Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC RD TRONG KIẾN TẠO THIẾT CHẾ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP VIỆN CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG VÀ TRUNG TÂM TƯ VẤN VÀ CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
-------------------------------------

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC R&D TRONG KIẾN TẠO THIẾT CHẾ QUẢN
LÝ MÔI TRƯỜNG VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG (NGHIÊN CỨU
TRƯỜNG HỢP VIỆN CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG VÀ TRUNG TÂM
TƯ VẤN VÀ CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG)

Hà Nội - 2015

1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................6
1.Tên đề tài.................................................................................................................... 6
3.Lịch sử nghiên cứu......................................................................................................8
4. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................10
5.Phạm vi nghiên cứu..................................................................................................10
6.Mẫu khảo sát.............................................................................................................11
7.Câu hỏi nghiên cứu...................................................................................................11
8.Giả thuyết nghiên cứu...............................................................................................11
9.Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................11
10. Cấu trúc của đề tài..................................................................................................12
NỘI DUNG..................................................................................................................13
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ
CHỨC R&D VỚI THIẾT CHẾ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VÌ SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG.................................................................................................................13
1.1.Hoạt động R&D và các khái niệm có liên quan.....................................................13


1.1.1. Nghiên cứu khoa học (Scientific research - R)...........................................13
1.1.2. Triển khai (Development - D)....................................................................15
1.1.3. Giáo dục và đào tạo KH&CN tương đương bậc 3......................................16
1.1.4. Dịch vụ KH&CN.......................................................................................16
(ix) Các hoạt động liên quan đến bằng sáng chế và li xăng là hệ thống công việc có
có tính khoa học, tính pháp quy và tính hành chính về bằng sáng chế và li xăng được
thực hiện bởi tổ chức công.......................................................................................17

2


Dịch vụ KH&CN là một loại hình hoạt động KH&CN, có chức năng cung ứng dịch
vụ cho mọi loại hình hoạt động KH&CN khác, đồng thời cung ứng dịch vụ cho mọi
hoạt động KT-XH. Dịch vụ KH&CN bao gồm: các loại hoạt động phục vụ cho
nghiên cứu, triển khai, giáo dục và đào tạo KH&CN, chuyển giao và phát triển công
nghệ, như các dịch vụ tính toán, cung cấp thông tin tư liệu, môi giới, trợ giúp kỹ
thuật (lắp đặt, cân chỉnh máy móc thiết bị; duy tu, bảo dưỡng kỹ thuật phần cứng và
phần mềm; kiểm định đo lường, thử nghiệm, hiệu chuẩn; phân tích, kiểm định mẫu
nguyên liệu, sản phẩm, v.v…) và thực hiện các dịch vụ tư vấn kỹ thuật, chứng nhận
quyền sở hữu công nghiệp.......................................................................................17
1.2.Phân biệt khái niệm “Triển khai” và “Phát triển” trong quản lý KH&CN.............19
1.3.Tổ chức nghiên cứu và triển khai...........................................................................20
1.4.Môi trường và ô nhiễm môi trường........................................................................23
1.4.1.Khái niệm môi trường.....................................................................................23
1.4.2. Ô nhiễm môi trường và an ninh môi trường...................................................24
1.5.Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.............................................................24
1.5.1 Khái niệm bảo vệ môi trường..........................................................................25
1.5.2 Phát triển bền vững.........................................................................................27
1.6.Thiết chế quản lý môi trường và các khái niệm có liên quan.................................29
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC R&D TRONG KIẾN TẠO

THIẾT CHẾ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG............37
2.1.1.Viện Công nghệ môi trường............................................................................37
2.1.2. Trung tâm tư vấn và công nghệ môi trường...................................................38
KẾT LUẬN.................................................................................................................93
29.Nguyễn Khắc Nhẫn , Thất vọng tại Varsovie ! Điện hạt nhân Việt Nam đối mặt
với biến đổi khí hậu,

3


/>14/12/2013...........................................................................................................96
30.Nguyễn Khắc Nhẫn, Điện hạt nhân không kinh tế mà còn rất nguy hiểm cho
đất nước,
/>m, 10/7/2010........................................................................................................96

4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ đầy đủ
Phát triển bền vững
Nghiên cứu và triển khai
Research and Development
Bảo vệ môi trường
Biến đổi khí hậu
Khoa học và Công nghệ
Trung tâm Tư vấn và Công nghệ môi
trường
Viện Công nghệ môi trường

Quỹ phát triển KH và CN Quốc gia

Điện hạt nhân

Từ viết tắt
PTBV
R&D
BVMT
BĐKH
KH&CN
Trung tâm TVCNMT
Viện CNMT
NAFOSTED
ĐHN

5


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tên đề tài
Vai trò của tổ chức R&D trong kiến tạo thiết chế quản lý môi trường vì sự phát
triển bền vững (Nghiên cứu trường hợp: Viện Công nghệ môi trường và Trung tâm Tư
vấn và Công nghệ môi trường)
2. Lý do nghiên cứu
Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều đổi mới về chính sách phát triển
kinh tế. Những thành tựu cơ bản đạt được bao gồm mức tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm khoảng 7.5% giai đoạn 1991-2008 (Ohno, 2008), tăng thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài, nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân. Ngay trong năm 2009,
mặc dù tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu càng trở nên ảm đạm, Việt Nam vẫn chứng

tỏ khả năng vượt qua khó khăn và thách thức với mức tăng trưởng GDP đạt 5,2%.
Tuy nhiên cùng với nhịp độ tăng trường kinh tế cao và quá trình công nghiệp hoá đang
diễn ra sâu rộng, Việt Nam đã và đang phải đối đầu với với các vấn đề môi trường
nghiêm trọng như ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí từ các nhà máy, các hộ gia đình,
lạm dụng thuốc trừ sâu và phân hoá học, suy giảm tài nguyên thiên nhiên.
Trong giai đoạn 2011-2015, môi trường Việt Nam chịu nhiều sức ép từ các hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội, đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý và bảo vệ
môi trường. Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực quản lý, ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm
nhưng chất lượng môi trường vẫn đang tiếp tục bị suy giảm. Ô nhiễm bụi vẫn tiếp tục
duy trì ở ngưỡng cao tại nhiều đô thị, ô nhiễm nước không chỉ còn tập trung ở các khu
vực hạ lưu, các đô thị, khu vực sản xuất mà đã xuất hiện ở một số vùng nông thôn. Ô
nhiễm và suy thoái môi trường đất hay vấn đề chuyển đổi mục đích sử dụng đất cũng
đã và đang gây ra những hệ lụy không nhỏ đến đời sống người dân cũng như hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội…Bên cạnh đó, diễn biến của tình trạng biến đổi khí
hậu và các vấn đề môi trường xuyên biên giới ngày càng phức tạp và khó lường. Do
đó, bài toán đặt ra hiện nay là phải phân tích rõ được hiện trạng, nguyên nhân của
những vấn đề nêu trên, từ đó, đưa ra được những định hướng ưu tiên trong giai đoạn
mới, kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội và các cấp, các ngành có những đáp ứng phù
hợp để giảm thiểu các tác động, kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường và từng bước
đảm bảo phát triển bền vững.
Để đảm bảo phát triển bền vững, Việt Nam cần nhanh chóng giải quyết các vấn
đề môi trường thông qua nhiều giải pháp như pháp luật, công nghệ, chính sách kinh tế
và môi trường… Chiến lược phát triển bền vững cần được xây dựng trên cơ sở hiểu
biết toàn diện về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và chất lượng môi trường. Các
chính sách về môi trường và kinh tế nếu được áp dụng kịp thời sẽ giảm nhẹ các tác
động môi trường của tăng trưởng kinh tế, ngược lại hậu quả sẽ khôn lường.
6


Bên cạnh đó thực tế về sự hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường cho chúng ta nhận

thức khó có thể thấy được những đóng góp hữu hiệu cho việc phát triển bền vững để
bảo vệ môi trường toàn cầu trong tương lai, vì:
- Các nhà sản xuất ở từng quốc gia sẽ cũng chỉ chạy theo lợi nhuận và giảm thiểu
mức chi thấp nhất trong phát triển;
- Tinh thần quốc gia cực đoan, và sự e dè trong việc can thiệp vào nội bộ các
quốc gia khác;
- Hệ thống tham nhũng từ cao xuống thấp ở những quốc gia đang phát triển hầu
như vô phương cứu chữa. Dù luật lệ môi trường có khắt khe đến đâu, thì việc
xử lý phế thải độc hại trong đất, không khí và nguồn nước do sản xuất và phát
triển cũng sẽ bị ém nhẹm hay lãng quên;
- Các chính phủ của những quốc gia đang phát triển vì nhu cầu cấp bách của cán
cân mậu dịch mà phải gia tăng phát triển kinh tế và lãng quên yếu tố bảo vệ môi
trường, dù họ biết rất rõ hệ luỵ này sẽ đưa đến những xáo trộn trong việc phát
triển xã hội sau đó;
- Các cường quốc vẫn còn giữ quan niệm về chủ nghĩa "nước lớn", không cần
tuân thủ các luật lệ quốc tế về toàn cầu hóa mà Trung quốc là thí dụ điển hình
nhất trong việc quản lý sông Mekong qua việc xây dựng các đập ở thượng
nguồn.
Thập niên 1980 trở lại đây đã chứng kiến sự bùng phát các thảm hoạ môi trường : hạn
hán, bão lụt, ô nhiễm không khí và mưa axit, các sự cố hạt nhân và rò rỉ hoá chất độc
hại, sự suy thoái thảm hại quỹ đất trồng trọt, lan tràn hoá chất bảo vệ thực vật và ô
nhiễm các nguồn nước, thủng tầng ôzôn, hiện tượng ấm lên toàn cầu do hiệu ứng nhà
kính, các cuộc chiến tranh sắc tộc và tranh giành không gian sử dụng môi trường gia
tăng. Nếu các quốc gia không liên kết để chấm dứt sự suy thoái môi trường thì đến
năm 2030, với dân số thế giới khoảng 9 - 10 lý, với nhiệt độ toàn cầu tăng 30c, sự suy
thoái tài nguyên và môi trường sẽ dẫn nhân loại đến cuộc Đại khủng hoảng của thế kỷ
XXI, tạo ra một vòng xoáy làm tan rã xã hội loài người (UNDP, 1990). Cuộc Đại
khủng hoảng thế kỷ này sẽ là sự chồng chất những vấn đề nan giải như nạn đói, ô
nhiễm và suy thoái hệ nuôi dưỡng sự sống, dịch bệnh, xung đột môi trường và tỵ nạn
môi trường hàng loạt, biến động khí hậu khó lường đi kèm thiên tai... với tốc độ dữ

dội, vượt quá khả năng thích ứng của xã hội cũng như khả năng của mọi trình độ công
nghệ trên Trái Đất.
Các nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng môi trường bắt nguồn từ mô hình
phát triển lấy tăng trưởng kinh tế làm trọng tâm, khuyến khích một xã hội tiêu thụ, dựa
trên nền tảng những phát minh công nghệ tiêu tốn năng lượng, tài nguyên và gây ô
nhiễm, sự trốn tránh trách nhiệm đối với thế hệ tương lai thông qua việc không nội bộ
hoá các chi phí môi trường và lạm dụng quá mức tài nguyên cũng như không gian môi
trường.
Do đó việc góp phần hoàn thiện thiết chế quản lý môi trường vì sự phát triển
bền vững là điều hệ trọng đối với các quốc gia hiện này, trong đó việc nhận diện vai
trò của các tổ chức nghiên cứu trong công cuộc này được xem là một trong những nỗ
7


lực đó.
Mục tiêu cao thượng của phát triển bền vững dựa vào ba yếu tố căn bản: phát
triển xã hội, phát triển môi trường, và phát triển kinh tế. Do đó muốn đạt được mục
tiêu, mỗi quốc gia cần phải thỏa mãn ba yêu cầu trên. Về mặt phát triển môi trường,
mặc dù có thể có được những điểm đồng thuận trong việc thiết lập các bộ luật môi
trường của cho mỗi quốc gia, tuy nhiên việc áp dụng vẫn còn tùy thuộc nhiều vào dân
trí, điều kiện xã hội và kinh tế của từng quốc gia. Từ đó việc nhận định rõ ràng về vai
trò của các tổ chức R&D đối với việc kiến tạo thiết chế quản lý môi trường vì sự phát
triển bền vững là quá trình đi xem xét một trong những tác nhân góp phần đưa đến sự
đồng thuận chung của xã hội về bảo vệ môi trường.
Sự phát triển của mỗi người, mỗi cộng đồng và mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào
những điều kiện môi trường của mình và không một thế hệ nào được phép tự cho mình
cái quyền được lạm dụng hay phá huỷ những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của các thế
hệ sau. Những luận lý này cần phải được phổ cập trong xã hội bằng một chương trình
giáo dục môi trường nhằm thay đổi nhận thức của con người, sao cho công dân và các
quan chức có thể thay đổi hành vi, ra quyết định về mọi vấn đề theo hướng bền vững.

Nghiên cứu góp phần khẳng định thực tiễn phát triển bền vững là chiến lược duy nhất
có thể cung ứng một cuộc sống tươm tất và có chất lượng cho nhân loại trong khi tránh
được những thảm họa sinh thái trong 30 - 40 năm tới, là lối sống cần phải thay thế cho
lối sống tiêu thụ thiếu hợp lý hiện nay
3. Lịch sử nghiên cứu
- Đề tài “Nghiên cứu chính sách phát triển các loại hình tổ chức và hoạt động KH&CN
ở các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp lớn tại Việt Nam”, Viện Chiến lược và Chính
sách KH&CN, 2010: đã phân tích, xem xét tất cả các chính sách KH&CN khả dĩ có
ảnh hưởng tới hoạt động KH&CN của các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp lớn Việt
Nam; đề xuất, khuyến nghị nhằm khuyến khích hoạt động KH&CN của các doanh
nghiệp lớn Việt Nam.
- Đề tài “Điều tra và phân tích hiện trạng hoạt động của các tổ chức KH&CN ở Việt
Nam giai đoạn 2006-2010”, Viện Đánh giá Khoa học và Định giá Công nghệ, 2012: đã
phân tích hiện trạng về môi trường hoạt động, năng lực và động lực của các tổ chức
KH&CN; đề xuất, kiến nghị nâng cao hoạt động của tổ chức KH&CN.
- Đề tài “Nghiên cứu hiện trạng tổ chức và hoạt động của các tổ chức KH&CN công
lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP và
Nghị định số 96/2010/NĐ-CP”, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN, 2012: đã
phân tích, xem xét các biện pháp phục vụ cho việc chuyển đổi các tổ chức NC&PT
công lập (trước và sau khi có Nghị định 115); phân tích thực trạng mô hình tổ chức và
hoạt động của các viện nghiên cứu theo tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm; khuyến
nghị chính sách hỗ trợ trong và sau “chuyển đổi” các tổ chức NC&PT công lập.
- Trịnh Ngọc Diệu (2000), Phát triển các tổ chức KH&CN ở nước ta trong thời ky
chuyển đổi kinh tế. Luận văn Thạc sỹ Chính sách KH&CN, Viện Chiến lược và Chính
8


sách KH&CN: đã nghiên cứu thực tiễn phát triển các tổ chức KH&CN Việt Nam thời
điểm trước khi Luật 2000 được thông qua; khuyến nghị về sự phát triển các tổ chức
KH&CN, nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của tổ chức KH&CN với sự phát triển

KT-XH trong thời ky đến năm 2005.
Báo cáo tổng hợp đề tài cấp Bộ của Trần Ngọc Ca (2000): “Nghiên cứu cơ sở khoa
học cho việc xây dựng một số chính sách và biện pháp thúc đẩy hoạt động đổi mới
công nghệ và nghiên cứu- triển khai trong các cơ sở sản xuất ở Việt Nam” đã đưa ra 2
mảng nghiên cứu về chính sách tài chính và chính sách nhân lực để đưa ra các giải
pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ và nghiên cứu- triển khai ở các cơ sở sản xuất.
Nghiên cứu đã chỉ ra được những mặt ưu điểm của đổi mới CN gắn với nhu cầu thực
tiễn của các cơ sở sản xuất ở Việt Nam, tuy nhiên đến thời điểm Việt Nam đang hội
nhập quốc tế như hiện nay, một số chính sách đã bộc lộ những điểm không phù hợp
với điều kiện mới.
Giáo trình Kinh tế môi trường, Hoàng Xuân Cơ, NXB Giáo dục 2005 gồm 7 chương
đã đưa ra được những nguyên lý chung về kinh tế, cung cấp cái nhìn cơ bản nhất về
kinh tế học phù hợp cho mọi đối tượng sử dụng; nghiên cứu ô nhiễm môi trường dưới
góc độ kinh tế, các hướng tiếp cận, sử dụng công cụ kinh tế để giảm phát thải ô nhiễm
môi trường. Chương III trình bày hướng sử dụng tài nguyên tối ưu theo quan điểm
kinh tế môi trường, đó là đạt cực đại hóa lợi nhuận mà không làm cạn kiệt tài nguyên
tái tạo và khai thác triệt để tài nguyên không tái tạo, song song với tìm kiếm tài nguyên
that thế và định giá tài nguyên hợp lí. Phần kinh tế môi trường ứng dụng trình bày rõ
hơn khả năng ứng dụng các công cụ kinh tế để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường
như phí môi trường, giấy phép mua bán (côta- hạn ngạch sử dụng môi trường hoặc
giới hạn trần cho mức ô nhiễm), các hệ thống ký thác- hoàn trả, thuế ô nhiễm, trong đó
tập trung vào giải pháp thu thuế/phí môi trường. Đồng thời giáo trình cũng đặt ra các
vấn đề phát sinh khi tiến hành thu thuế ô nhiễm trong việc xác định đối tượng nộp
thuế và hiệu quả của thuế ô nhiễm qua kinh nghiệm quốc tế. Từ đó, giáo trình đặt ra
khả năng áp dụng và thu thuế ô nhiễm trong điều kiện Việt Nam; cách ước tính, định
giá tài nguyên môi trường và kinh nghiệm áp dụng kinh tế môi trường trong ngành
thủy sản thế giới. Giáo trình đã cung cấp cho người học những luận điểm cơ bản về
kinh tế môi trường và sử dụng công cụ kinh tế để giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy
nhiên, do thời điểm biên soạn giáo trình là lúc Việt Nam bước vào xây dựng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa lâu, nên các kết luận còn mang nặng tính lí

luận, thiếu tính thực tiễn, nội dung kiến thức chủ yếu lấy từ kinh nghiệm nước ngoài.
Trong lĩnh vực BVMT và phát triển bền vững, chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ chính
phủ VN thông qua Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) cho Chương trình hỗ trợ
ứng phó với biến đổi khí hậu (SP-RCC). SP-RCC được xây dựng để đưa ra các biện
pháp ứng phó với biến đổi khí hậu ở VN sau khi đánh giá tình hình thực hiện các hành
động chính sách đặc thù của chính phủ VN trong 15 ngành dễ bị ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu. Trong khuôn khổ Dự án “Nghiên cứu quản lý môi trường đô thị tại VN”
của chuỗi hành động nhằm ứng phó với biến đổi khía hậu tài trợ bởi JICA, “Báo cáo
9


nghiên cứu về giải pháp tháo gỡ cho các dự án theo cơ chế phát triển sạch” được công
bố vào 3/2011đề cập tới rào cản như các nút thắt cổ chai của việc triển khai dự án theo
cơ chế phát triển sạch (CDM). Nghiên cứu cho hay, việc triển khai CDM ở VN không
chỉ thực hiện các hành động thân thiện môi trường, mà còn ảnh hưởng đến cả các hoạt
động phát triển bền vững thông qua việc phát trển và sử dụng các năng lượng tái tạo,
tạo điều kiện bảo tồn năng lượng, kiểm soát thiệt hại về diện tích rừng …CDM hiện
vẫn là một cơ chế mới được xây dựng và còn tồn tại nhiều rào cản khiến cho việc tiến
hành CDM trên thực tế không thuận lợi. Các rào cản được đề cập và phân tích trong
nghiên cứu bao gồm: Rào cản về hành chính và pháp lý; Rào cản về kinh doanh; Rào
cản về nguồn nhân lực; Rào cản công nghệ; Rào cản thực tế về các thông lệ.
Khảo sát các nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy hiện nay các nhà nghiên cứu trong
lĩnh vực KH&CN hiện đề cao vai trò của mô hình R&D trong hoạt động của các tổ
chức, những yếu tố thúc đẩy việc hình thành các tổ chức R&D, cũng như đặc biệt quan
tâm đến hiện trạng phát triển của các tổ chức này tại Việt Nam. Các nhà nghiên cứu
trong lĩnh vực môi trường tìm hiểu về các biểu hiện của ô nhiễm môi trường, xung đột
môi trường trong các lĩnh vực cụ thể như môi trường nước, không khí, chất thải..., hay
về các biện pháp bảo vệ môi trường và phát triển bền vững... Tuy nhiên cho nay chưa
có nghiên cứu nào chỉ ra mối quan hệ giữa hoạt động của các tổ chức R&D với thiết
chế quản lý môi trường vì sự phát triển bền vững tại Việt Nam.

4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng thể:
Nhận diện vai trò của các tổ chức nghiên cứu và triển khai trong việc kiến tạo thiết chế
quản lý môi trường vì sự phát triển bền vững tại Việt Nam
Mục tiêu chi tiết:
- Khảo sát các văn bản chính sách và chiến lược quản lý môi trường tại Việt
Nam, đồng thời tìm hiểu quá trình xây dựng và hoạch định các chính sách đó
- Xem xét vai trò của tổ chức nghiên cứu trong việc thúc đẩy, hoặc kiềm chế việc
ban hành chính sách môi trường; Chỉ ra tác động của tổ chức nghiên cứu đến
việc hoàn thiện các chính sách và chiến lược bảo vệ môi trường vì sự phát triển
bền vững.
- Làm rõ vai trò hình thành hệ chuẩn mực, hệ giá trị về quản lý môi trường trong
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
- Xác định vai trò gắn kết giữa chính sách quản lý môi trường và cộng đồng của
các tổ chức R&D
5. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong khoảng thời gian: 2011 – 2015 nhằm làm rõ
các vai trò của tổ chức R&D trong việc hình thành thiết chế quản lý môi trường
vì sự phát triển bền vững của Việt Nam.

10


6. Mẫu khảo sát
Viện công nghệ môi trường thuộc Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Trung tâm tư vấn và công nghệ môi trường. thuộc Tổng cục Môi trường, Bộ Tài
nguyên và Môi Trường.
Nghiên cứu khảo sát các kết quả hoạt động, các đề tài dự án của Viện Công
nghệ môi trường, Trung tâm Tư vấn và công nghệ môi trường nhằm làm rõ vai
trò của các tổ chức này trong việc kiến tạo thiết chế quản lý môi trường hướng

đến phát triển bền vững.
7. Câu hỏi nghiên cứu
Vai trò của tổ chức R&D trong kiến tạo thiết chế quản lý môi trường vì sự phát
triển bền vững là gì?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Vai trò của tổ chức R&D trong kiến tạo thiết chế quản lý môi trường vì sự phát
triển bền vững được nhận diện như sau:
- Vai trò kiến tạo khung chính sách quản lý môi trường vì mục tiêu PTBV
- Vai trò kiến tạo chuẩn mực trong ứng dụng và phát triển công nghệ thân thiện
môi trường, công nghệ sạch
- Vai trò thiết lập mạng lưới các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững.
- Vai trò kiến tạo hệ giá trị, chuẩn mực, đạo đức bền vững trong mọi hoạt động
của cộng đồng.
9. Phương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận: Nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận xã hội học để xem xét tương tác
giữa các nhóm xã hội thuộc lĩnh vực nghiên cứu trong hoạt động bảo vệ môi trường vì
sự phát triển bền vững thông qua việc xác định các kiến tạo xã hội thể hiện trong thiết
chế quản lý môi trường.
Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng:
Nghiên cứu tài liệu: Khảo sát các tài liệu có liên quan thuộc các mảng nội dung: Tổ
chức khoa học, Chính sách và chiến lược bảo vệ môi trường, Phát triển bền vững, Kiến
tạo xã hội
Phỏng vấn chuyên gia: Phỏng vấn 3 chuyên gia trong lĩnh vực Quản lý Khoa học,
Công nghệ và Môi trường nhằm khai thác các đánh giá chuyên sâu về tác động của tổ
chức nghiên cứu đến kiến tạo thiết chế quản lý môi trường...
Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn 3 người hoạt động trong lĩnh vực quản lý môi trường của
nhà nước và 3 người trong các tổ chức dân sự hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường, 1 người thuộc tổ chức quốc tế về bảo vệ môi trường tại Việt Nam.
11



10. Cấu trúc của đề tài
Mở đầu: Lý do nghiên cứu, Lịch sử nghiên cứu, Mục tiêu nghiên cứu, Phạm vi và
mẫu khảo sát, Câu hỏi nghiên cứu, Giả thuyết nghiên cứu, Phương pháp chứng minh
luận điểm, Tóm tắt nội dung nghiên cứu
Nội dung:
- Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài về mối quan hệ giữa hoạt động của tổ chức
R&D với kiến tạo thiết chế quản lý môi trường vì phát triển bền vững
- Chương II: Nhận diện vai trò của các tổ chức R&D đối với việc hình thành các
các kiến tạo xã hội trong thiết chế quản lý môi trường vì sự phát triển bền vững
Kết luận: Tóm tắt về vai trò của các tổ chức nghiên cứu đối với việc kiến tạo thiết chế
quản lý môi trường vì sự phát triển bền vững

12


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CỦA
TỔ CHỨC R&D VỚI THIẾT CHẾ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VÌ SỰ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG
1.1.

Hoạt động R&D và các khái niệm có liên quan

Hoạt động KH&CN theo UNESCO là một chuỗi các hoạt động bao gồm
nghiên cứu (nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, trong đó nghiên cứu cơ bản
chia thành nghiên cứu cơ bản thuần tuý và nghiên cứu cơ bản định hướng; nghiên cứu
cơ bản định hướng lại chia thành nghiên cứu nền tảng và nghiên cứu chuyên đề) &
triển khai (bao gồm 3 giai đoạn: tạo vật mẫu - prototype, tạo quy trình - làm pilot để

tạo công nghệ và làm thí điểm loạt nhỏ - sản xuất thử loạt 0 hay làm “Sêri 0”), giáo
dục KH&CN tương đương trình độ bậc ba và dịch vụ KH&CN.
Có nhiều cách phân loại nghiên cứu khoa học, trong đó có 3 cách phân loại nghiên cứu
khoa học thường dùng là: phân loại theo chức năng nghiên cứu (mô tả, giải thích, giải
pháp, dự báo), phân loại theo phương pháp thu thập thông tin phục vụ nghiên cứu (thư
viện, điền dã, labô) và phân loại theo các giai đoạn của nghiên cứu: Nghiên cứu cơ
bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai.
Trong nghiên cứu này, cách phân loại nghiên cứu khoa học, hoạt động KH&CN theo
các giai đoạn và tính chất đặc trưng sản phẩm của mỗi giai đoạn được sử dụng. Việc
thống nhất cách hiểu những khái niệm này là rất quan trọng và cần thiết trong công tác
quản lý KH&CN nói chung cũng như xác định rõ hoạt động của các tổ chức R&D nói
riêng.
1.1.1. Nghiên cứu khoa học (Scientific research - R)
Theo quan điểm của UNESCO nghiên cứu khoa học được xác định là mọi hoạt động
có tính hệ thống và sáng tạo nhằm làm tăng khối lượng tri thức khoa học và khả năng
ứng dụng các tri thức ngày vào thực tế 1. Để cụ thể hóa các loại hình nghiên cứu,
UNESCO tiếp tục làm rõ nội hàm khái niệm qua việc phân chia hoạt động này theo
lĩnh vực thành nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, kĩ thuật và công
nghệ, y dược, nông nghiệp với các khoa học xã hội. Nghiên cứu này đi theo cách
phân loại theo các giai đoạn của nghiên cứu theo Hướng dẫn Fracasti 2002 gồm
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng:
a) Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu cơ bản (fundamental research hoặc basic research) là những nghiên cứu
nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc, động thái các sự vật, tương tác trong nội bộ sự
vật và mối liên hệ giữa sự vật với các sự vật khác. Sản phẩm nghiên cứu cơ bản có thể
là các khám phá, phát hiện, phát minh, dẫn đến việc hình thành một hệ thống lý thuyết
1

UNESCO (1984), Manual for Statistics on Scientific and Technological activities, Paris,


13


có giá trị tổng quát 2. Ví dụ, Marie và Pierre Curie phát hiện ra nguyên tố phóng xạ
radium; các nghiên cứu về lý thuyết hạt nhân, lý thuyết tương đối của Einstein...
Nghiên cứu cơ bản bao gồm các hoạt động thực nghiệm hoặc nghiên cứu lý thuyết
nhằm đạt được tri thức về nền tảng cơ bản của các hiện tượng hoặc các sự kiện được
quan sát mà không hề tính tới khả năng ứng dụng đặc biệt hay cụ thể nào, hoặc quan
điểm sử dụng nào. Với ý nghĩa này, nghiên cứu cơ bản được hiểu với nghĩa rộng nhất,
nó không bị giới hạn bởi lĩnh vực nào, thời điểm nào, điều kiện thực tế nào mà bao
phủ mọi hoạt động khám phá tìm kiếm bản chất của sự vật, hiện tượng nhằm nâng cao
sự hiểu biết của con người. Bản chất của nghiên cứu cơ bản thường được bắt nguồn
bởi sự ham thích khám phá những điều chưa được giải đáp và thường không cần phải
ràng buộc bởi bất ky ứng dụng cụ thể nào. Yêu cầu chính của nghiên cứu cơ bản là các
tri thức tìm được phải mới và có ý nghĩa phổ quát, các kết quả nghiên cứu cơ bản chỉ
có giá trị nếu đóng góp được vào kho tàng tri thức loài người và do vậy tiêu chí quan
trọng nhất của nghiên cứu cơ bản là tri thức mới. Nghiên cứu cơ bản được chia thành
hai loại: nghiên cứu cơ bản thuần tuý và nghiên cứu cơ bản định hướng.
b) Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu ứng dụng (applied research), là sự vận dụng quy luật được phát
hiện từ nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật; tạo ra những nguyên lý mới về các
giải pháp và áp dụng chúng vào sản xuất và đời sống. Giải pháp được hiểu theo một
nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này: có thể là một giải pháp về công nghệ, về vật liệu,
về tổ chức và quản lý. Một số giải pháp công nghệ có thể trở thành sáng chế.
Nghiên cứu ứng dụng nhằm tìm ra các tri thức khoa học để giải quyết các vấn
đề đặt ra từ nhu cầu thực tế, như việc tìm cách làm các tấm vật liệu lợp nhà chống
nóng với giá rẻ, việc tìm cách tạo ra nước ngọt ở những vùng nước mặn, hay việc tìm
cách làm ra các chương trình máy tính dịch tự động tiếng Anh sang tiếng Việt. Do tri
thức để giải quyết các vấn đề thực tế không luôn được công bố như các tri thức khoa
học cơ bản, và rất nhiều bài toán thực tế liên quan đến các đặc tính tự nhiên, địa lý, xã

hội của những xứ sở khác nhau (như xử lý tiếng Việt bằng máy tính), tính mới mẻ của
nghiên cứu ứng dụng nhiều khi có thể là tương đối, tức chừng mực nào đó có thể
không hoàn toàn mới trong kho tàng tri thức của nhân loại nhưng là mới với một cộng
đồng, một đất nước (như nhiều nội dung của nghiên cứu dịch tự động AnhViệt). Do
vậy, tính cần thiết hay cấp thiết của các nghiên cứu ứng dụng có thể được nhấn mạnh.
Nghiên cứu ứng dụng cũng có thể là nghiên cứu để áp dụng các kết quả nghiên cứu đã
thành công ở một môi trường nhất định, vào trong một môi trường mới của sự vật và
hiện tượng.
Ngoài ra, rất cần phân biệt sự khác nhau giữa nghiên cứu ứng dụng và ứng
dụng (application). Ứng dụng không nhằm vào việc tìm ra tri thức mới, mà vào việc
dùng các tri thức đã biết để làm những việc cụ thể, thí dụ như việc dùng một mô hình
2

Y. De Hemptinne: Questions-clé des politiques scientifiques et technologiques nationales, UNESCO, Paris,
1981.

14


và phương pháp đã biết để xử lý một tình huống thực tiễn, ứng dụng phần mềm toán
học để giải toán, ứng dụng đèn không cần nguồn điện cho các dự án xóa đói giảm
nghèo... Có thể vì ranh giới không rõ ràng, nên nghiên cứu ứng dụng và việc ứng dụng
rất thường bị lẫn lộn trong thực tế. Nếu như nghiên cứu ứng dụng là để tìm ra một quy
trình, vật thể, Kết quả của nghiên cứu ứng dụng thì chưa ứng dụng được. Để có thể
đưa KQNC ứng dụng vào sử dụng thì còn phải tiến hành một loại hình nghiên cứu
khác, có tên gọi là triển khai.
Một điều cần lưu ý là, mặc dù mang tên gọi như vậy, nhưng kết quả của nghiên
cứu ứng dụng vẫn chưa thể ứng dụng được ngay, mà để có thể đưa chúng vào sử dụng
trong thực tế, còn phải trải qua một giai đoạn nghiên cứu nữa, gọi là triển khai. Ví dụ,
đề tài ứng dụng máy lọc nước di động trong bể nuôi tôm chạy bằng năng lượng mặt

trời với định hướng ứng dụng tạo môi trường thuận lợi cho tôm sinh trưởng, song do
chưa có điều kiện để sản xuất “Sêri 0”, nên sản phẩm vẫn chưa thể đi vào đời sống của
người nông dân.
1.1.2. Triển khai (Development - D)
Theo quan điểm của Vũ Cao Đàm, triển khai được xem là giai đoạn nối tiếp giữa
nghiên cứu và sản xuất nhằm góp phần giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp trong sản
hoạt động kinh doanh. Triển khai (technological experimental development, gọi tắt là
development), là sự vận dụng các quy luật (thu được từ nghiên cứu cơ bản) và các
nguyên lý (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra các hình mẫu và quy trình sản
xuất với những tham số khả thi về kỹ thuật. Điều cần lưu ý là, kết quả triển khai thì
chưa triển khai được (!). Sản phẩm của triển khai chỉ mới là những hình mẫu khả thi
kỹ thuật, nghĩa là không còn rủi ro về mặt kỹ thuật. Để áp dụng được, còn phải tiến
hành nghiên cứu những tính khả thi khác, như khả thi tài chính, khả thi kinh tế, khả thi
môi trường, khả thi xã hội. Triển khai bao gồm ba giai đoạn:
a) Tạo ra vật mẫu (làm prototype) là giai đoạn thực nghiệm nhằm tạo ra được sản
phẩm mẫu hay còn gọi là vật mẫu chức năng (functional prototype), mà chưa
quan tâm đến quy trình sản xuất ra vật mẫu và quy mô áp dụng vật mẫu đó.
Ví dụ: Mô hình làng du lịch sinh thái kết hợp nghề truyền thống của vùng đồng bằng
Bắc Bộ.
b) Tạo quy trình, công nghệ (làm pilot) là giai đoạn tìm kiếm, thử nghiệm và tạo
ra công nghệ để sản xuất sản phẩm theo mẫu mới (prototype) vừa thành công ở
giai đoạn trước, đôi khi còn gọi đây là giai đoạn tạo vật mẫu kỹ thuật
(engineering prototype).
Ví dụ: Chính sách xây dựng và phát triển mô hình làng du lịch sinh thái kết hợp nghề
truyền thống của vùng đồng bằng Bắc Bộ
c) Sản xuất thử loạt đầu/sản xuất thử loạt nhỏ (sản xuất “Sêri 0”) là giai đoạn
kiểm chứng độ tin cậy của công nghệ trên quy mô nhỏ hay làm thí điểm, trong
thực tế còn được gọi là sản xuất bán đại trà hay bán công nghiệp.

15



Ví dụ: Thí điểm mô hình làng du lịch sinh thái kết hợp nghề truyền thống tại một số
tỉnh của vùng đồng bằng Bắc Bộ (Nghiên cứu trường hợp Nam Định, Ninh Bình, Hải
Dương)
Theo quan điểm của UNESCO về hoạt động KH&CN, cả ba dạng hoạt động
nghiên cứu FR, AR, D có thể gắn kết lại với nhau trong khái niệm nghiên cứu và triển
khai (R&D).
1.1.3. Giáo dục và đào tạo KH&CN tương đương bậc 3.
Theo UNESCO giáo dục và đào tạo KH&CN tương đương bậc 3 được xác định
là mọi hoạt động bao gồm giáo dục và đào tạo đặc biệt không thuộc hệ thống đại học,
giáo dục và đào tạo để cấp bằng đại học, sau đại học, và đào tạo chuyên sâu, đào tạo
lâu dài có tổ chức đối với các nhà khoa học và các kĩ sư. Đây là những hoạt động
không chỉ là giới hạn trong các tổ chức học thuật chuyên biệt như các trường đại học,
cao đẳng mà còn bao gồm tất cả các khóa đào tạo tiên tiến đặc biệt cho nguồn nhân lực
KH&CN thuộc các tổ chức công hoặc ngoài công lập, những nơi vốn không được coi
là một phần của hệ thống giáo dục truyền thống. Trong hoạt động này các kết quả
nghiên cứu có từ hoạt động R&D có thể được chuyển giao cho người học thông hoạt
động đào tạo bởi các giảng viên, các chuyên gia. Hoạt động này sở dĩ tách biệt với quá
trình R&D bởi sự hình thành một thiết chế xã hội độc lập nhằm chuyển giao tri thức
cho người có nhu cầu tiếp nhận, nhằm nâng cao mức độ nhận thức của con người cũng
như khả năng dùng tri thức đó để cải biến xã hội. Hoạt động này không trực tiếp tạo ra
những sản phẩm sáng tạo, đột phá mà là quá trình tạo dựng, duy trì dự di chuyển của
các dòng tri thức (bao gồm các sản phẩm của R&D), các kinh nghiệm qua việc chứng
nhận các trình độ khác nhau.
1.1.4. Dịch vụ KH&CN
Theo định nghĩa của UNESCO dịch vụ khoa học và công nghệ là mọi hoạt động
phục vụ/hỗ trợ nghiên cứu khoa học và triển khai thực nghiệm nhằm góp phần tạo
dựng, phổ biến và ứng dụng các tri thức khoa học và kĩ thuật. Đặc điểm phân biệt
chính của dịch vụ KH&CN khi chỉ được coi là các yếu tố có liên quan đến R&D chính

ở việc không thể tạo ra các sản phẩm sáng tạo, sản phẩm có tính đổi mới. Các dịch vụ
KH&CN được phân chia thành các dạng sau:
(i)

Các dịch vụ KH&CN của thư viện, lưu trữ, trung tâm thông tin và tư liệu, các
đơn vị tra cứu, trung tâm hội nghị khoa học, ngân hàng dữ liệu và các cơ quan
xử lý thông tin.
(ii) Các dịch vụ KH&CN của các viện bảo tàng khoa học và/hoặc công nghệ, vườn
thực vật và vườn thú và các bộ sưu tập khoa học khác (nhân chủng học, khảo cổ
học, địa chất….).
(iii) Công việc có tính hệ thống về dịch thuật, hiệu đính các loại sách và tạp chí
KH&CN (trừ sách giáo khoa phổ thông và giáo trình đại học).
(iv) Các cuộc điều tra về địa hình, địa chất và thủy văn; các quan trắc thường xuyên
về thiên văn, khí tượng, địa chấn; điều tra về thổ nhưỡng và thực vật, các nguồn
16


tài nguyên hoang dã; kiểm tra đất, nước, không khí; kiểm tra thường nhật và
quan trắc mức phóng xạ.
(v) Điều tra thăm dò và các công việc liên quan nhằm định vị và xác định tài nguyên
khoáng sản, dầu mỏ.
(vi) Thu thập thông tin về nhân loại, các hiện tượng xã hội, kinh tế và văn hóa, tập
hợp những thông tin thống kê thường ngày như điều tra dân số, thống kê sản
lượng, phân phối và tiêu thụ, nghiên cứu thị trường, thống kê xã hội và văn hóa,
v.v.
(vii) Kiểm định, tiêu chuẩn hóa, đo lường và kiểm soát chất lượng: công việc thường
xuyên về phân tích, kiểm tra, kiểm nghiệm bằng những biện pháp được công
nhận các vật liệu, sản phẩm, thiết bị và quy trình, cùng với việc thiết lập và duy
trì các tiêu chuẩn và chuẩn đo lường.
(viii) Công việc thường xuyên hàng ngày để tư vấn cho khách hàng, các bộ phận khác

của tổ chức hoặc người dùng độc lập, được thiết kế để giúp họ tận dụng thông
tin khoa học, công nghệ và quản lý. .
(ix) Các hoạt động liên quan đến bằng sáng chế và li xăng là hệ thống công việc có
có tính khoa học, tính pháp quy và tính hành chính về bằng sáng chế và li xăng
được thực hiện bởi tổ chức công.
Dịch vụ KH&CN là một loại hình hoạt động KH&CN, có chức năng cung ứng
dịch vụ cho mọi loại hình hoạt động KH&CN khác, đồng thời cung ứng dịch vụ cho
mọi hoạt động KT-XH. Dịch vụ KH&CN bao gồm: các loại hoạt động phục vụ cho
nghiên cứu, triển khai, giáo dục và đào tạo KH&CN, chuyển giao và phát triển công
nghệ, như các dịch vụ tính toán, cung cấp thông tin tư liệu, môi giới, trợ giúp kỹ thuật
(lắp đặt, cân chỉnh máy móc thiết bị; duy tu, bảo dưỡng kỹ thuật phần cứng và phần
mềm; kiểm định đo lường, thử nghiệm, hiệu chuẩn; phân tích, kiểm định mẫu nguyên
liệu, sản phẩm, v.v…) và thực hiện các dịch vụ tư vấn kỹ thuật, chứng nhận quyền sở
hữu công nghiệp.
Theo quan điểm của Vũ Cao Đàm, hoạt động KH&CN còn cần bao phủ 2 dạng hoạt
động sau:
Chuyển giao công nghệ
Trong xã hội luôn luôn tồn tại các luồng di động công nghệ từ nơi có trình độ, năng
lực công nghệ cao đến nơi có trình độ, năng lực công nghệ thấp hơn - luồng di động đó
tạo ra quá trình chuyển giao công nghệ, xét về mặt bản chất đó chính là quá trình trao
tri thức công nghệ. Chuyển giao công nghệ (transfer of technology) là sự chuyển
nhượng quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một công nghệ giữa hai đối tác. Luật
CGCN quy định: “CGCN là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần
hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền CGCN sang bên nhận công nghệ” (Điều 3. 8,
Luật CGCN). Công nghệ được chuyển giao bao gồm: các bí quyết, quy trình, công
thức, quyền sở hữu và quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp. Chuyển giao
công nghệ có thể đi kèm hoặc không đi kèm hợp đồng licence hoặc hợp đồng patent17


licence, có thể đi kèm hoặc không đi kèm đầu tư thiết bị, tiền vốn. Tuy nhiên hiện nay

chuyển giao công nghệ không chỉ được hiểu theo nghĩa là quá trình chuyển giao đơn
thuần giữa người có quyền sở hữu hoặc sử dụng công nghệ đến người có nhu cầu mà
còn phải là quá trình đảm bảo việc sử dụng, ứng dụng công nghệ của bên nhận nhằm
tạo ra các sản phẩm mới trong phạm vi hợp đồng chuyển giao quy định.
Theo TS Nguyễn Vân Anh3, khái niệm chuyển giao công nghệ cho đến nay có thể tóm
tắt lại ở các quan điểm như sau:
– CGCN là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ
công nghệ từ bên có quyền CGCN sang bên nhận công nghệ;
– CGCN là ứng dụng công nghệ hiện có;
– CGCN là chuyển giao kiến thức có hệ thống về chế tạo một sản phẩm nào đó, ứng
dụng một quy trình công nghệ nào đó hoặc cung cấp một dịch vụ nào đó;
– CGCN là tập hợp các hoạt động về kỹ thuật, thương mại, pháp lý nhằm làm cho bên
nhận công nghệ có được năng lực công nghệ như bên giao công nghệ trong sản xuất,
kinh doanh.
– CGCN là sự dịch chuyển công nghệ qua biên giới quốc gia;
– CGCN là chuyển giao giữa các khâu của vận động công nghệ: Nghiên cứu cơ bản
-> nghiên cứu ứng dụng -> sản xuất thử, thử nghiệm -> thương mại hóa.
Mỗi cách tiếp cận phục vụ cho những mục đích sử dụng khác nhau trong thực tế,
nhưng tựu chung lại có thể xem đây là dạng hoạt động bộ phận của chuyển giao tri
thức với những quy định chặt chẽ thành văn thông qua các hợp đồng chuyển giao công
nghệ, nhờ đó tạo luồng dịch chuyển công nghệ từ bên giao sang bên nhận nhằm đảm
bảo bên nhận có được năng lực sử dụng công nghệ nhất định trong việc tạo ra sản
phẩm để sản xuất, kinh doanh.
Phát triển công nghệ
Phát triển công nghệ (development of technology hay technology development) là sự
mở rộng và/hoặc nâng cấp công nghệ, bao gồm hoạt động phát triển công nghệ theo
chiều rộng - nhân rộng, mở rộng công nghệ (extensive development of technology hay
diffusion of technology) và hoạt động phát triển công nghệ theo chiều sâu - nâng cấp
công nghệ (intensive development of technology hay upgrading of technology).
- Phát triển công nghệ theo chiều ngang là sự lan tỏa, phổ biến công nghệ giữa các tổ

chức, đơn vị trong xã hội có nhu cầu sử dụng công nghệ hiện có mà không có bất ky
sự liên quan nào tới hoạt động R&D để tạo ra công nghệ này. Thực chất đây là quá
trình nhân rộng công nghệ về mặt số lượng, không có biến đổi về mặt trình độ, năng
lực công nghệ và chất lượng sản phẩm. Ưu điểm của hình thức phát triển theo chiều
ngang là ít rủi ro, nhưng năng lực cạnh tranh thấp.
- Phát triển công nghệ theo chiều dọc là sự dịch chuyển tri thức công nghệ từ khu vực
R&D vào doanh nghiệp, thực chất đây là quá trình áp dụng kết quả nghiên cứu vào sản
xuất. Về mặt lý thuyết, sau giai đoạn triển khai, kết quả nghiên cứu sẽ được đưa vào
khu vực sản xuất từ đó tạo ra những hiệu quả nhất định về năng suất, hay chất lượng
3

Nguyễn Vân Anh (2015), Bàn về khái niệm công nghệ và chuyển giao công nghệ trong Luật Chuyển giao công
nghệ, Tạp chí Chính sách và Quản lý KH&CN, tập 4 (1), tr 104

18


sản phẩm. Tuy nhiên, trên thực tế vì nhiều lý do khác nhau, có thể do doanh nghiệp
chưa sẵn sàng tiếp nhận, cũng có thể do đơn vị R&D còn muốn giữ lại bí quyết công
nghệ, hoặc muốn tiếp tục hoàn thiện công nghệ, v.v…tình huống đó thúc đẩy tổ chức
R&D lập ra các doanh nghiệp vệ tinh (doanh nghiệp spin-off) để tự mình đưa ra thị
trường các công nghệ, sản phẩm mới và độc đáo. Mặc dù xác suất rủi ro của hình thức
chuyển giao theo chiều dọc có thể cao, song đổi lại, năng lực cạnh tranh cũng lại có
thể rất cao, do tạo ra được các sản phẩm mới dựa trên công nghệ mới. Đây cũng chính
là nơi thể hiện rõ nhất sự giao nhau của hoạt động KH&CN với hoạt động thương mại
và trong nhiều trường hợp, nó gần với hoạt động thương mại hơn. Ở khía cạnh này,
phát triển công nghệ gắn bó chặt chẽ với quá trình đổi mới công nghệ, quá trình tạo
dựng năng lực đổi mới nói chung của doanh nghiệp.
1.2.


Phân biệt khái niệm “Triển khai” và “Phát triển” trong quản lý
KH&CN

Phân tích trên cho thấy R&D là một chuỗi bộ phận trong tổng thể các hoạt động
KH&CN, theo UNESCO, R&D là “các hoạt động sáng tạo được thực hiện một cách
có hệ thống để tăng cường vốn tri thức, bao gồm tri thức về con người, văn hoá, xã
hội và sử dụng vốn tri thức này để tìm ra các ứng dụng mới”. Hoạt động R&D bao
gồm các loại hình: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai. Hoạt động
R&D có nhiều điểm khác biệt với các loại hình hoạt động KT-XH khác. Trong đó, có
những đặc điểm dẫn đến sự khác biệt cơ bản trong quản lý loại hình hoạt động đặc thù
này.
Đặc điểm phải kể đến trước tiên đó là tính mới - quá trình nghiên cứu khoa học là
quá trình hướng tới những phát hiện mới, sáng tạo mới, những tri thức mới về các hiện
tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; đặc điểm thứ hai là tính rủi ro,
quá trình rủi ro - quá trình khám phá bản chất sự vật, hiện tượng, quy luật và sáng tạo
sự vật mới hoàn toàn có thể gặp thất bại, có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến thất bại,
như: giả thuyết khoa học, phương pháp nghiên cứu sai, phương tiện thực nghiệm kém
chính xác, thiếu các thông tin cần thiết hoặc thông tin không đủ tin cậy, năng lực xử lý
thông tin bị hạn chế, v.v…có những trường hợp kết quả nghiên cứu đã thành công,
nhưng vẫn gặp rủi ro khi mở rộng quy mô áp dụng do chưa thực sự làm chủ được công
nghệ, hoặc không áp dụng được vì một lý do xã hội nào đó; đặc điểm thứ ba là sản
phẩm bất định - đặc trưng của sản phẩm không thể xác định được chính xác trong quá
trình lập kế hoạch nghiên cứu, không biết trước được một cách chính xác phương pháp
xác định bản chất sự vật, không xác định được chắc chắn đặc tính của sản phẩm làm
ra; và đặc điểm thứ tư là tính phi kinh tế - sản phẩm của R&D về cơ bản là tri thức và
sản phẩm của chuỗi hoạt động R&D, ở tận khâu cuối cùng là sản xuất “Sêri 0”, vẫn là
vật mang tri thức mà chưa có giá trị kinh tế. Tất nhiên ở đây cần tránh nhầm lẫn giữa
sản xuất thử loạt đầu với sản xuất thật ở quy mô nhỏ. Tính phi kinh tế của hoạt động
R&D còn thể hiện rõ rệt ở việc đầu tư thiết bị cho R&D; đặc điểm thứ năm là tính trễ -


19


một kết quả sau khi nghiên cứu thành công, không bao giờ có thể được áp dụng ngay
vào sản xuất và đời sống, mà thường có một khoảng thời gian chờ nào đó.
Triển khai - gọi một cách đầy đủ là triển khai thực nghiệm công nghệ
(Technological experimental development - viết tắt là Development) bao gồm 3 giai
đoạn: làm ra vật mẫu, làm công nghệ để sản xuất sản phẩm theo mẫu mới và sản xuất
thử để kiểm chứng độ tin cậy của công nghệ - là khâu cuối cùng của hoạt động R&D.
Quản lý hoạt động này thuộc phạm trù quản lý R&D và đòi hỏi sự chú ý đầy đủ tới các
đặc điểm về tính mới, tính rủi ro, tính bất định, tính khách quan, tính thông tin, tính cá
nhân, tính kế thừa, tính phi kinh tế và tính trễ . Toàn bộ hoạt động này sẽ không phải
chịu thuế và sử dụng nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học.
Kết thúc khâu Triển khai, công nghệ được chuyển giao và vận hành trong sản
xuất, lúc đó hoạt động Phát triển công nghệ (Development of technology) bao gồm
mở rộng công nghệ và nâng cấp công nghệ bắt đầu, kèm theo đó là sự khởi động của
quá trình quản lý công nghệ với nhiều đặc điểm khá trái ngược với quản lý hoạt động
R&D, đó là tính lặp lại theo chu ky (chu ky chế tạo sản phẩm, chu ky sống của sản
phẩm và công nghệ), tính tin cậy, sản phẩm xác định, tính kinh tế cao, v.v... Theo Vũ
Cao Đàm, toàn bộ hoạt động này không được sử dụng kinh phí nghiên cứu mà phải sử
dụng vốn sản xuất, vốn vay hoặc vốn đầu tư mạo hiểm, và phải nộp thuế cho nhà nước
như một phần hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy hoạt động “Triển khai” và “Phát triển” hoàn toàn khác biệt nhau với tư
cách là các đối tượng quản lý và đối tượng phân biệt đối xử trong chính sách Khoa học
và Công nghệ của mỗi quốc gia.
1.3.

Tổ chức nghiên cứu và triển khai

Nghiên cứu này đi theo quan điểm của UNESCO về tổ chức R&D như sau: tổ

chức R&D là một hệ thống tổ chức bao gồm các viện, các trung tâm có chức năng thực
hiện những nhiệm vụ về nghiên cứu khoa học; triển khai thực nghiệm, nhằm mục đích
đưa ra những kết luận khoa học trên các mức độ khác nhau: có thể là những kết luận
thuần túy lý thuyết, song cũng có thể là những kết luận thực nghiệm, hoặc những
khuôn mẫu của một giải pháp tổ chức, quản lý, hoặc những giải pháp kỹ thuật, công
nghệ.
Tổ chức R&D là một bộ phận của tổ chức KH&CN, bộ phận này thực hiện các quá
trình nào trong hoạt động KH&CN là điều cần làm rõ. Trước hết cần làm rõ một số
nội dung thuộc nội hàm của tổ chức KH&CN, từ đó tìm ra quan hệ giữa tố chức R&D
với tổ chức KH&CN, và vai trò của tổ chức này đối với sự phát triển KT-XH. Tổ chức
KH&CN là các cách gọi tắt của thuật ngữ “Tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai
công nghệ”. Luật Khoa học và Công nghệ giải thích thuật ngữ này tại Khoản 11, Điều
3 như sau:“Tổ chức khoa học và công nghệ là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên
cứu khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ khoa
học và công nghệ, được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật.”
20


Từ những phân tích về khái niệm R&D và phát triển công nghệ ở trên có thể thấy cách
định nghĩa tổ chức KH&CN kéo theo những lỗi sai về nội hàm khái niệm, từ đó dẫn
đến những khó khăn cho hoạt động thống kê, đánh giá cũng như hoạch định chính sách
cho mỗi loại hình tổ chức cụ thể trong lĩnh vực KH&CN. Trên thế có nhiều quan điểm
khác nhau về vấn đề này, tác giả Vũ Cao Đàm tóm tắt 4 mô hình tổ chức KH&CN như
sau:
- Mô hình I: là mô hình cổ điển nhất, trong đó các tổ chức R&D thực hiện trọn
vẹn các giai đoạn của quá trình R&D, còn các doanh nghiệp chỉ làm nhiệm vụ sản xuất
và tiếp tục phát triển công nghệ trong sản xuất. Giữa tổ chức R&D và doanh nghiệp
tồn tại các công ty tư vấn đóng vai trò cầu nối từ R&D tới sản xuất.
- Mô hình II: là một nỗ lực của doanh nghiệp hướng tới làm chủ công nghệ mới
bằng cách tự mình làm triển khai, từ khâu chế tạo vật mẫu sản phẩm mới (prototype),

làm pilot để xây dựng công nghệ và sản xuất loạt “0”, đưa vào sản xuất công nghiệp và
tiếp tục phát triển công nghệ trong sản xuất.
- Mô hình III: tổ chức R&D tạo ra các doanh nghiệp KH&CN (xí nghiệp spinoff), chuyển toàn bộ khâu “triển khai” vào doanh nghiệp này, đồng thời để doanh nghiệp
này kiêm luôn cả chức năng của một công ty tư vấn.
- Mô hình IV: doanh nghiệp KH&CN kéo dài chức năng về phía trước, bắt đầu từ
nghiên cứu ứng dụng qua triển khai tới tư vấn.
Các mô hình
tổ chức
Mô hình I

Nghiên cứu
cơ bản

Nghiên cứu
ứng dụng
Tổ chức R&D

Mô hình II

Tổ chức R&D

Mô hình III

Tổ chức R&D

Mô hình IV

Tổ chức R&D

Triển

khai

Chuyển giao
tri thức

Phát triển
công nghệ

Công ty
tư vấn

Doanh
nghiệp

Doanh nghiệp
Doanh nghiệp KH&CN

Doanh nghiệp KH&CN

Doanh
nghiệp
Doanh
nghiệp

Bảng 1. Các mô hình tổ chức trong hoạt động KH&CN4
Như vậy, tổ chức KH&CN hình thành ở 2 dạng là tổ chức R&D và doanh
nghiệp KH&CN mà ở mỗi mô hình phạm vi hoạt động của các dạng tổ chức này bao
phủ lên các khâu R&D, chuyển giao tri thức và phát triển công nghệ ở những mức độ
khác nhau. Trong đó, tổ chức R&D được tổ chức dưới các hình thức Viện/Trung tâm
R&D, phòng thí nghiệm, trạm quan trắc/nghiên cứu/thử nghiệm,... với nhiệm vụ theo

quy mô tổ chức và phạm vi hoạt động. Tùy theo phân cấp quản lý hành chính các tổ
chức R&D được chia thành:
4

Vũ Cao Đàm (2009), Tuyển tập các công trình đã công bố, Tập II: Nghiên cứu chính
sách và chiến lược, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
21


Các tổ chức R&D cấp quốc gia được thành lập chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN ưu tiên, trọng điểm của nhà nước nhằm cung cấp các luận cứ khoa học cho
việc định ra đường lối, chính sách, pháp luật, tạo ra các kết quả KH&CN mới có ý
nghĩa quan trọng đối với phát triển KT-XH, đảm bảo quốc phòng - an ninh, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về KH&CN. Các tổ chức R&D cấp quốc gia có thể là
Viện Hàn lâm khoa học, Khu công nghệ cao và các tổ chức R&D cấp quốc gia khác.
+ Viện Hàn lâm khoa học là tổ chức nghiên cứu khoa học, trong đó bao gồm
các viện nghiên cứu khoa học với nhiều hướng chuyên môn khác nhau. Ở Việt Nam có
hai cơ quan thuộc loại hình này là “Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam”
và “Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam”.
+ Khu công nghệ cao: là nơi tổ chức các hoạt động phục vụ cho phát triển công
nghệ cao và công nghiệp công nghệ cao gồm: Các tổ chức R&D, các cơ sở đào tạo –
huấn luyện, các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ trong lĩnh vực công nghệ cao
nhằm tiếp thu, đồng hóa cải tiến các công nghệ được chuyển giao, sáng tạo công nghệ
cao mới và sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Ở Việt Nam hiện có một số khu
công nghệ cao như Hoà Lạc, Thủ Đức, Đà Nẵng,... nhưng đang trong giai đoạn hình
thành.
- Các tổ chức R&D của Bộ, cơ quan ngang Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương được lập ra chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ KH&CN phục vụ mục tiêu phát triển
KT-XH của ngành và địa phương, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về KH&CN.
Đó là các Viện nghiên cứu cơ bản; Viện nghiên cứu chính sách; Viện nghiên cứu công

nghệ.
Tổ chức R&D nói trên là do Nhà nước thành lập và được Nhà nước bảo đảm
toàn bộ hoặc một phần kinh phí để thực hiện chức năng của tổ chức R&D. Tổ chức
R&D của Nhà nước được Nhà nước đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư mua sắm trang
thiết bị phục vụ hoạt động KH&CN và các tài sản khác, cấp kinh phí thực hiện các
nhiệm vụ do Nhà nước giao, cấp kinh phí để chi lương và chi hoạt động bộ máy.
- Tổ chức R&D cấp cơ sở thực hiện nhiệm vụ KH&CN theo mục tiêu và nhiệm
vụ do tổ chức, cá nhân thành lập xác định. Đây có thể là những tổ chức R&D của các
doanh nghiệp lập ra để nghiên cứu những vấn đề kỹ thuật - công nghệ làm cơ sở cho
đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh để
tồn tại và phát triển. Những tổ chức NC&TK loại này gồm tổ chức được thành lập bởi
tập thể (trực thuộc các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, doanh nghiệp...) hoặc tư nhân (do các cá nhân thành lập và đăng ký hoạt động)
Các tổ chức R&D thuộc mọi hình thức sở hữu đều được quyền tự chủ về tài
chính nói chung và tự chủ trong tìm kiếm các nguồn tài trợ nói riêng. Tất nhiên, các tổ
chức cung cấp tài chính quyết định tài trợ cho các đề tài, chương trình R&D nào là
hoàn toàn tuy thuộc vào mục đích sử dụng các sản phẩm R&D tương ứng của Nhà tài
trợ đó. Đối với các tổ chức R&D công lập, được Nhà nước lập ra vì những lý do khác
nhau (để phục vụ những mục tiêu chiến lược phát triển đất nước, hoạt động trong
những lĩnh vực quan trọng cần tập trung ưu tiên phát triển, những lĩnh vực mà lực
lượng R&D tư nhân còn non yếu, không đáp ứng ý đồ sử dụng KH&CN của Nhà
22


nước, những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không muốn hoặc chưa muốn tham gia do
thiếu cơ chế thị trường, không hoặc chưa mang lại lợi nhuận hấp dẫn, những lĩnh vực
mà Nhà nước cần quản lý chặt chẽ kết quả nghiên cứu, v.v…) được Nhà nước cung
cấp đủ tài chính để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN có tính chất sứ mệnh.
Chức năng tổng quát của các tổ chức R&D là thực hiện các hoạt động nghiên
cứu và triển khai để tạo ra các sản phẩm bao gồm phát minh, phát hiện, sáng chế đến

từ các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, triển khai thực nghiệm; đồng thời
thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển KT-XH. Ngoài ra, các
tổ chức NC&TK còn thực hiện các hoạt động tư vấn về các lĩnh vực liên quan đến
chức năng chủ yếu của tổ chức. Có thể khái quát một số chức năng chính của tổ chức
R&D như sau5:
- Nghiên cứu khoa học, bao gồm nghiên cứu ứng dụng, triển khai thực nghiệm quy mô
bán công nghiệp để khẳng định chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật công nghệ, tạo công nghệ mới,
chuyển giao công nghệ vào SX-KD.
- Tư vấn chuyên ngành, từ khâu lập dự án tiền khả thi, thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi
công, giám sát thi công, thẩm định các dự án, tư vấn đầu tư, tư vấn về đánh giá tác
động môi trường…
- Sản xuất nhỏ những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Những công nghệ mới
chưa chuyển giao cho sản xuất được thì có thể tổ chức sản xuất nhỏ tại các tổ chức
NC&TK để khẳng định dây chuyền công nghệ và đưa sản phẩm chất lượng cao vào thị
trường.
- Đào tạo công nhân, đào tạo sau đại học, đào tạo nâng cao trình độ quá trình hoạt
động tư vấn, NC&TK.
Tóm lại, tổ chức R&D là một loại hình tổ chức có chức năng cung cấp các kết
luận khoa học ở các mức độ khác nhau, thực hiện chuyển giao công nghệ, tư vấn
và đào tạo về KH&CN nhằm phục vụ cho đời sống - xã hội mà không phụ thuộc
vào thành phần kinh tế, vào cấp quản lý hành chính, vào lĩnh vực KH&CN cụ thể
có chức năng thực hiện một khâu hoặc nhiều khâu trong quy trình R&D.
1.4.

Môi trường và ô nhiễm môi trường

1.4.1. Khái niệm môi trường
Theo nghĩa rộng nhất thì môi trường là một tổ hợp các yếu tố bên ngoài của
một hệ thống nhất định, chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và
tình trạng tồn tại của nó. Môi trường của một hệ thống đang xem xét cần phải có tính

tương tác với hệ thống đó, môi trường chỉ được xác định khi nó có một hệ thống chỉ
thị sự tồn tại. Nếu hệ thống đó là một sinh vật thì môi trường sẽ bao gồm tất cả những
gì bao quanh sinh vật, tất cả các yếu tố vô sinh, hữu sinh có tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp lên sự sinh sống, phát triển và sinh sản của sinh vật. Theo đó, đối với con
5

Đinh Việt Bách, luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý KH&CN, Điều kiện và năng lực tự chủ của các tổ
chức nghiên cứu và triển khai Nhà nước, 2012

23


người thì môi trường là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống,
sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng,
cảnh quan, quan hệ xã hội...
Nghiên cứu ở đây nhìn nhận khái niệm môi trường theo Điều 3 Luật Bảo vệ
môi trường của Việt Nam năm 2014 thì “môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự
nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh
vật."
1.4.2. Ô nhiễm môi trường và an ninh môi trường
Trên thế giới, ÔNMT được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng
vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát
triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao
gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá
chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ, trong
đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân đạt đến mức có khả năng tác động
xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
Tổ chức y tế thế giới (WHO): “ÔNMT là sự đưa vào môi trường các chất thải
hoặc năng lượng ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống sinh vật, sức khỏe con người hoặc
làm suy giảm chất lượng môi trường”

Theo Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam sửa đổi năm 2014: “ÔNMT là sự
biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi
trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.”
ÔNMT tác động lớn và chính yếu là do con người và cách quản lý của con
người. ÔNMT làm thay đổi một cách không mong muốn tính chất vật lí, hoá học, sinh
học của không khí, đất, nước trong môi trường sống, gây tác động nguy hại tức thời
hoặc tương lai đến sức khoẻ, đời sống con người, làm ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất và tái sản xuất, đến các tài sản, văn hoá và làm tổn thất nguồn tài nguyên dự trữ
của con người… ÔNMT là một trong những vấn đề trung tâm, có tính chất toàn cầu,
một trong những mối quan tâm hàng đầu và cấp thiết của các quốc gia, các khu vực
trong thế kỉ XXI này.
ÔNMT là một trong những cơ sở làm nảy sinh tình trạng mất an ninh môi
trường. "An ninh môi trường là việc đảm bảo không có tác động lớn của môi trường
đến sự ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế của quốc gia" (Luật BVMT năm
2014). Một hệ thống môi trường bị mất an ninh có thể do các nguyên nhân tự nhiên
(thiên tai) hoặc do các hoạt động của con người (khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, thải chất độc vào môi trường gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, suy giảm đa
dạng sinh học,...) hoặc phối hợp tác động của cả hai nguyên nhân trên. Như vậy
ÔNMT sẽ đe dọa đến các điều kiện sống tối thiểu của con người, đe dọa sự tồn tại tại
và phát triển của con người, dẫn đến nguy cơ mất an ninh môi trường.
1.5.

Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
24


1.5.1 Khái niệm bảo vệ môi trường
Trước đây, chiến tranh, bệnh dịch vốn được cho là nguyên nhân then chốt dẫn
đến sự tồn vong của con người, các thiết chế chính trị hay tôn giáo đã từng có khả
năng tác động lớn đến số phận của mỗi con người trong xã hội... Từ đó chúng trở

thành các chủ đề thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, của các chính trị gia hay
phần lớn cộng đồng dân cư. Song ngày nay khi thế giới đứng trước một loạt những
thách thức của biến đổi khí hậu toàn cầu, tình trạng khan hiếm các nguyên nhiên vật
liệu trầm trọng, khi con số các sinh vật bị đưa vào “sách đỏ” ngày một dài hơn, và khi
con người nhận thức được rằng quá trình chinh phục tự nhiên của mình đang gặp phải
sự phản kháng, thậm chí có thể nhìn nhận điều đó dưới góc độ của sự trừng phạt thì
nhân loại bắt đầu quan tâm một cách nghiêm túc hơn, các chính phủ bắt đầu có những
hoạt động thiết thực hơn trong các hoạt động bảo vệ môi trường. Không phải chỉ đến
khi những biến đổi trong tự nhiên trở nên rõ rệt, những hậu quả to lớn về mặt KT-XH,
những tổn thất cụ thể về con người xảy ra như hiện nay các học giả mới bắt đầu quan
tâm đến việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ môi trường. Thuật ngữ
ngày nay chúng ta hay nhắc tới “Tăng trưởng hay là chết” đã từng được biến thành
“tăng trưởng và chết” qua một lời cảnh báo hơn 30 năm trước 6. Câu trả lời do nghiên
cứu của các thành viên câu lạc bộ Rome đưa ra đã trở thành tiếng chuông cảnh tỉnh
cho toàn bộ thế giới về hoạt động của con người trong ứng xử với môi trường. Xã hội
phải có những thay đổi căn bản trong hoạt động sống của mình, thậm chí họ còn có
phần tiêu cực khi đưa ra giải pháp là ngừng tăng trưởng để được tồn tại. Tuy nghiên
cứu của họ đưa ra những chỉ báo không hoàn toàn chính xác tính cho tới thời điểm
hiện tại, song những ý tưởng về giới hạn của sự tăng trưởng là một động lực mạnh mẽ
cho sự thay đổi hành vi của con người, làm hài hòa giữa sự phát triển và các điều kiện
môi trường. Đó có thể là một trong những nguyên nhân thúc đẩy hành động của một
xã hội văn mình như nguyên tắc lợi nhuận của giới doanh nghiệp phải tính toán đến
các chi phí môi trường.
Nhận thức được vấn đề này, các quốc gia đã tiến tới hoàn thiện hơn các điều
luật về bảo vệ môi trường, tích cực tham gia vào các công ước quốc tế chống biến đổi
khí hậu và bảo vệ môi trường vì sự sinh tồn. Những nỗ lực trước hết được thể hiện qua
việc đi đến một khái niệm thống nhất về bảo vệ môi trường. Hoạt động bảo vệ môi
trường được qui định trong Luật BVMT năm 2014 của Việt Nam là “những hoạt động
giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường, ứng phó sự cố môi
trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử

dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ cho môi trường trong lành”.
6

Năm1972, tại Tổ chức CLB Rome - nơi thảo luận và sáng tạo của các chuyên gia hàng đầu
thế giới trong nhiều lĩnh vực kinh tế, chính sách, khoa học, môi trường..., ba câu hỏi đã được
đặt ra về vấn đề môi trường và sự phát triển của xã hội loài người :
1. Điều gì sẽ xảy ra nếu quá trình tăng dân số thế giới cứ tiếp tục không được kiểm soát?
2. Sẽ có những hậu quả gì về môi trường nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn giữ nguyên như
thế?
3. Cần phải tiến hành nghiên cứu những gì để bảo đảm cho nền kinh tế toàn cầu đủ nuôi sống
toàn bộ dân số, và cũng đủ để phù hợp với những giới hạn tự nhiên khách quan của Trái đất?

25


×