Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tìm hiểu di tích chùa Tây Phương tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 37 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi thực hiện đề tài “Tìm hiểu di tích chùa Tây Phương tại xã Thạch
Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội”. Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của tôi trong thời gian qua. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu
có sự không trung thực về thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu này.
Hà Nội, ngàythángnăm 2016
Sinh viên


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Tiến sĩ LÊ THỊ HIỀN - giảng
viên bộ môn “Phương pháp nghiên cứu khoa học” của khoa Văn hóa - Thông tin
và xã hội đã trang bị cho tôi những kiến thức, kĩ năng cơ bản để tôi có thể hoàn
thành đề tài nghiên cứu này.
Tôi cũng xin cảm ơn ban quản lý di tích chùa Tây Phương đã tạo điều
kiện cho tôi có thêm hiểu biết về lịch sử, kiến trúc cũng như các giá trị tâm linh
của di tích lịch sử chùa Tây Phương. Tôi hi vọng tài liệu này sẽ là cẩm nang hữu
ích cung cấp cho bạn đọc những kiến thức lịch sử - văn hoá cơ bản và cụ thể về
di tích lịch sử chùa Tây Phương.
Mặc dù trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã cố gắng tổng hợp đầy đủ
bề dầy và bề sâu lịch sử - văn hoá và các giá trị của di tích lịch sử chùa Tây
Phương nhưng tôi khó tránh khỏi những sai sót khi tìm hiểu, đánh giá cũng như
trình bày về đề tài nghiên cứu này. Tôi rất mong bạn đọc thông cảm và mong
giành được sự quan tâm đóng góp ý kiến của cô giáo và các bạn cho bài nghiên
cứu để tôi tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đề tài hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Mỗi đất nước đều có một di sản văn hóa riêng làm nền tảng cho sự phát
triển của xã hội. Ngày nay nhất là trong Thập kỉ văn hóa cuối thế kỉ XXI này, di
sản văn hóa của một đất nước không chỉ nằm trong sự quan tâm của mỗi quốc
gia mà còn là sự quan tâm của cả cộng đồng quốc tế. Với tư cách là động lực
phát triển xã hội, các di sản văn hóa truyền thống luôn luôn được nằm trong tầm
chú ý của mỗi quốc gia mỗi dân tộc.
Việt Nam là đất nước có nhiều loại hình di tích lịch sử- văn hóa, trong đó
loại hình di tích kiến trúc- nghệ thuật chiếm một số lượng đáng kể. Từ khi dành
được chính quyền đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã luôn luôn quan tâm đến việc
giữ gìn và bảo tồn lâu dài các di sản văn hóa do tiền nhân để lại, chùa Tây
Phương là một trong số 14 di tích được nhà nước ta xếp hạng sớm nhất.
Trong số những di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng ở nước ta, chùa Tây
Phương được xem như một trong những di tích hàng đầu. Là một công trình
nghệ thuật tiêu biểu của cả nước, mang trong mình nhiều giá trị độc đáo và đặc
sắc, đã từ lâu, chùa Tây Phương thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, số
đông trong đó là những nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ và kiến trúc. Thông qua các
công trình nghiên cứu này, chùa Tây Phương càng hiện rõ lên với những nét đặc
sắc của nó cả về kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc. Tuy nhiên, đó cũng vẫn chỉ là
những công trình nghiên cứu đơn lẻ đề cập tới những đặc điểm riêng biệt của
chùa Tây Phương hoặc giới thiệu những nét tổng quát nhất về ngôi chùa quý giá
này. Cho đến nay, trừ một cuốn sách chủ yếu giới thiệu về nghệ thuật kiến trúc
của chùa, chúng ta chưa thấy một cuốn sách chuyên khảo nào về chùa Tây
Phương vì vậy, những hiểu biết về chùa Tây Phương còn chưa toàn diện và thiếu
tính hệ thống, nhất là chưa đặt được nó vào diễn trình lịch sử của nghệ thuật
kiến trúc và điêu khắc Việt Nam.
Trong thời gian hiện nay, cơ chế kinh tế xã hội được đổi mới kéo theo sự

thay đổi về văn hóa, về nếp tư duy chung của xã hội và chất lượng cuộc sống
của toàn xã hội. Đời sống kinh tế được cải thiện, đời sống tinh thần trở nên
phong phú hơn, người ta muốn đi sâu tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền
4


thống. Vì vậy mà các di tích lịch sử văn hóa ngày càng được toàn xã hội quan
tâm hơn. Việc nghiên cứu, tìm hiểu nhằm khai thác những tiềm năng, những giá
trị ẩn chứa trong những di tích nổi tiếng như chùa Tây Phương để phục vụ cho
sự nghiệp xã hội hóa hoạt động bảo tồn di tích hiện càng trở nên cấp thiết.
Thời gian qua tôi đã kết hợp nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn tại
chùa Tây Phương, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, tìm hiểu
về lịch sử và kiến trúc của di tích chùa Tây Phương, tôi thấy cần phải có những
biện pháp tích cực, phù hợp để bảo vệ, cũng như bảo tồn di tích chùa Tây
Phương nói riêng và các di tích văn hóa lịch sử ở Việt Nam nói chung. Tôi đã
mạnh dạn vận dụng kiến thức đã được thầy cô trang bị để thực hiện nghiên cứu
đề tài: “Tìm hiểu di tích chùa Tây Phương tại xã Thạch Xá, huyện Thạch
Thất, thành phố Hà Nội”.
2.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
2.1.Đối tượng nghiên cứu
Di tích chùa Tây Phương tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố
Hà Nội
2.2. Phạm vi nghiên cứu.
Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu tại di tích chùa Tây Phương tại xã
Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
Nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về diễn trình lịch sử,
đặc điểm kiến trúc, nghệ thuật của di tích chùa Tây Phương tại xã Thạch Xá,


huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu vấn đề “Tìm hiểu về di tích chùa Tây Phương tại xã
Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội ” nhằm tìm hiểu về đặc điểm
kiến trúc, nghệ thuật di tích chùa Tây Phương, chỉ ra được mặt tích cực và
những hạn chế trong công tác bảo tồn và phát huy của địa ranh nói riêng cũng
như của quần thể di tích trong địa bàn huyện Thạch Thất nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống cơ sở lý luận về vấn đề tìm hiểu về di tích chùa Tây Phương tại
xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội: Đưa ra những khái niệm,
5


phân loại khái niệm và vai trò.
Phân tích đánh giá thực trạng của di tích chùa Tây Phương tại xã Thạch
Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội: Làm rõ đặc điểm kiến trúc, nghệ thuật
di tích chùa Tây Phương, chỉ ra được thực trạng chung của di tích chùa Tây
Phương.
Đề xuất giải pháp, phương hướng cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị
di tích chùa Tây Phương: giải pháp về hướng tôn tạo, giải pháp về nâng cấp tu
sửa khu di tích,giải pháp về nâng cao tầm hiểu biết của mọi người về ý thức bảo
tồn và phát triển khu di tích theo hướng hiện đại nhưng vẫn giữ được ý nghĩa
bản chất gốc.
4. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích chùa Tây Phương hiện
nay của cộng đồng nói chung cũng như của địa phương nói riêng đều có tầm
quan trọng không nhỏ,đặc biệt - là phát huy giá trị về vấn đề du lịch… Các tài
liệu nghiên cứu về di tích chùa Tây Phương thường là những đề tài nghiên cứu
đã rất lâu rồi của những năm 60 về trước như: Những đặc họa về các kiến trúc

cổ ở miền Bắc Việt Nam của tác giả L.Bezacier, Sơn Tây địa chí của tác giả
Phạm Xuân Độ… Hiện nay cũng có một số tác giả nghiên cứu một số vấn đề có
liên quan như: Di tích chùa Tây Phương luận án Tiến sĩ của tác giả Trịnh Minh
Đức, Cuốn chùa Tây Phương của nhà xuất bản Văn hóa dân tộc,…
Đề tài nghiên cứu của tôi đã dựa trên những kiến thức nền tảng trong các
tác phẩm đi trước để triển khai bổ sung và hoàn thiện đề tài nghiên cứu của
mình.
5. Phương pháp nghiên cứu

-

Để thực hiện để tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp tiếp cận hệ thống: Nhìn đối tượng nghiên cứu như một hệ thống để

6.

khảo sát, phân tích.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp điền dã : Khảo sát thực tế.
Đóng góp của đề tài
Góp phần khẳng định giá trị văn hóa, tầm quan trọng của khu di tích chùa
Tây Phương. Giúp cho chính quyền địa phương, các cơ quan doanh nghiệp nhận
6


định đúng hướng phát triển sao cho có tiềm năng về kinh tế mà vẫn giữ được
nguyên gốc các giá trị của khu di tích, hoạch định những chủ trương giải pháp
bảo tồn và phát triển phù hợp. Làm tài liệu tham khảo cho các khóa sau.
7.


Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết thúc thì nội dung của đề tài còn được chia
thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về di tích và khái quát về xã Thạch Xá,
huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng di tích chùa Tây Phương
Chương 3: Giải pháp bảo tồn và phát huy di tích chùa Tây Phương
tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI TÍCH VÀ KHÁT QUÁT
VỀ XÃ THẠCH XÁ, HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Lý luận chung về di tích
1.1.1. Khái niệm Di tích
Di tích là dấu vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt đất
có ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử. Ở Việt Nam, một di tích khi đã đủ các điều
kiện sẽ được công nhận theo thứ tự: di tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia và di
tích quốc gia đặc biệt. Tính đến năm 2014, Việt Nam có hơn 40.000 di tích,
thắng cảnh trong đó có hơn 3.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn
7.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Mật độ và số lượng di tích nhiều nhất ở 11
tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ chiếm khoảng 70% di tích của Việt
Nam. Trong số di tích quốc gia đặc biệt và trong số đó có 8 di sản thế giới.
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy định về Di tích. Xem xét di
tích với tư cách là tài nguyên du lịch nhân văn với các giá trị nhân văn vật thể và
phi vật thể có một số khái niệm tiêu biểu như sau:
Theo hiến chương Vơnidơ – Italia (1964), “di tích lịch sử không chỉ là

một công trình kiến trúc đơn chiếc mà cả khung cảnh đô thị hoặc nông thôn có
chứng tích của một nền văn minh riêng, một phát triển có ý nghĩa hoặc một sự
kiện lịch sử. Khái niệm này không chỉ áp dụng với các công trình nghệ thuật to
lớn mà cả với những công trình khiêm tốn hớn vốn đã cùng với thời gian, thâu
nạp được một ý nghĩa văn hóa.”
Theo đạo luật 16 về di sản lịch sử của Tây Ban Nha (1985), di sản lịch sử
văn hóa được gọi là di tích lịch sử: “di tích lịch sử bao gồm các bất động sản và
các động sản có lợi ích nghệ thuật, có lợi ích vật học, khảo cổ học, dân tộc học,
khoa học hoặc kỹ thuật, cũng kể cả di sản tự nhiên và thư mục, các lớp mỏ, các
khu vực khảo cổ, các thắng cảnh thiên nhiên, các công viên, các vườn có giá trị
nghệ thuật lịch sử hay nhân chủng học”.
Theo công ước về việc bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của
UNESCO (1971), Di sản văn hóa là: 1) Các di tích: Các công trình kiến trúc
điêu khắc hoặc hội họa hoành tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ
học, các văn bản, các hang động và các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt
8


về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học; 2) Các quần thể: Các nhóm
công trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có giá trị quốc tế đặc biệt về
phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, do liến trúc, sự thống nhất của
chúng hoặc sự nhất thể hóa của chúng vào cảnh quan; 3) Các thắng cảnh: Các
công trình của con người hoặc những công trình của con người kết hợp với công
trình của tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có một
giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân
chứng học.
Theo luật Di sản văn hóa Việt Nam (2001) và Luật Di sản văn hóa bổ
sung và sử đổi của Việt Nam (2009) Di tích lịch sử văn hóa là công trình xây
dựng , địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm
đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Di tích lịch sử văn hóa có một trong các

tiêu chí sau: 1) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa
tiêu biểu của quốc gia hoặc của địa phương; 2) Công trình xây dựng, địa điểm
gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử
có ảnh hưởng tích cực đến phát triển của quốc gia hoặc của địa phương trong
các thời kỳ lịch sử; 3) Địa chỉ khảo cổ học có giá trị têu biểu; 4) Công trình kiến
trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc dô thị và địa điểm cư trú
có giá trị tiêu biếu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật.
1.1.2. Khái niệm Di tích lịch sử.
Theo từ điển Hán Việt:
Di: Sót lại, rơi lại, để lại.
Tích: Tàn tích, dấu vết.
Di tích: Tàn tích, dấu vết còn sót lại của quá khứ
Theo đại từ điển Tiếng Việt: di tích lịch sử là tổng thể những công
trình,địa điểm, đồ vật hoặc tác phẩm, tài liệu có giá trị lịch sử hay giá trị văn hóa
được lưu lại.
Theo Luật di sản văn hóa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được quốc hội khóa X thông qua trong kỳ họp thứ 9 ngày 29/09/2001: “Di tích
lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, vật cổ bảo vật
quốc gia thuộc công trình địa điểm đó có giá trị lịch sử văn hóa khoa học.”
1.1.3. Khái niệm Di tích kiến trúc nghệ thuật.
9


Di tích kiến trúc nghệ thuật là công trình kiến trúc nghệ thuật, tổng thể
kiến trúc đô thị và đô thị có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển nghệ
thuật kiến trúc của dân tộc. Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình
kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều
giai đoạn lịch sử. Các di tích tiêu biểu loại này như Chùa Bút Tháp, phố cổ Hội
An, nhà thờ PHát Diệm, chùa Keo, đình Tây Đẳng, chùa Phật Tích.
Năm 2010, di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm 44,2% tổng số di tích được

xếp hạng.
1.1.4. Khái niệm Di tích thắng cảnh.
Di tích thắng cảnh (danh lam thắng cảnh) là cảnh quan thiên nhiên hoặc
địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có
giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các
tiêu chí sau đây:
Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên
nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu. Các di tích quốc gia
đặc biệt tiêu biểu thuộc loại này như 4 danh lam thắng cảnh khu danh thắng Tây
Thiên, động Phong Nha, vịnh Ha Long.
Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa
dạng sinh học , hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những
dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của Trái Đất. Các di tích tiêu biểu
thuộc loại này như vịnh Hạ Long, cao nguyên Đồng Văn, các vườn quốc gia và
khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam.
Danh lam thằng cảnh chiếm khoảng 3,3% di tích được xếp hạng.
1.1.5. Vai trò của Di tích
Di tích là những bằng chứng vật chứng có ý nghĩa quan trọng minh chứng
về lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Di tích giúp cho con
người biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu về truyền thống lịch sử, đặc
trưng văn hóa của đất nước và do đó tác động ngược trở lại tới việc hình thành
nhân cách con người Việt Nam hiện đại.
Di tích chứa đựng những giá trị kinh tế to lớn (giá trị nhiều ngàn tỷ đồng)
nếu bị mất đi không đơn thuần là mất đi tài sản vật chất, mà là mất đi những giá
10


trị tinh thần lớn lao không gì bù đắp nổi. Đồng thời, di tích còn mang ý nghĩa là
nguồn lực cho phát triển kinh tế, một nguồn lực rất lớn, sẵn có nếu được khai
thác, sử dụng tốt để góp phàn không nhỏ cho việc phát triển kinh tế đất nước và

nó càng có ý nghĩa to lớn hơn khi đất nước đang cần phát huy tối đa nguồn nội
lực để phát triển.
1.2. Khái quát về xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
1.2.1. Đặc điểm về vị trí địa lý
Xã Thạch Xá nằm trên đường tỉnh lộ 419, cách trung tâm huyện Thạch
Thất 5km về hướng Đông Nam và cách đại lộ Thăng Long 6km. Xã có diện tích
3,4 km², dân số năm 2016 hơn 6000 người, mật độ dân số đạt 1989 người/ km².
Phía Bắc và Đông Bắc giáp xã Chàng Sơn, phía Tây giáp xã Cần Kiệm, phía
Nam giáp xã Bình Phú.
Với vị trí địa lý thuận lợi xung quanh là các xã làng nghề, lại nằm trên
trục đường huyết mạch của huyện, xã Thạch Xá có một vị trí đắc địa trong cả về
mặt phát triển kinh tế cũng như các mặt văn hóa xã hội.
1.2.2. Đặc điểm về văn hóa
Là một xã Làng nghề có lịch sử lâu đời, xã Thạch Xá cũng giống như bao
địa phương khác trong huyện đề có những đặc trưng riêng về văn hóa. Toàn xã
có rất nhiều ngôi đền, đình, chùa cổ kính lâu đời và được xếp hạng di tích như:
chùa Tây Phương, đình làng Yên, chùa Bảo Quang, đền Đỗng Hoa,… người dân
địa phương đa phần là theo tín ngưỡng phật giáo. Ngoài những ngôi chùa, đền,
đình trên xã Thạch Xá còn nổi tiếng về những đặc sản quê hương đậm chất xứ
Đoài như: bánh chè Lam, kẹo lạc, bánh Tẻ Cầu Liêu,…Những sản phẩm thủ
công mỹ nghệ do chính người dân địa phương làm như các sản phẩm về mây,
tre, đan… Còn điểm đặc biệt nữa khi nhắc đến văn hóa xã Thạch Xá đó chính là
nghệ thuật múa rối nước, hằng năm vẫn biểu diễn tại các lễ hội ở địa phương
như: hội chùa Tây Phương, Tế lễ đình làng Yên,… và đi biểu diễn ở các khu vực
trong và ngoài nước.
Với lịch sử hình thành lâu đời xã Thạch Xá là một trong những địa
phương có những đặc điểm văn hóa nổi bật ở địa bàn huyện Thạch Thất nói
11



riêng và địa bàn thành phố Hà Nội nói chung.
Tiểu kết
Ở chương 1, tôi đã trình bày hai vấn đề lớn đó là cơ sở lý luận về di tích
và khát quát về xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội trong đó có
khái niệm như: Khái niệm di tích, khái niệm di tích lịch sử, khái niệm di tích
kiến trú nghệ thuật, khái niệm di tích thắng cảnh, vai trò của di tích, đặc điểm về
vị trí địa lý và văn hóa của xã Thạch Xá để phần nào giúp người đọc có thể hiểu
được khái quát về di tích Chùa Tây Phương- nơi mà tôi thực hiện đề tài nghiên
cứu.

12


Chương 2.
THỰC TRẠNG DI TÍCH CHÙA TÂY PHƯƠNG
2.1. Diễn trình lịch sử
Chùa Tây Phương nằm ở xóm Tây Phương, làng Yên, xã Thạch Xá,
huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Chùa được khởi dựng từ bao giờ? Cho
đến nay chưa có một tài liệu nào chỉ ra một cách đích xác. Chùa Tây Phương có
tên chữ là Sùng Phúc Tự, tọa lạc trên đỉnh núi Tây Phương- xưa còn được gọi là
núi Câu Lậu.
Tương truyền, chùa Tây Phương vốn được Cao Biền nhà Đường xây dựng
để triệt ngôi huyệt đế vương ở vùng này. Tuy vậy, điều được dẫn ra ở trên đã
khiến cho một số nhà nghiên cứu nghi ngờ về tính chính xác của nó và cho rằng
nếu quả thực có việc xây dựng chùa để yểm huyệt thì phải chăng đó là chùa
Thanh Phong nay có tên gọi là chùa Thanh Am được dựng ở lưng chừng núi Câu
Lậu, chứ không phải là chùa Tây Phương hiện nay. Một ý kiến khác dựa vào
điều được chép trong sách: “An Nam chí” mà cho rằng vào đời Tấn có Cát
Hồng đến núi Câu Lậu luyện thuốc tu tiên. Theo như tôi, nếu đúng như lời
truyền tụng thì nơi đây đã phải có thánh thất của Đạo giáo để Cát Hồng vừa

dùng làm nơi luyện đan, vừa tu tiên. Vậy thì phải chăng ngôi quán mà Cát Hồng
dùng làm nơi tu luyện là tiền thân của chùa Tây Phương? Tuy nhiên, có một tài
liệu nói rằng Cát Hồng chỉ đến tu luyện ở núi La Phù và mất tại đó. Do vậy, ý
kiến trên cũng chưa phải là chắc chắn. Ngoài những truyền thuyết đã nhắc tới ở
trên, có tác giả cho rằng chùa Tây Phương được làm theo quy mô như ngày nay
là vào năm Giáp Dần đời Mạc Phúc Nguyên (1554). Tuy các tác giả này không
nêu rõ những căn cứ cho việc khẳng định niên đại nhưng trong chùa hiện còn
dấu vết là tấm bia đá, trến trán bia còn hoa văn hình rồng có phong cách rồng
thời Mạc, khiến chúng ta nghĩ rằng niên đại trên là có cơ sở.
Nhìn chung, những tư liệu soi sáng lịch sử chùa Tây Phương ở giai đoạn
thế kỉ XVII còn lại rất ít. Qua tấm bia cổ dựng ở sân chùa với một số chữ còn
đọc được, các nhà nghien cứu đã cho rằng đến năm Đức Long thứ 4, đời vua Lê
Thần Tông, Nhâm Thân (1632) chùa được tu sửa lại. Sau đó 3 năm, vào năm
Dương Hòa thứ nhất, Ất Hợi (1635) mới tạc tượng và tổ chức an tượng, khai
13


quang, điểm nhãn. Thời điểm tu sửa lớn chùa cũng đã được một số nhà nghiên
cứu khác nhắc tới và đều thống nhất như vậy. Với những tài liệu khảo sát thực
địa di tích chùa Tây Phương và các ý kiến của nhiều nhà khoa học thì Tây
Phương có lẽ đã ra đời từ năm 1554 nhưng chúng ta không biết gì về diện mạo
của ngôi chùa vào thời kỳ đó. Cũng căn cứ vào những điều còn đọc được ở chùa
các nhà nghiên cứu cho rằng chùa Tây Phương đã từng là chùa lớn, thuộc loại
hình chùa “trăm gian”, được các đại diện cao cấp của quý tộc triều đình LêTrịnh đỡ đầu.
Các nhà nghiên cứu cho rằng muộn nhất thì chùa Tây Phương cũng ra đời
vào thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII được trùng tu lớn và là một trong những ngôi
chùa lớn của giai đoạn này. Đến giữa thế kỷ thứ XVII, vì một lí do nào đó, chùa
trở nên hoang phế hoặc bị phá hủy hoàn toàn. Sang thế kỷ XVIII trong đời Vinh
Hựu (1735- 1740), chùa Tây Phương và một số chùa khác được mở rộng quy
mô. Theo như lời bài minh chuông do Phan Huy Ích soạn thì vào những năm

1735- 1740, chúa Trịnh Giang đã sai quan chức đến chùa trông nom việc trùng
tu, sửa chữa, tạc tượng thờ. Nhưng đến năm 1788, khi Phan Huy Ích trở lại Sơn
Tây thì chùa đã trở nên hoang phế.
Cuối thế kỉ XVIII, lịch sử Việt Nam bước sang một giai đoạn mới. Cuộc
khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà Tây Sơn thắng lợi. Triều đại Tây
Sơn được sáng lập với hệ tư tưởng mới, biểu hiện khá rõ giữa dung hội Phật và
Nho. Cuộc đại chấn hưng đất nước được bắt đầu, triều đại này không chỉ quan
tâm đến chính trị và kinh tế, mà còn coi trọng việc phát triển một nền văn hóa
dân tộc. Mặc dù thời Tây Sơn là một triều đại có thời kì tồn tại ngắn trong lịch
sử các triều đại phong kiến Việt Nam, nhưng những thành tựu và văn hóa mà
triều đại này đã để lại cho đất nước và dân tộc không thể bị xóa mờ, trong đó,
chùa Tây Phương là một điểm sáng.
Chùa Tây Phương mà chúng ta thấy hiện nay được xây dựng vào chính
giai đoạn này và đã đạt được những giá trị cao về kiến trúc và điêu khắc. Đa số
nhà nghiên cứu cho rằng niên đại Giáp Dần ghi trên xà nóc phải là năm 1974
(tức là năm Cảnh Thịnh thứ 2 nhà Tây Sơn). Một tài liệu hiện vật chứng minh
chắc chắn cho niên đại của ngôi chùa hiện tồn là bài minh của Phan Huy Ích
14


khắc trên quả chuông treo ở tòa chùa Hạ. Do vậy, với bài minh chuông này,
chúng ta càng khẳng định chắc chắn hơn về niên đại 1794 của chùa. Cho đến
nay niên đại 1794 của ngôi chùa Tây Phương hiện đang tồn tại trước mắt chúng
ta đã được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định [9; Tr.44].
Sang thời Nguyễn (1802- 1945) có lẽ chùa Tây Phương cũng nhiều lần
được tu sửa. Song dấu tích lần sửa chữa lớn nhất có lẽ vào đầu thế kỷ XX này.
Năm 1945- 1954 giặc Pháp đã biến chùa thành đồn bốt. Sau cuộc kháng
chiến chống thức dân Pháp thắng lợi, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
chú ý đến di tích chùa Tây Phương và một số di tích lớn khác. Với chủ trương
giữ gìn lâu dài di sản văn hóa dân tộc, năm 1958 Vụ Bảo tồn Bảo tang thuộc Bộ

Văn hóa được giao nhiệm vụ cùng với chính quyền và nhân dân địa phương tu
sửa lại chùa. Vào năm 1963 chùa Tây Phương là 1 trong 14 di tích được xếp
hạng ở nước ta theo quyết định số 313-VH/VP [9; Tr.45].
Năm 1973, 1974, Vụ Bảo tồn Bảo tàng Bộ Văn hóa đã tổ chức khảo sát cơ
bản về kiến trúc gỗ và đã lập phương án tu sửa các chi tiết bị hư hại trên kiến
trúc. Năm 1991 trong quá trình tu tạo chùa, người ta đã tiến hành xây dựng cổng
Tam quan ở chân núi, mở đầu lối đi lên chùa. Toàn bộ việc làm đó cho tới nay đã
tạo cho ngôi chùa ở trong tình trạng khá tốt và hoàn chỉnh hơn.
2.2. Không gian, cảnh quan kiến trúc
Chùa Tây Phương xây dựng trên đỉnh núi Câu Lậu, trong dãy núi chín quả
núi vùng Thạch Thất, trong đó Câu Lậu là ngọn núi to nhất trong số chín quả núi
kể trên. Tư duy dân dã đã liên tưởng các quả núi đó là một đàn trâu và ngọn núi
cao nhất- núi Tây Phương , là con trâu đầu đàn và người ta đã dựng chùa ở đó
[Phụ lục ảnh 1; Tr. 29].
Từ xa đi lại, khách hành hương không thể nhìn thấy được chùa. Xa xa,
phía trước là núi Sài Sơn. Phía Bắc (bên hữu chùa) và phía Nam (bên tả chùa) là
những cánh đồng ruộng xanh tươi của huyện Thạch Thất. Phía Tây (sau chùa)
gần nhất có ba quả núi nhỏ bao bọc. Xa hơn nữa, ở phía sau có dãy núi Tản Viên
như một chỗ dựa vững chắc cho ngôi chùa. Như thể, cảnh trí thiên nhiên ở đây
được xem là nơi “tụ thủy”, là chỗ đất lành, thích hợp cho việc dựng chùa. Việc
lựa chọn cảnh thiên nhiên đẹp, địa thế tốt để dựng chùa, xây đình, bắc cầu, làm
15


quán… là sự kết hợp tài tình của con người giữa cảnh trí thiên nhiên với công
trình kiến trúc, làm cho nó trở nên hữu tình, gắn bó với cuộc sống con người.
2.2.1. Bố cục mặt bằng di tích
Chùa Tây Phương có quy mô không lớn như các ngôi chùa khác, tuy vậy,
có thể nghĩ rằng quy mô lúc đó của chùa Tây Phương không phải là nhỏ và có
thể xếp vào loại chùa “trăm gian”. Bố cục mặt bằng tổng thể kiến trúc ngôi chùa

đã có nhiều lần thay đổi, trước đây, mặt bằng được bố trí như sau:
Từ chân núi lên tới đỉnh, cổng chùa chỉ có một cửa vào duy nhất, với hai
cánh cửa mở ra hai bên, qua cổng chùa là khu sân chùa, trong khu vực này có
hòn non bộ, bên trái có miếu thờ Đức Ông, miếu này có tên gọi là miếu Thiên
Cổ. Qua một khu vực sân không rộng lắm là tới tòa chùa Hạ, chùa Trung, chùa
Thượng với hai “thiên tỉnh” xen vào giữa. Chùa và sân thông suốt nhau không
có vách ngăn, tứ phía quay lại thật kín. Bên phải cụm kiến trúc 3 tòa chùa là khu
vực nhà khách, nhà Tổ, nhà bếp, bể nước ăn [6; Tr.35].
Ngày nay, bố cục này về cơ bản vẫn giữ nguyên được cụm kiến trúc
chính, song các kiến trúc phụ có sự thay đổi cả về vị trí lẫn quy mô. Về bố cục
chung, chùa Tây Phương không được chú ý về chiều cao, nó vẫn là sự kế tục
truyền thống [Phụ lục ảnh 2; Tr. 29].
2.2.2. Khu chính điện
Ba tòa chùa được bố trí song hành theo hình chữ “tam”, gồm có chùa Hạ,
chùa Trung và chùa Thượng [Phụ lục ảnh 3; Tr. 30]. Có người cho rằng, loại bố
cục hình chữ “tam” của các chùa này biểu hiện ảnh hưởng từ phía Nam, nhưng ý
kiến đó không có cơ sở chắc chắn. Trong lịch sử kiến trúc Việt Nam, trước khi
có bình đồ chữ “tam” ở chùa Tây Phương, chúng ta đã thấy có những biểu hiện
tiền thân của loại bình đồ này, chẳng hạn như khu chính điện của chùa Thầy (Hà
Nội), chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Có thể nói rằng, sự kết hợp của truyền thống
kiến trúc đã có từ trước với những ảnh hưởng của kiến trúc tôn giáo ở Đàng
Trong đã tạo nên một cách bố trí mặt bằng chữ “tam” rất độc đáo mà cho đến
nay chung ta mới chỉ thấy có ở chùa Tây Phương và chùa Kim Liên (Hà Nội) [6;
Tr.37].
Tòa Hạ và tòa Thượng được làm theo kiểu ba gian hai chai lớn và tòa
16


Trung được bố trí thu ngắn chiều ngang, chỉ còn lại một gian hai chái, nhưng lại
có mái thượng diêm cao vượt hẳn lên. Phía trước tòa chùa Hạ bưng cửa gỗ bức

bàn ở ba ban giữa, hai gian bên xây gạch Bát Tràng để trần chạy viền theo cả ba
tòa chùa theo hình chữ “công”. Thềm phía sau của tòa thứ nhất, thềm trước của
tòa thứ hai và thềm của tòa thứ ba được bó bằng đá ong là loại vật liệu sẵn có ở
địa phương [6; Tr.37].
Chùa Tây Phương có kết cấu hai tầng mái. Trong kiến trúc, người ta gọi là
kết cấu “chồng diêm”, 2 tầng 8 lá mái, tầng mái trên nhỏ hơn, nhưng vẫn có đủ
bờ dải, bờ nóc, bờ guột. Cả hai mái trên và dưới đều có kết cấu “tầu dao lá mái”
vừa thanh thoát nhẹ nhàng, lại vững chãi. Phần cổ diêm ở chùa Tây Phương
được thưng kín bằng những tấm ván đố. Kiểu mái này, nhìn bề ngoài giống như
nhà hai tầng có sàn ngăn cách, nhưng bên trong lại chỉ có một không gian thông
thoáng [7; Tr.28].
Những bộ khung của các tòa nhà của chùa Tây Phương hoàn toàn giống
nhau về mặt kết cấu và đều có kết cấu khung gỗ. Chúng có đặc diểm chung là có
sự liên quan bởi các hàng xà theo hai chiều ngang và dọc. Nhìn chung, kết cấu
các bộ vì ở ba tòa chùa này thường giống nhau, đều mang đặc điểm riêng và hầu
như khác biệt với các di tích khác có cùng niên đại Tây Sơn. Kết cấu mỗi bộ vì
được làm theo kiểu bốn hàng chân cột. Bộ vì chính được liên kết theo kiểu
“chồng rường bẩy hiên” 4 hàng chân cột, xen giữa những hàng chân cột này có
hai cột trốn được đặt trên xà hạ nhằm mục đích nới rộng lòng nhà. Tất cả các
chân cột ở chùa Tây Phương đều được kê trên các chân tảng lớn bằng đá âm
dương trên có chạm hình hoa sen. Toàn bộ sức nặng của bộ mái và khung được
tập trung vào hệ thống cột lim có hình thức thượng thu hạ thách. Các cột này có
độ lớn vừa phải khiến cho ta cảm giác kết cấu ít nặng nề. Hình thức này được
bắt đầu ở nước ta từ đời Cảnh Hưng- Vĩnh Thịnh (đầu thế kỉ thứ XVIII) và hiệu
quả của nó là tạo ra sự trống thoáng trong không gian kiến trúc.
Về đại thể, kết cấu kiến trúc của ba tòa chùa Hạ, Trung và Thượng là
giống nhau, chúng ta chỉ nhận ra sự khác biệt giữa chúng là trên trang trí và kiên
trúc. Nó có đặc điểm khác với các ngôi chùa có niên đại trước và sau nó không
những về đặc trưng kiến trúc mà còn cả về đặc điểm trang trí trên kiến trúc.
17



Nhìn vào các tòa chùa đã thấy ngay sự khác biệt: tòa Hạ và Thượng được trang
trí chủ yếu là các hình cỏ, cây, hoa, lá. Còn tòa Trung lại được trang trí chủ yếu
rồng, phượng và hổ phù [Phụ lục ảnh 4; Tr. 30]. Tuy vậy, ở đây, chúng ta nhận
thấy sự khác biệt trong một thể thống nhất và đó cũng là một đặc điểm trang trí
mỹ thuật Tây Sơn. Trang trí ở ba tòa chùa này tuy có những điểm khác nhau,
nhưng vẫn có những đề tài chung cho cả ba tòa chùa, đó là mây, giả đấu ba chạc
và cánh sen. Các mô típ trang trí thường được thể hiện lặp đi lặp lại ở nhiều vị
trí khác nhau, sự lặp lại đó thể hiện một nhịp điệu, một phong cách thể hiện
không cầu kì nhưng chắc tay, gây được ấn tượng thoải mái trong thưởng thức.
Toàn bộ phận trang trí kiến trúc toát lên một vẻ đẹp sinh động, một phong cách
nghệ thuật khác hẳn với thời kỳ trước. Chiếc là ba chẽ có gân nổi hoặc chìm đã
trở thành một chủ đề rất quen thuộc. Ở tòa chùa Trung, các họa tiết trang trí
chính là hình tượng các linh vật: rồng, phượng, hổ phù và những văn xoắn tạo
thành những cụm mây với kỹ thuật chạm khắc giống với kỹ thuật được thể hiện
ở tòa chùa Thượng và Hạ. Các trang trí trên điểm mái và trên các cấu kiện kiến
trúc khác cũng thể hiện rõ tính độc đáo của chùa Tây Phương [7; Tr.28- 29].
Nhìn chung, các đề tài được thể hiện trong các mảng trang trí trên kiến
trúc chùa Tây Phương là đơn giản, nhưng trong một bố cục chặt chẽ, cân đối, ăn
nhịp với nhau trong từng chi tiết và rất tôn trọng qui luật đăng đối. Trên cả ba
tòa nhà, trang trí không dày đặc như ở nhiều ngôi đình làng có niên đại đầu thế
kỉ thứ XVIII trở về trước mà nó được bố trí rất thoáng, ở những vị trí giống
nhau. Phải chăng, những đặc điểm đã nêu ở trên thể hiện một phong cách nghệ
thuật mới.
2.2.3. Nhà Tổ
Đượ làm theo kiểu ba gian hai chai, chai đàu hồi liền kề với nhà Tăng, ba
gian giữa thờ Tổ, gian bên trái thờ Mẫu. Nhà Tổ cũng có góc mái cong, song đầu
kìm chỉ được thể hiện đơn giản bằng đâu nắm cơm, ở đây không đắp một con
giống nào. Các vì chính của nhà Tổ được liên kết theo kiểu “kèo cầu giá chiêng”

[Phụ lục ảnh 5; Tr. 31].
2.2.4. Miếu Đức Ông (Thiên Cổ miếu)
18


Ngôi miếu này nằm ở bên trái phía trước chùa, tách biệt với khu chùa
chính. Miếu là một ngôi nhà nhỏ, thấp, có 4 gian, vừa đóng vai trò là miếu Thổ
thần, vừa là nơi thờ Đức Ông [Phụ lục ảnh 6; Tr. 31].
2.2.5. Tháp
Một kiến trúc phụ khác của chùa là cây tháp xây. Chùa Tây Phương có
lịch sử rất lâu đời và ở vào thế kỷ nào cũng có sư trụ trì nhưng thường thì vào
khoảng cuối đời, họ được chuyển đi nơi khác. Chính vì vậy mà trong khuôn viên
của chùa có vườn tháp nhưng chỉ được tượng trưng bằng một cây tháp đơn lẻ
dựng ở phía trái tòa thượng điện. Về cơ bản cây tháp này là sản phẩm kiến trúc
của thế kỉ XX. Mới đây, chùa đã cho xây dựng một tòa tháp ở bên trái khi đứng
ở cổng vào chùa nhìn sang. Đây là tòa tháp của cố sư trụ trì chùa Thích Đàm
Thanh, phần tháp và tường bao xung quanh đều được xây dựng bằng đá ongmột vật liệu sẵn có ở địa phương [Phụ lục ảnh 7; Tr. 32].
2.3. Bài trí tượng Phật
Chùa Tây Phương hiện còn khá nhiều tượng, 72 pho tượng hiện có trong
chùa này đều là những tác phẩm của các thời đại khác nhau. Có những pho
tượng thuộc niên đại thế kỷ XVII, có những pho đầu thế kỷ XVIII, cuối thế kỷ
XVIII và đầu thế kỷ XIX [8; Tr.46]. Trong đó có những pho tượng có giá trị
nghệ thuật và thẩm mỹ cao, đó là các pho tượng Phật, Bồ tát, Kim cương, Tổ
truyền đăng.
Trong suốt quá trình tồn tại của ngôi chùa, sự bài trí tượng đã có nhiều
thay đổi. Nếu so sánh sơ đồ bài trí tượng hiện nay với sơ đồ bài trí tượng trong
“Phật Lục” của Trần Trọng Kim thì đã có sự khác nhau về vị trí. Nếu như trong
“Phật Lục” 8 vị Kim Cương được đặt ở 2 tòa chùa, tòa chùa Hạ và Thượng thì
ngày nay cả 8 pho đều được đặt ở tòa chùa Hạ. 10 pho tượng Thập diện Diêm
vương trước đây ở tòa chùa Trung nay chuyển toàn bộ vào tòa chùa Thượng.

2.3.1. Bài trí tượng ở tòa chùa Thượng
Ở chùa Thượng, người ta bố trí ở bệ thờ trung tâm bộ tượng Tam Thế,
tượng Adiđà ngồi, tòa Cửu Long, vây quanh là bộ tượng Thập diện Diêm Vương
[Phụ lục ảnh 8; Tr. 32]. Hai bên bệ thờ chính là tượng của 16 vị Tổ truyền Đăng.
19


Nhìn chung, trong các số pho tượng đặt ở tòa chùa Thượng, chỉ có bộ tượng
Tam Thế, tượng Adiđà ngồi và tượng các vị Tổ truyền Đăng có niên đại thế kỷ
thứ XVIII, còn các pho tượng khác có niên đại muộn hơn. Đáng chú ý ở đây có
các pho tượng Tổ truyền Đăng.
2.3.2. Bài trí tượng ở tòa chùa Trung
Bệ thờ chính tòa chùa Trung được đặt 5 lớp tượng, các lớp cáo dần từ
ngoài vào trong theo thứ tự Phạm Thiên và Đế Thích, Pháp Hoa Lâm và Tổ
Anan ở hai bên Phật Di Lặc, Tổ Ca Diếp và Đại Điêu Tương ở hai bên tượng
Tuyết Sơn và cuối cùng là lớp tượng Di Đà Tam Tôn [Phụ lục ảnh 9; Tr. 33].
Một đặc điểm đáng lưu ý trong bài trí tượng ở tòa chùa Trung là hầu hết
các pho tượng ở đây đều là sản phẩm của nghệ thuật tạc tượng thời Tây Sơn.
Trong số 12 pho tượng được bài trí ở gian giữa của tòa chùa này, chỉ có 4 pho
tượng ngồi, 8 pho tượng còn lại đều được thể hiện ở tư thế đứng với kích thước
lớn (từ 1,70m trở lên). Nếu bố trí với trật tự bài trí tượng thông thường thì ở đây
có ít nhiều xáo trộn. Ở hai bên hồi, người ta bố trí tượng Thổ địa, Giám Trai,
Thái tử Vi Đà, Quan Âm Tống Tử và Quan Âm Nam Hải. Rất tiếc là pho Quan
Âm Nam Hải trước đây mà các nhà nghiên cứu đã xác định là sản phẩm của thế
kỷ thứ XVII đã bị mất, người ta thay vào vị trí đó một tượng Quan Âm Nam Hải
khác mới được làm lại về sau này [8; Tr.48].
2.3.3. Bài trí tượng ở tòa chùa Hạ
Trên bệ thờ ở chính gian giữa tòa chùa Hạ đặt tượng Quan Âm Thiên thủ
Thiên nhãn, hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ [Phụ lục ảnh 10; Tr. 33].
Hai tượng này vẫn kế tục được phần nào phong cách thời Tây Sơn với những dải

lụa được buộc từ khăn mũ trên đầu, được tạo hình bong kênh vượt lên trên tỏa
sáng hai bên theo thân lượn chảy xuống sát mặt bệ. Ở các gian bên, người ta bố
trí tượng Bát Bộ Kim Cương. Tượng Kim Cương ở đây có kích thước lớn, được
tạo tác bởi một khối gỗ, đặt trong tổng thể, 8 pho tượng tạo một sự hài hòa, các
pho tương này có những dáng vẻ khác nhau, nhưng có cùng một nguyên tắc thể
hiện [Phụ lục ảnh 11; Tr. 34]. Bằng những nét đục khoáng đạt, rất chắc tay,
nhuần nhuyễn bậc thầy, mà người đương thời đã để lại cho chúng ta những
20


chỉnh thể viên mãn. Có thể nói rằng, căn cứ vào những pho tượng này, phần nào
có thể định hình về phong cách tượng Kim Cương thời Tây Sơn, mà hiện nay
hầu như những pho tượng này còn được bảo toàn khá tốt. Ngoài ra, ở nhà Tổ
còn bố trí ban thờ Tổ và thờ Mẫu.
Tiểu kết
Nội dung trong chương 2 tôi đã nêu khái quát về lịch sử hình thành chùa
Tây Phương, không gian, cảnh quan, kiến trúc cũng như cách bài trí các pho
tượng trong chùa. Giúp người đọc thêm hiểu hơn về lịch sử hình thành và nghệ
thuật kiến trúc của ngôi chùa.

21


Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI TÍCH CHÙA TÂY PHƯƠNG
TẠI XÃ THẠCH XÁ, HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Đánh giá việc bảo tồn và phát huy di tích chùa Tây Phương tại xã
Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
3.1.1. Ưu điểm
Sau khi đến tham quan chùa Tây Phương tôi thấy được qua nhiều lần

trùng tu thì ngôi chùa vẫn giữ được những nét linh thiêng, cổ kính và các giá trị
lịch sử bao đời.
Chùa Tây Phương vẫn giữ được kiến trúc xây dựng theo trình tự và
nguyên tắc khắt khe của Phật giáo.
3.1.2. Nhược điểm
Trình độ chuyên môn của nhân viên Ban quản lý di tích chùa Tây Phương
còn hạn chế
Ý thức về việc bảo tồn và phát huy di tích chùa Tây Phương của nhân dân
địa phương còn chưa cao.
3.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích chùa Tây Phương tại
xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
3.2.1 Giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, giám sát
Tíếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả của các cấp uỷ đảng, chính quyền và các cơ
quan liên quan trong việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn
hóa, nhằm giáo dục truyền thống và phục vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Chỉ đạo các địa phương xã, thị trấn thực
hiện Luật Di sản văn hóa, các nghị định của Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch
sử- văn hóa, thường tuyên truyền, vận động nhân dân trên địa bàn, nơi có di tích
hiểu rõ ý nghĩa, giá trị các di tích lịch sử - văn hóa; làm cho người dân thấy được
22


mình vừa là người bảo vệ vừa là người được hưởng lợi từ việc phát huy giá trị
các di tích, từ đó có ý thức, trách nhiệm và những hành động thiết thực trong
việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy giá trị di tích của chùa Tây Phương.
3.2.2 Giải pháp về tuyên truyền, nâng cao nhận thức về di tích chùa Tây
Phương

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động đến mọi tầng lớp nhân dân trên
địa bàn Thạch Thất và đặc biệt là trong phạm vi chùa Tây Phương phải có trách
nhiệm bảo vệ, không được xâm phạm đến di tích. Tuyên truyền sâu rộng Luật Di
sản văn hóa, quy chế quản lý và bảo vệ di tích quốc gia đặc biệt chùa Tây
Phương và công tác quản lý, chăm sóc, bảo vệ di tích
Chủ động phối hợp với các cơ quan báo, đài tuyên truyền, quảng bá tiềm
năng phát triển du lịch. Thông qua phát triển du lịch để bảo tồn và phát huy giá
trị các di tích lịch sử - văn hóa. Đài Truyền thanh huyện xây dựng chuyên mục
bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử.
3.2.3 Giải pháp về phối hợp các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị xã
hội
Phối hợp với ngành chức năng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành
phố trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa. Phối hợp
với các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông
dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội cựu chiến binh … triển khai nhiệm vụ
bảo tồn, phát huy di tích lịch sử - văn hóa. Gắn công tác thi đua với việc bảo tồn,
phát huy giá trị di tích tới từng các cán bộ, đảng viên, tới địa phương, khu dân
cư nơi có di tích.
3.2.4 Giải pháp về công tác chăm sóc, bảo vệ
Phòng Giáo dục và Đào tạo triển khai đến Hiệu trưởng các Trường Tiểu
học và Trung học cơ sở đăng ký với địa phương, tổ chức cho các em học sinh
tham gia phát dọn vệ sinh, trồng hoa, cây xanh tại chùa Tây Phương, xã Thạch
Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Hàng năm tổ chức cho các em học
23


sinh tham quan tìm hiểu ý nghĩa, giá trị của các di tích lịch sử - văn hóa tại địa
phương làm phong phú sinh động bài học trên lớp và giáo dục truyền thống cách
mạng của quê hương.
Huyện Đoàn Thạch Thất triển khai đến các Đoàn thanh niên, ký đảm nhận

chăm sóc, bảo vệ, trồng cây xanh tại điểm di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn,
coi đây là công trình thanh niên, giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào
dân tộc đối với các thế hệ trẻ. Các ngành chức năng và Uỷ ban nhân dân huyện
Thạc Thất, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các di tích lịch sử văn hóa. Phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá
nhân, hộ gia đình có hành vi xâm phạm đến di tích để sản xuất, trồng cây
nguyên liệu, san ủi xây dựng công trình,di tích hoặc lấn chiếm làm nhà ở.
3.2.5 Giải pháp về kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước
Tiếp tục kiện toàn và phát huy vai trò nhiệm vụ của Ban quản lý di tích
chùa Tây Phương. Thành lập Ban quản lý di tích lịch sử - văn hóa và danh lam
thắng cảnh cấp huyệnvà thực hiện phân cấp, tổ chức bàn giao các di tích lịch sử
- văn hóa và danh lam thắng cảnh cho các phường trên địa bàn huyện.
Chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ
chuyên môn làm công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn
hóa. Tạo điều kiện để cán bộ văn hoá cơ sở tham gia các lớp tập huấn về bảo tồn
và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa do thành phố, trung ương tổ chức.
Cung cấp cho những tài liệu hướng dẫn về công tác bảo tồn và phát huy giá trị
các di tích để cán bộ văn hóa văn hóa cơ sở được tiếp cận, nghiên cứu vận dụng
phù hợp với địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động thuyết minh hướng dẫn
tại các điểm tham quan di tích bằng cách đào tạo, tuyển dụng đội ngũ hướng dẫn
viên du lịch và các thuyết minh viên tại các điểm di tích, đạt yêu cầu cao về
trình độ, ngoại ngữ, cách giao tiếp ứng xử, biết cách tổ chức các sự kiện phục vụ
khách tham quan du lịch.
3.2.6 Gải pháp về tôn tạo, tu bổ, sửa chữa
Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hà Nội và
24


Phòng văn hoá thông tin huyện Thạch Thất trong việc xây dựng đề án bảo tồn,
phát huy giá trị quần thể các di tích lịch sử - văn hóa liên quan đến chùa Tây
Phương. Triển khai thực hiện có hiệu quả đề án phát triển du lịch huyện Thạch

Thất giai đoạn 2016 - 2017, định hướng năm 2020, nhằm phục vụ phát triển
kinh tế , định hướng bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa có trên
địa bàn.
Lồng ghép công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa
với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng mới trên địa bàn huyện
Thạch Thất theo hướng bền vững, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân. Dành một phần nguồn vốn từ ngân sáchhuyện Thạch Thất, nguồn vốn an
toàn khu để tôn tạo, tu bổ, sửa chữa các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn.
3.2.7 Giải pháp về xã hội hoá
Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương để tìm nguồn vốn
đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa. Ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước, tìm nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài
thành phố để tôn tạo, tu bổ, sửa chữa các di tích lịch sử - văn hóa. Vận động các
doanh nghiệp xây dựng công trình trên địa bàn huyện Thạch Thất, doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân hỗ trợ thực hiện công tác tôn tạo, tu bổ, sửa chữa di tích chùa
Tây Phương, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
Huy động nguồn lực trong cộng đồng dân cư, nhân dân cả nước nói chung
và nhân dân huyện Thạch Thất nói riêng để bảo tồn, phát huy giá trị các di tích
lịch sử chùa Tây Phương. Có hình thức khen thưởng xứng đáng những doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân đóng góp tích cực đối với công tác bảo tồn, phát huy
giá trị các di tích. Nâng tầm tổ chức kỷ niệm các ngày lễ, các lễ hội văn hóa
truyền thống cùng các hoạt động văn hóa văn nghệ, hội thi, hội diễn tại chùa Tây
Phương và trên dịa bàn huyện Thạc Thất thành các sự kiện văn hóa du lịch để
thu hút khách tham quan du lịch.

25


×