Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận môn quản trị rủi ro tài chính chương 22 phân tích kịch bản và stress test

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.53 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH


QUẢN TRỊ RỦI RO TÀI CHÍNH
CHƯƠNG 22

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ
STRESS TEST
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm HVTH:
• Vũ Thanh Tùng
• Lê Thị Ngọc Ánh
• Nguyễn Thị Mỹ Vân

2017 - 2018


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

MỤC LỤC

2


CHƯƠNG 22
TEST


PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

CHƯƠNG 22:

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS TEST
Stress testing liên quan đến việc đánh giá tác động của những tình huống tồi tệ và
hiếm gặp nhất nhưng hợp lý, mà những tình huống này không được xem xét đến trong
mô hình VAR (value at risk) và ES (expected shortfall). Nếu có một bài học được rút
ra từ sự bất ổn thị trường bắt đầu từ mùa hè năm 2007, thì bài học đó nhấn mạnh hơn
tầm quan trọng của stress test và ít nhấn mạnh vào ứng dụng máy móc của mô hình
VAR/ES. Các mô hình VAR/ES mặc dù hữu ích, nhưng những mô hình này chỉ dựa
trên dữ liệu quá khứ. Quản trị rủi ro quan tâm đến điều gì có thể xảy ra trong tương lai.
Chương này xem xét đến những cách tiếp cận khác nhau có thể được sử dụng để
tạo ra các kịch bản cho stress test và những kết quả đó sẽ được sử dụng như thế nào.
Nó giải thích rằng cuộc khủng hoảng tài chính vào 2007, 2008 đã khiến cho các cơ
quan quản lý phải yêu cầu các ngân hàng thực hiện nhiều stress test hơn và các cơ
quan quản lý đang cố gắng định nghĩa các stress test này trong nỗ lực đảm bảo rằng
các ngân hàng có đủ nguồn vốn để chống đỡ cho những tình huống bất lợi.
22.1 Tạo ra các kịch bản
Phương pháp phổ biến nhất để tính toán rủi ro thị trường VAR hay ES là sử dụng
phương pháp mô phỏng lịch sử đã được học trong chương 13. Phương pháp này giả
định rằng dữ liệu thu thập được từ những năm gần nhất cho ra một định hướng tốt về
những điều sẽ xảy ra trong 1 đến 10 ngày tới. Và nếu một sự kiện đã không xảy ra
trong suốt giai đoạn được ghi nhận trong dữ liệu này, nó sẽ không ảnh hưởng đến các
kết quả trong phương pháp luận cơ bản được sử dụng trong phần 13.1.
Chúng ta đã thảo luận một số cách tính VAR/ES có thể được điều chỉnh để
VAR/ES phản ánh nhiều hơn với giả định đơn giản rằng những biến động trong tương
lai của các biến số thị trường sẽ là một mẫu ngẫu nhiên rút ra từ những số liệu trong
quá khứ gần đây. Cụ thể:
1. Cập nhật độ biến động (xem phần 13.3) có thể dẫn đến những kết quả tồi tệ khi

thị trường có sự biến động lớn.
3


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

2. Học thuyết giá trị cực đại (xem phần 13.5) cung cấp một cách thức để mở rộng
đuôi của khoản lỗ có được từ dữ liệu quá khứ.
3.Tính toán stressed VAR hay stressed ES (xem phần 13.1) xem xét tác động của
một giai đoạn khó khăn nhất cụ thể trong 250 ngày đã từng xảy ra trong quá khứ.
Nhưng về bản chất, phép tính VAR/ES chỉ dựa trên dữ liệu quá khứ. Những sự
kiện đó có thể đã xảy ra, nhưng hoàn toàn khác so với những sự kiện đã xảy ra trong
suốt giai đoạn được ghi nhận trong dữ liệu, mà không được đề cập đến. Stress testing
là một nỗ lực trong việc khắc phục nhược điểm của thước đo VAR/ES.
Stress testing liên quan đến việc ước tính danh mục của một định chế tài chính sẽ
hoạt động như thế nào dưới những kịch bản liên quan đến những sự biến động thị
trường cực kỳ tồi tệ và hiếm gặp nhất (nhưng hợp lý). Ví dụ về tỷ giá hối đoái trong
Bảng 10.3 minh họa sự kiện xảy ra khi thị trường biến động theo chiều hướng tồi tệ.
Nó cho thấy năm sự biến động trong độ lệch chuẩn xảy ra bình quân năm năm một lần
trong khi những điều này hầu như chưa từng xảy ra ( khoảng 7000 năm một lần) nếu
phân phối có dạng chuẩn.
Một vấn đề mấu chốt trong stress testing là cách thực để một kịch bản được chọn.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét các phương pháp thay thế.
Nhấn mạnh vào các biến số riêng lẻ
Một phương pháp tiếp cận đó là sử dụng các kịch bản mà trong đó chỉ xét một sự
biến động lớn đối với một biến số và các biến số khác được giữ nguyên không đổi.
Các ví dụ điển hình đối với các kịch bản được xây dựng theo cách này đôi khi được

xem như sau:
1. Một sự dịch chuyển song song (lên hoặc xuống) của đường cong lợi suất
khoảng 100 điểm cơ bản.
2. Sự tăng lên hoặc giảm xuống tất cả các độ biến động hàm ý được sử dụng đối
với một tài sản vào khoảng 50% giá trị hiện tại.
3. Sự tăng lên hoặc giảm xuống khoảng 10% trong chỉ số chứng khoán.

4


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

4. Sự tăng lên hoặc giảm xuống trong tỷ giá hối đoái của một đồng tiền mạnh vào
khoảng 6%.
5. Sự tăng lên hoặc giảm xuống trong tỷ giá hối đoái của một đồng tiền yếu vào
khoảng 20%.
Tác động của một sự thay đổi nhỏ đối với một biến số được đo lường bằng delta,
như đã được giải thích trong chương 8. Tác động của những sự thay đổi lớn hơn có thể
được đo lường bằng một sự kết hợp giữa delta và gamma. Ở đây chúng ta đang xem
xét những thay đổi quá lớn đến nỗi có thể không đáng tin cậy để ước tính sự thay đổi
trong giá trị một danh mục bằng việc sử dụng các từ ngữ Hy Lạp.
Các kịch bản liên quan đến một vài biến số
Thông thường, khi một biến số thị trường chỉ ra một sự thay đổi lớn, các biến số
khác cũng thay đổi. Điều này sẽ dẫn đến việc các định chế tài chính phát triển các kịch
bản mà tại đó một vài biến số thay đổi cùng một thời điểm. Một cách thức thông
thường là sử dụng các biến động bất lợi nhất của các biến số thị trường đã từng xảy ra
trong quá khứ. Ví dụ, để kiểm tra tác động của một sự biến động cực kỳ tồi tệ trong chỉ

số chứng khoán Mỹ, một công ty có thể thiết lập phần trăm thay đổi của tất cả các biến
số thị trường bằng với những biến số đó vào ngày 19 Tháng 10, 1987 (khi chỉ số S&P
500 dao động với độ lệch chuẩn là 22.3%). Nếu đây được xem là cực kỳ tồi tệ có thể
chọn ngày 8 Tháng 1, 1988 (khi chỉ số S&P500 dao động với độ lệch chuẩn là 6.8%).
Những ngày mà có sự biến động lớn trong chỉ số giá chứng khoán là ngày 11 Tháng 9,
2011, khi những kẻ khủng bố đã tấn công trung tâm thương mại toàn cầu ở Newyork,
và ngày 15 Tháng 9, 2008, khi Lehman Brothers tuyên bố phá sản. Để kiểm tra tác
động của những biến động tồi tệ nhất trong lãi suất Anh, công ty có thể thiết lập phần
trăm thay đổi trong tất cả các biến số thị trường bằng với những biến số này vào ngày
10 Tháng 4, 1992 (khi lãi suất trên trái phiếu kỳ hạn 10 năm biến động với độ lệch
chuẩn 8.7%).
Một phương pháp tiếp cận khác là khuếch đại những gì đã xảy ra trong quá khứ
để tạo ra những kịch bản tồi tệ nhất. Ví dụ, chúng ta có thể chọn ra một giai đoạn khi
mà lúc đó có những biến động thị trường tương đối bất lợi và tạo ra một kịch bản mà
trong đó tất cả các biến số đều biến động gấp ba đến năm lần so với biến động thực tế
5


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

của chúng lúc đó. Vấn đề đối với phương pháp tiếp cận này là sự gia tăng mối tương
quan trong điều kiện thị trường căng thẳng và việc gia tăng sự biến động của tất cả các
biến số thị trường bằng một bội số cụ thể không làm gia tăng mối tương quan.
Một số các kịch bản trong quá khứ là những cú sốc diễn ra trong một ngày đối với
các biến số thị trường. Các biến số khác, cụ thể là những biến số liên quan đến tín dụng
và thanh khoản, thì thường gắn liền với các cú sốc diễn ra trong vài ngày, vài tuần hoặc
thậm chí vài tháng. Điều quan trọng là cần bao gồm các độ bất ổn đối với các biến số thị

trường đang được xem xét. Thông thường, những biến động bất lợi đối với các biến số
thị trường chẳng hạn như lãi suất và tỷ giá hối đoái thường kèm theo sự gia tăng cao
trong độ bất ổn của những biến số này cũng như sự gia tăng trong độ bất ổn của một loạt
các biến số khác. Một vài các kịch bản có khả năng liên quan đến những biến động lớn
trong giá cả hàng hóa chẳng hạn như sự lao dốc trong giá dầu vào nửa cuối năm 2014.
Những kịch bản khác có thể là một tình huống khi mà có một sự tháo chạy vào tài sản
chất lượng cao (flight to quality) kết hợp với sự thiếu hụt thanh khoản và một sự gia
tăng trong chênh lệch tín dụng. Đây là những gì đã xảy ra vào tháng 8/1998 khi Nga mất
khả năng chi trả đối với các khoản nợ của mình cũng như vào Tháng 7 và Tháng 8 năm
2007 khi các nhà đầu tư mất niềm tin vào các sản phẩm được tạo ra từ việc chứng khoán
hóa các khoản vay thế chấp dưới chuẩn (xem chương 6).
Các kịch bản được tạo ra bởi ban quản lý
Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác. Điều này một phần là vì các nhà
giao dịch hiểu rõ về các cuộc khủng hoảng trong quá khứ và cố gắng tránh mắc phải
sai lầm tương tự như những người đi trước. Thị trường vay thế chấp của Mỹ đã đưa
đến cuộc khủng hoảng tín dụng bắt đầu vào năm 2007. Điều đó không có nghĩa là cuộc
khủng hoảng tín dụng trong tương lai sẽ là kết quả của việc nới lỏng tiêu chuẩn cho
vay thế chấp – nhưng cũng có khả năng sẽ có các cuộc khủng hoảng tín dụng trong
tương lai.
Bằng nhiều cách, các kịch bản được xem là hữu dụng nhất trong stress testing là
những kịch bản được tạo ra bởi ban quản lý cấp cao hay bởi các nhóm kinh tế học
trong một định chế tài chính. Ban quản lý cấp cao và các nhóm kinh tế học có một vị
thế tốt hơn để sử dụng sự hiểu biết của họ về thị trường, về môi trường chính trị toàn
6


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS


cầu, môi trường kinh tế, và những sự bất ổn trên toàn cầu hiện tại để phát triển các
kịch bản hợp lý mà sẽ dẫn đến những khoản thua lỗ lớn. Đôi khi, các kịch bản được
tạo ra dựa trên những điều đã xảy ra trong quá khứ, nhưng được điều chỉnh để bao
gồm những đặc điểm quan trọng của môi trường kinh tế và tài chính hiện tại.
Một cách khác để phát triển các kịch bản là để cho ủy ban quản lý cấp cao họp
mặt định kỳ và suy nghĩ câu trả lời cho một câu hỏi đơn giản: “What can go wrong”.
Clemens and Winkler (1999) đã thực hiện một số bài nghiên cứu để điều tra thành
phần tối ưu cho một ủy ban theo cách này. Những kết luận của họ là (a) ủy ban nên có
ba đến năm thành viên, (b) lý lịch của các thành viên trong ủy ban là khác nhau, và (c)
là sẽ có một buổi đối thoại hữu ích giữa các thành viên trong ủy ban này. Điều quan
trọng là các thành viên trong ủy ban này có khả năng nhìn lại nhiệm vụ hàng ngày của
mình để thấy được một bức tranh rộng lớn.
Không phải lúc nào cũng có trường hợp tư duy của ban quản lý cấp cao luôn luôn
đổi mới để có thể nghĩ ra các kịch bản tương tự. Vào năm 2005 và 2006, nhiều nhà phê
bình nhận ra rằng thị trường nhà ở của Mỹ đang trở thành bong bóng và sớm hay
muộn thì bong bóng đó cũng sẽ vỡ ra. Thật dễ dàng để nhận thấy được điều này sau sự
kiện, nhưng một kịch bản hợp lý cho ủy ban stress testing đề xuất trong suốt giai đoạn
đó là sẽ có một sự sụt giảm 20% đến 30% trong giá nhà ở trên mọi miền đất nước.
Điều quan trọng là ban quản lý cấp cao và ban giám đốc cần phải hiểu và nhận
diện tầm quan trọng của stress testing. Họ có trách nhiệm đưa ra các quyết định chiến
lược dựa trên kết quả stress testing. Một lợi ích liên quan đến ban quản lý cấp cao
trong việc phát triển các kịch bản mà được sử dụng trong stress test là vể bản chất nó
sẽ dẫn đến việc tích lũy dần dần ý nghĩ rằng stress test là quan trọng. Các kết quả được
tạo ra từ các kịch bản mà được xây dựng nên bởi các cá nhân là những người có vị thế
quản lý cấp trung thường không có khả năng được xem xét một cách nghiêm túc.
Biến trọng yếu và biến thứ yếu
Khi ban quản lý nhấn mạnh vào các biến số riêng lẻ hay tạo ra các kịch bản, các
kịch bản này có khả năng không hoàn chỉnh khi mà sự biến động chỉ xảy ra ở một vài
biến trọng yếu (core variable) mà đã được chỉ rõ trong kịch bản. Một phương pháp tiếp

cận là việc đặt sự thay đổi đối với các biến thứ yếu (peripheral variable) bằng 0, nhưng
7


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

điều này là không thỏa đáng. Một phương pháp tiếp cận khác là hồi quy các biến thứ
yếu theo các biến trọng yếu đã được nhấn mạnh để có được sự dự báo có điều kiện đối
với sự thay đổi được thực hiện đối với các biến trọng yếu. Những dự báo này (như các
dự báo điểm hay phân phối xác suất) có thể được kết hợp trong stress test.
Điều này còn được biết đến là conditional stress testing và đã được thảo luận bởi
Kupiec (1999). Kim and Finger (2000) đã mang ý tưởng này đi xa hơn bằng cách sử
dụng cái mà họ gọi là “broken arrow” stress test. Trong đó, mối tương quan giữa các
biến trọng yếu và các biến thứ yếu được dựa trên những điều đã xảy ra trong điều kiện
thị trường căng thẳng thay vì những điều đã xảy ra ở mức độ trung bình.
Tạo ra các kịch bản hoàn chỉnh
Các kịch bản nên được kiểm tra một cách cẩn thận để đảm bảo tất cả những kết
quả tồi tệ đều được xem xét. Các kịch bản này không chỉ bao gồm tác động tức thời
của những thay đổi đột ngột (cú sốc) của các biến số thị trường đến danh mục của các
định chế tài chính, mà còn bao gồm hiệu ứng “knock – on” do nhiều định chế tài chính
bị ảnh hưởng bởi cú sốc này theo cùng một cách và phản ứng theo cùng một cách.
Nhiều người nói rằng họ đã nhận thấy bong bóng bất động sản ở Mỹ sẽ vỡ ra vào năm
2007, nhưng lại không nhận ra hậu quả sẽ tồi tệ như thế nào. Họ không lường trước
được rằng nhiều định chế tài chính sẽ trải qua các khoản thua lỗ lớn vào cùng một thời
điểm với kết quả là có môt sự tháo chạy sang những tài sản có chất lượng cao cùng với
những vấn đề nghiêm trọng về thanh khoản và một sự gia tăng lớn trong chênh lệch tín
dụng (credit spread).

Một ví dụ khác về hiệu ứng “knock – on” được thể hiện qua sự thất bại của Long
– Term Capital Management (LTCM) vào năm 1998 (xem Business Snapshot 22.1).
LTCM hướng đến việc nắm giữ vị thế mua đối với chứng khoán có tính thanh khoản
thấp và nắm giữ vị thế bán đối với tài sản có tính thanh khoản cao. Sự thua lỗ của quỹ
phòng ngừa này là do sự tháo chạy vào những tài sản có chất lượng cao sau khi Nga
mất khả năng chi trả. Nhiều nhà đầu tư chỉ quan tâm đến việc mua những tài sản có
tính thanh khoản cao. Chênh lệch trong tỷ suất sinh lợi giữa chứng khoán có tính thanh
khoản cao và chứng khoán có tính thanh khoản thấp tăng lên. LTCM đã thực hiện các
stress test để nhìn thấy tác động của sự tháo chạy vào những tài sản có chất lượng cao
8


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

tương tự như những điều đã xảy ra trước năm 1998. Điều mà quỹ phòng ngừa này
không lường trước được là hiệu ứng knock – on. Nhiều quỹ phòng ngừa cũng đã thực
hiện những chiến lược giao dịch tương tự như chiến lược của LTCM vào năm 1998.
Khi cuộc tháo chạy vào những tài sản có chất lượng cao xảy ra, các tổ chức này bị thúc
ép phải đóng vị thế của mình vào cùng một thời điểm. Đóng vị thế có nghĩa là bán
những chứng khoán có tính thanh khoản thấp và mua những chứng khoán có tính
thanh khoản cao, làm gia tăng việc tháo chạy vào những tài sản có chất lượng cao và
khiến tình hình trở nên nghiêm trọng hơn so với trước khi có vụ tháo chạy này.
Các kịch bản lý tưởng nên linh hoạt để các kết quả của những kịch bản mà các
định chế tài chính đang thực hiện stress test, cũng như những kết quả của các định chế
khác đều được xem xét. Ví dụ, xem xét một tình huống khi mà một định chế tài chính
bán các quyền chọn mua dựa trên một tài sản cơ sở và duy trì vị thế trung lập delta.
Một cú sốc dẫn đến có một sự gia tăng trong giá tài sản sẽ dẫn đến một khoản lỗ lớn

trên vị thế quyền chọn. Để duy trì vị thế trung lập delta (xem phần 8.1), một khối
lượng lớn tài sản sẽ phải được mua vào với một mức giá tương đối cao. Chi phí của
việc phòng ngừa delta tiếp theo có khả năng dựa vào mức độ biến động trong giá tài
sản. Thường thì mức độ biến động càng lớn, nó sẽ càng làm tăng hoặc làm giảm giá trị
tài sản trước khi đi vào ổn định. Việc phòng ngừa delta tiếp theo có thể trở nên tốn
kém.
BUSINESS SNAPSHOT 22.1
Khoản lỗ lớn của Long – Term Capital Management

Long – Term Capital Management (LTCM), là một quỹ phòng ngừa được thành
lập vào giữa năm 1990, luôn luôn thực hiện việc ký quỹ cho các giao dịch của mình.
Chiến lược đầu tư của quỹ phòng ngừa này được biết đến như là arbitrage hội tụ
(convergence arbitrage). Một ví dụ đơn giản cho những gì mà quỹ phòng ngừa này đã
thực hiện như sau. Công ty này tìm hai trái phiếu, X và Y, được phát hành bởi cùng một
công ty và hứa hẹn cung cấp cùng một khoản thanh toán, với trái phiếu X được xem là
kém thanh khoản hơn (được giao dịch ít sôi nổi hơn) so với chứng khoán Y. Thị trường
luôn định một mức giá cao đối với chứng khoán có tính thanh khoản. Kết quả là trái

9


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

phiếu X có giá thấp hơn trái phiếu Y. LTCM đã mua X và bán khống Y, và chờ, kỳ vọng
giá của hai trái phiếu này sẽ hội tụ vào cùng một thời điểm trong tương lai.
Khi lãi suất tăng, công ty này kỳ vọng sẽ giảm giá cùng một lượng để khoản ký
quỹ mà công ty phải trả trên chứng khoản X sẽ bằng với khoản ký quỹ mà công ty này

nhận được trên chứng khoán Y. Tương tự, khi lãi suất giảm, LTCM kỳ vọng sẽ tăng giá
cùng một lượng mà để khoản ký quỹ mà công ty này nhận được từ trái phiếu X sẽ
bằng với khoản ký quỹ mà công ty này sẽ phải trả trên chứng khoán Y. Vì vậy, công ty
kỳ vọng sẽ không có một dòng tiền ra nào như là kết quả của một hợp đồng ký quỹ
(collateralization aggreement)
Vào tháng 8 năm 1998, Nga mất khả năng chi trả đối với khoản nợ của mình và
điều này dẫn đến một thuật ngữ có tên là “flight to quality (tháo chạy sang những tài
sản có chất lượng cao)”. Một kết quả là các nhà đầu tư đã định giá cao hơn các công cụ
có tính thanh khoản hơn mức bình thường và chênh lệch giữa giá của công cụ có tính
thanh khoản và các công cụ không có tính thanh khoản trong danh mục của LTCM
tăng lên đáng kể. Gía của những trái phiếu mà LTCM đã mua sụt giảm trong khi giá
của những trái phiếu mà công ty này đã bán khống tăng lên. Công ty này bị yêu cầu
phải gửi thêm tiền ký quỹ cho cả hai loại trái phiếu này. Công ty này đã có một đòn
bẩy tài chính rất cao và cảm thấy khó khăn trong việc thực hiện các khoản thanh toán
dựa trên hợp đồng ký quỹ. Kết quả là các vị thế này cần phải được đóng lại và tạo ra
một khoản lỗ khoản 4 tỷ đôla. Nếu công ty có ít đòn bẩy tài chính hơn, công ty có lẽ có
thể tồn tại trước một cuộc tháo chạy vào tài sản có chất lượng cao này và có thể chờ
cho đến khi giá của các trái phiếu có tính thanh khoản và không có tính thanh khoản
trở nên gần nhau hơn.
Kiểm định sức chịu đựng đảo ngược (Reverse stress testing)
Kiểm định sức chịu đựng đảo ngược liên quan đến việc sử dụng các phương pháp
tính toán để tìm kiếm các kịch bản có thể gây ra sự thua lỗ đối với các định chế tài
chính. Nó đã trở thành một công cụ quan trọng trong quản lý rủi ro, và nhiều cơ quan
giám sát ngân hàng hiện nay yêu cầu các ngân hàng phải trang bị các chương trình
kiểm định sức chịu đựng đảo ngược tại chỗ.
10


CHƯƠNG 22
TEST


PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

Ví dụ 22.1:
Như một ví dụ đơn giản về kiểm định sức chịu đựng đảo ngược, giả sử một tổ
chức tài chính có bốn vị thế trên bốn quyền chọn mua kiểu Châu Âu đối với một tài
sản. Giá tài sản là 50 đô la, lãi suất phi rủi ro là 3%, độ bất ổn là 20%, và không có thu
nhập trên tài sản. Các vị thế, giá thực hiện và đời sống của quyền chọn được trình bày
trong bảng dưới đây. Giá trị hiện tại của vị thế này (tính bằng hàng triệu đô la) là
-25.90. DerivaGem Application Builder có thể được sử dụng để tìm kiếm sự thay đổi
một ngày trong giá tài sản và sự biến động sẽ dẫn đến tổn thất lớn nhất. Một số giới
hạn nên được áp dụng trong việc xem xét những sự thay đổi. Chúng tôi giả định rằng
giá tài sản sẽ không giảm dưới 40 đô la hoặc tăng trên 60 đô la. Giả định rằng độ bất
ổn sẽ không giảm dưới 10% hoặc tăng trên 30%.
Vị thế (000s)
+250
−125
−75
−50
Total

Giá thực hiện
50
60
40
55

Đời sống (years)
1.0
1.5

0.8
0.5

Giá trị vị thế($ millions)
1176.67
−293.56
−843.72
−65.30
−25.90

Bằng việc sử dụng ứng dụng DerivaGem Application Builder cùng với Solver,
khoản lỗ lớn nhất được tìm thấy là khi độ bất ổn giảm xuống đến 10% và giá tài sản
giảm xuống còn $45.99. Mức lỗ này trị giá 289.38 triệu đôla. Vì vậy kiểm định sức
chịu đựng đảo ngược cho thấy tổ chức tài chính này gặp rủi ro lớn nhất khi có một sự
sụt giảm khoản 8% trong giá tài sản cũng với một sự sụt giảm mạnh trong độ bất ổn.
Điều này có vẻ như không phải là một kịch bản hợp lý. Không có khả năng rằng
độ bất ổn sẽ giảm xuống mạnh khi mà giá tài sản giảm xuống 8%. Solver có thể được
chạy lại một lần nữa cùng với giới hạn dưới của độ bất ổn là 20% thay vì 10%. Kịch
bản này cung cấp một khoản lỗ lớn nhất sẽ xảy ra khi độ bất ổn là 20% và giá tài sản
giảm xuống còn $42.86. Khoản lỗ (tính bằng triệu đôla) là $87.19. Việc tìm kiếm tất cả
các biến số thị trường mà khiến một định chế tài chính gặp rủi ro giống như cách đã
được trình bày trong ví dụ 22.1 về mặt thực tế là không khả thi. Một cách tiếp cận
khác là nhận diện 5 đến 10 biến số thị trường quan trọng và giả định rằng sự thay đổi
của những biến số khác phụ thuộc vào sự thay đổi của những biến số trên.
11


CHƯƠNG 22
TEST


PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

Một cách khác để đơn giản hóa quy trình tìm kiếm là áp đặt một vài khuôn khổ
trong một vấn đề. Một bài phân tích về các thành phần cơ bản (xem trong phần 9.8) có
thể được tiến hành dựa trên sự thay đổi trong các biến số thị trường (sử dụng dữ liệu
trong điều kiện thị trường căng thẳng) và sau đó tiến hành một cuộc nghiên cứu để xác
định sự thay đổi của các thành phần cơ bản này gây ra các khoản lỗ lớn. Điều này làm
giảm không gian thực thi cuộc nghiên cứu và vì vậy sẽ dẫn đến ít các kịch bản bất hợp
lý hơn.
Một phương pháp tiến cận khác cho nhóm quản trị rủi ro là áp đặt một cấu trúc
cho các kịch bản. Ví dụ, nhiều kịch bản tồi tệ đã xảy ra trong quá khứ. Một nhà phân
tích có thể tìm kiếm để phát hiện ra bội số nào cần được sử dụng đối với sự thay đổi
đối với các biến số thị trường được quan sát trong các kịch bản để có thể đạt được một
khoản lỗ nhất định. Ví dụ, có thể kết luận rằng một định chế tài chính có thể tồn tại
trước một sự biến động lặp lại của thi trường trong suốt cuộc khủng hoảng 2008, Tuy
nhiên, nếu sự biến động này vượt quá 50% sẽ có vấn đề lớn xảy ra.
Kiểm định sức chịu đựng đảo ngược có thể được sử dụng như là một công cụ để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc đề xuất ý kiến của ủy ban stress - test. Trước khi có
cuộc họp mặt của ủy ban stress - test, các nhà phân tích có thể sử dụng kiểm định sức
chịu đựng đảo ngược để nghĩ ra một số các kịch bản mà có thể là thảm họa cho định
chế tài chính đó. Những kịch bản này, cùng với những kịch bản khác mà chính bản
thân họ tạo ra, đều được ủy ban stress - test xem xét. Họ sẽ sử dụng sự đánh giá của
mình để loại bỏ một số kịch bản không hợp lý của nhà phân tích đó và điều chỉnh các
kịch bản khác để chúng trở nên hợp lý hơn và được giữ lại để phục vụ cho việc đánh
giá.
22.2 Quy tắc
Uỷ ban Basel yêu cầu các tính toán về rủi ro thị trường phải dựa trên mô hình chỉ
số Var nội bộ của một ngân hàng kết hợp với việc kiểm định sức chịu đựng (Stress
testing) "một cách nghiêm ngặt và toàn diện". Đồng thời, các ngân hàng, bằng việc sử
dụng cách tiếp cận IRB đối với Basel II (cơ bản hoặc được cải tiến) để xác định nguồn

vốn gặp rủi ro tín dụng, được yêu cầu tiến hành các bài kiểm định sức chịu đựng để
xác định tính vững trong các giả định của họ.
12


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

Tháng 5 năm 2009, Ủy ban Basel đã đưa ra kết luận cuối cùng, các khuyến nghị
liên quan đến các thử nghiệm về kiểm định sức chịu đựng và các cơ quan quản lý nên
giám sát việc kiểm định sức chịu đựng như thế nào. Các khuyến nghị nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc kiểm định sức chịu đựng trong việc xác định cần có bao nhiêu vốn
để bù đắp những tổn thất khi xảy ra những cú sốc lớn. Họ nhấn mạnh rằng việc kiểm
định sức chịu đựng là rất quan trọng, đặc biệt là trong một thời gian dài mà không xuất
hiện nhiều biến động, vì điều đó dễ dẫn đến sự chủ quan.
Các khuyến nghị làm nổi bật tầm quan trọng của ban quản trị và quản lý cấp cao
trong việc kiểm định sức chịu đựng. Đặc biệt, các thanh viên ban quản lý cấp cao nên
tham gia vào việc xác định các mục tiêu kiểm định sức chịu đựng, nhận định các tình
huống, thảo luận kết quả của các bài kiểm định sức chịu đựng, đánh giá các tác động
tiềm ẩn và đưa ra quyết định xử lý. Điều này thể hiện rõ ở giai đoạn giữa năm 2007,
khi các ngân hàng có sức chịu đựng tốt trước cuộc khủng hoảng tài chính, bởi vì ban
quản lý cấp cao đã quan tâm tích cực đến việc phát triển và thử nghiệm các kiểm định
sức chịu đựng, với kết quả của việc kiểm định sức chịu đựng là yếu tố đầu vào trong
việc đưa ra quyết định chiến lược. Kiểm định sức chịu đựng nên được tiến hành đồng
thời và xuyên suốt trên mọi mặt của ngân hàng, chứ không phải thực hiện kiểm định
trên từng lĩnh vực riêng lẻ.
Các kiến nghị của Basel cho thấy nhiều kịch bản được lựa chọn trước năm 2007
dựa trên dữ liệu lịch sử và ít nghiêm trọng hơn những gì đã xảy ra thực tế. Các khuyến

nghị cụ thể cho các ngân hàng là:
1. Kiểm định sức chịu đựng cần được xem là một phần trong quản lý rủi ro và
quản trị toàn diện của ngân hàng. Stress test có thể sai lầm với các kết quả phân tích từ
các bài kiểm định sức chịu đựng là nhân tố tác động đến việc ra quyết định ở cấp độ
quản lý thích hợp, bao gồm các quyết định kinh doanh chiến lược của ban quản trị cấp
cao. Sự tham gia của ban quản lý cấp cao trong kiểm định sức chịu đựng là cần thiết
cho hoạt động hiệu quả của ngân hàng.
2. Một ngân hàng nên điều hành một chương trình kiểm định sức chịu đựng
nhằm thúc đẩy việc xác định và kiểm soát rủi ro, cung cấp một viễn cảnh rủi ro tăng

13


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

thêm cho các công cụ quản lý rủi ro đã có, cải thiện quản lý vốn và thanh khoản, và
tăng cường trao đổi thông tin trong và ngoài nước.
3. Các chương trình kiểm định sức chịu đựng khi phân tích nên đưa vào các đánh
giá của các tổ chức khác cũng như các một loạt các quan điểm và phân tích kỹ thuật.
4. Một ngân hàng cần phải ban hành các văn bản và các thủ tục để quản lý
chương trình kiểm định sức chịu đựng. Hoạt động của chương trình phải được lập
bằng văn bản một cách hợp lý.
5. Một ngân hàng cần phải có hệ thống trang thiết bị đầy đủ và mạnh mẽ, đáp
ứng linh hoạt các bài kiểm định sức chịu đựng khác nhau tại mỗi mức độ phù hợp.
6. Một ngân hàng nên thường xuyên duy trì và cập nhật thông tin vào chương
trình kiểm định sức chịu đựng. Hiệu quả của chương trình, cũng như tính vững của các
thành phần cấu tạo chính nên được đánh giá thường xuyên và độc lập.

7. Các bài kiểm định sức chịu đựng cần bao hàm một loạt các rủi ro và lĩnh vực
kinh doanh, kể cả ở mức độ toàn diện. Một ngân hàng nên có kết hợp hiệu quả trong
phạm vi các hoạt động kiểm định sức chịu đựng để cung cấp một bức tranh hoàn chỉnh
về rủi ro toàn diện.
8. Các chương trình kiểm định sức chịu đựng phải bao gồm một loạt các tình
huống có thể xảy ra, bao gồm các kịch bản tương lai và nhằm mục đích xem xét các
tương tác trong toàn hệ thống và các tác động phản hồi.
9. Các bài kiểm định sức chịu đựng phải thử nghiệm ở nhiều mức độ nghiêm
trọng khác nhau, bao gồm các tình huống có khả năng gây ra thiệt hại lớn nhất, từ quy
mô của thiệt hại cho đến sự giảm sút về uy tín. Một chương trình kiểm định sức chịu
đựng cũng nên đưa vào những kịch bản có thể thách thức khả năng tồn tại của ngân
hàng để từ đó đánh giá những rủi ro tiềm ẩn và tương tác giữa các rủi ro.
10. Như một phần của chương trình kiểm định sức chịu đựng nói chung, một
ngân hàng nên tính đến những áp lực trong thị trường vốn và tài sản, cũng như ảnh
hưởng của giảm tính thanh khoản đối với việc đánh giá rủi ro.

14


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

11. Hiệu quả từ các phương pháp giảm thiểu rủi ro cần phải được kiểm nghiệm,
đánh giá một cách có hệ thống.
12. Chương trình kiểm định sức chịu đựng nên đề cập rõ ràng đến các sản phẩm
phức tạp và được sử dụng rộng rãi như chứng khoán hoá. Các bài kiểm định về tài sản
được chứng khoán hoá cần cân nhắc đến các tài sản cơ sở, độ nhạy cảm của chúng với
các biến số thị trường mang tính hệ thống, các thỏa thuận hợp đồng có liên quan, tác

động của đòn bẩy tài chính, đặc biệt liên quan đến cấp độ phụ thuộc trong cơ cấu phát
hành.
13. Chương trình kiểm định sức chịu đựng nên đưa vào các rủi ro về vận chuyển
và tồn kho. Một ngân hàng cần bao gồm đến những rủi ro trong các kiểm định sức chịu
đựng bất kể khả năng chúng đã được đem đi làm tài sản đảm bảo.
14. Một ngân hàng nên tăng cường phương pháp kiểm định sức chịu đựng để
hiểu rõ được các tác động về rủi ro uy tín. Trong chương trình kiểm định, ngân hàng
nên kết hợp rủi ro phát sinh từ các công cụ và các đối tượng có liên quan khác ngoài
bảng cân đối kế toán trong chương trình kiểm định sức chịu đựng.
15. Một ngân hàng nên tăng cường các phương pháp kiểm định sức chịu đựng
đối với các đối tác có mức độ đòn bẩy tài chính cao trong việc xem xét mức độ ảnh
hưởng của nó đến các loại tài sản cụ thể hoặc các biến động thị trường và trong việc
đánh giá các rủi ro tiềm ẩn liên quan đến các phương pháp giảm thiểu rủi ro.
Các khuyến nghị cho các giám sát viên ngân hàng là:
16. Người giám sát nên thực hiện công tác đánh giá các chương trình kiểm định
sức chịu đựng của ngân hàng một cách thường xuyên và toàn diện.
17. Người giám sát nên yêu cầu ban giám đốc phải có biện pháp khắc phục
những thiếu sót trong chương trình kiểm định sức chịu đựng; hoặc nếu kết quả của các
bài kiểm định chưa được xem xét đầy đủ để làm căn cứ ra quyết định.
18. Người giám sát cần đánh giá và nếu cần thiết, có thể đưa ra các tình huống có
phạm vi rộng và mức độ nghiêm trọng hơn nữa. Các giám sát viên có thể yêu cầu các
ngân hàng thực hiện phân tích độ nhạy đối với danh mục đầu tư cụ thể, các thông số cụ

15


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS


thể, sử dụng các kịch bản cụ thể hoặc đánh giá các kịch bản mà đe dọa đến khả năng
tồn tại của các định chế tài chính (các kịch bản kiểm định sức chịu đựng đảo ngược).
19. Trong Trụ cột thứ 2 (quá trình rà soát giám sát) của khuôn khổ Basel II, các
giám sát viên cần xem xét kết quả kiểm định sức chịu đựng của ngân hàng như là một
phần của việc đánh giá vốn nội bộ và quản lý rủi ro thanh khoản của ngân hàng. Đặc
biệt, người giám sát nên xem xét các kết quả của kiểm định sức chịu đựng liên quan
đến tương lai để đánh giá mức độ đầy đủ về vốn và khả năng thanh khoản.
20. Người giám sát nên cân nhắc bổ sung việc thực hiện các bài kiểm định sức
chịu đựng dựa trên các kịch bản phổ biến.
21. Các giám sát viên nên tham gia vào một cuộc đối thoại mang tính xây dựng
với các ngành công nghiệp và các cơ quan công quyền khác để nhận dạng các tổn
thương có tính hệ thống. Người giám sát cũng phải đảm bảo rằng họ có năng lực và kỹ
năng để đánh giá các chương trình kiểm định sức chịu đựng của ngân hàng.
Các kịch bản được chọn bởi các cơ quan quản lý
Các nhà quản lý ngân hàng yêu cầu các ngân hàng xem xét các kịch bản có độ
nguy hại cao và sau đó cân nhắc họ cần phải có đủ vốn để ứng phó khi các kịch bản đó
xảy ra. Tuy nhiên, có một vấn đề phát sinh ở đây. Các ngân hàng lại muốn giữ vốn
điều lệ càng thấp càng tốt. Do đó, họ thiếu động cơ để xây dựng các tình huống xấu
mà sẽ khiến cho giám sát viên ngân hàng yêu cầu họ phải tăng vốn điều lệ lên. Do đó,
có khuynh hướng tự nhiên là các kịch bản mà họ xem xét bị "giảm bớt độ rủi ro" hay
khá tốt.
Một cách tiếp cận để khắc phục vấn đề này là để các cơ quan quản lý tự cung cấp
các kịch bản (xem Khuyến nghị 18 và 20). Các cơ quan quản lý ở nhiều vùng lãnh thổ
(Anh, Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ) thường xuyên tự thực hiện các bài kiểm định
sức chịu đựng theo kịch bản của mình để xác định liệu ngân hàng mà họ đang giám sát
có đủ vốn để tồn tại trước điều kiện bất lợi. Nếu ngân hàng không vượt qua được bài
kiểm định, họ phải tăng thêm vốn. Hàng năm, kể từ năm 2009, tất cả các ngân hàng có
tài sản hợp nhất trên 50 tỷ đô la (tức là, G-SIBs và D-SIBs) phải thực hiện một cuộc
kiểm định sức chịu đựng do Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ lên kịch bản. Từ năm 2011,

16


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

hoạt động này được gọi là Phân tích và Đánh giá Vốn toàn diện (CCAR). Các ngân
hàng phải trình lên một bản kế hoạch sử dụng vốn (bao gồm cả cổ tức dự kiến). Cục
Dự trữ liên bang xây dựng các kịch bản về suy thoái tương tự như các giai đoạn 19731975, 1981-1982 và 2007-2009. Các kịch bản bao gồm việc dự đoán khoảng 25 biến
số, bao gồm các biến số kinh tế vĩ mô như tăng trưởng GDP, tỷ lệ thất nghiệp, chỉ số
chứng khoán và chỉ số giá nhà đất.
Đối với các ngân hàng ở Hoa Kỳ có tài sản hợp nhất trên 10 tỷ đô la Mỹ phải
thực hiện bài kiểm định sức chịu đựng theo Pháp lệnh Dodd-Frank (DFAST). Các kịch
bản được xem xét trong DFAST cũng tương tự như các kịch bản trong CCAR. Tuy
nhiên, các ngân hàng không phải nộp một kế hoạch sử dụng vốn, vì việc quản lý vốn
được xây dựng dựa trên một bộ giả định tiêu chuẩn.
Bằng cách tự xây dựng các kịch bản, các cơ quan quản lý có thể hướng sự chú ý
của các ngân hàng vào các tình huống suy thoái kinh tế vốn là mối quan tâm của các
họ. Nếu các nhà quản lý nhận thấy nhiều ngân hàng nắm giữ các vị thế có cùng mức
độ rủi ro, họ có thể yêu cầu tất cả các ngân hàng phải xem xét các kịch bản cụ thể mà
có thế dẫn đến những kết quả bất lợi từ việc nắm giữ những vị thế đó. Mặt hạn chế của
các cơ quan quản lý trong việc tự tạo ra các kịch bản cũng là một phần của lý do gia
tăng sự tập trung của các giám sát viên trong việc thực hiện kiểm định sức chịu đựng
là họ muốn khuyến khích các tổ chức tài chính dành nhiều thời gian hơn trong việc tạo
ra và lo nghĩ về các kịch bản bất lợi tiềm ẩn. Nếu các giám sát viên tạo ra các kịch bản,
điều này có thể không xảy ra và các ngân hàng sẽ chỉ tập trung vào các kịch bản do các
cơ quan quản lý tạo ra. Trong một môi trường pháp lý lý tưởng, cả kịch bản do ban
quản lý tạo ra và kịch bản do giám sát viên tạo ra đều được đánh giá đồng thời.

Có một nguy cơ là các tổ chức tài chính sẽ tìm mọi cách để vượt qua các bài
kiểm định sức chịu đựng, nhưng lại không giúp họ trở nên an toàn hơn. Một ví dụ điển
hình trong “Business Snapshot 22.2”, khi các cơ quan quản lý đưa ra các kịch bản
chính cho các công ty bảo hiểm nhân thọ và các quỹ hưu trí ở Đan Mạch, một số công
ty đã phản ứng bằng cách phòng ngừa dựa trên các kịch bản được các cơ quan quản lý
sử dụng và chỉ dựa trên các kịch bản đó. Đây không phải là những gì các cơ quan quản
lý dự tính. Mỗi kịch bản được sử dụng trong kiểm định sức chịu đựng được xem như
17


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

đại diện của một loạt những vấn đề có thể xảy ra. Các tổ chức tài chính nên đảm bảo
rằng nguồn vốn của họ sẽ luôn trong tình trạng tốt nhất, đáp ứng không chỉ cho các
kịch bản cụ thể, mà còn cho các kịch bản tương tự hoặc có liên quan khác. Các cơ
quan quản lý bây giờ nhận thức rõ vấn đề này và có những phương pháp nhằm đảm
bảo rằng các ngân hàng không sử dụng chiêu trò theo cách này.
BUSINESS SNAPSHOT 22.2
Các quyền chọn đèn tín hiệu (Traffic Light Options)
Tháng 6 năm 2001, Cơ quan Giám sát Tài chính Đan Mạch (DFSA) giới thiệu hệ
thống kiểm định khả năng thanh toán gọi là "đèn tín hiệu ". Điều này đòi hỏi các công
ty bảo hiểm nhân thọ và quỹ hưu trí phải nộp báo cáo sáu tháng một lần, thể hiện sự
tác động của những cú sốc cụ thể đã được xác định trước lên các tổ chức này. "Kịch
bản đèn đỏ" bao gồm một mức giảm 70 điểm trong lãi suất, mức giảm 12% giá cổ
phiếu và mức giảm 8% giá bất động sản. Nếu vốn rơi xuống dưới mức cho phép trong
kịch bản này, công ty được phân loại vào "tình trạng đèn đỏ" và phải chịu giám sát
thường xuyên hơn với việc phải nộp báo cáo hàng tháng. "Kịch bản đèn vàng" bao

gồm việc giảm 100 điểm lãi suất, giá cổ phiếu giảm 30%, và giá bất động sản giảm
12%. Nếu vốn rơi xuống dưới mức cho phép trong kịch bản này, công ty được phân
loại vào "tình trạng đèn vàng" và phải nộp báo cáo hàng quý. Khi vốn của công ty
vượt trên mức cho phép đối với từng kịch bản trên, công ty được phân loại "tình trạng
đèn xanh" và phải báo cáo nửa năm một lần.
Các nhà cung cấp sản phẩm phái sinh đã phát triển các sản phẩm để giúp các
công ty bảo hiểm nhân thọ và quỹ hưu trí duy trì được “trạng thái đèn xanh”. Điều này
được biết đến như là các “quyền chọn đèn tín hiệu”. Các công ty này trả tiền cho các
“kịch bản đèn tín hiệu” để nhận được một sự gia tăng đối với hiệu quả hoạt động của
định chế tài chính trước các kịch bản được đưa ra. Các quyền chọn đèn tín hiệu chỉ
thành công khi các biến động xảy ra gần giống với những biến động đã được các cơ
quan quản lý chỉ rõ trong “kịch bản đèn đỏ hay đèn vàng”. Những quyền chọn này
tương đối rẻ tiền.

18


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

22.3. Phải làm gì với các kết quả
Vấn đề lớn nhất trong kiểm tra sức chịu đựng là sử dụng kết quả một cách hiệu
quả. Thông thường, kết quả kiểm tra sức chịu đựng sẽ bị quản lý cấp cao bỏ qua. Phản
ứng điển hình là, "Đúng vậy, luôn có một hoặc hai kịch bản sẽ làm chúng ta phá sản.
Chúng ta không thể bảo vệ mình chống lại tất cả những gì có thể xảy ra". Một cách để
tránh phản ứng này là thu hút ban quản lý cấp cao trong việc phát triển các kịch bản,
như đã nêu ở trên. Một phản ứng tốt hơn về phía quản lý cấp cao sẽ là, "Có phải những
rủi ro liên quan đến các kịch bản này có thể chấp nhận được không? Nếu không, chúng

ta hãy điều tra xem có thể thực hiện những giao dịch hay những hành động nào khác
mà chúng ta có thể làm cho những rủi ro này có thể chấp nhận được".
Vấn đề đối với cả ban quản lý cấp cao và nhóm quản lý rủi ro là họ có hai báo
cáo riêng biệt trên bàn làm việc của mình về những gì có thể sai. Một báo cáo đến từ
các mô hình VaR hoặc ES, báo cáo còn lại đến từ kiểm định sức chịu đựng nội bộ. Họ
nên dựa vào báo cáo nào để đưa ra quyết định?
Kết hợp các kiểm định sức chịu đựng và tính toán VaR
Berkowitz (2000) cho thấy rằng kiểm tra sức chịu đựng sẽ được thực hiện
nghiêm túc hơn nếu kết quả của nó được kết hợp vào tính toán của VaR. Điều này có
thể được thực hiện bằng cách gán một xác suất cho mỗi kịch bản được xem xét. Giả sử
một tổ chức tài chính đã xem xét kịch bản sức chịu đựng n s và tổng xác suất được ấn
định cho các kịch bản kiểm định sức chịu đựng là p. Giả thiết thêm rằng có các kịch
bản VaR nv được tạo ra bằng cách sử dụng phương pháp mô phỏng lịch sử theo cách
thông thường. Một nhà phân tích có thể giả định rằng có tổng số các kịch bản n s + nv.
Các kịch bản dựa trên phương pháp stress test n s có xác suất p và các kịch bản dựa trên
phương pháp mô phỏng lịch sử nv có xác suất 1 - p.
Đáng tiếc là con người không giỏi ước lượng xác suất chủ quan khi để xảy ra một
sự kiện hiếm hoi. Để thực hiện các nhiệm vụ khả thi cho ủy ban kiểm tra sức chịu
đựng, một cách tiếp cận là yêu cầu ủy ban kiểm tra sức chịu đựng phân bổ từng kịch
bản cho các phân loại có xác suất gán trước. Các loại có thể là:
1. Xác suất = 0,05%. Cực kì không chắc chắn. Một cơ hội trong 2.000.
19


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

2. Xác suất = 0.2%. Rất không chắc, nhưng kịch bản này nên được cho cùng một

trọng số như 500 kịch bản được sử dụng trong phân tích mô phỏng lịch sử.
3. Xác suất = 0.5%. Không chắc nhưng kịch bản này nên được cho trọng số nhiều
hơn so với 500 kịch bản được sử dụng trong phân tích mô phỏng lịch sử.
VÍ DỤ 22.2
Giả sử rằng, trong ví dụ tại Mục 13.1, năm kịch bản kiểm định sức chịu đựng
được xem xét. Các kịch bản này đưa đến các khoản lỗ ($ 000s) 235, 300, 450, 750, và
850. Các xác suất được phân bổ cho các kịch bản lần lượt là 0,5%, 0,2%, 0,2%, 0,05%
và 0,05%. Tổng xác suất của các kịch bản kiểm định sức chịu đựng là 1%. Điều này có
nghĩa là xác suất được gán cho các kịch bản tạo ra bởi phương pháp mô phỏng lịch sử
là 99%. Giả sử sử dụng trong số bằng nhau cho từng kịch bản, mỗi kịch bản mô phỏng
lịch sử được gán một xác suất là 0,99 / 500 = 0,00198. Bảng 13.4 được thay thế bằng
Bảng 22.1. Các xác suất được phân bổ cho các tình huống được tích lũy từ kịch bản
xấu nhất đến tốt nhất. Mức VaR khi mức độ tin cậy là 99% là khoản lỗ đầu tiên mà xác
suất tích lũy lớn hơn 0,01. Trong ví dụ của chúng tôi, đây là $282,204.
Rebonato (2010) cho thấy một cách tiếp cận phức tạp hơn để đánh giá xác suất
các kịch bản liên quan đến việc ứng dụng một kết quả nổi tiếng trong thống kê, định lý
Bayes và những gì được gọi là mạng Bayesian. Xác suất của một kịch bản bao gồm hai
sự kiện bằng với xác suất của sự kiện đầu tiên xảy ra nhân với xác suất của sự kiện thứ
hai xảy ra với điều kiện sự kiện đầu tiên đã xảy ra.
BẢNG 22.1 Các khoản lỗ được xếp hạng từ cao nhất đến thấp nhất
Kịch bản

Lỗ ($000s)

Xác suất

Xác suất tích lũy

s5


850,000

0,00050

0,00050

s4

750,000

0,00050

0,00100

v494

477,841

0,00198

0,00298

s3

450,000

0,00200

0,00498


v339

345,435

0,00198

0,00696

s2

300.000

0,00200

0,00896

v349

282,204

0,00198

0,01094

20


CHƯƠNG 22
TEST


PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

v329

277,041

0,00198

0,01292

v487

253,385

0,00198

0,01490

s1

235,000

0,00500

0,01990

v227

217,974


0,00198

0,02188

v131

205,256

0,00198

0,02386

v238

201,389

0,00198

0,02584


























Ví dụ 22.2 s1, s2, ... là các kịch bản dựa trên stress test; v1, v2, ... là những kịch
bản dựa trên phương pháp mô phỏng lịch sử VaR.
Tương tự như vậy xác suất của một kịch bản bao gồm ba sự kiện là xác suất của
sự kiện đầu tiên xảy ra nhân với xác suất của sự kiện thứ hai xảy ra với điều kiện rằng
sự kiện đầu tiên đã xảy ra nhân với xác suất sự kiện thứ ba xảy ra với điều kiện rằng
hai sự kiện đầu tiên đã xảy ra. Phương pháp tiếp cận của Rebonato cung cấp một cách
thức để đánh giá xác suất có điều kiện.
Xác suất khách quan và xác suất chủ quan
Có hai loại ước lượng xác suất: khách quan và chủ quan. Xác suất khách quan
cho một sự kiện là xác suất được tính bằng cách quan sát tần số mà một sự kiện xảy ra
trong các phép thử được lặp đi lặp lại. Một ví dụ lý tưởng của một xác suất khách
quan, hãy xem xét một bình có chứa các quả bóng màu đỏ và các quả bóng màu đen
với một tỷ lệ không rõ. Chúng ta muốn biết xác suất của một quả bóng được rút ra
ngẫu nhiên từ trong bình là quả bóng màu đỏ. Chúng ta có thể rút một quả bóng một
cách ngẫu nhiên, quan sát màu sắc của nó, đặt lại nó trong bình, và cứ như vậy cho đến
khi 100 quả bóng đã được rút ra. Nếu 30 quả bóng đã được rút ra là màu đỏ và 70 là

màu đen, ước tính của chúng tôi cho xác suất của việc rút ra một quả bóng màu đỏ là
0,3. Thật không may, hầu hết các xác suất khách quan được tính toán trong thực tế
thường ít đáng tin cậy hơn xác suất trong ví dụ này, bởi vì xác suất của sự kiện xảy ra

21


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

không phải là giống nhau đối với các quan sát có sẵn và các quan sát này có thể không
độc lập.
Xác suất chủ quan là xác suất xuất phát từ đánh giá của một cá nhân về xác suất
một sự kiện cụ thể xảy ra. Xác suất này không dựa trên dữ liệu lịch sử. Nó dựa vào
mức độ niềm tin. Những người khác nhau có thể có các xác suất chủ quan khác nhau
cho cùng một sự kiện.
Xác suất trong phương pháp mô phỏng lịch sử là khách quan, trong khi xác suất
được phân bổ cho các kịch bản trong kiểm định sức chịu đựng là chủ quan. Nhiều nhà
phân tích không hài lòng với xác suất chủ quan bởi vì chúng không dựa trên dữ liệu.
Thật không may là trong trường hợp các xem xét về mặt chính trị có thể đóng vai trò
một phần trong việc ra quyết định của một tổ chức tài chính để tập trung vào dữ liệu
lịch sử. Nếu bạn sử dụng dữ liệu lịch sử và mọi thứ sai, bạn có thể đổ lỗi cho dữ liệu.
Nếu bạn sử dụng các đánh giá chủ quan đã được cung cấp bởi một nhóm người, những
người này có thể bị đổ lỗi.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa trên các xác suất khách quan, quản trị rủi ro chắc chắn là
chỉ dựa vào việc nhìn về quá khứ và không tận dụng được phán đoán và kỹ năng
chuyên môn của các nhà quản lý cấp cao. Trách nhiệm của các nhà quản lý này là chỉ
đạo tổ chức tài chính để tránh những nguy cơ thảm khốc.


22


CHƯƠNG 22
TEST

PHÂN TÍCH KỊCH BẢN VÀ STRESS

KẾT LUẬN
Kiểm tra sức chịu đựng là một phần quan trọng của quá trình quản lý rủi ro. Nó
dẫn đến một tổ chức tài chính xem xét tác động của các kịch bản tồi tệ đã bị bỏ qua
trong phân tích VaR hoặc ES truyền thống, nhưng đôi khi xảy ra. Một khi các kịch bản
hợp lý đã được đánh giá, các tổ chức tài chính có thể thực hiện các bước để giảm bớt
tác động của những kịch bản xấu nhất. Một lợi thế của một chương trình kiểm tra sức
chịu đựng toàn diện là việc một tổ chức tài chính có thể hiểu rõ hơn về bản chất của
các rủi ro trong danh mục đầu tư.
Các kịch bản có thể được tạo ra theo một số cách khác nhau. Một cách tiếp cận là
xem xét các biến động cực kỳ bất lợi chỉ trong một biến thị trường trong khi giữ cho
các biến số khác cố định. Một cách tiếp cận khác là sử dụng các sự biến động trong tất
cả các biến số thị trường đã xảy ra trong quá khứ khi mà thị trường gặp những cú sốc
cực kỳ tồi tệ. Cách tiếp cận tốt nhất là yêu cầu một ủy ban quản lý cấp cao và các nhà
kinh tế sử dụng đánh giá và kinh nghiệm của họ để tạo ra các kịch bản tồi tệ hợp lý.
Đôi khi các tổ chức tài chính thực hiện các kiểm định sức chịu đựng đảo ngược, ở đó
các thuật toán được sử dụng để tìm kiếm các kịch bản dẫn đến tổn thất lớn. Các kịch
bản càng hoàn chỉnh càng tốt và bao gồm tác động của hiệu ứng knock-on cũng như cú
sốc ban đầu đối với các biến số thị trường. Sự bất ổn thị trường bắt đầu vào mùa hè
năm 2007 cho thấy rằng, trong một số trường hợp, hiệu ứng knock-on có thể là rất lớn
và bao gồm cả sự tháo chạy vào các tài sản có chất lượng, sự gia tăng trong chênh lệch
lãi suất, và sự thiếu hụt thanh khoản.

Các nhà quản lý đòi hỏi các tổ chức tài chính phải duy trì đủ vốn cho các kịch
bản dựa trên phương pháp kiểm định sức chịu đựng. Các cơ quan quản lý ở Hoa Kỳ,
Liên minh châu Âu và Vương quốc Anh thường phát triển các kịch bản liên quan đến
stress test được đánh giá bởi tất cả các tổ chức tài chính lớn. Điều này có thể dẫn đến
một số các tổ chức tài chính phải huy động thêm vốn và có tiềm năng phát hiện các
vấn đề rủi ro hệ thống.
Nếu xác suất chủ quan được gán cho các kịch bản tồi tệ nhất được xem xét, kiểm
định sức chịu đựng có thể được kết hợp với phân tích VaR. Đây là một ý tưởng thú vị,
nhưng không phải là một trong những cách tiếp cận được phác thảo trong tài liệu tư
vấn của Ủy ban Basel tháng 1 năm 2009.
23



×