăng trưởng ổn định.
- Nguyên tắc 3, vận dụng các biện pháp kinh tế, biện pháp pháp luật cùng với biện pháp hành chính cần
thiết phụ trợ để thực hiện nhiệm vụ điều hành vĩ mô.
Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phương thức điều hành vĩ mô của
Nhà nước phải chuyển từ trực tiếp là chủ yếu sang gián tiếp. Biện pháp kinh tế chủ yếu bao gồm vận dụng các
chính sách tài chính , tiền tệ và chỉ đạo công tác kế hoạch hóa để điều tiết nền kinh tế quốc dân. Để bảo đảm
sự hài hòa trong chính sách điều hành vĩ mô và vận dụng tổng hợp các đòn bẩy kinh tế, cần phải xây dựng
được cơ chế phối hợp qua lại ràng buộc lẫn nhau giữa tài chính, tiền tệ và kế hoạch.
Ngoài ra, cần xây dựng một hệ tống tổ chức điều hành có uy tín và chế độ tương quan, nhằm làm cho các
cơ quan điều hành vĩ mô có thể độc lập hoạt động theo chức năng của mình, đồng thời lại có thể phối hợp được
nhịp nhàng theo một mục tiêu thống nhất, tăng cường hiệu quả chỉnh thể của điều hành vĩ mô. Vận dụng tổng hợp
các biện pháp kinh tế có thể giúp cho hoạt động vi mô của doanh nghiệp thực sự phù hợp với mục tiêu vĩ mô của
nhà nước, thực hiện phân bổ tối ưu nguồn tài nguyên và hợp lý hóa kết cấu sản nghiệp.
Biện pháp pháp luật bao gồm vận dụng các quy phạm pháp luật và pháp quy về quản lý kinh tế, làm
cho các hoạt động kinh tế có thể được tiến hành theo trật tự. Trong quá trình chuyển đổi sang thể chế kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa, sử dụng biện pháp hành chính trong phạm vi nhất định vẫn cần thiết, nhưng phạm

vi này sẽ ngày càng thu nhỏ cùng với sự hoàn thiện của các biện pháp kinh tế và biện pháp pháp luật. Cần lấy
biện pháp kinh tế là chủ yếu, vận dụng tổng hợp các biện pháp, phát huy vai trò của hệ thống điều hành vĩ mô,
bảo đảm cho nền kinh tế phát triển cao liên tục và bền vững.
Tính chất cơ bản của thể chế kinh tế thị trường XHCN là dưới sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, thị
trường đóng vai trò cơ sở trong việc phân phối nguồn lực; hoạt động kinh tế phải tuân theo quy luật giá trị,
phù hợp với quan hệ cung cầu, thông qua giá cả và cơ chế cạnh tranh để tiến hành phân phối các nguồn lực
vào những lĩnh vực có hiệu quả, thực hiện quy luật đào thải tự nhiên của thị trường.


20
TQ cho rằng, phương thức chủ yếu để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN là: “Thể chế kinh tế
thị trường pháp trị tự do, cạnh tranh bình đẳng, can thiệp có giới hạn, giám sát, quản lý theo pháp luật”.
* Ý nghĩa đối với Việt Nam
Một là, Thống nhất nhận thức về vai trò của thể chế KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây
là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy
đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh
tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, tăng cường
đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng
góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển kinh tế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập,
tự chủ của nền kinh tế. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách. Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội,
điều kiện phát triển. Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng

góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các
nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và
các loại thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, định hướng phát
triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy dân chủ,
quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Hai là, Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
và các tổ chức sản xuất kinh doanh
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
hướng khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu,
các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền
kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới, như trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu,
tài nguyên nước, khoáng sản...
Hoàn thiện thể chế về sở hữu nhà nước theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ
máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách
chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước; thu hẹp và tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban nhân dân đối với
tài sản, vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có tài sản, vốn nhà nước. Tiếp tục đổi mới, củng cố và phát huy vai
trò của mô hình công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Hoàn thiện thể chế về phân phối: Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân
phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước, từng chính sách phát triển. Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm hài hòa lợi ích của
Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi
ích quốc gia. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm đời
sống, ít nhất là ở mức trung bình của xã hội, cho các đối tượng chính sách.
Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế: Tiếp tục
đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước để góp phần
giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới, phát triển hợp tác xã và tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, phù hợp với các nguyên tắc : tự

nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng. Khuyến khích tăng vốn góp, tăng vốn đầu tư
phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã; phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã đa dạng, sản
xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các tổ chức kinh tế tập thể tiếp cận các nguồn
vốn; đào tạo cán bộ quản lý, lao động; trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ; hỗ trợ phát triển thị trường,
tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, các dự án đầu tư của Nhà nước.
Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp,
không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân trong
và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; tạo điều kiện để các doanh nghiệp của tư nhân tiếp
cận các nguồn lực của Nhà nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng. Khuyến khích các doanh nghiệp tư
nhân liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp.
Ðồng thời, tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân để các doanh nghiệp tư
nhân tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước.


21
Ba là, Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị
trường. Phát triển đa dạng, đồng bộ, ngày càng văn minh, hiện đại các thị trường hàng hoá, dịch vụ; thị
trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, vận hành an toàn, được quản lý, giám sát hiệu quả. Phát triển và kiểm
soát có hiệu quả thị trường chứng khoán. Phát triển lành mạnh thị trường bất động sản, tập trung vào đổi mới,
hoàn thiện các thể chế về quyền sử dụng đất. Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ gắn với việc
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; thị trường lao động gắn với tăng cường quản lý nhà nước...
Bốn là, Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước,
từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường
Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo,
vươn lên no ấm, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc và căn cứ cách mạng trước đây. Chính sách
giảm nghèo không chỉ nhằm mục tiêu ổn định mà còn tạo động lực cho sự phát triển. Tạo điều kiện để mọi công dân
nắm bắt được cơ hội làm ăn, nâng cao thu nhập và đời sống, được hưởng thành quả chung của phát triển. Tập trung
đầu tư phát triển kinh tế, xã hội ở một số vùng trọng điểm có tỷ lệ hộ nghèo cao; phấn đấu từng bước thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo giữa các đối tượng, các vùng, không để chênh lệch này trở thành vấn đề xã hội bức xúc. Ðưa mục
tiêu giảm nghèo vào nội dung chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, của từng địa phương.

Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng xã hội cho người nghèo, giúp người nghèo giảm bớt khó khăn, vươn lên
thoát nghèo, đồng thời khắc phục tư tưởng ỷ lại, bao cấp, trông chờ vào Nhà nước.
Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện các chương trình mục tiêu hướng ưu tiên vào đối tượng bảo trợ xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, giám sát chặt chẽ việc thực hiện;
phòng ngừa, ngăn chặn, không để phát sinh thêm các ô nhiễm mới, xử lý triệt để những điểm ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng; có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm. Bảo vệ môi trường phải được coi
trọng ngay từ đầu và trong suốt quá trình xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Có kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu
quả thiên tai; xây dựng kế hoạch ứng phó và giảm nhẹ tác động tiêu cực do sự biến đổi khí hậu.
Năm là, Hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của
nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Ðảng tăng cường chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là những nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế thị trường. Coi trọng đổi mới tư duy, công tác tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự
đồng thuận cao trong xã hội. Bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối, các chủ trương, chính sách lớn về
phát triển kinh tế - xã hội của Ðảng; lãnh đạo quá trình tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ðổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong lĩnh vực xây dựng và
thực thi thể chế kinh tế. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp phù hợp với yêu cầu phát triển nền KTT định hướng XHCN
Ðổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với những yêu cầu của quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Vận dụng
và phát huy mặt tích cực, hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường và tiếp tục tạo ra những tiền đề, điều kiện
để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðổi mới mạnh mẽ hơn phương thức quản lý kinh tế của
Nhà nước. Coi trọng và làm tốt công tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, định hướng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, sử dụng có hiệu quả các công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô, bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế,
kiềm chế lạm phát; phát triển lành mạnh của các thị trường tài chính, tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm; ngăn ngừa và
xử lý kịp thời những biến động xấu đối với ổn định kinh tế vĩ mô; phát triển các lĩnh vực xã hội, gắn thực hiện tiến bộ

và công bằng xã hội với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường; tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp; giữ vững an ninh,
quốc phòng, ổn định chính trị - xã hội cho sự phát triển đất nước. Chuyển giao những công việc Nhà nước không nhất
thiết phải làm cho các tổ chức xã hội; tinh giản bộ máy nhà nước, tập trung nguồn lực vào một số lĩnh vực quan trọng
nhất trong phát triển kinh tế, xã hội.
Nâng cao vai trò của các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và
của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện
luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội, nghề nghiệp và nhân dân tham gia có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát thực hiện
luật pháp, các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Câu 9: Đặc trưng của vai trò Chính phủ trong mô hình KTTT Nhật Bản. và rút ra

ý nghĩa đối với VN

- Về vai trò của Chính phủ Nhật Bản:
Chính phủ sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ để kích thích quá trình tăng trưởng kinh tế, nhất
là công cụ thuế; tạo lập được mối quan hệ thường xuyên, gần gũi giữa Chính phủ và doanh nghiệp.
Chính phủ chỉ chiếm phần nhỏ trong tiêu dùng xã hội, nhưng lại lại chiếm phần lớn trong đầu tư và giữ quyền


22
kiểm soát chặt chẽ khu vực tư nhân thông qua các trung gian của Chính phủ. Chi tiêu Chính phủ trong lĩnh vực bảo
hiểm xã hội cũng ít hơn nhiều.
Xác định rõ vị trí vai trò của các cơ quan hành chính và các bộ, ngành trong nền kinh tế như Bộ Tài chính,
Bộ Thương mại và Công nghiệp quốc tế (MITI), là hai bộ quan trọng nhất trong chính phủ. Cơ quan Khoa học và
Kỹ thuật công nghiệp (AIST) là cơ quan bán độc lập được thành lập dưới sự cho phép của MITI và có trách nhiệm
chính là xúc tiến công nghệ và phát triển các công nghệ mới. Các thể chế tài chính thuộc chính phủ tham gia vào
các hoạt động thiết yếu trên thị trường tài chính thông qua việc sở hữu một số thể chế chuyên về tín dụng Ngân quỹ
cho vay của những thể chế này được cấu thành từ những nguồn vốn đối ứng như từ ngân sách chính phủ hay tiết
kiệm dân cư dưới hình thức tiết kiệm (niên kim) và bảo hiểm xã hội…Bộ Bưu chính viễn thông (MPT) là cơ quan
giữ chức năng tiết kiệm chính yếu và quan trọng của Nhật Bản, với tổng số tiết kiệm lên tới 1 tỷ USD. Ngân hàng

Nhật Bản thực hiện chính sách tiền tệ thông qua ba công cụ chính để kiểm soát tổng lượng tín dụng và tiền tệ cung
cấp trên thị trường: lãi suất, tỷ lệ chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
- Những thành công
Nền kinh tế Nhật Bản là nền kinh tế đạt được nhiều thành tựu tăng trưởng nhất trong số các quốc gia công
nghiệp phát triển lớn của thế giới trong thế kỷ XX. Thời kỳ 1950-1987 tốc độ tăng trưởng trung bình của GDP thực tế là
6,0% nhưng tốc độ tăng trưởng của Nhật Bản vẫn là 4,0% so với 2,9% ở Hoa Kỳ, 2,4% ở Pháp và 2,2% ở Đức.
Xuất khẩu là lĩnh vực thành công điển hình của Nhật Bản. Trước năm 1900, nước Nhật hoàn toàn
không có xuất khẩu. Đầu thể kỷ XX với vị trí thứ 23 xét trên tổng kim ngạch xuất khẩu so với vị trí thứ 12 của
Trung Quốc. Đến cuối thế kỷ XX, năm 1997 nước Nhật đã xếp thứ 3 thế giới với tổng kim ngạch lớn hơn so
với Vương quốc Anh là khoảng 150 tỷ USD. Cũng năm 1997 tài khoản thương mại hàng hóa của Nhật Bản
đạt thặng dư 73 tỷ USD so với khoản thâm hụt 114 tỷ USD trong tài khoản thương mại nói chung, khoảng ½
trong số đó là quan hệ thương mại với Hoa Kỳ.
Nhật Bản là quốc gia cho vay hàng đầu thế giới. Họ tài trợ cho việc cầm giữ các tài sản nước ngoài
thông qua những khoản thặng dư liên tục trên tài khoản xuất nhập khẩu hàng hóa, trong vòng 25 năm con số
này đã lên tới 2,2 tỷ tỷ USD. Một phần đáng kể trong số này được đầu tư vào các tài sản của Hoa Kỳ, từ trái
phiếu kho bạc đến các nhà máy sản xuất ôtô. Nhật Bản cầm giữ rất nhiều tài sản nợ của chính phủ Hoa Kỳ và
đã trở thành quốc gia cho vay hàng đầu thế giới.
Công nghiệp Nhật Bản phát triển mạnh bởi bốn nhân tố sau: (1) rất coi trọng chất lượng sản phẩm. (2)
coi trọng công tác nghiên cứu. (3) có một lực lượng lao động kỹ thuật cao cũng như khối lượng lớn máy móc,
thiết bị tính trung bình trên một công nhân. (4) có một lượng cầu trong nước rất lớn là nhân tố chính dẫn đến
thành công trong quá trình phát triển công nghiệp Nhật Bản.
- Những điểm yếu
Hiện nay Nhật Bản đang phải đương đầu với hàng loạt những vấn đề nghiêm trọng khi bước vào thế kỷ XXI.
Nhật Bản đã mắc phải một chứng bệnh – căn bệnh Nhật Bản, nghĩa là một sự đồng đều tuân thủ đến cứng nhắc, mất
đi sự sáng tạo và niềm tin cũng như tinh thần của công chúng giảm sút rõ rệt. Những vụ xì căng đan trong các lĩnh
vực chính trị, hành chính và kinh doanh dấy lên trong thập niên 1990 đang dần mất đi chất keo hàn gắn xã hội của họ,
chất keo có thể đưa họ tiếp tục quãng đường phát triển trong những thế kỷ tới.
Nhật Bản là một trong những nước có dân số già nhất thế giới; tỷ lệ sinh ra của nước Nhật lại đang
giảm xuống và cùng với nó là hiện tượng dân số trong độ tuổi lao động cũng giảm dần. Nhật Bản phải đương
đầu với hai vấn đề lớn: thứ nhất, nước Nhật chống lại việc nhập cư và giữ sự đồng nhất về chủng tộc; thứ hai,

người Nhật rất không muốn phụ nữ phải lao động vất vả, họ không muốn bóc lột sức lao động của phụ nữ và
do đó càng làm gánh nặng thuế khóa đối với dân Nhật tăng lên.
Nền kinh tế Nhật Bản cũng đang ở trong sự bộn bề các vấn đê tài chính. Nhiều ngân hàng thua lỗ và bị phá sản
hoặc phải để chính phủ mua lại. Tổng lượng nợ của chính phủ và chi trả lãi suất đã lớn hơn GDP cả nước. Các thể chế
tài chính Nhật Bản hoạt động kém hiệu quả, thiếu minh bạch, còn quan hệ với những kẻ đầu cơ bất chính.
Nguyên nhân chủ yếu là do sự sụp đổ của hệ thống tài chính và sự bất lực, nạn tham nhũng đang hoành
hành trong Chính phủ Nhật Bản.
* Rút ra ý nghĩa đối với Việt Nam..
Đối với một đất nước bị tàn phá nặng nề do chiến tranh, lại vừa bị đè nặng bởi những tàn dư của xã hội cũ
kìm hãm sự năng động và sáng tạo, sẽ không thể phát triển được nếu không có những cải cách căn bản nhằm loại
bỏ hoàn toàn những tàn dư cũ, trì trệ và bảo thủ, chuyển hẳn sang một xã hội dân chủ và cạnh tranh trong hoà bình,
một nền kinh tế mói theo hướng thị trường mở, tạo điều kiện cho mọi khả năng sáng tạo có môi trường tốt để nảy
sinh và phát triển. Từ bài học của Nhật Bản trong phát triển kinh tế có thể rút ra kinh nghiệm cho các nước trên thế
giới trong đó có Việt Nam, đó là cần thiết kế thể chế nào để tăng cường năng lực xã hội, tránh tham nhũng Đó là
năng lực vói những tố chất cần thiết của các thành phần lãnh đạo. Thể chế phải phát huy được vai trò của Nhà
Nước, trí tuệ của nhân dân, vạch ra phương hướng phát triển đất nước, xây dựng bộ máy hành chính hiệu quả gồm
đội ngũ quan chức có năng lực và phẩm chất


23
-Tăng trưởng kinh tế là biểu hiện cao nhất của nền kinh tế năng động, là kết quả tổng hợp của các
nhân tố trong quá trình sản xuất xã hội. Do vậy, muốn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì phải có đủ
các yếu tố và biết kết hợp chung một cách hài hoà.Thế mạnh là lao động nhưng nếu không có chính sách
kinh tế vĩ mô cũng như vi mô đúng để khai thác thế mạnh thì không đạt được kết quả mong muốn. Một cơ
cấu kinh tế hài hoà cân đối sẽ làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo được sự ổn định xã hội
có lợi cho tăng trưởng.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước góp
phần tăng cường tiềm lực kinh tế đất nước, làm tăng khả năng bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.
Một là, thực hiện cải cách thủ tục hành chính tại các cơ quan đại diện chủ sở hữu tập đoàn. Tổng cty NN
để giảm chi phí về thời gian, công sức và tiền bạc do thủ tục giao dịch, xin ý kiến nhiều cơ quan cùng đại

diện sở hữu nhưng không có đầu mối quản lý.
Hai là, tách chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nước; bảo đảm tính chuyên
trách, chuyên nghiệp, có đầu mối của đại diệný chủ sở hữu đối với các TĐKT, tổng cty NN, hoặc có thể
thành lập một tổ chức chuyên trách đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các TĐKT, tổng cty NN.
Ba là, cổ phần hóa các TĐKT, Tổng công ty NN. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của tập đoàn.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới trên
cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị trường. Vận
dụng và phát huy mặt tích cực; hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường; tạo ra những tiền đề để
nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tập trung duy trì ổn định kinh tế vĩ mô,
định hướng phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
luật pháp, chính sách kinh tế; đổi mới công tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội. Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng của các tổ
chức kinh doanh vốn và tài sản nhà nước.
- Cần phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ
Chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực cho phát triển kinh tế - xã hội; phân phối lợi ích công bằng. Tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống
thuế, cơ chế quản lý giá, pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu
dùng, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công. Thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỉ lệ tích luỹ hợp
lý cho đầu tư phát triển; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với
doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước
ngoài; giữ mức nợ chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn (hiện nay nợ công của Vn là 64% GDP) .
Tăng cường vai trò giám sát ngân sách của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị
đồng tiền. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng. Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân
hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Điều hành chính sách lãi suất, tỉ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Đổi
mới chính sách quản lý ngoại hối và vàng; từng bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn; tăng cường kiểm tra, kiểm
soát tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam. Tăng cường vai trò
của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với
chính sách tài khoá. Kiện toàn công tác thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, tiền tệ.

- Chính phủ nên có các thông điệp rõ ràng đến thị trường về các mục tiêu ngắn hạn và tuyên bố tiếp
tục hỗ trợ thị trường cho đến khi nền kinh tế phục hồi. Chuyển dịch cơ cấu ngành như: chuyển đổi cơ cấu
ngành công nghiệp từ các ngành cần nhiều nguyên liệu sang các ngành tốn ít nguyên liệu, đồng thời chyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng của khu vực dịch vụ giảm tỉ trọng khu vực nông lâm, ngư
nghiệp. Đồng thời khuyến khích tăng thị trường trong nước, nước ngoài và xuất khẩu. Ban hành một số
chính sách khuyến khích nội địa hoá sản phẩm. Từng bước tạo ra mặt bằng pháp luật và áp dụng chính sách
thuế, các loại giá cả dịch vụ (thuế đất, điện, nước, bưu chính) đối với các nhà đầu tư vào trong nước. Tập
trung đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin, tin học.

Vấn đề 6


24
Câu 10: So sánh mô hình KTTT Trung Quốc với mô hình KTTT VN.
Đặc trưng kinh tế thị trường XHCN TQ được thể hiện ở bốn nội dung:
* Thứ nhất, xây dựng chế độ kinh tế đa sở hữu, trong đó lấy công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều chế
độ sở hữu cùng phát triển.
Đây là chế độ kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc. Bởi vì: Nhà nước TQ
là nhà nước XHCN, do đó để bảo đảm từng bước đạt tới mục tiêu cùng giàu có; củng cố và phát triển nền chuyên
chính dân chủ nhân dân, cần phải kiên trì địa vị chủ thể của kinh tế công hữu.
Kinh tế công hữu bao gồm cả kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà còn bao gồm cả thành phần quốc hữu
và tập thể tham gia trong kinh doanh sở hữu hỗn hợp.
Kinh tế quốc hữu khống chế huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, có vai trò then chốt đối với việc phát
huy tính ưu việt của chế độ XHCN, tăng cường thực lực kinh tế, sức mạnh quốc phòng và sự gắn bó của dân tộc
TQ. Đối với những ngành quan trọng và lĩnh vực then chốt, liên quan đến huyết mạch của nền kinh tế quốc dân,
kinh tế quốc hữu phải chiếm vị trí chi phối. Ở những lĩnh vực khác có thể thông qua việc tổ chức lại tài sản và
điều chỉnh cơ cấu kinh tế mà tăng cường trọng điểm, nâng cao chất lượng chung cho kinh tế quốc hữu.
Tiêu chuẩn về tối ưu hóa kết cấu và bố cục kinh tế quốc hữu không phải là nhất thành bất biến mà sẽ thay
đổi cùng với sự thay đổi của tình hình phát triển và môi trường kinh tế.
Kinh tế tập thể: là bộ phận hợp thành quan trọng của kinh tế quốc hữu (công hữu). Kinh tế tập thể có ba

đặc trưng cơ bản:
+ Người làm việc trong các doanh nghiệp vừa là chủ sở hữu vừa là người lao động, họ tạo thành tập thể và
có quyền điều hành doanh nghiệp;
+ Thành quả kinh doanh được phân phối trong nội bộ doanh nghiệp. Mọi tổ chức, cá nhân không thuộc
doanh nghiệp, không được chiếm hữu tài sản doanh nghiệp cũng như không được hưởng thành quả của nó.
+ Về quan hệ với bên ngoài, doanh nghiệp không chịu sự can thiệp trực tiếp của chính phủ cũng như sự
ràng buộc của kế hoạch pháp lệnh, mà chủ yếu quan hệ với thị trường và chịu sự chi phối của cơ chế thị trường.
Thực tiễn cải cách kinh tế ở TQ đã chứng minh, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tập thể ở cả thành thị
và nông thôn có sức sống và khả năng thích ứng với những nhu cầu và trình độ phát triển SX khác nhau, do đó nó
không thể được thay thế bằng kinh tế nhà nước.
Một đột phá quan trọng trong lý luận cải cách chế độ sở hữu của Trung Quốc là tách chế độ công hữu với
hình thức thực hiện chế độ công hữu:
+ Chế độ sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể truyền thống là hai hình thức thực hiện chế độ công hữu,
ngoài ra còn bao gồm thành phần nhà nước và thành phần tập thể trong chế độ sở hữu hỗn hợp. Nếu đồng nhất chế độ
công hữu và hình thức thực hiện nó sẽ làm cản trở sự phát triển và hạn chế tính ưu việt của chế độ công hữu.
+ Hình thức thực hiện chế độ công hữu không hề quyết định trực tiếp tính chất của chế độ công hữu, thậm
chí hình thức này có thể đa dạng hóa.
+ Tất cả phương thức sản xuất kinh doanh và hình thức tổ chức kinh tế phản ánh quy luật xã hội hóa đều
có thể được mạnh dạn sử dụng. Hình thức tổ chức doanh nghiệp cụ thể không hề quyết định công hữu hay tư hữu,
điểm mấu chốt là phải xem xét quyền kiểm soát cổ phần nằm trong tay ai.
Nếu Nhà nước và tập thể kiểm soát cổ phần doanh nghiệp thì tính chất công hữu rõ ràng điều này có lợi cho
việc mở rộng phạm vi chi phối của tài sản công hữu cũng như tăng cường vai trò chủ đạo của chế độ công hữu.
Đặc biệt, chế độ cổ phần cũng là một hình thức tổ chức tiền vốn và quản lý của doanh nghiệp hiện đại, cho
phép tách quyền sở hữu với quyền kinh doanh, nâng cao hiệu quả vận hành của doanh nghiệp cũng như hiệu quả
tiền vốn. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng và chủ nghĩa xã hội cũng có thể áp dụng hình thức doanh nghiệp cổ phần.
Kinh tế chế độ hợp tác xã cổ phần cũng phát huy vai trò quan trọng thu hút tiền vốn phân tán trong xã hội,
làm dịu áp lực việc làm, gia tăng tích lũy công cộng và tăng thuế cho nhà nước.
Kinh tế phi công hữu.
Trung Quốc xác định kinh tế phi công hữu là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
XHCN. Phát triển kinh tế phi công hữu là yêu cầu khách quan của sự phát triển sức sản xuất của giai đoạn đầu

của CNXH. Quá trình cải cách chế độ công hữu hướng vào việc cải tạo chế độ công hữu đơn nhất cũng chính là
quá trình phát triển từng bước của kinh tế phi công hữu. Sự nhìn nhận, đối xử đúng đắn hay không đối với kinh tế
phi công hữu có liên quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc. Những đặc điểm này


25
là thống nhất với các nguyên tắc và yêu cầu của thị trường. “Không có chế độ công hữu thì không có CNXH; không có
chế độ phi công hữu thì cũng không thể xây dựng thành công kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc”2.
Thực tiễn TQ chứng minh kinh tế phi công hữu đóng vai trò quan trọng với việc thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của
đời sống vật chất và văn hóa XH; mở rộng việc làm; tăng tích lũy của nhà nước; thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp của kinh tế phi công hữu theo pháp luật và khuyến khích phát triển
lành mạnh, liên hệ mật thiết với kinh tế công hữu đang chiếm vai trò chủ thể, làm cho kinh tế thị trường XHCN
đặc sắc TQ phát triển sôi động, mạnh mẽ và tràn đầy sức sống;
Đáng chú ý, kinh tế phi công hữu không chỉ được nhìn nhận, đánh giá như một lực lượng quan trọng trong
phát triển nền kinh tế quốc dân, mà còn dưới góc độ biến đổi tính chất của nó dưới ảnh hưởng của hạ tầng cơ sở
cũng như thượng tầng kiến trúc trong một nền kinh tế mới - kinh tế thị trường XHCN đặc sắc TQ.
Về sở hữu đất đai:
+ Đất đai ở thành phố thược sở hữu của nhà nước.
+ Đất đai ở nông thôn thuộc sở hữu tập thể.
Nông dân chỉ có quyền duy nhất với đất đai là quyền sử dụng, không có quyền chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp.
Khi nông dân chuyển ra thành phố hay đi nơi khác thì phải trả lại đất cho tập thể để giao cho người khác sử dụng.
Tuy nhiên, một số nơi vẫn có sự chuyển nhượng đất nông nghiệp, theo đó, đất đai được tập trung vào một
số người có ưu thế để hình thành doanh nghiệp tư nhân, nhưng phải có điều kiện: Công nghiệp phải phát triển để
thu hút nông dân ly nông và ly hương và phải bảo đảm tốt về mặt xã hội cho nông thôn. Ngoài ra, đất đai ở Trung
Quốc còn được tập trung theo phương thức di chuyển theo gia đình.
(Việc quản lý, sử dụng đất đai ở nông thôn không phải nhất nhất theo một phương thức cụ thể mà cũng rất
linh hoạt cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương).
* Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện phương thức phân phối xã hội chủ nghĩa, lấy phân phối theo lao
động làm chủ thể, cho phép một bộ phận người và khu vực giàu có trước, lôi kéo giúp đỡ những người, khu
vực khác giàu có sau, từng bước đi tới cùng giàu có.

Chế độ kinh tế cơ bản lấy công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển thực hiện ở
giai đoạn đầu của CNXH, quyết định phương thức thực hiện phân phối, trong đó phải kiên trì chế độ phân phối
theo lao động làm chủ thể, nhiều phương thức phân phối cùng tồn tại.
Đặc trưng này cho thấy:
+ Một là, Lấy chế độ phân phối theo lao động làm chủ thể, các phương thức phân phối song song cùng tồn
tại, kết hợp phân phối theo lao động với phân phối theo yếu tố sản xuất;
Một mặt, kiên trì lấy phân phối theo lao động làm chủ thể trong XH, làm cho tỷ trọng phân phối theo lao
động chiếm địa vị chủ thể trong tất cả các phương thức phân phối; lượng thu nhập phân phối theo lao động của
người lao động trong kinh tế công hữu làm tiêu chuẩn đối chiếu về mức thu nhập của người lao động trong các
hình thức sở hữu khác.
Mặt khác, song song phát triển các hình thức phân phối khác, kết hợp phân phối theo lao động với phân
phối theo yếu tố SX, cho phép khuyến khích các yếu tố SX như vốn, kỹ thuật tham gia vào phân phối.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường XHCN, muốn phát huy vai trò của thị trường đối với việc phân
bổ và sử dụng các nguồn lực thì phải phát triển mạnh thị trường các yếu tố sản xuất như lao động, tiền vốn, kỹ
thuật, thông tin…
+ Hai là, thực hiện chính sách ưu tiên năng suất, hiệu quả và chú trọng công bằng;
Nguyên tắc này thể hiện phát triển LLSX là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNXH; năng suất là nền
tảng của công bằng, công bằng lại là tiền đề cho năng suất, thực hiện tốt hai điều này cũng là yêu cầu cơ bản của
kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc. Đồng thời, trong các tầng bậc phân phối khác nhau, lại có sự xử lý khác
nhau trong mối quan hệ giữa năng suất và công bằng. Trong quá trình tái sản xuất, lĩnh vực phân phối lần đầu
phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên năng suất, chú ý hơn nữa tới năng suất, hiệu quả là chính để thúc đẩy SX. Trong
lĩnh vực phân phối lại thì nên kiên trì nguyên tắc chú trọng công bằng, đề xướng công bằng nhiều hơn để hạn chế
phân hóa hai đầu.
+ Ba là, cho phép khuyến khích một bộ phận người giàu lên trước bằng lao động và kinh doanh trung
thực, đề xướng người giàu trước giúp người giàu sau, cuối cùng thực hiện xã hội cùng giàu có.

2

Hội đồng lý luận Trung ương, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản TQ và Đảng Cộng sản VN: Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị
trường – Kinh nghiện của TQ và kinh nghiệm của VN, Nxb CTQG, H, 2003, tr 110.



×