Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Con người công dân, con người cá nhân trong văn học trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.09 KB, 28 trang )

Mã chấm: V07
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Văn học là một môn nghệ thuật – nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con
người “Văn học là nhân học”( M. Gorki). Như vậy, con người chính là đối
tượng chủ yếu của văn học. Dù tác phẩm văn học có miêu tả thiên nhiên,
thần linh, ma quỷ, đồ vật, con vật hay nhân vật, văn học đều nhằm mục đích
miêu tả và thể hiện con người.
Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm văn học bao giờ cũng để gửi gắm một tư
tưởng, quan điểm về cuộc sống. Vì trung tâm của văn học là con người nên
con người chính là đối tượng thẩm mĩ giúp tác giả thể hiện những quan
điểm, tư tưởng đó ra sao. Chúng ta sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ nội
dung phản ánh, nghệ thuật biểu hiện của tác phẩm nếu không quan tâm đến
quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả. Nói cách khác, nếu bỏ qua
quan niệm nghệ thuật về con người sẽ dẫn tới hiểu đơn giản về bản chất
phản ánh của nghệ thuật, hạ thấp yêu cầu sáng tạo thẩm mĩ của nghệ thuật.
Mỗi thời đại, văn học lại có những nét riêng trong quan niệm nghệ
thuật về con người, mà nếu hiểu sâu sắc về nó ta sẽ dễ dàng tìm hiểu tác
phẩm nghệ thuật và có những đánh giá đúng đắn, sâu sắc về nội dung tư
tưởng cũng như hình thức thể hiện. Trong nền văn học viết Việt Nam, văn
học trung đại chiếm khối lượng tác phẩm lớn, có rất nhiều tác phẩm có giá
trị đã được đưa vào trong chương trình Ngữ văn THCS và THPT. Đọc - hiểu
những tác phẩm này có phần khó hơn so với các tác phẩm văn học hiện đại
nếu ta không hiểu đặc trưng thi pháp riêng của nó, trong đó có quan niệm
nghệ thuật về con người. Do vậy, bên cạnh tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử - xã
hội, phương thức sáng tác…việc nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con
người trong tiến trình văn học trung đại sẽ góp phần cực kì quan trọng để
giáo viên và học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn về sáng tác của các nhà thơ,

1



nhà văn nổi tiếng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Khuyến…
II. Lịch sử vấn đề
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về quan niệm nghệ thuật về con
người trong văn học Việt Nam thời trung đại. Cũng có nhiều bài báo, luận
văn viết về vấn đề này. Đó là những tài liệu quý để chúng tôi tham khảo, viết
chuyên đề này trên tinh thần cô đúc hơn, phù hợp hơn với trình độ nhận thức
của học sinh THPT.
III. Phạm vi của đề tài
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những biểu hiện phong phú, đa
dạng trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn học trung đại Việt
Nam. Ở đây, do thời gian có hạn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu con
người công dân và con người cá nhân là hai quan niệm gắn với tiến trình
văn học nước ta từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Và để thiết thực cho công tác
giảng dạy và học tập, chúng tôi chủ yếu chứng minh bằng những tác phẩm
trong chương trình Ngữ văn 10, 11 (nâng cao).
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích, tổng hợp;
-

Thống kê;

- So sánh, đối chiếu.
V. Mục đích của đề tài
Đề tài làm sáng tỏ quan niệm con người công dân và con người cá
nhân trong văn học trung đại Việt Nam. Giáo viên và học sinh có thể vận
dụng tri thức đó để xem xét, cảm nhận cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn
học thời kì này trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn THPT, cũng là
tài liệu quý góp phần thiết thực cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi.


2


B. PHẦN NỘI DUNG
I. GIỚI THUYẾT CHUNG
1. Khái niệm Quan niệm nghệ thuật về con người
Văn học nghệ thuật là một sự ý thức về đời sống nên nó mang tính
chất quan niệm rất cụ thể. Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng mà
hình tượng một khi đã hoàn thành là mang tính chất quan niệm. Nhà văn
không thể miêu tả về đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng. Quan
niệm chính là một phương tiện thiết yếu để sáng tạo nghệ thuật. Quan niệm
nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan trọng được nhắc đi nhắc
lại trong thi pháp học.
Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể
hiện khả năng, khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con
người của nhà văn. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người có nhiều
cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau.
Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: Quan niệm nghệ thuật về con người
là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm
nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của
mình. Tức là quan niệm nghệ thuật về con người đã được hoá thân thành các
nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học của tác
giả, từ đó tạo nên giá trị thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật trong đó.
Giáo sư Huỳnh Như Phương cho rằng quan niệm nghệ thuật về con
người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm.
Từ điển văn học định nghĩa: Quan niệm nghệ thuật về con người là
hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó
gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà
văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ

thuật.

3


Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm
trên đều nói lên cốt lõi của vấn đề. Từ đó, chúng ta có thể đi đến khái quát
quan niệm nghệ thuật về con người là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách
cắt nghĩa, lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể
hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm
thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con
người giống hay không giống đối tượng.
2. Văn học Việt Nam thời trung đại
Thời trung đại Việt Nam không phải là “đêm trường trung cổ” như
quan niệm của sử gia châu Âu, mà là thời đại phát triển rực rỡ của dân tộc.
Đây là thời kì mà hầu hết các truyền thống quý báu của dân tộc đều hình
thành. Văn học, ngôn ngữ đã phát triển và đạt tới đỉnh cao. Tâm hồn Việt
Nam, nhân cách Việt Nam được khẳng định và được biểu hiện thành văn.
Không thể hiểu được văn hoá, văn học, con người Việt Nam hiện đại mà
không nghiên cứu kĩ lưỡng thời kì văn học này.
Văn học trung đại được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau: văn học cổ,
văn học thời phong kiến,..
Văn học trung đại Việt Nam là một thời kì văn học, một quá trình của
văn học dân tộc, trải dài suốt 10 thế kỉ (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX). Đây
là thời kì kết tinh nhiều giá trị thâm sâu, trở thành niềm tự hào cho hậu thế.
Văn học trung đại đến nay vẫn là một sức hút mãnh liệt đối với những nhà
nghiên cứu học thuật trong và ngoài nước.

4



II. QUAN NIỆM CON NGƯỜI CÔNG DÂN VÀ CON NGƯỜI CÁ
NHÂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
1. Con người công dân
1.1. Những tiền đề xã hội ảnh hưởng đến việc xây dựng hình tượng con
người công dân trong văn học trung đại Việt Nam
1.1.1. Cơ sở lịch sử xã hội
- Suốt mười thế kỉ trung đại, con người Việt Nam gắn bó với thiên nhiên,
với đời sống nông nghiệp và nền kinh tế tự cấp, tự túc, có thói quen sống
quần tụ trong cộng đồng làng xã, gia đình, tộc họ, có nhu cầu liên kết với
cộng đồng để canh tác, đắp đê chống lũ, dẫn nước chống hạn, thích sự ổn
định, ngại thay đổi sáng tạo, con người thời cổ luôn có xu hướng hoà nhập
vào cộng đồng, chỉ tìm thấy sự tồn tại đích thực của mình trong cộng đồng
và ý thức rõ trách nhiệm của mình trong cộng đồng và ý thức rõ trách nhiệm
của mình đối với cộng đồng, thậm chí có thể sẵn sàng hy sinh cá nhân để
phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng.
- Đặc biệt mười thế kỷ trung đại là mười thế kỷ nhân dân ta không ngừng
chiến đấu chống xâm lăng bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước thống nhất.
Tư tưởng đó gắn liền với hình tượng người công dân Đại Việt ái quốc, trung
quân.
1.1.2. Cơ sở văn hoá, văn học
- Thời trung đại, nước ta ảnh hưởng ba luồng tư tưởng: Nho, Phật,
Lão. “Tam giáo đồng nguyên” với tất cả những gì ưu tú nhất của nó đã
được người Việt Nam tiếp nhận. Cùng với những sáng tạo và tiếp biến, tư
tưởng của Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo đã trở thành một phần của bản sắc
văn học Đại Việt: con người sống hoà đồng với nhau, hoà hợp với thiên
nhiên, có trách nhiệm với cộng đồng…
- Lực lượng sáng tác phần lớn là những người theo cửa Khổng, sân
Trình, nhiều người là những nhà sư có công lớn với triều đình (TK X – XII),
5



là vua, quan, những bậc công thần, những đấng anh hùng. Có thể nói không
quá rằng, họ cũng chính là thế hệ của những nhà văn vừa là chiến tướng, vừa
là thi sĩ. Chính vì thế, hình tượng mà họ trực tiếp tạo ra gắn liền với công
việc, nhiệm vụ của cả dân tộc.
1.2. Những biểu hiện của con người công dân trong văn học Việt Nam
trung đại
1.2.1. Con người công dân biểu hiện ở bình diện nội dung
Thứ nhất: con người gắn bó trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc
Các tác phẩm như Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn); Hịch tướng sĩ
văn (Trần Quốc Tuấn); Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão); Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)…đã thể hiện rõ điều này.
Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận cổ của văn học trung đại Việt
Nam, được viết vào giữa thế kỷ XIII, trước cuộc kháng chiến chống Mông
Nguyên lần thứ hai. Tác giả bài Hịch là một danh tướng kiệt xuất của triều
Trần, vị chủ tướng của cuộc kháng chiến lúc bấy giờ. Với trọng trách mà
dân tộc giao phó đè nặng trên đôi vai, với nhiệt tình yêu nước cháy bỏng,
Trần Quốc Tuấn nung nấu một khát vọng cao cả: chiến thắng giặc thù, giữ
yên giang sơn bờ cõi. Để khơi dậy ngọn lửa yêu nước và động viên ý chí
chiến đấu trong ba quân tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã ra lời kêu gọi tướng sĩ
bằng một bài Hịch bất hủ: Dụ Chư tỳ tưởng hịch văn – còn gọi là Hịch tướng
sĩ văn, áng hùng văn của mọi thời đại. Chất hùng văn của Hịch tướng sĩ
được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng
cháy trong tim người anh hùng dân tộc vừa thống thiết, vừa sâu lắng, vừa
căm thù giặc sâu sắc: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau
như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống
máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói
trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” Tình yêu nước trong những câu văn này
tựa như dòng thác chảy cuồn cuộn. Mỗi tình cảm, mỗi thái độ của ông đều

6


chứa đựng một lòng căm thù giặc sâu sắc nên đã truyền cho tướng sĩ sức
mạnh, ý chí diệt giặc cứu nước, cứu nhà. Bởi vậy, bài hịch có tác động rất
mạnh mẽ, khích lệ tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ nhà Trần, đem lại
những chiến công vang dội.
Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là một trong những bài thơ hào sảng
của thời Trần, thể hiện khí phách của người quân tử theo lí tưởng của Nho
gia. Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh người anh hùng trong một tư thế hiên
ngang:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
“Hoành sóc” là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Nhà thơ đã chọn
được cái phông nền thật hợp để tôn thêm vẻ đẹp của con người. Con người
kì vĩ, hành động lớn lao nên không gian cũng phải được mở rộng theo chiều
sông núi, phải được đẩy lên cao thăm thẳm tới tận sao Ngưu. Thời gian
“kháp kỉ thu” cũng là thời gian phiếm chỉ, gợi ra một khoảng thời gian dài.
Con người đầy tráng ấy chỉ là một trong muôn triệu anh hùng của thời đại
anh hùng:
“Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”
Câu thơ có thể hiểu là “ba quân mạnh như hổ báo nuốt trôi trâu” hoặc hiểu là
“ba quân mạnh như hổ báo khí thế át cả sao Ngưu”, gợi sức mạnh của đội
quân mang cái hào khí của thời đại anh hùng. Chính tình yêu nước, tinh thần
trách nhiệm với đất nước tạo nên sức mạnh tinh thần thôi thúc họ chiến đấu
không mệt mỏi để bảo vệ non sông Tổ Quốc. Hai câu thơ sau chùng xuống,
nhịp thơ chậm, lắng sâu, tập trung thể hiện cái chí của người quân tử:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
Công danh đối với kẻ nam nhi là cái nợ ở đời. Phải lập nên sự nghiệp lớn để

lưu dấu công danh cho con cháu ngàn đời, đó là lí tưởng sống của người
7


quân tử. Chưa trả nợ công danh nghĩa là chưa hoàn thành nghĩa vụ với đời.
Tư tưởng này chính là động lực mạnh mẽ cổ vũ thanh niên thời trung đại từ
bỏ lối sống tầm thường, sẵn sàng xả thân vì những nhiệm vụ lớn lao của Tổ
Quốc.
Cuối thời kì trung đại (cuối thế kỉ XIX), con người công dân vẫn in
đậm trong sáng tác của nhiều tác giả, tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu. Bài
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông được viết theo yêu cầu của Đỗ Quang,
tuần phủ Gia Định, để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn
Pháp ở Cần Giuộc đêm 15-12-1861. Hình tượng chính trong tác phẩm là
những người nông dân nghĩa sĩ. Họ vốn là những nông dân thuần phác “chỉ
biết ruộng trâu ở trong làng bộ”, hoàn toàn xa lạ với việc binh đao chiến
trường “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Vậy mà,
khi Tổ Quốc bị xâm lăng, không trông chờ được vào triều đình, họ đã tự
nguyện đứng lên đánh giặc, bảo vệ quê hương:
“Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuỏi hươu; hai vầng nhật nguyệt
chói loà đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược
trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Chính trách nhiệm của một công dân đối với Tổ Quốc đã thôi thúc họ dũng
cảm đứng lên chiến đấu dù trong tay chỉ là ngọn tầm vông, lưỡi dao phay,
rơm con cúi…tinh thần chiến dấu mạnh mẽ của họ cũng đã khiến quân giặc
nhất thời thất điên, bát đảo. Họ đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc tạc nên
một bức tượng đài sừng sững, rực rỡ trong bài văn tế.
Thứ hai: con người có lí tưởng, hoài bão, có khát vọng cao cả.
Hình tượng con người như vậy luôn gắn liền với chí nam nhi. Lí
tưởng, khát vọng của họ luôn gắn với lợi ích của cộng đồng, đất nước. Ta có

thể thấy rõ điều này qua các bài thơ như Ngôn hoài (Dương Không Lộ),

8


Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Cảm hoài (Đặng Dung), Cảnh
ngày hè (Nguyễn Trãi)…
Ngày 6 tháng 6 năm Ất Dậu, sau khi đuổi quân Thoát Hoan, giải
phóng kinh thành Thăng Long, Trần Quang Khải đưa hai vua Trần về lại
kinh đô, theo phò giá và làm bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư.
“Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.”
Hai câu thơ đầu bình dị (Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử bắt quân
thù) mà nghe âm vang cả tiếng trống trận thúc liên hồi, tiếng gươm khua,
giáo đập, tiếng hò reo dậy đất. Từ hai câu thơ cô đọng, hàm súc, người đọc
cảm nhận được cái không khí chiến tranh, cái hào khí Đông A "Ba quân thế
mạnh nuốt trôi trâu" (Phạm Ngũ Lão), cả hình ảnh oai phong lẫm liệt của
tướng sĩ nhà Trần. Một cảm xúc hân hoan, tràn ngập trong tâm hồn vị chiến
tướng thắng trận đang kiêu hãnh trở về kinh đô trong sự đón chào nồng nhiệt
của nhân dân.Hào quang chiến thắng làm cho người ta ngây ngất nhưng
không choáng ngợp. Nên ngay trong lúc đang tận hưởng niềm vui chiến
thắng, Trần Quang Khải đã mong ước một nền thái bình muôn thuở cho đất
nước:
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Nhà Trần đã đi qua hai cuộc chiến tranh với bao đau thương nên họ rất hiểu
rõ giá trị của cuộc sống thái bình, bởi nó được đổi bằng biết bao nước mắt và
máu xương. Dường như Trần Quang Khải nhắc đến hai chiến thắng Chương

Dương, Hàm Tử như chỉ để nhắc nhở mọi người phải biết trân trọng máu
9


xương của cha ông đã đổ để mà chung lòng góp sức, đem hết tài năng và
nhiệt huyết (tu trí lực) vào công cuộc kiến thiết nước nhà, sao cho non nước
này bền vững đến ngàn thu.Thái bình nên gắng sức - Non nước ấy nghìn thu,
tự bản thân niềm mong ước ấy đã đẹp lắm rồi, tha thiết lắm rồi. Nhưng nó
càng đẹp hơn, tha thiết hơn bởi nó là niềm suy tư trăn trở của một vị tướng
xuất thân từ tầng lớp đại quý tộc nhà Trần, ngay trong lúc khói lửa binh đao
còn chưa tan hẳn, "bụi trường chinh" còn bám đầy trên chiến giáp.
Bài thơ mở ra bằng hào khí chiến thắng và khép lại bằng khát vọng hoà bình.
Hai nguồn cảm xúc lớn lao ấy đã nâng bài thơ lên một tầm cao để nghìn đời
sau người đời còn được chiêm ngưỡng.
Đâu chỉ là những bài thơ ra đời từ chiến thắng như Tụng giá hoàn
kinh sư, bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung, vị tướng thời hậu Trần, dù thất
bại, bất lực trước thời cuộc vì tuổi già, không gặp thời thế nhưng trong lòng
vẫn có khát vọng lớn lao: giúp vua nâng đỡ giang sơn đang nghiêng đổ, đem
lại hoà bình cho đất nước.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Thật đáng trọng biết bao những con người luôn nghĩ cho đất nước, cho cuộc
đời như vậy.
1.2.2. Con người công dân biểu hiện ở phương diện nghệ thuật
1.2.2.1. Ở cấp độ thể loại
- Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy hình tượng con người công dân thường
xuất hiện ở các thể loại hành chức. Không khó để nhận ra những minh quân,
lương tướng, những người anh hùng hết lòng phụng sự đất nước trong các
tác phẩm như Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn),
Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm)…và

những văn bản thư, luận, tấu, thuyết của Nguyễn Trãi, Nguyễn Trường Tộ,
Phan Đình Phùng…
10


- Ở thể loại sử kí, hình tượng con người công dân cũng in đậm nét như trưng
Vương, Ngô Quyền, Thái sư Trần Thủ Độ, Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn…qua các trang văn của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên…
- Các thể loại văn học nghệ thuật hình tượng như truyện , thơ phú cũng thể
hiện rõ nét hình tượng con người công dân như nhân vật Quang Trung trong
Hoàng Lê Nhất thống chí của Ngô Gia văn phái, nhân vật trữ tình tác giả
trong các bài thơ của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Pháp Thuận, Đặng
Dung…như đã nói ở trên.
1.2.2.2. Ở cấp độ ngôn từ
Hình tượng con người công dân gắn liền với những hình ảnh và từ
ngữ có tính trang trọng, kì vĩ. Khi xây dựng con người công dân, các nhà
văn, nhà thơ luôn dùng hệ thống điển tích, lớp từ Hán Việt.
2. Con người cá nhân
2.1. Những tiền đề xã hội ảnh hưởng đến việc xây dựng hình tượng con
người cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam .
2.1.1. Cơ sở lịch sử, xã hội
Từ cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI, những mâu thuẫn trong lòng chế
độ phong kiến đã bộc lộ một cách dữ dội, dẫn đến sự bùng nổ phong trào
nông dân khởi nghĩa và những cuộc xung đột triền miên giữa các tập đoàn
phong kiến . Quốc gia phong kiến bước vào một cuộc khủng hoảng nghiêm
trọng và kéo dài. Năm 1858 bằng nhiều lý do khác nhau, Pháp nổ súng xâm
lược Việt Nam. Lịch sử dân tộc bước sang trang mới.
Về kinh tế và văn hoá cũng có nhiều biến động.
Với tiềm lực lao động mạnh mẽ của nhân dân lao động cùng với chính sách
khuyến khích thương nghiệp của các chúa Trịnh, nền kinh tế hàng hóa nước

ta ở TK XVII đã có nhiều chuyển biến; thành thị trở nên phồn thịnh, sầm uất.
Thủ công nghiệp với tính chất là nghề phụ gia đình của nông dân ngày càng
phát triển rộng khắp. Trong những nghề thủ công đương thời, nghề làm giấy
11


và nghề khắc ván in phát triển. Đây là tiền đề hết sức quan trọng cho việc
truyền bá và lưu hành văn chương.
Sự mục ruỗng của guồng máy nhà nước phong kiến thống trị đương
thời đã trực tiếp tạo những ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc đến toàn bộ quá
trình suy vi của Nho giáo. Chế độ thi cử thời vua Lê, chúa Trịnh không ổn
định. Theo Phan Huy Chú chỉ trong vòng chưa đầy trăm năm 1678 - 1765,
các đời vua Lê, chúa Trịnh nối nhau đã có đến 12 lần thay đổi phép thi
Hương . Chính sự mất ổn định trầm trọng này đã góp phần không nhỏ vào
việc tạo ra sự chán chường trong tâm lý chung của các thế hệ học trò đương
thời.
2.1.2. Cơ sở văn hoá, văn học
Trong văn học Việt Nam trung đại, nhà Nho vẫn là lực lượng sáng tác
cơ bản. Đối với nhà Nho đỗ đạt, vấn đề xuất - xử tương ứng với hai thái độ
ứng xử; hành - tàng luôn luôn đặt ra (phần lớn là ngay trong bản thân từng
nhà Nho)... Đây chính là chỗ khó khăn cho nhà nghiên cứu khi phân thành
hai loại hình tác giả. Tuy nhiên có thể thấy, cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội,
bối cảnh không gian, thời gian tồn tại cho từng loại, kéo theo đó là cái nhìn,
quan niệm của họ về con người và thế giới có những điểm khác nhau... Từ
đây, trên một mức độ nhất định cũng có thể khái quát thành hai loại nhà Nho
hành đạo và ẩn dật hai loại hình được coi là chính thống trong văn học trung
đại Việt Nam. Nhà Nho hành đạo muốn thực hành những nguyên tắc của
đạo lý Nho gia, sẵn sàng dấn thân nhập cuộc thực hiện lí tưởng trí quân trạch
dân, mong ước một xã hội phong kiến mẫu mực theo mô hình Nghiêu
Thuấn. Hình tượng tác giả hiện lên trong sáng tác của họ luôn với tư cách là

con người hành động, thực tiễn, ưu thời mẫn thế, sẵn sàng xả thân vì Nghĩa.
Sáng tác của nhà Nho hành đạo mang đậm màu sắc đạo lý, mang tính quy
phạm cao; quy phạm trên cả hai phương diện nội dung, tư tưởng và hình
thức, thể loại, ngôn ngữ.
12


Nhà Nho ẩn dật, vẻ ngoài lại như là một biểu hiện đối cực của loại nhà
Nho hành đạo. Họ phủ nhận việc hành đạo nhưng là loại hành đạo ngu trung,
thiếu tỉnh táo. Tác giả ẩn dật (không chỉ có riêng nhà Nho) trong văn học
Việt Nam có thể kể từ Huyền Quang Lý Đạo Tái, Chu Văn An, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ đến Ngô Thế Lân, Nguyễn Thiếp,
Nguyễn Khuyến. Đề cao và bảo toàn Danh - Tiết là đặc điểm cơ bản, chủ
đạo trong ý thức, tư tưởng của tác giả ẩn dật. Để thực hiện điều này trước hết
họ tìm đến một môi trường, một không gian vô trần, cô tịch, tránh mọi mối
liên hệ xã hội (Thực ra cũng khó tránh được những dăng mắc của lưới đời,
không ít trường hợp phải chấp nhận bi kịch. Câu chuyện Sư Huyền Quang
và nàng Điểm Bích; giấc mơ làm một Đào Tiềm của Yên Đổ là những bằng
chứng sinh động cho bi kịch vừa nêu). Họ coi thường danh lợi, quên cả dòng
thời gian thế sự vì trong núi không có lịch, tự nhận về mình bao nhiêu thứ
dại dột, ngu hèn, tăm tối (chỉ là một cách nói phản ngữ). Hình tượng nhà
Nho giữ Tiết là hình tượng đẹp nhất trong sáng tác của tác giả ẩn dật .
Khác với hai loại trên, nhà Nho tài tử ra đời muộn (từ TK XVIII), khi trong
xã hội đã xuất hiện những yếu tố mới: đô thị, tư tưởng thị dân. Con người
phát hiện ra mình là một thực thể tồn tại thực sự với những nhu cầu, khát
vọng sống cá nhân. Nhà Nho tài tử, gốc, dĩ nhiên vẫn là Nho nhưng càng
ngày càng xa rời những quy phạm, chuẩn mực khắt khe, giáo điều của đạo lý
Nho giáo. Giá trị cao nhất trong quan niệm về con người, về nhân sinh đối
với họ là Tài (nhất là tài văn chương nghệ thuật cầm, kỳ, thi, hoạ) và Tình
(đặc biệt là tình đối và giai nhân). Tài gắn liền với Tình, với Sắc, với hưởng

thụ. Chính họ là lớp nhà Nho tạo nên trào lưu nhân đạo chủ nghĩa độc đáo
trong văn học nửa sau TK XVIII - nửa đầu TK XIX. Kiểu tác gia này rất
nhạy cảm với các vấn đề mới nảy sinh, trong đó tự ý thức về bản thân mình,
khẳng định cái tài hoa, độc đáo, sự sáng tạo trong nghệ thuật là khát vọng
vươn tâm thời đại lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, truyền thống trữ tình của văn
13


học dân tộc và sự trỗi dậy của những tư tưởng, tình cảm mới, văn học Việt
Nam, đặc biệt là văn học trung đại, đậm tính trữ tình. Đây là cơ sở tốt nhất
để các tác giả tự bộc lộ tư tưởng, tình cảm cá nhân của riêng mình.
Từ TK XVI, đặc biệt là từ TK XVIII, con người luôn sống trong tâm
trạng lo âu, phấp phỏng, sầu buồn, họ chìm trong triền miên đau khổ bởi
nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân sâu xa gây nên là các thế lực thống trị
Chính vì thế chưa bao giờ hình tượng con người cá nhân xuất hiện trong văn
học nhiều như thế.
Thời kỳ này, con người phát hiện ra mình là một thực thể tồn tại thực sự với
tất cả những nhu cầu khát vọng cao nhất của nó.
2.2. Những biểu hiện của con người cá nhân trong văn học trung đại
Việt Nam.
2.2.1. Con người cá nhân biểu hiện ở bình diện nội dung
Một là: con người cá nhân với ý thức khẳng định vẻ đẹp và tài năng của
mình.
Ta có thể thấy rõ điều này qua thơ của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến…
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam
thời trung đại. Bà là nhà thơ nữ viết về người phụ nữ. Trong xã hội xưa,
người phụ nữ thường bị coi rẻ, khinh miệt “nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô”. Cuộc đời, số phận của họ thường bị đoạ đày, vùi dập. Chúng ta đã bắt
gặp nhiều hình ảnh người phụ nữ long đong, ba chìm bảy nổi trong ca dao,

truyện, thơ trung đại. Bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương cũng đã
phản ánh rõ cảnh đời ngang trái ấy:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
14


Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” và hình ảnh “rắn nát…tay kẻ nặn” gợi thân
phận đáng thương của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến: cuộc đời phụ
thuộc, chìm nổi vô định, rắn nát, tròn méo ra sao là phụ thuộc vào người đàn
ông gắn với cuộc đời họ. Nhưng có mấy ai trong số họ được sung sướng,
hạnh phúc? Nguyễn Du đã cất lên lời kêu thương cho thân phận người phụ
nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Là người phụ nữ đương thời, Hồ Xuân Hương ý thức hơn ai hết nỗi khổ ấy
của họ. Nhưng bài thơ không chỉ là những lời than thân, mà còn là sự tự
khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ. Nếu “thân em vừa trắng lại vừa tròn”
khẳng định vẻ đẹp về hình thể: trắng trẻo, tròn trịa, xinh xắn, đáng yêu thì
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/ mà em vẫn giữ tấm lòng son” lại ngợi ca vẻ
đẹp tâm hồn của người phụ nữ: dù bị đoạ đày, chà đạp vẫn luôn giữ tấm lòng
son sắt, thuỷ chung – một nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt.
Tiếng nói người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương còn là tiếng nói tự
ý thức đầy bản lĩnh. Lời mời trầu của Hồ Xuân Hương vừa tự nhiên, khiêm
nhường vừa thể hiện sự chủ động, sự ý thức bản thân:
Này của Xuân Hương mời quệt rồi
Đại từ chỉ thị mang tính xác định này nói rõ miếng trầu là của Xuân Hương.
Trước Hồ Xuân Hương, trong văn học dân tộc dường như chưa ai tự xưng

tên mình như Xuân Hương. Nữ sĩ tự xưng tên mình quả là điều mới mẻ.
Thái độ tự biểu hiện của Xuân Hương trong bài thơ Mời trầu có phần giống
thái độ biểu hiện trong các bài Mắng học trò dốt, Đề đền Sầm Nghi Đống:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Với ý thức tài năng, Hồ Xuân Hương, khát vọng làm nên một sự nghiệp lớn.
Câu thơ vừa phê phán quan niệm bất công trong xã hội “trọng nam khinh
15


nữ”, vừa nói lên khát vọng thay đổi thân phận, địa vị để thi thố tài năng, lập
nên sự nghiệp anh hùng. Phải thật bản lĩnh, thật tự tin thì một người phụ nữ
trong xã hội xưa mới có thể thách đố cả giới mày râu: Ví đây đổi phận làm
trai được. Cái ngang ngược của Hồ Xuân Hương không làm người ta khó
chịu mà làm người ta cảm phục. Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương khao khát sự
nghiệp anh hùng nhưng khát vọng chỉ là khát vọng. Vì trong xã hội xưa, ước
muốn đổi phận làm trai chỉ mãi là giả thiết, chỉ mãi là ví như.
Hiện tượng Hồ Xuân Hương gắn liền với sự ra đời con người cá nhân
trong văn học, nhưng cũng phải là con người cá nhân có bản lĩnh như Hồ
Xuân Hương.
Hai là: Nhu cầu bộc lộ tình cảm riêng tư, u ẩn.
Trong xã hội đầy những trái ngang, nhiều nhà thơ, nhà văn có những
nỗi niềm, tâm sự về thời thế, về nhân tình thế thái, cuộc sống cá nhân…Các
nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,
Trần Tế Xương…đã có những vần thơ “gan ruột” bộc lộ thái độ, tình cảm
của họ trước cuộc đời.
Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng, có lí tưởng “trí quân trạch dân” cao
đẹp. Ông đã hết lòng giúp Lê Lợi đưa cuộc kháng chiến chống Minh đến
thắng lợi cuối cùng. Hoà bình lập lại, ông lại dốc tâm huyết xây dựng đất
nước. Nhưng mâu thuẫn trong nội bộ triều đình phong kiến lúc ấy đã khiến

nhiều công thần bị sát hại, bản thân Nguyễn Trãi bị nghi oan, không còn
được vua tin dùng như trước, ông đã về Côn Sơn ở ẩn. Những sáng tác của
ông ở thời kì này thể hiện nỗi đau của con người trước nghịch cảnh éo le của
xã hội:
“Phượng những tiếc cao, diều hãy liệng
Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi”
Ông đau trước cuộc đời đen bạc:
16


“Non cao, non thấp mây thuộc
Cây cứng cây mềm gió hay
…Bui một lòng người cực hiểm thay”
Đại thi hào Nguyễn Du trong bài thơ Độc Tiểu Thanh kí cũng gửi gắm
những nỗi niềm tâm sự sâu kín của mình. Bài thơ không chỉ là nỗi xót
thương cho nàng Tiểu Thanh, người phụ nữ tài hoa bạc mệnh đã chết cách
đó 300 năm, mà còn là xót thương cho tất cả những người “phong vận”
trong đó có ông. Hai câu cuối của bài thơ:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Là nỗi khao khát tri âm của tác giả. Nhưng ẩn sau nỗi khát khao ấy là cảm
giác cô đơn của nhà thơ trước cuộc đời. Rõ ràng ông thấy mình cô độc trong
cuộc đời, không có ai là người tri âm, tri kỉ ở cõi đời này. Nhà thơ cất tiếng
vọng về một tương lai xa xôi những hơn ba trăm năm nữa, mà rồi hình như
ông cũng không tin có một tương lai nào đó nhân loại sẽ hiểu mình.
Ba là: khát vọng tự do, bình đẳng, khát vọng tình yêu và hạnh phúc
Biểu hiện này của con người cá nhân thể hiện trong nhiều tác phẩm
văn học từ thế kỉ XVI trở đi, nhất là giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa

đầu thế kỉ XIX.
Ở thế kỉ XVI, Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục đã xây dựng hình
tượng con người với khát vọng bình đẳng, hạnh phúc. Nổi bật trong số đó là
Chuyện người con gái Nam Xương. Qua cuộc đời, số phận đầy đau khổ của
Vũ Nương, nhà văn đã gián tiếp phủ nhận xã hội phong kiến bất công: gia
trưởng, trọng nam khinh nữ chính là căn nguyên sâu xa dẫn đến bi kịch của
Vũ Nương; tác phẩm cũng đồng thời thể hiện ước mơ về một xã hội tốt đẹp
hơn cho người phụ nữ.
17


Khát vọng tự do, bình đẳng, khát vọng tình yêu và hạnh phúc thể hiện
rõ nét, phong phú hơn cả trong văn học thế kỉ XVIII- XIX. Xã hội phong
kiến suy đồi, con người chìm trong đau khổ vì chiến tranh, vì thói ăn chơi
hưởng lạc của vua chúa…mà hạnh phúc cá nhân bị xâm phạm nghiêm trọng.
Đây cũng là thời kì mà con người ý thức sâu sắc mình là một thực thể tồn tại
thực sự với tất cả nhu cầu, khát vọng cao nhất của nó. Dấy lên trong văn học
giai đoạn này là trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Các nhà văn, nhà thơ quan
tâm sâu sắc đến số phận con người đặc biệt là nỗi đau của con người. Đối
tượng hướng tới của văn nghệ sĩ lúc này khá đa dạng, phong phú.
Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm xuất sắc viết
về số phận của người cung nữ. Nguyễn Gia Thiều xuất thân trong một gia
đình quý tộc quyền quý. Từ nhỏ đã được cậu ruột là chúa Trịnh Doanh đón
vào cung để ăn học, đến khi trưởng thành cũng giữ nhiều chức quan trong
phủ chúa, Nguyễn Gia Thiều có điều kiện để hiểu thói hoang dâm vô độ của
vua chúa cùng cảnh sống bi thảm của biết bao cung nữ. Tác phẩm là bài ca
ai oán của người cung nữ khi tuổi xuân của họ phải sống trong cô đơn, mòn
mỏi “ trong cung quế âm thầm chiếc bóng” với “phong tiêu lạnh ngắt như
đồng”. Vua chúa có trăm ngàn cung nữ, có người cả đời không được gặp
vua, có người được yêu chiều một thời gian rồi thất sủng. Họ biết làm gì hơn

ngoài sự chờ đợi trong vô vọng? Nàng ý thức rất rõ kẻ đã gây tai họa khủng
khiếp cho cuộc đời mình. Nàng cảm nhận rõ người ta đang giết mình, không
phải bằng gươm sắc mà bằng cách kéo dài cuộc sống đày ải trong cảnh chăn
đơn gối chiếc, cửa mốc, sân rêu. Cách giết người “bằng cái u sầu” ấy còn
độc ác gấp trăm lần bằng gươm đao. Qua lời thở than oán trách của người
cung nữ, tên vua hiện lên đúng với bộ mặt của kẻ tráo trở độc ác:
“Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi”

18


Trong cảnh sống “chết mòn” ấy, tâm trạng của người cung nữ luôn bực bội,
muốn “đạp phá” “làm loạn”:
“Đang tay muốn dứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phong mà ra”
Đằng sau câu thơ chính là khát vọng giải phóng, khát vọng tự do, được trở
về với đời thường sống trong tình yêu, hạnh phúc của người cung nữ tội
nghiệp.
Cùng thể loại ngâm khúc, viết về khát vọng tình yêu, hạnh phúc
không thể không nhắc tới Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, được Đoàn
Thị Điểm dịch sang thơ Nôm theo thể song thất lục bát. Chinh phụ ngâm
được viết vào khoảng những năm 40 của thế kỉ XVIII. Khi ấy, chính sự rối
ren, thuế khoá nặng nề, khắp nơi nông dân vùng lên khởi nghĩa. Chúa Trịnh
đã tiến hành nhiều cuộc đánh dẹp. Những cảnh vợ chồng chia lìa, nhà cửa
tan tác, li tán đã khiến Đặng Trần Côn xúc động mà viết ra khúc Chinh phụ
ngâm. Tác phẩm thể hiện nỗi đau buồn của người thiếu phụ do chiến tranh
phi nghĩa mà cuộc sống vợ chồng bị dang dở, hạnh phúc lứa đôi phải chia
lìa. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong sách giáo khoa
Ngữ Văn 10 tập trung thể hiện rõ hơn cả nỗi đau của người vợ trẻ có chồng

đi chinh chiến. Đó là cảm giác cô đơn trống trải, buồn tủi, nhớ thương,
ngóng chờ trong vô vọng. Người vợ trẻ ấy “đứng tủi, ngồi sầu”, thao thức
canh thâu thấm thía cảm giác đằng đẵng của thời gian chờ đợi:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mỗi sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
Người chinh phụ đã cố gắng tìm cách thoát khỏi sự bủa vây của cảm giác cô
đơn. Nàng gượng đốt hương, soi gương, gảy đàn nhưng chỉ làm nỗi buồn
thêm trào dâng. Nàng rơi vào bế tắc cao độ. Nỗi buồn trở thành nỗi đau khi
nhớ chồng, nàng tưởng tượng ra những điều chẳng lành có thể sẽ đến với
chàng nơi chiến trận. Nỗi buồn đau ấy lan toả vào cảnh vật:
19


Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun
Sương như búa bỏ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
Cuối đoạn trích, hình ảnh thiên nhiên hiện lên trước mắt người chinh phụ là
hình ảnh nguyệt- hoa tình tứ:
“Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bong
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”
Hình ảnh hoa và nguyệt được lặp đi lặp lại trong các câu thơ, biến hoá ở
những vị trí khác nhau song lúc nào cũng xoắn xuýt lấy nhau, gợi sự âu yếm
của lứa đôi gần gũi. Đằng sau hình ảnh thơ ấy chính là khao khát hạnh phúc
lứa đôi trong lòng người chinh phụ đang trào dâng mãnh liệt. Chinh phụ
ngâm là tác phẩm gây được tiếng vang lớn trong văn học trung đại Việt Nam
về tư tưởng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.

Khi nói đến khát vọng tự do, bình đẳng, tình yêu và hạnh phúc chúng
ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều của Nguyễn Du. Kiệt tác này phản
ánh nhiều vấn đề của đời sống xã hội, gửi gắm nhiều tư tưởng nhân văn sâu
sắc song ấn tượng sâu đậm với người đọc là tư tưởng tiến bộ của đại thi hào
về tình yêu và hạnh phúc của con người.
Trong tác phẩm, nhà thơ đã khắc họa thành công hình tượng Thúy
Kiều, nàng là hiện thân cho vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa và tâm hồn. Sắc và tài
của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp tài năng của Kiều, Nguyễn
Du đã sử dụng bút pháp ước lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hóa để trân
trọng vẻ đẹp “nghiêng nước, nghiêng thành. Sắc đành đòi một tài đành họa
hai”. Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương còn thể hiện ở tấm lòng
20


vị tha, nhân hậu. Kiều là người con hiếu thảo, không chỉ sống bằng bổn phận
với chữ hiếu theo quan niệm Nho giáo mà bằng những tình cảm rất người.
Không chỉ vậy, Kiều còn là hiện thân khát vọng tình yêu tự do, khát vọng
hạnh phúc, khát vọng về quyền sống. Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc
lãng mạn được thể hiện qua tình yêu giữa Thúy Kiều – Kim Trọng. Nguyễn
Du đã dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm
có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Mối tình Kim – Kiều
vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do, chủ động của hai
người. Kiều – Kim chủ động đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim,
khác nhiều phụ nữ xưa chịu sự sắp đặt của cha mẹ. Kiều táo bạo chủ động
nhưng đồng thời cũng là người thủy chung duy nhất trong tình yêu. Ở đoạn
trích “Trao duyên” tình yêu Kim – Kiều tan vỡ nhưng khát vọng về một tình
yêu chung thủy sắt son thì được khẳng định. Khát vọng về hạnh phúc, về
quyền sống đã đưa Kiều vượt khỏi địa vị một phu nhân trong quân đội Từ
Hải, trở thành con người bị áp bức vùng lên làm chủ số phận của mình trong
tư thế chiến thắng, tư thế chính nghĩa:

Nàng rằng lồng lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta.
Ở đây, Kiều đã gặp gỡ bao người phụ nữ bị áp bức khác vùng lên đòi quyền
sống, đòi lẽ công bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co giữa sự sống và sự
chết ở trong Tấm Cám, trong Thạch Sanh, trong nhiều truyện Nôm khuyết
danh khác cũng như trong Truyện Kiều, về căn bản nào có khác gì nhau, chỉ
khác…một bên nhiều khi còn mượn những yếu tố thần linh phù trợ, một bên
đã vươn tới tư tưởng tự nhân dân và con người quyết định theo công lí của
mình” (Cao Huy Đỉnh).
Hình tượng nhân vật Từ Hải là sự thể hiện tập trung khát vọng tự do,
công lí, sự khẳng định khả năng, ý chí và sức mạnh của con người. Nhân vật
Từ Hải là hiện thân của khát vọng tự do. Miêu tả nhân vật Từ Hải, Nguyễn
21


Du luôn chú ý tới sự phi thường vượt ra ngoài khuôn khổ chế độ phong kiến
từ diện mạo, tính cách đến hành động. Từ Hải phi thường về diện mạo: “Râu
hùm hàm én mày ngài, Vai năm tấc rộng thân mười tấc cao”. Từ Hải siêu
phàm trong tính cách: “Đội trời đạp đất”, “Giang hồ quen thói vẫy vùng”.
Hành động của Từ cũng thật phi thường: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Ý chí tự do của Từ Hải dựa trên cơ sở ý
thức về sức mạnh, tài năng và trí tuệ bản thân:
Từ rằng quốc sĩ xưa nay
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng
Kẻ sĩ danh tiếng trong nước được gọi là quốc sĩ. Danh hiệu “quốc sĩ vô
song” là danh hiệu người đời dành cho Hàn Tín - một tướng giỏi của Cao
Hán Tổ. Từ Hải tự xưng mình là “quốc sĩ” chứng tỏ Từ ý thức rất cao về tài
năng, nhân cách của mình. Trong con mắt bậc quốc sĩ ấy “những phường giá
áo túi cơm sá gì”. Không những là hiện thân của khát vọng tự do, Từ Hải
còn là hiện thân của khát vọng công lí, chính nghĩa. Lí tưởng mà Từ tuyên

ngôn là lí tưởng của nhưng nam nhi thời phong kiến nêu cao lẽ công bằng
chính nghĩa:

Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.

Lí tưởng ây hai ngàn năm trước ta đã gặp trong Luận ngữ của Khổng Tử
“Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã”. Lí tưởng của Từ Hải mang tinh thần nhân
văn vì nó hướng tới công lí chính nghĩa cho những người bị áp bức, đau khổ.
Từ Hải thông cảm, thấu hiểu khát vọng của Kiều. Chàng giúp Kiều thực hiện
ước mơ công lí, chính nghĩa trong tư cách con người toàn quyền chủ động,
định đoạt số phận của mình: Từ rằng việc ấy để cho mặc nàng. Từ Hải là
người anh hùng dân chủ, có sự kết hợp giữa cái phi thường và cái bình dị.
Từ Hải chết vì mắc lừa Hồ Tôn Hiến, đó là bế tắc của lịch sử và cũng là bài
học đau xót rút ra từ thực tiễn. Tuy nhiên, Từ Hải như một ngôi sao băng vẹt
ngang qua bầu trời để lại trên màn đêm xã hội phong kiến một ánh sáng chói
22


lòa rự rỡ. Từ Hải chết nhưng khát vọng tự do công lí chính nghĩa của người
anh hùng, thì có một sức sống vĩnh hằng.
Bốn là: Cảm hứng hành lạc và khát vọng nhu cầu trần thế của con người
cá nhân
Cao hơn khát vọng tự do, khát vọng tự khẳng định vẻ đẹp hình thể, trí
tuệ của mình, văn học Việt Nam trung đại những năm cuối thế kỉ XVIII đến
hết thế kỉ XIX còn thể hiện cảm hứng hành lạc và khát vọng nhu cầu trần
thế. Các nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Đặng Trần
Côn… cũng đã thể hiện khá rõ nét. Trong số đó, Hồ Xuân Hương được coi
như một hiện tượng đặc biệt. Bà là người phụ nữ không chịu rập khuôn theo
lễ giáo phong kiến. Cuộc đời trắc trở về tình duyên: hai lần lấy chồng cả hai

lần làm lẽ, hai lần chồng đều chết sớm nên bà thấu hiểu hơn ai hết nỗi khổ
của người phụ nữ không có hạnh phúc trọn vẹn. Hồ Xuân Hương đã không
ngại ngần nói về những nhu cầu trần thế của con người trong thơ ca. Bài thơ
Làm lẽ đã thể hiện rõ cảm giác thiệt thòi của người phụ nữ về đời sống
phòng the, chăn gối trong cảnh chồng chung:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Chùm thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương cũng bộc lộ nỗi niềm của người phụ
nữ không viên mãn trong hạnh phúc lứa đôi. Tự tình (bài 2) là hình ảnh
người phụ nữ một mình đối diện với canh khuya, bẽ bàng vì nhan sắc cũng
chỉ để “trơ với nước non”. Trong cô đơn, buồn tủi nhà thơ uống rượu, ngắm
trăng để giải khuây mà vẫn không sao thoát khỏi cảm giác bẽ bàng của
duyên phận. Bi kịch tinh thần lên đến đỉnh điểm khi nhà thơ muốn “đập
phá”, nổi loạn, thể hiện qua cái nhìn cảnh vật:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
23


Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Hai câu cuối của bài thơ như sự lí giải của nhà thơ vì sao có tâm trạng ấy:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Phải rồi, mỗi một mùa xuân của đất trời đến cũng đồng nghĩa với một tuổi
xuân của con người sẽ ra đi. Trong dòng thời gian chảy trôi ấy, Hồ Xuân
Hương thấy mình vẫn không có hạnh phúc trọn vẹn vì “mảnh tình san sẻ tí
con con”. Làm lẽ, sống trong cảnh chồng chung làm sao có cả một “khối
tình”? Chỉ là một “mảnh tình” thôi, mảnh tình đã bé nhỏ, lại còn san sẻ
thành ra chỉ còn “tí con con”, thật xót xa, tội nghiệp.

Nhìn chung, những bình diện của hình tượng con người cá nhân trong
văn học Việt Nam trung đại gắn liền với nội dung cảm hứng nhân đạo và
cảm hứng đời tư của các nhà văn, nhà thơ.
2.2.2. Con người cá nhân biểu hiện ở hình thức nghệ thuật
2.2.2.1. Xét ở cấp độ thể loại
Hình tượng con người cá nhân xuất hiện trong cả văn xuôi và thơ.
Nhưng chiếm ưu thế vẫn là thơ.
Nhiều bài thơ Đường luật mang cảm hứng thế sự của Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyến, … nhiều nhân vật khẳng định cái đẹp bản thể, cái tài hoa,
sự sáng tạo của mình qua thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát, …
Ở truyện thơ lục bát, các ngâm khúc hình thức song thất lục bát, các
bài hát nói, hình tượng con nhân cá nhân chiếm ưu thế tuyệt đối so với con
người công dân.
Các nhà thi pháp học cho rằng câu thơ, giọng thơ của văn học
Việt Nam trung đại là câu thơ điệu ngâm. Tức là câu thơ không thể hiện dấu
ấn cá nhân của chủ thể trữ tình. Song, từ thực tế khảo sát văn học Việt Nam

24


trung đại đặc biệt từ Hồ Xuân Hương trở về sau, chúng tôi thấy đã có sự
manh nha của câu thơ điệu nói.
Ở câu thơ điệu nói các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, câu thơ điệu
nói có thể cho phép nhà thơ thể hiện rõ ràng, dứt khoát lập trường tư tưởng,
tình cảm của cá nhân trữ tình. Câu thơ trở thành lời nói cá thể, nó có ngữ khí
từ, câu hỏi, câu cảm thán, hướng tới một ai đó, hoặc hướng tới chính người
đọc, theo kiểu tự bộc bạch, tâm sự với bạn bè.
Câu thơ điệu nói giải phóng giọng điệu cá thể, làm cho nó hiện ra trên
bề mặt, đồng thời cải tạo lại chất nhạc của thơ – không phải nhạc trầm bỗng

réo rắt do phối hợp bằng trắc tạo nên mà là do tiếng người, ngữ điệu người,
giọng điệu người.
Thành phần của lời thơ trữ tình điệu nói rất đa dạng. Có các hư từ, các
cách lập luận, các khẩu hiệu, có tiếng hô lời chào, lời chêm, câu hỏi, đối đáp,
có cách vắt dòng, nhiều khi cả khổ thơ chỉ là một câu. Ví như:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, khi tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình tây, cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.
(Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ)
Nguyễn Khuyến có khi dùng hàng loạt những hư từ để đưa vào thể thơ được
cho là niêm luật phải chặt chẽ nhất: thơ Đường luật:
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Sự thể hiện của con người cá nhân qua hình thức nghệ thuật nói trên trong
văn học thời trung đại có thể đã là tiền đề quan trọng để phong trào Thơ
Mới ra đời và phát triển mạnh vào những năm 30-40 của thế kỉ XX.

25


×