Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đầu tư ra nước ngoài, luật lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.19 KB, 22 trang )

I.
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
I.1. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài (“ĐTRNN”)
I.1.1. Định nghĩa
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận không chỉ
giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn lan rộng ra thị trường quốc tế. Trong
tương quan với nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam một cách mạnh mẽ, các
doanh nghiệp Việt cũng dần tìm kiếm cơ hội đầu tư ở thị trường ngoài nước.
Tính đến tháng 1/2017, Việt Nam đã có 1.188 dự án đầu tư tại 70 quốc gia và
vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký gần 21,4 tỷ USD và vẫn còn tăng trưởng
mạnh mẽ trong thời gian tới. Triển vọng ĐTRNN hứa hẹn nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn vốn của doanh nghiệp, mang lại nguồn nguyên liệu dồi dào và
những thị trường tiêu thụ rộng lớn; đó cũng là cơ hội để doanh nghiệp tiếp thu
những công nghệ tiên tiến và nâng cao giá trị thương hiệu của mình. Ở góc độ
vĩ mô, ĐTRNN giúp tăng cường và củng cố vị trí của Việt Nam trên trường
quốc tế, là động lực để hội nhập sâu rộng và cải cách thể chế kinh tế cho phù
hợp với xu thế chung của thế giới.
Xét về thời gian, hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam (chủ yếu là
một số doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong công nghiệp chế biến sản xuất
hàng tiêu dùng của một số địa phương tại vùng biên giới với Lào, Campuchia)
đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm đầu thập niên 90 và được điều chỉnh
thông qua các thỏa thuận hợp tác song phương giữa chính quyền địa phương
của các quốc gia. Tại thời điểm này, Việt Nam chưa ban hành văn bản quy
phạm pháp luật cụ thể nào để điều chỉnh hoạt động ĐTRNN. Ngày 14/4/1999,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/1999/NĐ-CP để hướng dẫn và quản lý
hoạt động ĐTRNN (“Nghị định 22”). Theo đó, khái niệm về ĐTRNN được
nêu tại Điều 1.1 Nghị định 22 như sau: “Đầu tư ra nước ngoài của doanh
nghiệp Việt Nam là việc doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản
khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở nước ngoài theo quy định của Nghị
định này”. Một bước ngoặt đáng ghi nhận là đến năm 2005, hoạt động này đã
được luật hóa trong Luật Đầu tư, theo đó: “đầu tư ra nước ngoài là việc nhà


đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước
ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư.
Luật đầu tư 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015) (“Luật đầu tư 2014”) quy
định khá chi tiết các khía cạnh của ĐTRNN nhưng không đề cập đến khái niệm
của hoạt động này. Để hướng dẫn cụ thể, Nghị định 83/2015/NĐ-CP quy định
1


về đầu tư ra nước ngoài (“Nghị định 83) đưa ra khái niệm ĐTRNN như sau:
“ĐTRNN là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán mua một phần hoặc
toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực hiện hoạt động
đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng thời trực tiếp tham gia quản
lý hoạt động đầu tư đó”. Theo định nghĩa này thì ĐTRNN phải gắn liền với
việc trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư – là hoạt động đầu tư trực tiếp
theo định nghĩa của Luật Đầu tư 2014. Tuy nhiên, các hình thức ĐTRNN quy
định tại Luật này lại bao gồm hoạt động mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá
khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính
trung gian khác ở nước ngoài1 - là hoạt động đầu tư gián tiếp. Ngoài ra, việc sử
dụng cụm từ “hoặc thanh toán mua một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh”
tại khái niệm là chưa rõ ràng. Có thể thấy, khái niệm ĐTRNN hiện nay còn
nhiều bất cập cần thiết phải được điều chỉnh trong thời gian tới.
I.1.2. Chủ thể và các hình thức đầu tư ra nước ngoài
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định 83/2015 thì các chủ thể sau có thể tiến
hành hoạt động ĐTRNN:
-

Tổ chức kinh tế thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;

-


Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động theo quy định
tại Luật Hợp tác xã;

-

Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín
dụng;

-

Hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật, cá nhân mang quốc tịch Việt
Nam;

-

Các tổ chức khác thực hiện đầu tư kinh doanh theo quy định của
pháp luật Việt Nam.

Như vậy, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc bỏ
vốn đầu tư ở thị trường ngoài nước đều được pháp luật tạo điều kiện tiến hành
hoạt động ĐTRNNN. Theo quy định tại Điều 52 Luật Đầu tư 2014, nhà đầu tư
thực hiện hoạt động ĐTRNN theo các hình thức sau đây:

1

+

Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu

+


tư;
Thực hiện hợp đồng BCC ở nước ngoài;

Điều 52 Luật Đầu tư 2014

2


+

Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước ngoài

+

để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước
ngoài;
Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ

+

đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài;
Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu
tư.

Trước đó, Luật Đầu tư 2005 không quy định cụ thể về các hình thức ĐTRNN mà
chỉ quy định các lĩnh vực khuyến khích, cấm đầu tư và điều kiện ĐTRNN, cũng
như quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư, thủ tục ĐTRNN. Do sự giới hạn về thời
lượng của chương trình, nên nhóm tác giả chỉ trình bày các quy định về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài theo hình thức thành lập tổ chức kinh tế.

I.1.3. Vai trò của hoạt động ĐTRNN
a) Thứ nhất, đối với quốc gia:
Giúp củng cố vai trò chính trị và vị thế kinh tế của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới;
Giúp nền kinh tế Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, thúc
đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam;
Thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, Việt Nam có thêm nguồn nguyên
liệu, nhiên liệu…phục vụ cho sự phát triển kinh tế trong nước;
Đầu tư ra nước ngoài tạo tiền đề cho hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam
đa dạng và phong phú, hoạt động ngoại giao đi vào chiều sâu;
Đầu tư ra nước ngoài thành công sẽ tác động ngược lại nền kinh tế trong nước
theo hướng thúc đẩy công cuộc cải tổ nền kinh tế: về thể chế chính sách, về thuế,
về thủ tục hành chính, về hệ thống thông tin đối ngoại, về chính sách điều hành
vĩ mô;
Đầu tư ra nước ngoài góp phần tạo đội ngũ thương nhân năng động, có kinh
nghiệm kinh doanh quốc tế, góp phần làm tăng năng lực quốc gia.
Đầu tư ra nước ngoài góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt
Nam theo hướng ổn định và có hiệu quả hơn vì chính cơ sở sản xuất và dịch vụ ở
nước ngoài là điểm đến của hàng hóa, thiết bị, bí quyết công nghệ (y khoa, chế
biến thực phẩm…), nhân công của Việt Nam.
b)
-

Thứ hai, đối với doanh nghiệp:
Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường thế
giới, tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt hơn, nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn;
Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp tăng nội lực kinh doanh: tích lũy
kinh nghiệm trên thương trường quốc tế; học hỏi tiếp thu công nghệ và bí quyết
3



-

-

công nghệ; sử dụng đội ngũ quản lý và khoa học kỹ thuật bản xứ…và áp dụng
những thành công ở nước ngoài vào hoạt động kinh doanh của công ty mẹ trong
nước;
Đầu tư ra nước ngoài giúp các công ty phát triển vốn vô hình của mình: thương
hiệu, công nghệ, bí quyết công nghệ. Ví dụ: thương hiệu cà phê Trung Nguyên,
Phở 24, bệnh viện Châm cứu…;
Đầu tư ra nước ngoài giúp doanh nghiệp có điều kiện phân tán rủi ro kinh
doanh, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thế giới đầy biến động về
kinh tế – chính trị như hiện nay.

Nhìn chung, hoạt động ĐTRNN thể hiện mối quan hệ hữu cơ có lợi cho quốc gia và
cho doanh nghiệp cho nên cần có những giải pháp mang tính chủ động làm cho hoạt
động này phát triển có hiệu quả. Xét từ phương diện kinh tế - hành chính, có thể thấy
những tác động tiêu cực của ĐTRNN như sau:
-

-

II.

Đầu tư ra nước ngoài làm phân tán nguồn lực về tài chính, về con người, làm
giảm bớt khả năng tạo việc làm ở trong nước;
Đầu tư ra nước ngoài tạo ra khả năng cho doanh nghiệp thực hiện ”chuyển giá”
để giảm thiểu mức thuế đóng góp cho toàn bộ hệ thống công ty đóng ở các nước
khác nhau. Nhờ đó mà tối đa hóa lợi nhuận thu được. Và do đó là sự sụt giảm

nguồn thu ngân sách nếu các doanh nghiệp lợi dụng ĐTRNN như một phương
thức để trốn tránh nghĩa vụ tài chính với nhà nước;
Quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài không tốt có thể dẫn tới chảy máu
ngoại tệ, tạo kẻ hở cho hoạt động rửa tiền;
ĐTRNN làm cho hoạt động kinh tế đối ngoại phức tạp hơn, tốn kém hơn;
Đối với doanh nghiệp, ĐTRNN là hoạt động đầu tư phức tạp, nhiều rủi ro như:
sự khác biệt về văn hóa, hình thức pháp luật, tôn giáo, chính trị…

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
Như đã đề cập, hầu hết các tổ chức được thành lập hợp pháp tại Việt Nam và
các cá nhân Việt Nam đều có quyền tự do tiếp cận việc đầu tư tìm kiếm lợi
nhuận ở nước ngoài. Tuy nhiên, để đảm bảo sự quản lý của nhà nước, hoạt
động ĐTRNN cần thiết phải đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các thủ tục pháp lý.
Một cách chung nhất, nhà đầu tư muốn tiến hành hoạt động ĐTRNN trước hết
phải được sự chấp thuận của nhà nước Việt Nam. Tùy thuộc vào quy mô vốn
và/hoặc tính chất của dự án đầu tư mà nhà đầu tư sẽ phải thực hiện thủ tục xin
phê duyệt Chủ trương đầu tư hay thủ tục Đăng ký đầu tư. Sau khi được sự chấp
thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam, nhà đầu tư sẽ tiến
4


hành đăng ký kinh doanh ở cơ quan có thẩm quyền ở nước dự kiến bỏ vốn đầu
tư.
A.
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
II.1. Trình tự, thủ tục cấp phép thực hiện dự án
II.1.1. Thủ tục Quyết định Chủ trương đầu tư
a)
Các dự án cần có Quyết định Chủ trương đầu tư (Điều 54 Luật Đầu tư 2014)
S

T
T

Loại dự án

1

Dự án có vốn đầu tư ra
nước ngoài từ 20.000 tỷ
đồng trở lên.

2

Dự án yêu cầu áp dụng
cơ chế, chính sách đặc
biệt cần được Quốc hội
quyết định.

Thẩm quyền

Quốc hội

Thời hạn cấp phép2

Trong thời hạn 05 ngày làm
việc kể từ ngày nhận được
đủ hồ sơ dự án đầu tư, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư báo cáo
Thủ tướng Chính phủ thành
lập Hội đồng thẩm định nhà

nước;
Trong thời hạn 90 ngày kể từ
ngày thành lập, Hội đồng
thẩm định nhà nước tổ chức
thẩm định và lập báo cáo
thẩm định gồm các nội dung
quy định tại khoản 4 Điều 55
của Luật này;
Chậm nhất 60 ngày trước
ngày khai mạc kỳ họp Quốc
hội, Chính phủ gửi Hồ sơ
quyết định chủ trương đầu tư
ra nước ngoài đến cơ quan
chủ trì thẩm tra của Quốc
hội;
Quốc hội xem xét, thông qua
Nghị quyết về chủ trương
đầu tư ra nước ngoài.

2

Điều 55, 56 Luật Đầu tư và Điều 12 Nghị định 83/2015

5


3

4


Dự án thuộc lĩnh vực
ngân hàng, bảo hiểm,
chứng khoán, báo chí,
phát thanh, truyền hình,
viễn thông có vốn đầu
tư ra nước ngoài từ 400
tỷ đồng trở lên.
Dự án đầu tư không
thuộc trường hợp quy
định tại điểm a khoản
này có vốn đầu tư ra
nước ngoài từ 800 tỷ
đồng trở lên.

Trong thời hạn 03 ngày làm
việc kể từ ngày nhận được
hồ sơ dự án đầu tư, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư gửi hồ sơ
lấy ý kiến thẩm định của cơ
quan nhà nước có liên quan;
Thủ tướng
Chính phủ

Trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được hồ sơ dự án
đầu tư, cơ quan được lấy ý
kiến có ý kiến thẩm định về
những nội dung thuộc thẩm
quyền quản lý;
Trong thời hạn 30 ngày kể từ

ngày nhận được hồ sơ dự án
đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư tổ chức thẩm định và lập
báo cáo thẩm định trình Thủ
tướng Chính phủ;
Trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày nhận được báo cáo
thẩm định của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Thủ tướng Chính
phủ quyết định chủ trương
đầu tư ra nước ngoài.

Bảng trên mô tả về các loại dự án ĐTRNN bắt buộc phải được quyết định Chủ
trương đầu tư và thẩm quyền ra Quyết định này. Nhìn chung, đây là những dự
án có quy mô vốn lớn và có khả năng ảnh hưởng đến nền kinh tế của đất nước
và/hoặc những dự án đầu tư vào những ngành/lĩnh vực đặc biệt như ngân hàng,
báo chí, chứng khoán...là những lĩnh vực mang tính nòng cốt của nền kinh tế.
Chính vì vậy, các dự án này đòi hỏi sự xem xét và đánh giá kỹ lưỡng từ các cơ
quan quản lý nhà nước cũng như các cơ quan chuyên môn để đảm bảo hạn chế
tối đa những rủi ro gây tác động tiêu cực cho nền kinh tế quốc gia.
b)

Hồ sơ để được Quyết định Chủ trương ĐTRNN (Điều 55 Luật Đầu tư 2014)

6


-

Văn bản đăng ký đầu tư ra nước ngoài;


-

Tài liệu xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư: Bản sao chứng minh nhân
dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với nhà đầu tư là cá nhân; Bản sao giấy
chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương đương đối với nhà đầu tư là tổ chức;

-

Văn bản đề xuất dự án đầu tư với các nội dung: mục tiêu, quy mô, hình thức,
địa điểm đầu tư; xác định sơ bộ nguồn vốn, phương án huy động và cơ cấu vốn;
tiến độ dự án, các giai đoạn đầu tư; phân tích sơ bộ hiệu quả của dự án. Đối với
những dự án thuộc lĩnh vực năng lượng; nuôi, trồng, đánh bắt, chế biến sản
phẩm nông, lâm nghiệp, thủy hải sản; khảo sát, thăm dò, khai thác và chế biến
khoáng sản; xây dựng cơ sở sản xuất, chế biến, chế tạo; xây dựng và kinh
doanh bất động sản, cơ sở hạ tầng 3, nhà đầu tư phải nộp các tài liệu sau để cơ
quan có thẩm quyền xác minh về địa điểm thực hiện dự án:
+ Giấy phép đầu tư hoặc văn bản có giá trị tương đương của quốc gia, vùng
lãnh thổ tiếp nhận đầu tư, trong đó có nội dung xác định địa điểm và quy
mô sử dụng đất;
+ Quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
+ Hợp đồng trúng thầu, thầu khoán hoặc hợp đồng giao đất, cho thuê đất; hợp
đồng hợp tác đầu tư, kinh doanh, trong đó xác định rõ địa điểm, quy mô sử
dụng đất;
+ Thỏa thuận nguyên tắc về việc giao đất, cho thuê đất, thuê địa điểm kinh
doanh, thỏa thuận hợp tác đầu tư, kinh doanh của cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền tại quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư.

-


Bản sao một trong các tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư:
báo cáo tài chính 02 năm gần nhất của nhà đầu tư; cam kết hỗ trợ tài chính của
công ty mẹ; cam kết hỗ trợ tài chính của tổ chức tài chính; bảo lãnh về năng lực
tài chính của nhà đầu tư; tài liệu khác chứng minh năng lực tài chính của nhà
đầu tư;

-

Cam kết tự cân đối nguồn ngoại tệ hoặc văn bản của tổ chức tín dụng được
phép cam kết thu xếp ngoại tệ cho nhà đầu tư;

-

Quyết định của nhà đầu tư về việc ĐTRNN. Đối với các dự án đầu tư ra nước
ngoài của doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, Quyết định
đầu tư ra nước ngoài là:

3

Điều 8 Nghị định 83/2015

7


+

Văn bản chấp thuận của cơ quan đại diện chủ sở hữu cho phép nhà đầu tư
thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài, bao gồm các nội dung chủ yếu: Nhà
đầu tư, mục tiêu, quy mô, hình thức, địa điểm đầu tư, tổng vốn đầu tư,
phương án huy động vốn, cơ cấu nguồn vốn, tiến độ thực hiện dự án, các

chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư cần đạt được;

+

Báo cáo thẩm định nội bộ về đề xuất dự án đầu tư ra nước ngoài, làm cơ sở
cho việc chấp thuận của cơ quan đại diện chủ sở hữu.

-

Đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán,
bảo hiểm, khoa học và công nghệ, nhà đầu tư nộp văn bản chấp thuận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về việc đáp ứng điều kiện đầu tư ra nước ngoài
theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật chứng khoán, Luật khoa học
và công nghệ, Luật kinh doanh bảo hiểm.

II.1.2. Thủ tục đăng ký đầu tư
a)

Điều kiện để đăng ký đầu tư (Điều 58 Luật Đầu tư 2014)

-

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp với nguyên tắc của Luật Đầu tư 2014;

-

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài không thuộc ngành, nghề cấm đầu tư kinh
doanh theo quy định của Luật Đầu tư 2014;

-


Nhà đầu tư có cam kết tự thu xếp ngoại tệ hoặc được tổ chức tín dụng được
phép cam kết thu xếp ngoại tệ để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài;
trường hợp khoản vốn bằng ngoại tệ chuyển ra nước ngoài tương đương 20 tỷ
đồng trở lên và không thuộc dự án phải Quyết định Chủ trương đầu tư thì Bộ
Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam;

-

Có quyết định đầu tư ra nước ngoài được ban hành theo các quy định của Luật
Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành;

-

Có văn bản của cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của
nhà đầu tư tính đến thời điểm nộp hồ sơ dự án đầu tư.

b)

Hồ sơ đăng ký đầu tư (Điều 58, 59 Luật Đầu tư và Điều 14 Nghị định 83/2015)

-

Văn bản đăng ký đầu tư ra nước ngoài;
8


-


Tài liệu xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư: Bản sao chứng minh nhân
dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với nhà đầu tư là cá nhân; Bản sao giấy
chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương đương đối với nhà đầu tư là tổ chức;

-

Cam kết tự cân đối nguồn ngoại tệ hoặc văn bản của tổ chức tín dụng được
phép cam kết thu xếp ngoại tệ cho nhà đầu tư;

-

Văn bản của cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của nhà
đầu tư tính đến thời điểm nộp hồ sơ dự án đầu tư;

-

Quyết định của nhà đầu tư về việc ĐTRNN;

-

Đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán,
bảo hiểm, khoa học và công nghệ, nhà đầu tư nộp văn bản chấp thuận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về việc đáp ứng điều kiện đầu tư ra nước ngoài
theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật chứng khoán, Luật khoa học
và công nghệ, Luật kinh doanh bảo hiểm;
-

Đối với những dự án thuộc lĩnh vực năng lượng; nuôi, trồng, đánh bắt, chế biến
sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy hải sản; khảo sát, thăm dò, khai thác và chế
biến khoáng sản; xây dựng cơ sở sản xuất, chế biến, chế tạo; xây dựng và kinh

doanh bất động sản, cơ sở hạ tầng, nhà đầu tư phải nộp các tài liệu sau để cơ
quan có thẩm quyền xác minh về địa điểm thực hiện dự án:
+ Giấy phép đầu tư hoặc văn bản có giá trị tương đương của quốc gia, vùng
lãnh thổ tiếp nhận đầu tư, trong đó có nội dung xác định địa điểm và quy
mô sử dụng đất;
+ Quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
+ Hợp đồng trúng thầu, thầu khoán hoặc hợp đồng giao đất, cho thuê đất; hợp
đồng hợp tác đầu tư, kinh doanh, trong đó xác định rõ địa điểm, quy mô sử
dụng đất;
+ Thỏa thuận nguyên tắc về việc giao đất, cho thuê đất, thuê địa điểm kinh
doanh, thỏa thuận hợp tác đầu tư, kinh doanh của cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền tại quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư.

c)

Thời hạn cấp Giấy Chứng nhận Đăng ký đầu tư
Đối với các dự án cần phải Quyết định Chủ trương đầu tư, thời hạn cấp Giấy
Chứng nhận Đăng ký đầu tư là 05 (năm) ngày làm việc kể từ ngày được cấp
Quyết định Chủ trương đầu tư;
9


Đối với các dự án chỉ cần làm thủ tục đăng ký đầu tư, thời hạn cấp Giấy Chứng
nhận Đăng ký đầu tư là 15 (mười lăm) ngày làm việc kể từ ngày nộp hồ sơ.
II.1.3. Ưu điểm, hạn chế và đề xuất giải pháp đối với thủ tục cấp phép ĐTRNN
a)

Ưu điểm
Thời hạn cấp phép minh bạch, rõ ràng
Quy định trên đã tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp

trong nước khi AEC mở cửa cùng với hàng loạt cam kết mới, quan trọng hơn,
thúc đẩy sự tham gia của nhiều doanh nghiệp tư nhân trong các lĩnh vực mà
Việt Nam muốn thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, mở rộng thị trường.

Loại bỏ thủ tục thẩm tra dự án đầu tư
Sự thay đổi lớn nhất trong trình tự, thủ tục cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư ra nước ngoài chính là việc bỏ thủ tục thẩm tra đối với các dự
án đầu tư ra nước ngoài không thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng
khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có vốn đầu tư dưới 800 tỷ
đồng. Theo đó, để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài,
các dự án này sẽ chỉ cần nộp hồ sơ đăng ký đầu tư ra nước ngoài tới cơ quan
quản lý, mà không phải trải qua quá trình thẩm tra như trước đây. Quy định này
được xem là thông thoáng, đơn giản, minh bạch hơn rất nhiều và tạo thuận lợi
cho nhà đầu tư trong việc đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
b)

Hạn chế

-

Luật Đầu tư 2014 yêu cầu ‘xin chủ trương đầu tư’ đối với các dự án lớn được
quy định trong điều 30, 31, 32 của Luật Đầu tư, theo đó dự án sẽ phải xin chấp
thuận chủ trương đầu tư từ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ. Điều này có nghĩa
là Luật đã thừa nhận chính thức thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tư trong
khi hiện nay việc này chỉ áp dụng không chính thức đối với một số dự án. Việc
thừa nhận thủ tục phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư có thể dẫn đến việc áp
dụng tràn lan thủ tục xin chủ trương đầu tư, dẫn đến nguy cơ nhiều dự án
không thuộc diện xin chủ trương đầu tư cũng xin chủ trương đầu tư. Ngoài ra,
thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tư có thể tạo cơ hội cho những nhà đầu
tư dù năng lực không đủ mạnh cũng đi cửa sau để giữ chỗ cho dự án thông qua

việc “chạy” chấp thuận chủ trương đầu tư, dẫn đến việc cấp dự án sẽ không
minh bạch, tạo cơ hội cho tham nhũng phát triển;
10


-

-

c)
-

-

-

-

-

-

Về thời hạn xét thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư như các Điều 55, 56 là chưa
hợp lý. Gây phiền hà, mất thời gian của nhà đầu tư làm mất cơ hội của nhà đầu
tư ra nước ngoài mà khó khăn họ mới tìm được;
Luật chưa quy định rõ ràng về trách nhiệm của nhà nước trong việc hỗ trợ, tạo
điều kiện cho nhà đầu tư về mặc pháp lý ở nước sở tại. Mà nhà đầu tư phải tự
thân vận động.
Giải pháp
Nên có quy định về việc các cơ quan chức năng, cơ quan đại diện ngoại giao

của của Việt Nam tại nước ngoài hỗ trợ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp
để hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Bởi lẽ, trong
quá trình đầu tư ra nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thường thiếu thông tin
về địa bàn đầu tư, về các quy định pháp lý đầu tư ở nước ngoài…;
Việc cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài chưa được phân cấp, còn tập
trung ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Các doanh nghiệp ở địa phương muốn đầu tư
ra nước ngoài đều phải tốn thời gian đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xin
phép.Vậy, nên có quy định về sự phân cấp cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
hoặc có các phương tiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình xin phép;
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định dưới luật về đầu tư ra nước
ngoài, mô hình quản lý đầu tư ra nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi và
định hướng cho các cá nhân và doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài an toàn và
hiệu quả, đồng thời đáp ứng được nhu cầu quản lý của nhà nước đối với đầu tư
ra nước ngoài trong thời gian tới.
Cải tiến thủ tục hành chính đối với đầu tư ra nước ngoài theo hướng đơn giản
thuận tiện, mở rộng hơn nữa diện các dự án thuộc diện đăng ký, giảm bớt sự
can thiệp bằng các biện pháp hành chính ngay cả đối với các dự án sử dụng vốn
nhà nước, tăng quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp.
Quy định đồng bộ các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài
một cách cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng các biện pháp hỗ trợ về cung cấp
thông tin về môi trường, cơ hội đầu tư nước sở tại, bảo hộ quyền lợi của doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài trong quá trình đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài.
Tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
trong đó quản lý chặt chẽ đối với dòng vốn đầu tư ra nước ngoài có sử dụng
vốn nhà nước, bảo đảm việc sử dụng vốn nhà nước được công khai, minh bạch
và hiệu quả. Các Bộ, ngành liên quan sớm ban hành hoặc trình Chính phủ,
Quốc hội ban hành mới hoặc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành có liên quan đến đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước, bảo đảm có đủ công
cụ và phương tiện để quản lý, giám sát việc đầu tư có hiệu quả các dự án đầu tư
ra nước ngoài có sử dụng vốn đầu tư của nhà nước.

11


-

Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư ra nước ngoài, chú trọng địa bàn truyền
thống, đồng thời có sự quan tâm đúng mức tới các địa bàn tiềm năng;
Tiến tới xóa bỏ thủ tục cấp phép ĐTRNN. ĐTRNN với kết quả là một chủ thể
kinh doanh riêng biệt mang quốc tịch nước ngoài, chịu sự điều chỉnh của pháp
luật nước ngoài nên việc các cơ quan nhà nước kiểm soát về việc đăng ký thành
lập là không cần thiết. Thủ tục này với những quy trình phức tạp là rào cản lớn
nhất khiến cho các nhà đầu tư e ngại mở rộng kinh doanh ra thị trường quốc tế
- vốn là khu vực tiềm năng về doanh thu và lợi nhuận. Đề xuất này được đưa ra
trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia có tỷ lệ vốn đầu tư ra nước
ngoài lớn trên thế giới như Singapore, Hồng Kông, Hoa Kỳ v.v… Cụ thể,
ACRA (Accounting and Corporate Regulatory Authority) – cơ quan chuyên
cấp phép đăng ký kinh doanh của Singapore chỉ quan tâm và kiểm soát các cơ
quan trong lãnh thổ của mình và không chịu trách nhiệm quản lý ĐTRNN.

II.2. Triển khai dự án đầu tư
II.2.1. Thông báo thực hiện dự án đầu tư
Trong thời hạn 60 (sáu mươi) ngày, kể từ ngày dự án đầu tư được chấp thuận
theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải có văn bản
thông báo thực hiện dự án đầu tư kèm theo bản sao văn bản chấp thuận dự án
đầu tư hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật
nước tiếp nhận đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thương
mại, Bộ quản lý ngành kinh tế – kỹ thuật, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi nhà đầu tư đặt trụ sở chính.
II.2.2. Giao dịch trong hoạt động ĐTRNN
Theo quy định tại Điều 63 Luật Đầu tư 2014, giao dịch chuyển tiền từ Việt

Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam liên quan đến hoạt động
ĐTRNN (bao gồm chuyển vốn ra nước ngoài, chuyển lợi nhuận về nước và các
giao dịch tiền tệ khác) phải được thực hiện thông qua một tài khoản vốn riêng
mở tại một tổ chức tín dụng được phép tại Việt Nam và phải đăng ký tại Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
a)
Giao dịch chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài
Điều 64 Luật Đầu tư quy định về việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực
hiện hoạt động đầu tư khi đáp ứng các điều kiện sau:
-

Đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài;

12


-

Hoạt động đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư
chấp thuận hoặc cấp phép. Trường hợp pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư
không quy định về việc cấp phép đầu tư hoặc chấp thuận đầu tư, nhà đầu tư
phải có tài liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư;

-

Có tài khoản vốn theo quy định tại Điều 63 của Luật Đầu tư 2014.
Việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật
về quản lý ngoại hối, xuất khẩu, chuyển giao công nghệ và quy định khác của
pháp luật có liên quan.
Nhà đầu tư được chuyển ngoại tệ hoặc hàng hóa, máy móc, thiết bị ra nước

ngoài để phục vụ cho hoạt động khảo sát, nghiên cứu, thăm dò thị trường và
thực hiện hoạt động chuẩn bị đầu tư khác theo quy định của Chính phủ.

b)

Chuyển lợi nhuận về nước
Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có
giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư,
nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác
từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam. (Trừ trường hợp sử dụng lợi nhuận để đầu
tư ở nước ngoài theo quy định tại Điều 66 Luật đầu tư 2014)
Trong thời hạn 06 tháng kể trên mà chưa chuyển lợi nhuận và các khoản thu
nhập khác về Việt Nam, nhà đầu tư phải có văn bản báo cáo Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thời hạn chuyển lợi nhuận về nước
được gia hạn không quá hai lần, mỗi lần không quá 06 tháng và phải được Bộ
Kế hoạch và Đầu tư chấp thuận bằng văn bản.

II.2.3. Thực hiện chế độ báo cáo đầu tư ra nước ngoài (Điều 20 Nghị định
83/2015/NĐ-CP)
Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư
được cấp tài khoản truy cập Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài để thực hiện chế độ báo
cáo định kỳ theo quy định. Hàng năm, trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày có
báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy
định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư có văn bản báo cáo tình
hình hoạt động của dự án đầu tư kèm theo báo cáo quyết toán thuế hoặc văn
bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận
đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Ngân hàng
13



Nhà nước Việt Nam, Bộ quản lý ngành kinh tế – kỹ thuật và Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh nơi nhà đầu tư đặt trụ sở chính.
Nhà đầu tư có trách nhiệm gửi báo cáo bằng văn bản về tình hình hoạt động
của dự án đầu tư ra nước ngoài theo quy định tại Khoản 3 Điều 72 của Luật
Đầu tư; đồng thời quản lý tài khoản của mình và cập nhật thông tin đầy đủ,
đúng hạn và chính xác vào Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
Trường hợp có sự khác nhau giữa thông tin báo cáo trên Hệ thống thông tin
quốc gia về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước
ngoài và thông tin trong báo cáo bằng văn bản, thì căn cứ theo thông tin trong
văn bản. (Điều 20 Nghị định 83/2015/NĐ-CP).
II.2.4. Điều chỉnh dự án đầu tư
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, nếu nhà đầu tư có nhu cầu điều chỉnh
nội dung của dự án ĐTRNN thì phải thực hiện quy trình và thủ tục điều chỉnh
dự án đầu tư.
a)

Hồ sơ đề nghị điều chỉnh dự án đầu tư

-

Văn bản đề nghị điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài;

-

Tài liệu xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư: Bản sao chứng minh nhân
dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với nhà đầu tư là cá nhân; Bản sao giấy
chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương đương đối với nhà đầu tư là tổ chức;


-

Báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư đến thời điểm nộp hồ sơ điều
chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài;

-

Quyết định điều chỉnh dự án đầu tư ra nước ngoài;

-

Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài;

-

Văn bản của cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế tính đến
thời điểm nộp hồ sơ trong trường hợp điều chỉnh tăng vốn đầu tư ra nước
ngoài.

b)

Thời hạn điều chỉnh dự án đầu tư
Thời hạn điều chỉnh dự án ĐTRNN là 15 (mười lăm) ngày làm việc kể từ ngày
nộp hồ sơ.

II.2.5. Sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài (Điều 65 Luật Đầu tư 2014)
14


Nhà đầu tư sử dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài để

tăng vốn, mở rộng hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải thực hiện thủ tục điều
chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài và báo cáo Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
Trường hợp dùng lợi nhuận thu được từ dự án đầu tư ở nước ngoài để thực hiện
dự án đầu tư khác ở nước ngoài thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục cấp Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài cho dự án đầu tư đó và phải đăng ký
tài khoản vốn, tiến độ chuyển vốn đầu tư bằng tiền với Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
II.2.6. Ưu điểm, hạn chế và giải pháp đối với các quy định về triển khai dự án
ĐTRNN
Về chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài: Nghị định 83/2015 là đã ban hành rõ
các nguyên tắc của việc chuyển vốn (gồm ngoại tệ, hàng hóa, máy móc, thiết
bị) ra nước ngoài trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước
ngoài, nhằm tạo cơ sở triển khai thực hiện cho tất cả các dự án đầu tư ra nước
ngoài. Hạn mức chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được cấp Giấy Chứng
nhận Đăng ký đầu tư ra nước ngoài để đáp ứng các chi phí cho hoạt động hình
thành dự án đầu tư không vượt quá 5% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài và không
quá 300.000 đô la Mỹ, được tính vào tổng vốn đầu tư ra nước ngoài. Như vậy
dù quy định thoáng hơn về việc chuyển vốn khi đầu tư ra nước ngoài, song
Nghị định cũng yêu cầu quản lý, giám sát chặt hơn nguồn tiền này. Chẳng hạn,
trường hợp dự án sau khi được điều chỉnh có vốn đăng ký chuyển ra nước
ngoài bằng ngoại tệ từ 20 tỷ đồng trở lên (tương đương gần 1 triệu USD) thì
phải lấy ý kiến thống nhất với Ngân hàng Nhà nước trước khi cấp Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài, quy định như vậy là để tránh tình trạng nhà
đầu tư lạm dụng quy định pháp luật thông thoáng để chuyển tiền ra nước ngoài.
Ngoài ra, Nghị định 83 quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
trong quá trình triển khai dự án tại nước ngoài, bao gồm: thực hiện nghĩa vụ tài
chính đối với Nhà nước trong trường hợp dự án có lợi nhuận đem về, thực hiện
nghĩa vụ đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài, thực hiện nghĩa vụ thông
báo và báo cáo tình hình hoạt động của dự án theo quy định tại Luật Đầu tư

2014.

II.3. Chấm dứt dự án đầu tư
15


II.3.1. Quy định về việc chấm dứt dự án đầu tư
Điều 62 Luật Đầu tư 2014 quy định những trường hợp chấm dứt dự án đầu tư
như sau:
Dự án đầu tư ra nước ngoài chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau đây:
-

Nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động của dự án;

-

Hết thời hạn hoạt động của dự án đầu tư;

-

Theo các điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, điều lệ
doanh nghiệp;

-

Nhà đầu tư chuyển nhượng toàn bộ vốn đầu tư ở nước ngoài cho nhà đầu tư
nước ngoài;

-


Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra
nước ngoài mà dự án đầu tư không được nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận,
hoặc quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày dự án đầu tư được cơ quan có thẩm
quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận mà dự án đầu tư không được triển
khai;

-

Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
mà nhà đầu tư không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện dự án theo
tiến độ đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước và không thực hiện thủ tục điều
chỉnh tiến độ đầu tư;

-

Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có
giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư
mà nhà đầu tư không có văn bản báo cáo về tình hình hoạt động của dự án đầu
tư;

-

Tổ chức kinh tế ở nước ngoài bị giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp
luật nước tiếp nhận đầu tư;

-

Theo bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài.
Việc hết thời hạn hoạt động của dự án đầu tư theo Điểm b Khoản 1 Điều 62
Luật Đầu Tư 2014 được quy định tại Khoản 2 Điều 25 Nghị định 83/2015/NĐCP : “trường hợp hết thời hạn hoạt động của dự án đầu tư theo quy định của

pháp luật quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư mà nhà đầu tư không làm
thủ tục gia hạn hoặc không được gia hạn hoạt động đầu tư.”

16


Nội dung cụ thể về chấm dứt dự án đầu tư được quy định tại Điều 25 Nghị định
83/2015/NĐ-CP như sau:
-

Đối với trường hợp chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài do nhà đầu tư chuyển
nhượng toàn bộ vốn đầu tư ở nước ngoài cho nhà đầu tư nước ngoài thì trước
khi thực hiện việc chấm dứt dự án và chuyển toàn bộ vốn đầu tư ở nước ngoài
cho nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư phải thông báo với Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.

-

Đối với các trường hợp chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài do nhà đầu tư
chuyển nhượng toàn bộ vốn đầu tư ở nước ngoài cho nhà đầu tư nước ngoài
hoặc quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư mà nhà đầu tư không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện dự án theo
tiến độ đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước và không thực hiện thủ tục điều
chỉnh tiến độ đầu tư mà nhà đầu tư không đề nghị chấm dứt hiệu lực Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư, căn
cứ Luật Đầu tư và Nghị định 83/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước
ngoài, quyết định việc chấm dứt hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra
nước ngoài gửi nhà đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan.

-


Trường hợp nhà đầu tư muốn tiếp tục thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài thì
phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài theo quy định
của Luật Đầu tư và Nghị định 83/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước
ngoài.

-

Đối với các trường hợp chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài do quá thời hạn
12 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý
tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư mà nhà đầu tư
không có văn bản báo cáo về tình hình hoạt động của dự án đầu tư; nhà đầu tư
thanh lý dự án và làm thủ tục chấm dứt hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư ra nước ngoài.

-

Thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài:
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư ra quyết định chấm dứt hiệu lực và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư ra nước ngoài gửi nhà đầu tư, đồng thời sao gửi Bộ Tài chính, Bộ Ngoại
giao, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ quản lý ngành, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
nơi nhà đầu tư đặt trụ sở chính.
17


II.3.2. Đánh giá
Tính minh bạch:
Quy định về chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài quy định tại Điều 62 Luật

Đầu tư 2014 vẫn chưa thực sự đảm bảo tính minh bạch, vẫn còn những từ ngữ
khó hiểu và gây nhầm lẫn, cụ thể: “không có khả năng thực hiện dự án theo
tiến độ đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước”, luật chưa quy định rõ như thế
nào là không có khả năng thực hiện dự án và ai hay cơ quan nào là đơn vị trực
tiếp xác định nhà đầu tư đó có đủ khả năng thực hiện dự án theo đúng tiến độ
hay không. Hay như cụm từ “không được triển khai”, có nghĩa là hoàn toàn
không thực hiện dự án hay mới thực hiện được giai đoạn đầu và không thực
hiện nữa cũng được coi là “không được triển khai”.
Tính thống nhất:
Quy định này không có sự mâu thuẫn với các điều khoản khác trong Luật Đầu
tư, Luật doanh nghiệp cũng như các văn bản pháp luật khác.
-

Tính hợp lý:
Chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài trong trường hợp quy định tại điểm e
khoản 1 Điều 62 LĐT “Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư mà nhà đầu tư không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện dự án theo tiến độ đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước và không
thực hiện thủ tục điều chỉnh tiến độ đầu tư”. Xét về thực tế, kể từ thời điểm
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho đến khi nhà đầu tư có thể triển
khai các dự án xảy ra rất nhiều biến cố và phát sinh, đôi khi xảy ra một vài mâu
thuẫn, chưa thống nhất giữa các bên; chưa kể những dự án với mức đầu tư
khổng lồ và quy mô triển khai vô cùng lớn thì thời hạn 12 tháng đôi khi chưa
giải quyết được những vấn đề phát sinh đó để nhà đầu tư có thể bắt đầu triển
khai dự án.
Bởi những vấn đề nêu trên mà các quy định về chấm dứt dự án đầu tư ra nước
ngoài quy định tại Luật Đầu tư 2014 vẫn chưa thực sự đảm bảo tính khả thi
trong thực tế.

II.3.3. Kiến nghị

Quy định cụ thể hơn về cơ quan hay cá nhân nào có thẩm quyền xem xét tính
“không có khả năng thực hiện dự án”. Trên thực tế nếu các nhà làm luật không
quy định cụ thể thì sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng tranh chấp về việc một nhà đầu
tư có còn có khả năng để tiếp tục thực hiện dự án hay không. Hệ quả của việc
chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài là vô cùng lớn và ảnh hưởng đến rất nhiều
18


cá nhân, đơn vị nên việc quy định về thẩm quyền xem xét trong trường hợp này
là cần thiết.
B.

a)

b)
-

4

ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
Đầu tư gián tiếp được hiểu là việc bỏ vốn để tìm kiếm lợi nhuận thông qua hình
thức góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp nhưng không trực tiếp quản lý,
điều hành hoạt động của doanh nghiệp đó. Như vậy, hoạt động đầu tư ra nước
ngoài dưới hình thức mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác hoặc đầu
tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian
khác ở nước ngoài được xác định là hoạt động đầu tư gián tiếp4.
Hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài được điều chỉnh bởi Nghị định
135/2015/NĐ – CP Quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài (“NĐ
135/2015”).
Chủ thể được thực hiện hoạt động ĐTRNN gián tiếp (Điều 2 Nghị định

135/2015)
Tổ chức kinh tế là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định
của pháp luật Việt Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã và các tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh;
Cá nhân có quốc tịch Việt Nam thuộc đối tượng được tham gia chương
trình thưởng cổ phiếu phát hành ở nước ngoài.
Dễ thấy rằng các chủ thể được thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài hạn chế hơn khá nhiều so với chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư trực
tiếp. Về nguyên tắc, các chủ thể này chỉ được thực hiện hai hình thức đầu tư
gián tiếp ra nước ngoài như sau:
Tự doanh đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là việc tổ chức được phép tự
doanh thực hiện mua, bán chứng khoán và giấy tờ có giá khác ở nước
ngoài hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế
tài chính trung gian khác ở nước ngoài cho chính mình;
Ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là việc tổ chức kinh tế (sau đây
gọi là tổ chức ủy thác) giao vốn bằng ngoại tệ cho tổ chức được phép
nhận ủy thác đầu tư ở trong nước (sau đây gọi là tổ chức nhận ủy thác)
thực hiện đầu tư gián tiếp ra nước ngoài thông qua hợp đồng ủy thác đầu
tư.
Thủ tục đầu tư gián tiếp ra nước ngoài
Mở tài khoản vốn đầu tư ra nước ngoài
Theo quy định tại Điều 11.1 Nghị định 135/2015 thì để đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài, nhà đầu tư phải mở tài khoản ngoại tệ tại 01 (một) ngân hàng thương
mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép cung ứng dịch vụ ngoại hối

Điều 3.1 Nghị định 135/2015

19



-

tại Việt Nam để thực hiện các giao dịch thu, chi liên quan đến hoạt động đầu tư.
Quy định này phù hợp với cơ chế quản lý ngoại hối được ghi nhận tại Pháp
lệnh ngoại hối và các văn bản hướng dẫn về hoạt động ngoại hối hiện hành,
đảm bảo việc quản lý các dòng tiền nước ngoài ra, vào Việt Nam một cách
minh bạch và rõ ràng.
Pháp luật cũng cho phép nhà đầu tư được tự do mở (các) tài khoản bằng ngoại
tệ ở nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, điều kiện được mở
tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài là chỉ sau khi được cơ quan quản lý chuyên
ngành cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, văn bản
chấp thuận cho phép đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, giấy chứng nhận đăng ký
hoạt động nhận ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài và sau khi được Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam xác nhận đăng ký hạn mức tự doanh, hạn mức nhận
ủy thác5.
Thủ tục cấp phép đầu tư gián tiếp ra nước ngoài
Đối với công ty chứng khoán, công ty kinh doanh bảo hiểm, thành phần hồ sơ
đề nghị cấp phép đầu tư gián tiếp như sau (Điều 4, Điều 8 Thông tư
105/2016/TT – BTC Hướng dẫn hồ sơ đầu tư gián tiếp ra nước ngoài của tổ
chức kinh doanh chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm – “Thông tư 105/2016”):
+

Giấy đề nghị cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài;

+

Biên bản họp và nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng
thành viên hoặc Quyết định của chủ sở hữu thông qua việc đầu tư gián

tiếp ra nước ngoài và phương án đầu tư gián tiếp ra nước ngoài;

+

Phương án đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, bao gồm nội dung về quốc
gia dự kiến đầu tư, mức vốn dự kiến đầu tư, nguồn vốn đầu tư, tài sản
dự kiến đầu tư, hiệu quả đầu tư dự kiến và các thông tin khác;

+

Văn bản của cơ quan thuế xác nhận đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài
chính với Nhà nước Việt Nam, không còn nợ thuế với ngân sách nhà
nước tính tới thời Điểm nộp hồ sơ;

+

Quy trình nội bộ về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, bao gồm nội dung về
cơ chế kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, nhận dạng và quản trị rủi ro
liên quan đến hoạt động tự doanh đầu tư gián tiếp ra nước ngoài;

5

Điều 11.3b Nghị định 135/2015

20


+

Bản thuyết minh cơ sở vật chất kỹ thuật của tổ chức kinh doanh chứng

khoán mô tả chi Tiết hệ thống truyền lệnh, hệ thống lưu trữ phục vụ cho
hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài;

+

Bản sao chứng chỉ quốc tế CFA (Chartered Financial Analyst), hợp đồng
lao động, chứng chỉ hành nghề phân tích tài chính (đối với công ty
chứng khoán) hoặc chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ (đối với công ty
quản lý quỹ) của tối thiểu một (01) nhân viên của tổ chức kinh doanh
chứng khoán;

+

Báo cáo về việc tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử
dụng vốn nhà nước (đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán có sở hữu
vốn nhà nước) trong năm liền trước năm nộp hồ sơ.

Đối với quỹ đầu tư, thành phần hồ sơ như sau (Điều 11 Thông tư 105/2016):
+

Giấy đề nghị cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động nhận ủy thác đầu
tư gián tiếp ra nước ngoài theo mẫu quy định tại Phụ lục số 07 ban hành
kèm theo Thông tư này;

+

Quy trình nội bộ về nhận ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, trong
đó có nội dung về nhận dạng và quản trị rủi ro liên quan đến hoạt động
nhận ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài


+

Văn bản của cơ quan thuế xác nhận đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài
chính với Nhà nước Việt Nam, không còn nợ thuế với ngân sách nhà
nước tính tới thời Điểm nộp hồ sơ

+

Bản thuyết minh cơ sở vật chất kỹ thuật của tổ chức kinh doanh chứng
khoán mô tả chi Tiết hệ thống truyền lệnh, hệ thống lưu trữ phục vụ cho
hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài;

+

Bản sao chứng chỉ quốc tế CFA (Chartered Financial Analyst), hợp đồng
lao động, chứng chỉ hành nghề phân tích tài chính (đối với công ty
chứng khoán) hoặc chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ (đối với công ty
quản lý quỹ) của tối thiểu một (01) nhân viên của tổ chức kinh doanh
chứng khoán.

 Bình luận, đánh giá
Hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài được quản lý khá chặt chẽ với những
quy định hướng dẫn bao quát và tương đối đầy đủ (quy định về việc mở tài
21


khoản vốn đầu tư bằng ngoại tệ và việc kiểm soát các tài khoản này thông qua
cơ chế đăng ký; thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài…). Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà theo hướng chủ quan, nhóm tác
giả cho rằng cần thiết phải được điều chỉnh:

-

Việc quy định về thủ tục cấp phép đầu tư ra nước ngoài là một rào cản
không nhỏ cho các nhà đầu tư có ý định đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
Bởi lẽ, cơ chế xin – cho với hàng loạt những quy trình phức tạp, tốn
nhiều thời gian để chuẩn bị hồ sơ và cấp phép gây khó khăn cho nhà đầu
tư trong việc bắt đầu gia nhập thị trường nước ngoài. Theo quan điểm
của nhóm tác giả, việc tiêu giảm và tiến tới xóa bỏ thủ tục này là phù
hợp. Bởi lẽ, cơ quan nhà nước Việt Nam chỉ nên quản lý những hoạt
động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ của mình như cách làm của
nhiều quốc gia trên thế giới. Điều này sẽ giảm lượng công việc mà các
cơ quan hành chính – thủ tục (như Bộ và Sở Kế hoạch đầu tư) đang phải
xử lý; cơ chế quản lý về thuế - tài chính – kế toán chặt chẽ sẽ là duy nhất
để kiểm soát thu nhập từ ĐTRNN nói chung và đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài nói riêng.

-

Bổ sung thêm các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu
tư gián tiếp ra nước ngoài đảm bảo đủ chặt chẽ để kiểm soát hiệu quả
nguồn vốn và lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài.

KẾT LUẬN
ĐTRNN đã, đang và sẽ là nguồn thu lớn cho nền kinh tế, là khu vực tiềm năng để đưa
đất nước bước vào một kỷ nguyên hội nhập trọn vẹn và tăng trưởng vượt bậc. Tuy
nhiên, để thúc đẩy hoạt động này, nước ta cần đơn giản hóa các quy trình, thủ tục
ĐTRNN và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thủ tục này để đảm bảo tạo mọi điều kiện thuận
lợi thúc đẩy ĐTRNN phát triển.


22



×