Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận CHÍNH SÁCH TÁI CÂN BẰNG CHÂU Á DƯỚI THỜI OBAMA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.63 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tầm quan trọng của đề tài:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của các khu vực mang tính địa chiến lược
đang ngày càng được nâng cao khiến các cường quốc liên tục đẩy mạnh các hoạt
động chính trị nhằm gây ảnh hưởng của mình tới các quốc gia khác và các khu
vực, trong đó nước có nhiều động thái mạnh mẽ và “bành trướng” nhất đó là Mỹ.
Có thể nhận thấy, tương quan so sánh lực lượng giữa Mỹ với các cường quốc khác
đang dần thu hẹp, kết hợp với ưu thế về tài nguyên và vị trí địa chính trị ngày
càng quan trọng của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chính quyền Obama
quyết định chuyển hướng trọng tâm chiến lược sang khu vực Châu Á –Thái Bình
Dương, hay còn gọi là “Tái cân bằng” kể từ năm 2009.
Không phải là chuyện tình cờ khi mà chuyến đi ra nước ngoài đầu tiên của
Tổng thống Obama sau khi đắc cử nhiệm kỳ thứ hai, là chuyến đi tại châu Á Thái Bình Dương. Những điều chỉnh của chiến lược “Tái cân bằng” được thể hiện
qua những hoạt động ngoại giao, quân sự, kinh tế, văn hóa. Chính vì thế, chính
sách này có thể đem lại những tác động tốt hay xấu cho mỗi quốc gia hay cho toàn
bộ khu vực phụ thuộc vào vị trí của quốc gia đó trong chính sách của Mỹ có thể
giúp Mỹ thành công với việc “trở lại châu Á” như thế nào. Việc nghiên cứu sâu
chính sách “Tái cân bằng” của chính quyền Obama sẽ giúp ta có cái nhìn khách
quan và tổng quát về tác động của chính sách kể từ năm 2009 tới nay, đồng thời
có thể đưa ra đánh giá mức độ thành công của chính sách tính tới thời điểm này và
dự đoán chiều hướng phát triển của nó.


Bài tiểu luận “Chính sách tái cân bằng châu Á của Hoa Kỳ dưới góc nhìn của
mô hình hệ thống (từ 2009 tới nay)” sẽ giúp người đọc phần nào đánh giá được
điều đó.

2. Nội dung của bài tiểu luận:
Bài luận gồm có 3 phần chính:
Phần I: Tổng quan Chính sách tái cân bằng: cung cấp những thông tin cơ bản


về chính sách “Tái cân bằng Châu Á” của Mỹ.
Phần II: Những nguyên nhân khiến Mỹ điều chỉnh chính sách: trình bày những
yếu tổ trong hệ thông quan hệ quốc tế tác động tới Mỹ buộc nước này phải điểu
chỉnh chiến lược như: sự thay đổi trong tương quan lực lượng, yếu tố khu vực, các
vấn đề toàn cầu.
Phần III: Đánh giá: đưa ra những nhận định về kết quả của chiến lược “Tái cân
bằng”.

3. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu chính sách “Tái cân bằng châu Á” từ năm 2009 tới nay,
chúng em sẽ tiếp cận dưới góc độ hệ thống, tức là đưa ra những nguyên nhân từ
hệ thống quan hệ quốc tế ( bên ngoài nước Mỹ) khiến Mỹ đưa ra chính sách như
vậy.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Bài làm của chúng em sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp với suy
luận logic, đồng thời dựa trên những kết quả nghiên cứu, đánh giá xem yếu tố hệ
thống có tác động đến đâu đối với chính sách. So sánh với mục tiêu ban đầu thì


chính sách này đạt được gì, chưa đạt được gì và dự báo triển vọng của chính sách
hay là những nhân tố sẽ làm thay đổi chính sách…
Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót; chúng
em kính mong cô giáo ghi nhận và góp ý, sửa chữa để hoàn chỉnh hơn nội dung
cũng như đánh giá một cách đầy đủ hơn về đề tài này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn./.

I/ TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH “TÁI CÂN BẰNG” CHÂU Á – THÁI BÌNH
DƯƠNG.


1. Khái quát
Chính sách “Tái cân bằng” châu Á , về bản chất, là sự thay đổi thứ tự ưu
tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ, chuyển trọng tâm chiến lược từ khu vực
Trung Đông sang khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Đây được coi là là biện
pháp mang tính bước ngoặt quan trọng của việc điều chỉnh chiến lược toàn cầu
của Mỹ.
Sự điều chỉnh bắt đầu ngay từ năm đầu của chính quyền Obama, Mỹ lần
đầu tiên tuyên bố công khai về chính sách này là thời điểm Ngoại trưởng Mỹ
Hillary Clinton tuyên bố Mỹ “trở lại châu Á” trong dịp tham dự diễn đàn ARF tại
Bangkok vào tháng 7năm 2009.
Chính sách này đưa ra quan điểm: Sự thành công của khu vực trong thế kỷ
tới và an ninh cùng với sự thịnh vượng của Mỹ trong thế kỷ XXI vẫn còn phụ
thuộc vào sự hiện diện và sự tham gia của Mỹ ở khu vực Châu Á, với những nội
dung như: hình thành các tổ chức và cấu trúc khu vực, thúc đẩy hội nhập kinh tế
trên toàn khu vực, tăng cường và hiện đại hoá liên minh của Mỹ…


2. Biểu hiện trong thực tế,
Về các tuyên bố
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, khi dự hội nghị ARF tại Hà Nội tháng 7
năm 2009, khẳng định Mỹ có “lợi ích quốc gia” trong vấn đề tự do hàng hải trên
Biển Đông. Bà cũng lần lượt đưa ra một loạt khái niệm nhận được sự quan tâm
của mọi người như Mỹ “quay trở lại và thường trú tại châu Á”, “Ngoại giao tiền
duyên”, “Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ”, “Chuyển hướng chiến lược”…
Bộ Quốc phòng Mỹ thì nhân cơ hội này thúc đẩy kế hoạch bố trí quân sự
mới, đồng thời trong “Báo cáo đánh giá về chiến lược quốc phòng mới” chính
thức đưa ra khái niệm “tái cân bằng” khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Khi giải
thích về việc Mỹ và Australia tăng cường hợp tác quân sự, Phó Trợ lý Tổng thống
Mỹ về an ninh quốc gia Ben Rhodes tỏ rõ hành động của Mỹ là “do nhu cầu đến
từ bên trong khu vực”, “các nước trong khu vực này đã bầy tỏ, họ hy vọng sự hiện

diện của Mỹ, và hy vọng tăng cường quan hệ đối tác với Mỹ trên nhiều mặt và
tình hình”.
Về quân sự
Mỹ đã hoán đổi việc bố trí sức mạnh quân sự từ Đại Tây Dương sang
Thái Bình Dương từ tỉ lệ 6/4 sang 4/6. Mỹ dự kiến khi triển khai kế hoạch di
chuyển khoảng 9. 000 lính thủy đánh bộ Mỹ từ Okinawa đến một số địa điểm ở
nước khác trong khu vực theo yêu cầu của kế hoạch. Hiện nay Lầu Năm Góc đang
triển khai kế hoạch di chuyển khoảng 4. 800 lính thủy đánh bộ tới Guam, 2.700
đến Hawaii, 2.500 đến Ôxtrâylia và một số lực lượng khác trở về đóng quân tại
các căn cứ trong nước Mỹ.


Lực lượng Hải quân Mỹ cũng bắt đầu giai đoạn soạn thảo kế hoạch di
chuyển và hoàn tất việc bố trí 60% tổng số tàu chiến của Mỹ ở khu vực châu ÁThái Bình Dương vào năm 2020. Trong khi đó, lực lượng Không quân Mỹ cũng
bắt đầu thực hiện kế hoạch di chuyến các đơn vị không quân từ Ápganixtan đến
khu vực châu Á-Thái Bình Dương gồm các lữ đoàn máy bay ném bom B-l, máy
bay trinh sát không người lái MQ-9 Reaper và U-2, máy bay không người lái
Global Hawk. Còn Lục quân Mỹ sẽ điều động khoảng 91. 000 binh sĩ và nhân
viên dân sự đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương nhằm tăng cường nhân lực và
hỗ trợ 8 toán lữ đoàn chiến đấu, 12 trận địa tên lửa Patriot và các lực lượng khác.
Về kinh tế
Khi vòng đàm phán Doha về thương mại toàn cầu đã chuẩn bị bước sang
năm thứ 12 mà chưa hề có tiến triển, Mỹ tập trung vào Hiệp định Hiệp định Đối
tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Nếu các cuộc đàm phán
TPP có kết quả, Mỹ sẽ mạnh hơn rất nhiều, cả về kinh tế và chính trị, vì thế Mỹ là
nước nỗ lực nhiều nhất để hiệp định này trở thành sự thật.
Có thể thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc Mỹ đưa ra chính sách
“Tái cân bằng châu Á” như yếu tố lãnh đạo của Obama, yếu tố nhà nước nội bộ
chính quyền Mỹ. lợi ích nhóm. . . trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chọn góc
nhìn từ phương pháp hệ thống và sẽ chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài,

từ hệ thống quan hệ quốc tế lí giải cho việc hình thành chính sách này

II. NHỮNG NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG TỚI SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH
SÁCH “TÁI CÂN BẰNG”


1. Sự thay đổi trong tương quan lực lượng
1. 1. Trung quốc trỗi dậy
Trong thập niên đầu thế kỉ XXI, Trung Quốc đang nổi lên như là một cường quốc
chính trị, kinh tế, và có thể coi đây là một trong những “đối thủ” hàng đầu làm
ảnh hưởng tới vị thế của Mỹ hiện nay.
Về Kinh tế
Nền kinh tế Trung Quốc đạt tỷ lệ tăng trưởng hàng năm hơn 9%. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong mấy thập kỷ qua không khác gì một sự
thần kỳ,từ chỗ chỉ chiếm 0,77% GDP toàn cầu năm 1970 đến 6,25% năm 2011
theo số liệu của USDA Reaserch Service năm 20121. Theo thông tin của Hiệp hội
viễn thông liên ngân hàng và tài chính quốc tế (SWIFT), Nhân dân tệ (NDT) của
Trung Quốc đã trở thành loại tiền tệ được sử dụng nhiều thứ hai trong hoạt động
giao dịch tài chính quốc tế (vượt qua đồng euro của châu Âu). Như vậy, đối thủ
ngôi vương cuối cùng của NDT là đồng USD (Mỹ). Hơn nữa, Trung Quốc còn là
nỗi lo thường trực cho nền kinh tế Mỹ bởi là nước dự trữ ngoại tệ - USD lớn nhất
thế giới hiện nay.
Về Quân sự
Cùng với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, tiềm lực quân sự, quốc
phòng của Trung Quóc cũng tăng nhanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Theo
công bố chính thức của Trung Quốc, ngân sách quốc phòng của nước này năm
2012 là 106 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2011 ( trong khi Mỹ giảm 1,2 % ngân
1 USDA Reaserch Service ( 2012), “Ral per capita GDP ( 2005 dollars) historical “ ( 21 March
uơdate).Tại />truy cập ngày 1/1/2014



sách cho Quốc phòng). Những bước tiến về kỹ thuật quốc phòng như đưa người
vào vũ trụ, thử nghiệm tên lửa bắn hạ vệ tinh, phóng phi thuyền lên không gian…
dã đưa Trung Quốc sánh vai với Mỹ và Nga trong lĩnh vực này.
Về Chính trị- Ngoại giao:
Trung Quốc giương cao chủ thuyết “không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau “, dùng nó như một công cụ cưỡng lại chính sách áp đặt của Mỹ. Điều
này làm tăng uy tín và ảnh hưởng chính trị ngoại giao của Trung Quốc trên trường
quốc tế. Trước hết, Trung Quốc nhanh chóng chủ động tham gia các tổ chức đa
phương khu vực và quốc tế, thực hiện ngoại giao nước lớn bằng việc đi đầu thiết
kế các cơ chế hợp tác, luật chơi mới cho khu vực và quốc tế. Trụng Quốc cùng
Nga còn mạnh dạn đề xuất “ quyền rút vốn đặc biệt’( SDR) của Quỹ tiền tệ quốc
tế IMF), thay đồng đô la Mỹ bằng “đồng tiền toàn cầu mới”, điều mà chỉ có các
cường quốc ngang hàng mới dám thể hiện 2 . Chính sách “ngoại giao nhân dân”,
“ngoại giao đường đỏ” ( phản đối, cảnh cáo với nước nào đi ngược lại quyền lợi
của mình) được Trung Quốc sử dụng nhiều hơn gần đấy như: Trung Quốc không
tham dự Hội nghị thượng đỉnh Pháp-Trung sau khi Tổng thống N. Sarkozy gặp gỡ
Đạt Lai Lạt Ma ( 11/2008) , cũng tạo thêm cái uy đối với thế giới.

1. 2. Mỹ yếu đi tương đối
Về kinh tế
Tăng trưởng kinh tế của Mỹ có xu hướng giảm và sự nổi lên của Trung
Quốc, Ấn Độ, Nga, Bra-xin v. v. . đang làm cho thị phần của Mỹ trong tổng GDP
của thế giới suy giảm. Nếu như năm 2000, GDP của Mỹ chiếm 27% của thế giới
2 Tạp chí Cộng sản, “ Thay đổi và …lại thay đổi”
/>

thì năm 2008, con số đó còn khoảng 20%. Cùng với sự yếu đi của đồng USD, sự
thâm hụt tài chính và nợ nước ngoài của Mỹ cũng tăng nhanh.. Nước Mỹ đang trở
thành con nợ nước ngoài lớn nhất thế giới với con số lên tới khoảng 1. 300 tỉ vào

cuối năm 20083.
Về quân sự
Sức mạnh quân sự của Mỹ hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức,
nhất là liên quan đến cuộc chiến chống khủng bố và phổ biến vũ khí hạt nhân.
Cuộc chiến của Mỹ tại Áp-ga-ni-xtan và I-rắc kéo dài gần một thập niên vẫn chưa
kết thúc đang làm hao tổn sức mạnh của quân đội Mỹ 4. Thêm vào đó, cuộc chiến
chống khủng bố do Mỹ phát động đã buộc nước này mở thêm nhiều "mặt trận",
trong đó có việc tái lập và mở thêm một số căn cứ quân sự mới tại Đông Nam Á,
Trung Á, lập Bộ Chỉ huy quân sự châu Phi. . . Cuộc chiến "bất tận" này cũng
khiến Mỹ phải dàn quân ra nhiều chiến tuyến.
Về chính trị - ngoại giao
Về đối ngoại, do quá say sưa với thuyết "Ngoại giao chuyển hoán" và tin
vào sức mạnh dân chủ, tiền bạc và vũ khí nên Oa-sinh-tơn đã can thiệp một cách
máy móc, nhiều khi là thô bạo vào công việc nội bộ của nước khác. Hình ảnh
nước Mỹ đã bị suy giảm qua hàng loạt các vụ việc như: cuộc chiến Iraq, những
hình ảnh ngược đãi tù nhân tại nhà tù Goan-ta-na-mô, đặt máy nghe trộm và hạn
3 Fareed Zakaria: The Futurre of American Power: How America can Survive of the Rise of the
Rest (Foreign Affais, May/June 2008); Obama hứa đưa nước Mỹ thoát khỏi những ngày đen tối,
Báo điện tử VnExpress, ngày 25-2-2009; http://www. tinkinhte. com, ngày 14-4-2010
4 Tại I-rắc, sau 5 năm (2003 - 2008) chiếm đóng và bình định, Mỹ đã tiêu hao khoảng 300 triệu
USD /ngày, đó là chưa kể hơn 4. 000 quân Mỹ bị thiệt mạng và gần 30. 000 lính Mỹ bị thương


chế quyền công dân, gia tăng can thiệp nhiều vào công việc nội bộ của nước khác,
ủng hộ các cuộc "cách mạng màu”. . .
Ảnh hưởng của nước Mỹ tại “sân sau” Mỹ La-tinh cũng bị suy giảm bởi sự
nổi lên của làn sóng "cánh tả" mà "ngọn cờ đầu" là Vê-nê-xu-ê-la với hỗ trợ đắc
lực về chính trị, tư tưởng của Cu-ba. Các nước khác như Bra-xin, Chi-lê, Mê-xicô. . . ngày càng trở nên độc lập hơn với Mỹ. Ngoài ra, sự suy giảm ảnh hưởng
của Mỹ còn được thể hiện khá rõ trên các diễn đàn quốc tế, như ASEAN, APEC,
và nhất là tại Liên hợp .

1. 3. Các đồng minh truyền thống: Nhật Bản, Hàn Quốc
Nhật Bản
Trong vấn đề Senkaku/Điếu Ngư, Nhật tỏ rõ thái độ rất kiên quyết đối với
những hành động hiếu chiến của Trung Quốc trong tranh chấp đảo Senkaku / Điếu
Ngư. Các hòn đảo thuộc quần đảo đều có ý nghĩa trong Hiệp ước An ninh Mỹ Nhật và quân đội Hoa Kỳ thể theo hiệp ước sẽ bảo vệ những hòn đảo trên nếu có
sự xâm lược. Như vậy trong xung đột này Mỹ không thể đứng ngoài mà sẽ can
thệp để đảm bảo những lợi ích của mình trong khuôn khổ Hiệp ước An ninh Mỹ Nhật. Nhật Bản sẽ là một nhân tố “cầu nối” để Mỹ thể hiện sự phản đối của mình
với việc bành trướng của Trung Quốc ở khu vực. Bởi Nhật Bản sẵn sàng thay đổi
tất cả để đáp ứng những đòi hỏi và thách thức mới từ phía Trung Quốc, và khi đó
đồng minh truyền thống Mỹ-Nhật sẽ là một đối trọng không hề nhỏ.
Hàn Quốc
Hàn Quốc đã thực thi chiến lược hai mặt giữa Trung Quốc và Mỹ, để Hàn
Quốc có thể duy trì được mối quan hệ mật thiết và hữu hảo với cả Mỹ và Trung
Quốc. Chính phủ Hàn Quốc đã coi quan hệ Trung- Hàn là mối quan hệ song


phương quan trọng song song với liên minh an ninh Mỹ-Hàn. Đặc biệt trong vấn
đề bán đảo Triều Tiên, Hàn Quốc rất coi trọng ảnh hưởng của Trung Quốc, và xem
như là đối tác hợp tác và là kênh quan trọng nhất giúp Bắc Triều Tiên và Hàn
Quốc tiếp xúc với nhau. Mới đây, vào 8/9/2013, cặp liên minh Hàn Quốc và Mỹ
đã hoàn thành một bản dự thảo kế hoạch quân sự chung, phác thảo những biện
pháp đối phó với mối đe dọa hạt nhân của Triều Tiên, trong nỗ lực chung nhằm
giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo này.

1. 4. Đông Nam Á
Đông Nam Á hiện là khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới, đồng
thời bản thân các nước trong khu vực đang ngày càng phát triển trên các mặt.
Cùng với vị trí địa chiến lược cốt yếu, đặc biệt là trong việc kiểm tỏa Trung Quốc
ở phía Nam, thì khu vực Đông Nam Á thực sự là một nơi mang tính trọng yếu
trong chính sách tái cân bằng của Mỹ.

Khu vực này có những ưu thế để đảm bảo cho chính sách “trở lại” của Mỹ
đạt được mục tiêu. Đông Nam Á sở hữu 4 trong tổng số 16 tuyến hang hải trọng
yếu của thế giới. Xét về tư cách đối tác song phương, Đông Nam Á bao gồm 17
quốc gia độc lập có vai trò quốc tế đáng kể như In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pinvà Thái
Lan là hai đồng minh ngoài NATO của Mỹ. Thêm vào đó, Đông Nam Á đang trở
nên hấp dẫn hơn về mặt kinh tế. Các nước thuộc khu vực này đang có chính sách
đẩy mạnh chi phí về quân sự nhằm nên đây quả thực là “một thị trường” quân sự
cho Mỹ thực hiện mục đích của mình.
Tóm lại, sự thay đổi về tương quan lực lượng giữa các chủ thể quốc gia,
khu vực so với Mỹ đã buộc nước này có sự điểu chỉnh chiến lược. Tựu chung lại,


nếu Mỹ thực hiện tốt những bước đi đã được vạch ra trong khu vực thì đó quả là
một lợi thế lớn để Mỹ có thể kiềm chế được sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu
vực.

2. Yếu tố khu vực
2. 1. “Mắc kẹt” ở Trung Đông.
Kể từ sau sự kiện 11/9, Mỹ đã tăng cường sự hiện diện của mình ở khu
vực Trung Đông với mục tiêu đạt được một giải pháp chính trị nhằm tránh việc tái
lập vùng đất thánh của các tổ chức khủng bố thông qua các biện pháp chính trị dài
hơi và tốn kém. Tới nay, tiến trình hòa bình Trung Đông vẫn không đạt được như
mong muốn của Mỹ, và nước này đang “sa lầy” ở đây với sự hao tiền tốn của cho
quân đội và các hoạt động ngoại giao được thể hiện ở hai mặt:
Thứ nhất, cuộc chiến của Mỹ gây ra tai khu vực Trung Đông đã làm cho
làn sóng chống Mỹ của người Hồi giáo dâng cao. Nhiều tổ chức Hồi giáo cực
đoan ra đời, thể hiện rõ quyết tâm trả thù cho người dân I-rắc và Palextin.
Thứ hai, vào năm 2002, Mỹ đưa ra Chương trình sáng kiến đối tác Mỹ Trung Đông (MEPI) nhấn mạnh tới cải cách kinh tế, chính trị, giáo dục ở Trung
Đông, trị giá lên tới 29 triệu USD như: chi tiền hỗ trợ cho cải cách chính trị, ủng
hộ bầu cử ở Giooc-đa-ni, Cô-oet, Maroc… Trong giáo dục, Mỹ chi tiền cho cải

cách mang tính toàn khu vực như Chương trình giáo dục công dân thế giới của Ảrập. Trong cải cách kinh tế như Chương trình hỗ trợ phát triển luật thương mại và
Hỗ trợ kỹ thuật cải cách nợ thương mại của An-giê-ri. Thêm vào đó, Mỹ còn phụ
thuộc vào khu vực này về dầu mỏ. Hàng năm, nhập khẩu dầu lửa chiếm tới ¼
thâm hụt thương mại của Mỹ.


Chính những vấn đề liên quan tới khu vực Trung Đông khiến Mỹ không
còn quá chú trọng vào khu vực này nữa, mà đang chuyển dần trọng tâm sang châu
Á- Thái Bình Dương, vừa là nơi để kiềm chế được những đối thủ của mình, lại
vừa có nun tài nguyên dầu mỏ dồi dào – một nơi đảm bảo cho thế và lực của Mỹ
trong thế kỉ mới.
2. 2. Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực phát triển năng động nhất
Dự báo thế kỷ XXI được coi là kỷ nguyên châu Á – Thái Bình Dương. Sự
trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Ấn Độ cùng với Mỹ được xem là những nhân
tố quan trọng hàng đầu để nói đến điều đó.
Bước sang thế kỷ XXI, khu vực châu Á-Thái Bình Dương có những thay
đổi mang tính căn bản: Thứ nhất, sức mạnh chính trị và tốc độ phát triển kinh tế
của khu vực này tăng lên nhanh chóng so với các khu vực khác trên thế giới. Thứ
hai, sự trỗi dậy của Trung Quốc một mặt đã đem đến cơ hội để kinh tế các nước
xung quanh phát triển, mặt khác lại làm cho họ cảm thấy e ngại và lo lắng trước
sự cạnh tranh gay gắt thậm chí là sự lấn át trên nhiều phương diện. Thứ ba, các
quốc gia sở hữu hạt nhân ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương không ngừng tăng
lên, sự theo đuổi của các tổ chức phi chính phủ đối với vũ khí hủy diệt hàng loạt
và việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mỹ ở khu vực này, đều
có khả năng dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương
thêm gay gắt. Thứ tư, cơ chế hợp tác đa phương khu vực không ngừng tăng làm
cho khả năng xuất hiện nhất thể hóa khu vực cũng có phần tăng lên, cho dù để
điều đó trở thành hiện thực còn là câu chuyện của tương lai.
Vị trí địa chiến lược quan trọng của khu vực châu Á – Thái Bình Dương
càng khiến Mỹ đề cao khu vực này trong chính sách của mình, đây là khu vực



mang những “lợi ích cốt lõi của Hoa Kỳ”. Thêm vào đó, nếu có sức ảnh hưởng
lớn trong khu vực này, tức là Mỹ đã có lợi thế chi phối rất lớn tới các cường quốc
khác liên quan tới khu vực đó là: Nga, Trung Quốc và Ấn Độ.
2. 3. EU khủng hoảng nợ công
Nợ công Châu Âu, cho đến nay, mặc dù nhiều cuộc họp đã được triển
khai, nhiều biện pháp đã được tung ra, nhưng cho đến nay, các nhà lãnh đạo EU
vẫn chưa thể chữa khỏi căn bệnh thâm hụt ngân sách. Càng ngày, sức hấp dẫn của
EU càng suy giảm trong mắt của các nhà đầu tư, trong đó có Mỹ. Rõ ràng, sự thất
bại trong những mục tiêu củng cố sức mạnh kinh tế đã khiến mối ngờ vực và
hoang mang về tính bền vững của EU ngày một lớn hơn. Điều này kết hợp với
mối quan hệ thương mại Mỹ - EU vốn đã không suôn sẻ đã khiến Mỹ cần tìm cho
mình một thị trường mới, và chính phủ Hoa Kỳ đã lựa chọn khu vực đầy tiềm
năng: châu Á – Thái Bình Dương. Đồng thời đây cũng là khu vực xuất hiện rất
nhiều khoảng trống quyền lực để Mỹ có thể “chen chân vào” ở cả lĩnh vực kinh tế
lẫn chính trị.
Nói tóm lại, ba yếu tố: vị thế ngày càng quan trọng của khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương, cùng với những vấn đề đau đầu Mỹ gặp phải tại khu vực Trung
Đông, thị trường EU có đầy rẫy những khó khăn, bất an và “hiểm nguy” từ vấn đề
nợ công, tất cả đã khiến khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là sự lựa chọn tốt
nhất cho chiến lược phát triển ảnh hưởng và củng cố vị thế của Mỹ. Do đó, chính
sách “tái cân bằng” châu Á – Thái Bình Dương quả thực là một chiến lược phục
vụ lợi ích lâu bền của Mỹ khi mà các “sân chơi” khác đã khiến Mỹ “không còn
hứng thú”.
3. Do các vấn đề khu vực và toàn cầu


3.1. Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên.
Kể từ khi rút khỏi hiệp ước chống phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) vào

ngày 10/1/2003, Triều Tiên đã liên tục có những động thái liên quan đến chương
trình phát triển vũ kí hạt nhân của mình kiến Mỹ rất lo ngại. Sau một loạt các
hành động tỏ ý ngừng hoạt động hạt nhân để đổi lấy viện trợ từ Mỹ cũng như
những thái độ tích cực từ các cường quốc ở châu Á, tham vọng hạt nhân của Triều
Tiên vẫn không hề nguôi. Những động thái từ phía Triều Tiên khiến Mỹ thực sự lo
ngại cho an ninh của mình và ảnh hưởng tại khu vực.
Công cụ chủ yếu mà Mỹ sử dụng đó là vòng đàm phán 6 bên về vấn đề hạt
nhân của Triều Tiên gồm: Mỹ, Nga, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, và
Hàn Quốc từ năm 2003. Ngoài ra Mỹ còn liên tục có những tuyên bố đơn phương,
hay những hoạt động từ song phương và đa phương nỗ lực nhằm chấm dứt
chương trình hạt nhân trên bán đảo này. Thêm vào đó, Mỹ vẫn tiếp tục thúc đẩy
vòng đàm phán 6 bên nhằm ngăn chặn việc Triều Tiên tiếp tục chương trình vũ
khí hạt nhân đe dọa tới an ninh và vị thế của nước Mỹ.
3. 3. Vấn đề Đài Loan:
Đài Loan là căn cứ quân sự quan trọng có giá trị chiến lược lớn, đặc biệt
quan trọng với Mỹ. Hòn đảo này luôn là nỗi lo cho đổi thủ của Mỹ, đó là Trung
Quốc. Với Trung Quốc, vấn đề Đài Loan là vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Bên
cạnh ý nghĩa không nhỏ về kinh tế, hòn đảo này còn là cửa ngõ để tiến vào Thái
Bình Dương để kiểm soát các khu vực Đông Á và Tây Nam Thái Bình dương. Về
mặt chính trị thì việc thu hồi Đài Loan sẽ là điểm cuối cùng để nước nhà được
thống nhất, góp phần củng cố hơn nữa vai trò lãnh đạo. Hơn nữa, nếuTrung Quốc


buông Đài Loan thì sẽ tạo thành một tiền lệ để các vùng khác, như Tây Tạng và
Tân Cương đòi ly khai.
Với việc Trung Quốc đang ngày càng trỗi dậy và đe dọa vị trí bá quyền
của Mỹ cùng với sự “nhạy cảm” trong vấn đề Đài Loan nói trên, Mỹ coi Đài Loan
là quân cờ chiến lược để ngăn chặn Trung Quốc, là một bộ phận trong vành đai an
ninh Thái Bình Dương của Mỹ giúp ngăn chặn các hoạt động quân sự mang tính
“thiếu kiểm soát” từ Bắc Kinh, chẳng hạn các hoạt động tranh chấp lãnh thổ tại

khu vực Biển Đông với một số nước Đông Nám Á. Mỹ còn sử dụng Đài Loan để
phân hóa giới cầm quyền ở Trung Quốc, muốn Đài Loan trở thành một hình mẫu
điển hình cho “nền dân chủ kiểu Mỹ” và các giá trị phương Tây ở châu Á.
3. 4. Vấn đề biển Đông.
Lợi ích của Mỹ tại biển Đông nằm trong lợi ích đa dạng và trải rộng của
Mỹ tại châu Á Thái Bình Dương với tư cách là một cường quốc khu vực và toàn
cầu. Khu vực biển Đông có những lợi ích liên quan mật thiết tới vị thế và sự phát
triển của Mỹ đó là:
Lợi ích về tự do hàng hải: Một phân tích của Mỹ nhận định: “Mối đe dọa
đối với tự do hàng hải qua biển Đông sẽ phá vỡ nghiêm trọng đến kinh tế khu vực.
Sự tăng trưởng của kinh tế và an ninh của Mỹ phụ thuộc vào việc duy trì tự do
hàng hải với cả tàu buôn và tàu quân sự”5.
Lợi ích về kinh tế, thương mại: Biển Đông được xác định là một trong 10
vùng biển có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới 6. Dù Mỹ đã phát triển các nguồn

5Ralph A. Cossa, “Security Implications of Conflict in the South China Sea: Exploring Potential
Triggers of Conflict”, A Pacific Forum CSIS, tháng 3/1998, tr. 7.
6 Phạm Thùy Trang, Lợi ích của Mỹ ở biển Đông, Nghiên cứu biển Đông,
http://nghiencuubiendong. vn/nghien-cuu-vietnam/652-li-ich-ca-m-bin-on


năng lượng thay thế nhưng dầu mỏ đến nay vẫn là nguồn năng lượng tiêu thụ
chính của Mỹ, nên Mỹ vẫn cần nguồn năng lượng tại biển Đông.
Lợi ích quân sự: Biển Đông là tuyến đường giao thông quan trọng trong
hệ thống phòng thủ của Mỹ nhằm đối phó với các thách thức an ninh truyền thống
và phi truyền thống như chống hải tặc và khủng bố, đặc biệt tại eo biển Malacca.
Mỹ đã đưa ra “Sáng kiến an ninh hàng hải khu vực” hồi tháng 4/2004 nhằm phát
triển quan hệ đối tác với các nước trong khu vực có khả năng kiểm soát và ngăn
chặn các mối đe dọa hàng hải thông qua luật quốc tế và trong nước 7. Đồng thời,
Mỹ cũng duy trì các căn cứ quân sự tại Nhật Bản và Philippin nhằm thực hiện

nhiệm vụ bảo vệ đồng minh Nhật Bản và Philippin, từ đó củng cố lợi ích và khẳng
định vị thế của Mỹ ở biển Đông. Có thể nói, Mỹ điều chỉnh chính sách “từ Tây
sang Đông” chính là do muốn bảo vệ những lợi ích cốt lõi của mình ở biển Đông.
Với vấn đề tranh chấp ở biển Đông:
Về vấn đề này, Mỹ thực sự quan tâm tới khu vực này bởi những lợi ích và
ưu thế mà khu vực này có. Ngoài ra, nếu trong vấn đề biển Đông mà Trung Quốc
có được lợi thế, tức là những lợi ích của Mỹ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trung
Quốc có được ưu thế trên biển Đông tức là chính Mỹ mới là nước bị kiềm chế ảnh
hưởng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain
trong bài viết “Tại sao châu Á muốn nước Mỹ?” đăng trên tạp chí The Diplomat
ngày 22/5/2012 tỏ rõ quan điểm: “Mỹ không có tuyên bố chủ quyền ở khu vực
tranh chấp này và chúng ta không nên đứng về phía nào cả. Tuy nhiên, khu vực
tranh chấp này nằm ngay tâm điểm lợi ích của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương,
…”. Có thể nói, tuyên bố này đã đánh dấu sự chuyển biến trong thái độ của Mỹ

7 Thanh Hằng, Eo biển không bình yên, http://www. sggp. org. vn/hosotulieu/2006/8/56678/


đối với vấn đề Biển Đông, từ “trung lập” sang “can dự”. “Can dự” ở đây cũng
chính là nhằm tăng cường địa vị lãnh đạo của Mỹ trong khu vực cũng như trong
quan hệ quốc tế.
III. ĐÁNH GIÁ
Như vậy, có thể khẳng định rằng, yếu tố hệ thống đã có tác động rất lớn
đối với chính sách tái cân bằng của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Việc lí giải chính sách tái cân bằng dưới góc độ hệ thống quan hệ quốc tế, trong
đó phân tích những yếu tố bên ngoài nước Mỹ, đã cho thấy tầm quan trọng rất lớn
của các yếu tố khách quan trong việc hoạch định chính sách, hơn là chỉ tập trung
vào yếu tố trong nước (yếu tố cá nhân lãnh đạo, nội bộ nhà nước, lợi ích nước Mỹ,
lợi ích nhóm…), từ đó càng cho thấy được Mỹ đã có sự thay đổi lớn trong chính
sách của mình. Yếu tố hệ thống góp phần làm đảm bảo tính khách quan trong

chính sách này, từ đó cũng đem lại những tác động tích cực trở lại với Mỹ nói
riêng và khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung. Việc Mỹ can dự vào khu
vực này đã giúp Mỹ xích lại gần các đồng minh của mình hơn (Hàn Quốc, Nhật
Bản, Thái Lan, Philippines…) trong an ninh – quân sự, bên cạnh đó còn mang lại
cho Mỹ những cơ hội lớn trong đầu tư xuất khẩu hàng hóa vào các nước trong khu
vực này; việc Mỹ tích cực tham gia các hoạt động ở châu Á – Thái Bình Dương,
trên mức độ nhất định sẽ đóng vai trò tích cực đối với việc giữ gìn ổn định khu
vực, ngăn ngừa xung đột vũ lực và phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, thúc đẩy
hợp tác chống khủng bố và thúc đẩy cơ chế hợp tác phát triển kinh tế giữa các
nước với nhau. Đây cũng chính là một tác động tích cực của yếu tố hệ thống trong
hoạch định chính sách này của Mỹ.
KẾT LUẬN


Ta có thể thấy, chính sách “Tái cân bằng” châu Á – Thái Bình Dương của
Mỹ đã có tác động lớn tới các thành viên trong khu vực, cũng như tình hình chung
của toàn bộ khu vực. Dưới góc nhìn của phương pháp tiếp cận hệ thống, chúng ta
có thể nhận ra được những yếu tố bên ngoài nước Mỹ đã có tác động lớn như thế
nào tới sự điều chỉnh chính sách này. Và với chiều ngược lại, chính sách này cũng
đem lại cho khu vực những cơ hội, những sự đảm bảo, nhưng cũng là trở ngại,
khó khăn. Những cơ hội, sự đảm bảo là ở chỗ, để đạt được mục tiêu chính sách
của mình, Mỹ buộc phải gây ảnh hưởng tới các nước trong khu vực trên các
phương diện kinh tế, ngoại giao, quân sự… Điều này có nghĩa đây cũng là một cơ
hội lớn để các nước có thể mở rộng hợp tác với Mỹ để phát triển kinh tế, quốc
phòng… Hơn nữa, sự hiện diện của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương
cũng là nhân tố chính đảm bảo cho khu vực khỏi những xung đột vũ trang hay
chiến tranh nóng, kiềm chế sự “bành trướng” của Trung Quốc. Trở ngại mà chính
sách này đem lại đó chính là sự hiện diện quá lớn của Mỹ ở khu vực thông qua
các diễn đàn, tổ chức, các vụ tranh chấp sẽ khiến cho các nước bị chi phối, phụ
thuộc quá nhiều vào Mỹ, tạo điều kiện và cơ sở để Mỹ thực hiện tư tưởng “bá

quyền” của mình.
Để có thể hiểu thật sâu sắc và tổng quát nhất về chính sách “tái cân bằng”
châu Á- Thái Bình Dương của Mỹ, chúng ta cần xem xét dưới nhiều góc nhìn hơn
nữa (yếu tố nhà lãnh đạo, yếu tố nhà nước, yếu tố lợi ích nhóm…). Với góc nhìn
hệ thống, ta có thể xem xét được những yếu tố khách quan tác động tới quyết sách
này như thế nào. Qua những điều kiện khách quan đó, ta cũng hiểu được phần nào
cục diện thế giới đương đại, cũng như ý đồ của một siêu cường hàng đầu thế giới


hiện nay, để từ đó có những phán đoán khách quan đối với các sự kiện diễn ra
trong đời sống quốc tế hiện nay.
Trong tương lai gần, chính sách “tái cân bằng” của Mỹ ở châu Á vẫn còn
là chính sách chủ đạo của nước này nhằm củng cố và đảm bảo cho vị thế và ảnh
hưởng của Mỹ trên trường quốc tế, và cũng là một trong những nhân tố chính chi
phối đời sống chính trị thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS.Đỗ Đức Thịnh (2008), Trung Đông – Những vấn đề và xu
hướng kinh tế -chính trị trong bối cảnh quốc tế mới, Nxb. Khoa học
xã hội, năm 2008.
2. PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp (Chủ biên) (2012), Một số vấn đề
chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
3. PGS, TS. Nguyễn Thái Yên Hương (Chủ biên) (2011), Quan hệ Mỹ Trung hợp tác và cạnh tranh luận giải dưới góc độ cân bằng quyền
lực, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. TTXVN (Tài liệu tham khảo đặc biệt), năm 2013. “Tái cân bằng”
châu Á-Thái Bình Dương: giảm tốc để sửa sai?”, Tạp chí “Nghiên
cứu các vấn đề quốc tế”, Trung Quốc, số 2/2013.
5. Trần Khánh (2009). “Sự nổi lên của Trung Quốc trong tương quan

Quyền lực với Mỹ ở Đông Á”, Tạp chí NCQT số 4 năm 2009
6. USDA Reaserch Service ( 2012), “Ral per capita GDP ( 2005
dollars) historical “ (21 March


update).Tại truy cập ngày 1/1/2014
7. Tạp chí Cộng sản, “ Thay đổi và …lại thay đổi”
/>Object=20954872&news_ID=8935330 truy cập ngày 1/1/2014
8. Hồng Hạnh, “Châu Á – Thái Bình Dương, điểm sáng của thế giới”,
Nhân dân, tại địa chỉ:
/>inhtulieu/item/477002. html ( truy cập ngày 28/12/2013)
9. Thanh Sang, “Nợ công Châu Âu và tính bền vững của EU”, Đài phát
thanh – truyền hình Vĩnh Longg, tại địa chỉ: http://thvl. vn/?
p=294205 (truy cập ngày 23/12/2013);
10. Thanh Tùng, “ Bão nợ công: Châu Âu “hắt hơi”, thế giới “sổ mũi”,
Cổng thông tin chính phủ, tại địa chỉ: http://baodientu. chinhphu.
vn/Home/Bao-no-cong-chau-Au-hat-hoi-the-gioi-somui/20127/143806. vgp (truy cập ngày 25/12/2013)
11. Ninh Thị Thanh Hà, “Khủng hoảng nợ công Châu Âu”, Nghiến cứu
quốc tế, tại địa chỉ: http://nghiencuuquocte. net/2013/12/03/91khung-hoang-no-cong-chau-au/ (truy cập ngày 27/12/2013)
12. (Tạp chí “Nghiên cứu các vấn đề quốc tế”, Trung Quốc, số 2/2013)
13. http://www. anninhthudo. vn/Quoc-phong/My-Han-vach-ke-hoachran-de-hat-nhan-Trieu-Tien/514850. antd
14. http://tuoitre. vn/The-gioi/588127/dau-nam-binh-nhuong-doa-chientranh-hat-nhan-voi-my. html
15. http://tuoitre.
vn/The-gioi/581336/my-keu-goi-chdcnd-trieu-tiendam-phan-hat-nhan. html


16. Phạm Thùy Trang, Lợi ích của Mỹ ở biển Đông, Nghiên cứu biển
Đông, http://nghiencuubiendong. vn/nghien-cuu-vietnam/652-li-ichca-m-bin-on
17. Thanh Hằng, Eo biển không bình yên, http://www. sggp. org.
vn/hosotulieu/2006/8/56678/

18. Ralph A. Cossa, “Security Implications of Conflict in the South
China Sea: Exploring Potential Triggers of Conflict”, A Pacific
Forum CSIS, tháng 3/1998, tr. 7.



×