Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.85 KB, 18 trang )

Mục lục
Lời mở đầu ………………………………………………………………………1
I .Một số vấn đề cơ bản
1) Lí luận nguồn nhân lực……………………………………………………….2
2) Số lượng và chất lượng……………………………………………………….2
II. Vai trò của nguồn nhân lực………………………………………………….4
III. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nguồn nhân
lực………………………………………………………………………………..9
_Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta ………………………………………...9
+) Lợi thế………………………………………………………………………...9
+) Hạn chế……………………………………………………………………….10
IV) Một số giải pháp nhằm giải quyết và khai thác hợp lí vấn đề nguồn nhân lực
1) Về giáo dục đào tạo……………………………………………………………13
2) Tăng cường chặc chẽ sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp……14
3) Thu hút nguồn chất xám và tạo thêm việc làm………………………………14
4) Phát triển con người 1 cách toàn diện……………………………………….15
Kết luận…………………………………………………………………………..15
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………….16

1


LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta là 1 đất nước nghèo, 1 đất nước đang ở trình độ phát triển thấp.
Chúng ta biết điều đó và quyết không cam chịu để sự thấp kém đó tồn tại mãi.
Đảng và nhà nước đã đề ra những chiến lược lâu dài về phát triển kinh tế xã hội
nhằm khắc phục điều đó.Đó là quyết tâm ra sức phấn đấu xây dựng đất nước ta trở
thành 1 nước công nghiệp hiện đại,xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.Xuất phát từ thực tế của đất nước trước và sau đổi mới
cũng như nắm bắt được xu hướng đầu tư,phát triển của các nước trên thế giới,từ
đại hội Đảng lần thứ VI đến nay,Đảng đã nhận thức được 1 cách đầy đủ hơn về vai


trò của nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế xã hội. Mà cụ thể nguồn nhân lực
ở đây chính là con người. trong cương lĩnh xây dưng đất nước của Đảng đã ghi rõ:
“ Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,đồng thời là chủ thể của phát
triển”. Đồng thời, trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội năm 2011- 2020”,
được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ XI,Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định:
“ Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là 1 đột phá chiến lược,là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng
dụng khoa học,công nghệ,cơ cấu lại nền kinh tế,chuyển đổi mô hình tăng trưởng và
là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất,bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững “. Nguồn lực con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất,”quí báu
nhất,có vai trò quyết định ,đặc biệt đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và
nguồn lực vật chất vẫn còn hạn hẹp” .Nó là yếu tố quyết định cho sự thành công
của quá trình công nghiệp hóa ,hiện đại hóa đất nước. Vậy làm sao để phát huy ,sử
dụng hiệu quả tiềm lực quí báu này? Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với đất
nước ta hiện nay. Đó là lí do mà em chọn đề tài “ Vai trò của nguồn nhân lực đối
với phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam”

2


Nội dung
I .Một số vấn đề cơ bản
1)Lí luận nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là toàn bộ những người lao động có khả năng tham
gia vào quá trình lao động và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã hội.
Nguồn nhân lực là 1 yếu tố của sự phát triển kinh tế xã hội bao gồm
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này
nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động.
2) Số lượng và chất lượng
Nguồn nhân lực được xem xét dựa trên 2 khía cạnh số lượng và chất

lượng.Số lượng nguồn lực con người chính là lực lượng lao động và khả năng cung
cấp lực lượng lao động cho sự phát triển kinh tế - xã hội.Dân số, tốc độ tăng dân
số,tuổi thọ bình quân,cấu trúc của dân số,số dân ở độ tuổi lao động… là những chỉ
số về số lượng của nguồn lực con người của 1 quốc gia.Qui mô dân số càng lớn,
tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng
lớn và ngược lại. Tuy nhiên mối quan hệ giữa dân số và nguồn nhân lực được biểu
hiện sau 1 thời gian nhất định (vì lúc đó con người muốn phát triển đầy đủ ,mới có
khả năng lao động.Số lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế- xã hội. Số lượng nguồn lực con người không tương xứng với sự
phát triển(thừa hoặc thiếu) sẽ có tác động không tốt đối với sự phát triển kinh tế xã
hội. Đối với một nước, nhất là đối với các nước đang phát triển thường có tỉnh
trạng thừa nhân lực ,thừa lao động(Việt Nam là 1 ví dụ) ,vấn đề việc làm trở thành
vấn đề được quan tâm hàng đầu trong toàn xã hội.Nạn thiếu việc làm gây ra nhiều
hậu quả và là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến phát sinh nhiều tệ nạn xã hội.
3


Điều này hoàn toàn trái lại ở những nước có tốc độ phát triển cao có nhu cầu lớn về
lao động đặc biệt là lao động có tính chất thời vụ,lao động không cần tay nghề cao
với mức lương thấp hoặc lao động trong những ngành nghề mà bản thân lao động
trong nước không muốn làm. Điều đó buộc các nước phát triển phải nhập khẩu lao
động từ các nước khác đặc biệt là các nước đang phát triển,cũng là cơ hội cho các
nước đang phát triển giải quyết 1 phần nào vấn đề việc làm trong nước.
Yếu tố nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng mà còn xét đến
yếu tố chất lượng. Đấy mới chính là yếu tố quan trọng nhất của nguồn lực con
người,cũng là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội,cũng như sự nghiệp
công nghiệp hóa ,hiện đại hóa đất nước. Chất lượng là một tổng thể những thứ
sau :thể lực,trí lực,kĩ năng làm việc,tay nghề,phẩm chất ,thái độ và phong cách làm
việc…Ngoài ra khi xem xét nguồn nhân lực,cơ cấu của lao động bao gồm cả cơ cấu
đào tạo và cơ cấu ngành nghề cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng. Người ta nói đến

tính vô tận,tính không bị cạn kiệt và tính khai thác không bao giờ hết của nguồn lực
con người chính là nói đến trí tuệ. Trí tuệ con người ngày càng phát triển và có tác
động mạnh mẽ đối với sự phát triển của nhân loại. Nhà tương lai học Mỹ Alvin
Toffler khẳng định rằng mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt,chỉ
có trí tuệ con người là không bao giờ cạn kiệt và “tri thức có tính chất lấy không
bao giờ hết”
Do tầm quan trọng của trí tuệ ,tri thức như vậy ngày nay hầu hết các quốc gia
trên thế giới đều tìm cách nâng cao trí tuệ của đội ngũ lao động. Để nâng cao hàm
lượng tri thức trong đội ngũ người lao động thì các biện pháp về giáo dục và đào
tạo đóng vai trò hết sức quan trọng. Kinh nghiệm lịch sử chỉ ra rằng không một
quốc gia nào,một dân tộc nào trên thế giới có thể trở nên giàu có và có tỉ lệ tăng
trưởng kinh tế cao trước khi đạt được phổ cập giáo dục phổ thông. Quốc gia điển
hình trong trường hợp này là Singapore và Hàn Quốc có tốc độ tăng trưởng kinh tế
4


nhanh trong những năm 70,80 của thế kỉ trước đều đạt mức độ phổ cập giáo dục
tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh.Như vậy số lượng ,đặc biệt là chất
lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật
chất trong xã hội.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng lao động, những
người lao động phải được đào tạo,phân bố và sử dụng theo cơ cấu hợp lí,đảm bảo
tính hiệu quả cao trong sử dụng. Một quốc gia có lực lượng lao động đông đảo,
nhưng nếu phân bổ không hợp lý giữa các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo không
phù hợp với nhu cầu sử dụng thì lực lượng lao động đông đảo đó không những
không trở thành nguồn lực để phát triển mà nhiều khi còn là gánh nặng cản trở sự
phát triển.
II. Vai trò của nguồn nhân lực
Trong biện chứng tự nhiên ,Ph.Ăngghen khẳng định rằng,lao động đúng
là nguồn gốc của mọi của cải vật chất nhưng nếu chỉ một mình lao động thì chưa đủ

để sản sinh ra mọi của cải vật chất. Lao động trong sự kết hợp với giới tự nhiên,cái
cung cấp những vật liệu cho lao động mới tạo ra mọi của cải vật chất.Chính vì vậy
nói nguồn lực con người có vai trò quan trọng quyết định , điều đó không có nghĩa
là tách nguồn lực con người biệt lập với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác.
Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.Bởi lẽ đó , vai trò của nguồn lực con
người được thể hiện với tư cách vừa là chủ thể,vừa là khách thể của các quá trình
kinh tế xã hội. Nguồn lực con người trong quan hệ với nguồn lực tự nhiên và các
nguồn lực khác nổi bật lên với tư cách là chủ thể của sự khai thác,sử dụng.Nguồn
lực tự nhiên và các nguồn lực khác không thể trở thành động lực cùa sự phát triển
kinh tế- xã hội vì bản thân chúng không tham gia trực tiếp vào quá trình này. Chỉ có
con người mới là nhân tố quyết định hiệu quả của việc khai thác và sử dụng nguồn
5


lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Việc khai thác và sử dụng các nguồn lực đó 1
cách hiệu quả sẽ làm tăng sức mạnh đáng kể cho nguồn lực con người. Điều này
thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa các nguồn lực.Đảng ta đã khẳng định : “ Xây
dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa,vì xã hội công bằng,văn
minh, và con người phát triển toàn diện.Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời
là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố phải gắn kết chặt chẽ với đời
sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị,kinh tế,luật pháp,kỉ
cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển.”
Với tư cách là chủ thể , con người không chỉ quyết định hiệu quả của
việc khai thác,sử dụng các nguồn lực tự nhiên và có nguồn lực khác hiện có, mà
còn tạo ra nguồn lực mới góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững trong
tương lai.
Với tư cách là khách thể, con người lại trở thành đối tượng của sự khai
thác,sử dụng,đầu tư và phát triển. Khi nói đến vai trò của nguồn lực con người với
tư cách đối tượng của sự khai thác,sử dụng,người ta nói đến tính chất không bao
giờ cạn kiệt của nguồn lực con người. Mãi cho tới vài thập kỉ gần đây, các nhà kinh

tế,các nhà hoạch định chiến lược của các quốc gia phát triển mới nhận ra rằng
nguồn lực tự nhiên sớm hay muộn cũng bị cạn kiệt bởi sụ khai thác của con người
và chỉ có nguồn lực con người là nguồn lực vô tận,khai thác không bao giờ hết.
Ngày nay, trước sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế giữa các khu vực
trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra tốc độ tăng
trưởng chưa từng thấy.Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế hoá kinh tế thế giới, gây
nên những đảo lộn về chính trị xã hội sâu sắc mang tính toàn cầu và đang đi đến
thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó khu vực Châu Á - Thái Bình
6


Dương đang nổi lên là khu vực kinh tế năng động nhất,có tốc độ phát triển nhanh.
Một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng là
vai trò của nguồn nhân lực.
Thực tế cho thấy nền kinh tế tri thức đóng góp rất lớn vào tốc độ phát triển
kinh tế.Nền kinh tế tri thức là kinh tế dựa trên các trụ cột chủ yếu là công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... Để có được nền kinh tế tri
thức cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển khoa học công
nghệ .Chúng ta phải hiểu rằng đây là thời đại của cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật-công nghệ,vì thế thông tin tri thức trở thành yếu tố không thể thiếu trong thời
đại này.Theo số liệu thông kê năm 1990 chỉ ra rằng,phần đóng góp của thông tin tri
thức trong thu nhập quốc dân của Mỹ là 47,4%,Anh là 45,8%,Đức là 40%.Từ đó
cho thấy nền kinh tế tri thức có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Các
nước muốn phát triển nền kinh tế tri thức cần phải đầu tư cho phát triển con người
mà cốt lõi là phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đầu tư phát triển nhân tài.
Nhà kinh tế học người Mỹ, ông Garry Becker- người được giải thưởng Nobel về
kinh tế năm 1992, đã khẳng định: " không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn
như đầu tư cho giáo dục" (Nguồn: The Economist 17/10/1992).
Đúng như lời Bác đã nói:

“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
Từ xưa Bác Hồ đã nhìn ra tầm quan trọng của việc giáo dục
“Non sông Việt Nam có trở lên tươi đẹp hay không , dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cuơng quốc năm châu được hay không,
chính nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.”(Trích Thư của Bác Hồ gửi
học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên)
7


Nhờ có sự đầu tư đúng đắn cho phát triển nguồn nhân lực mà nhiều nước chỉ
sau một thời gian ngắn đã nhanh chóng trở thành nước công nghiệp phát triển.
Nước ta trong giai đoạn hiện nay đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa ,hiện
đại hóa đất nước .Nước ta tiến hành sau các nước phát triển vì thế thế chúng ta có
thể tiếp thu,học hỏi những bài học, những kinh nghiệm của các nước phát triển
trong khu vực.Điều đó vô cùng bổ ích với nước ta.
Việt Nam là nước đang phát triển có lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, nền
kinh tế tri thức đối với Việt Nam là khái niệm khá mới mẻ.Do vậy, có một số ý kiến
cho rằng nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam hiện nay quá xa và không hiện thực;
cho rằng Việt Nam phải xây dựng xong công nghiệp hoá, hiện đại hoá để làm tiền
đề cho kinh tế tri thức ra đời và phát triển, kinh tế tri thức không chỉ bao gồm các
ngành mới xuất hiện dựa trên công nghệ cao, mà còn cả các ngành truyền thống
được cải tạo bằng khoa học công nghệ cao.Ngay trong giai đoạn này, để phát triển
và theo kịp các nước trên thế giới, chúng ta phải đồng thời phải quan tâm tới những
lĩnh vực mà chúng ta có thể tiếp cận.
Đối với Việt Nam, một đất nước đi lên từ nông nghiệp, rõ ràng chúng ta không
thể và không nên xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức như các nước công
nghiệp phát triển.Thực ra đó là sự tiếp tục quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước ở một trình độ cao hơn, dựa trên chất xám của con người. Mặt khác do
xuất phát điểm của lực lượng sản xuất của ta thấp, mà tiếp cận kinh tế tri thức ở

Việt Nam phải phù hợp với điều kiện hiện tại sẵn có của Việt Nam, tức mang
những đặc thù của mình. Do đó việc xác định nội dung các ngành kinh tế trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuẩn bị các điều kiện vật chất và con người
để tiếp cận kinh tế tri thức trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cấp,
mọi ngành, nhất là các cấp hoạch định chiến lược.Trong việc chuẩn bị ấy việc
nghiên cứu thực trạng mạnh, yếu và tìm ra giải pháp phát triển nguồn nhân lực
trong nước là quan trọng và cấp bách nhất trong giai đoạn hiện nay.
8


Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.Con người có vai trò to lớn không
những trong đời sống kinh tế mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác.Không thể thực
hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hoá nếu không có đội ngũ đông đảo những
công nhân lành nghề, những nhà khoa học tài năng,cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp
vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, những nhà lãnh đạo, quản lý tận tuỵ ,có trách
nhiệm,có tầm nhìn xa chiến lược.
Vào những năm 80 của thế kỉ trước, quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã
trở thành vấn đề quan tâm đặc biệt ở Châu Á - Thái Bình Dương. Con người được
coi là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển. Ngày nay muốn giải quyết hài hoà
các yếu tố cung và cầu có liên quan đến chiến lược phát triển nguồn nhân lực thì
cần xem xét khía cạnh nguồn nhân lực theo quan hệ một phía. Phải thấy được vai
trò sản xuất là vấn đề cốt lõi của học thuyết vốn con người.Và vai trò sản xuất của
nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với vai trò tiêu dùng được thể hiện bằng chất
lượng cuộc sống. Cơ chế nối liền hai vai trò là trả công cho người lao động tham
gia các hoạt động kinh tế và thu nhập đầu tư trở lại để nâng cao mức sống của con
người tạo nên khả năng nâng cao mức sống cho toàn xã hội và làm tăng năng suất
lao động... Các nước nghèo ở Châu Á đều nhận thức do tốc độ tăng dân số quá
nhanh nhiều quốc gia coi việc xóa đói giảm nghèo còn quan trọng hơn cả giáo dục,
đó là một sai lầm.

Vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế ngày càng được khẳng
định trong tất cả các quốc gia trên thế giới.Ở nước ta,nguồn nhân lực lại càng được
nhấn mạnh và được xem như yếu tố nội lực quan trọng nhất để xây dựng đất
nước.Các nguồn lực khác của Việt Nam như nguồn lực tự nhiên về nguồn lực này
Việt Nam không thật sự giàu có,lại chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh ,vì thế
để thực hiện thành công công nghiệp hóa ,hiện đại hóa không có cách nào khác là
phải phát huy và sử dụng đúng đắn vai trò của nguồn lực con người.Tuy nhiên sức
9


mạnh này lại bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó giáo dục có vai trò
quyết định hàng đầu.
III. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực
_Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta
+) Lợi thế
Nước ta có quy mô dân số lớn, xếp thứ 12 trên thế giới; có nguồn lao
động rất dồi dào, đặc biệt là nguồn lao động trẻ ở nhóm tuối từ 16 - 35 (chiếm
65,2% trong dân số).Đây là yếu tố rất quan trọng về mặt số lượng trong cơ cấu,là
điều kiện hết sức cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa ,hiện đại hóa ở Việt Nam.
Tỷ lệ dân số biết chữ chiếm khoảng 90%, riêng lực lượng lao động biết
chữ chiếm khoảng 97% tổng lực lượng lao động. Ngân sách nhà nước chi cho giáo
dục và đào tạo năm 1998 gần đạt 15% và bảo đảm tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho
giáo dục, đào tạo là 15% trong giai đoạn 1998 – 2000.
Tỷ lệ lao động được đào tạo trong tổng lực lượng lao động xã hội tăng lên hàng
năm được thể hiện qua bảng sau:
Năm
1988
1992
1995

1997

Tỉ lệ lao động được đào tạo/tổng lực lượng lao
động xã hội(%)
9,45
11
13,8
16

Nguồn: dự thảo Nghị quyết Trung ương 4 khoá 8- Bộ chính trị.
Tính đến năm 1998, số cán bộ có trình độ cao đẳng , đại học, trên đại học là
trên 930.000 người, trong đó khoảng 10.000 người là cán bộ có trình độ trên đại
học Đội ngũ này chiếm 2,3% lực lượng lao động xã hội.Số sinh viên tốt nghiệp đại
học hàng năm khoảng 25.000 người có học vị trên đại học bổ xung vào nguồn nhân
lực chất lượng cao.Hàng năm ở Việt Nam tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học
trên 1000 dân đang tăng lên.
10


Tiền công lao động ngày càng phản ánh đúng giá trị và giá cả lao động, có tính
đến quan hệ cung cầu lao động lên thị trường sức lao động. Lao động được tự do,
được giải phóng tạo ra động lực mới để mọi người lao động, sáng tạo có năng suất
cao. Nếu ta tiếp tục có chính sách khuyến khích lao động nâng cao tay nghề và
trình độ chuyên môn, sẽ là yếu tố năng lực nội sinh to lớn phát triển nguồn nhân lực
đất nước trong hiện tại cũng như trong tương lai.Đặc biệt con người Việt Nam cần
cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo có khả năng vận dụng và thích ứng nhanh,
không ngại khó khăn, gian khổ
+) Hạn chế
Bên cạnh những ưu thế trên thì nguồn nhân lực nước ta còn rất nhiều hạn chế
chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu CNH-HĐH đất nước trong giai đoạn hiện

nay.Lao động nước ta còn hạn chế về thể lực,sự phát triển về thể lực và sinh lí
dường như còn chững lại. Bảng sau đây sẽ giúp ta có nhìn cụ thể hơn về vấn đề này
Bảng: một số chỉ tiêu về sức khoẻ, y tế của các nước ASEAN.
Chỉ tiêu

Thời gian

Việt Nam

Brunâ

Inđônêxi

Malaixia

Philippin

Thái Lan

Xingapo

y
Tuổi

thọ

bình

quân


63
,4

6
70,4
2670

64,4
2340

4,2

2280

3210

Cung cấp calo
bình quân/người
Tỷ lệ cung cấp

1990
1988-

calo/người

1990

2

_


112

124

108

00

44

thiểu(%)
Tỷ lệ được dịch

1985-

90

96

80

90

75

70

100


vụ y tế(%)
Tỷ lệ được dùng

1990
1988-

27

95

51

72

82

76

100

nước sạch(%)

1991

2220

62
2610

8,7


1992
1988-

so

74
2860

7

10

1

1

với nhu cầu tối

Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người. NXB Thống Kê. Hà Nội 1995.

11


Qua bảng trên ta thấy: các chỉ số của Việt Nam luôn luôn ở mức thấp, có
những chỉ số ở mức thấp nhất trong khu vực. Những chỉ tiêu liên quan và ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất, thể lực của người lao động Việt Nam rất
thấp: Cung cấp cao bình quân đầu người chỉ có 2220 calo, thấp nhất trong khu vực.
Về tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu người so với nhu cầu bình quân tối thiểu, Việt
Nam chỉ cao hơn Thái Lan (100%), Inđônêxa (122%), Xingapo (144%), Philippin

(108%), Malaixia (124%). Một loạt các chỉ tiêu khác liên quan đến y tế, chăm sóc
sức khoẻ của Việt Nam cũng còn ở mức thấp, điều đó lý giải phần nào sự hạn chế
về mặt thể lực của nguồn nhân lực Việt Nam. Cho đến nay thể lực của người lao
động Việt Nam còn chưa đáp ứng được những yêu cầu của nền sản xuất công
nghiệp lớn và đã bộc lộ là một trong những yếu điểm cơ bản của nguồn nhân lực
Việt Nam. Trong những năm trở lại đây chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung đã
được cải thiện nhiều nhưng vần chưa thể đáp ứng được nhu cầu đề ra về thể lực ,trí
lực cũng như trình độ chuyên môn kĩ thuật của các nhà máy, xí nghiệp trong và
ngoài nước.
Xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp, phong cách tư duy con người Việt Nam
còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Sản xuất và quản lý bằng
kinh nghiệm theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác, cụ thế nghề nghiệp và lòng
trung thành để đánh giá kết quả lao động và phân chia thu nhập.Xuất hiện mâu
thuẫn giữa trình độ hiện đại của trang thiết bị kỹ thuật - công nghệ với trình độ lạc
hậu của người sử dụng. Người quản lý người sử dụng công nghệ thì không thể tiếp
thu, càng không thể khai thác có hiệu quả công nghệ, nên giảm hiệu suất của vốn
đầu tư. Số nhân công có trình độ bậc 4 trở lên chỉ bằng 1/3 tổng số công nhân kỹ
thuật, công nhân có trình độ bậc 7 chỉ có 4000 người mà đa phần tuổi đã cao.Thiếu
công nhân kỹ thuật, đặc biệt là công nhân bậc cao là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng
đến quá trình chuyển giao công nghệ, làm giảm hiệu suất sử dụng của thiết bị công
nghệ.Trình độ lao động kỹ thuật nước ta vừa yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp lý về cơ
12


cấu đào tạo, vừa phân bố không đồng đều giữa các ngành, các vùng, các thành phần
kinh tế. Trình độ non kém, lạc hậu về khoa học công nghệ, tác phong lao dộng, kỷ
luật, sự thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, tính từ chịu trách nhiệm cá nhân
thấp,khả năng quản lí khiến cho người lao động Việt Nam không có khả năng cạnh
tranh cao.
Đáng quan ngại Việt Nam sắp thành lập cộng đồng chung Asean khi đó người

lao động các nước Asean tự do làm việc ở nước ngoài . Đó là vừa là thời cơ,vừa là
thách thức với chính nguồn nhân lực trong nước. Vì không chỉ cạnh tranh việc làm
với lao động trong nước mà còn với nước ngoài.Nếu ta biết tận dụng thì kinh tế sẽ
có bước phát triển nhanh nếu không ta sẽ tụt lùi lại. Thật đúng là “con dao hai
lưỡi”. Đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ,số người được đào
tạo mới chỉ chiếm 10% nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động cán bộ có tay
nghề và trình độ kĩ thuật nghiệp vụ cao trong tổng số người lao động chỉ hơn
1,65%,có trình độ cao đẳng trở lên chiếm 30%,50% chưa tốt nghiệp trung học cơ
sở. Một vấn đề không kém phần nhức nhối số người học vấn cao thì giảm thì số
sinh viên đại học, cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên
Về mặt nhà nước cấu trúc đào tạo nguồn nhân lực nước ta không hợp lý cả về
cơ cấu các loại lao động và cơ cấu đầu tư ngân sách giữa các bậc học.Trong thời
gian vừa qua, mặc dù nhà nước đã rất nỗ lực điều chỉnh thực trạng trên nhưng hiệu
qua mang lại chưa cao.Ngân sách chi cho giáo dục của chúng ta còn quá thấp.So
với các nước trong khu vực thì sự đầu tư này còn ít. Chẳng hạn ngân sách dành cho
giáo dục của Xinhgapo là 23%, của Malaixia là 20%... số học sinh trung học (kể cả
trung học chuyên nghiệp) Chiếm 1/4 tổng số học sinh, sinh viên cả nước nhưng chỉ
được đầu tư 8-9% ngân sách giáo dục, trong khi đó số sinh viên đại học chiếm gần
7% tổng số học sinh nhưng lại được đầu tư 15% ngân sách.Điều này là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự bất cập trong hệ thống giáo dục và đào tạo hiện nay
(số liệu từ "Thông tin tài chính" - số 3 tháng2/1998).Nhà nước ta khả năng giải
13


quyết việc làm còn rất hạn chế.Vì vậy mẫu thuẫn cung cầu về số lượng nguồn nhân
lực rất lớn,gây sức ép ngày càng nặng nề lên xã hội.Đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư gây nhiều xáo trộn về xã hội và môi trường
tác động lớn đến cơ cấu vùng của nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực nước ta phân bố không đồng đều giữa các lĩnh vực sản xuất,
giữa các vùng trong cả nước và các ngành kinh tế quốc dân.Ví dụ ở các vùng miền

núi,miền sâu,miền xa thiếu trầm trọng lao động có trình độ,thừa lao động giản đơn
gây nhiều khó khăn cho việc phát triển kinh tế của vùng.Những hạn chế trên của
nguồn nhân lực nước ta cần được khắc phục càng sớm càng tốt bằng mọi biện pháp
và khả năng vốn có trong nước.
IV)Một số giải pháp nhằm giải quyết và khai thác hợp lí vấn đề nguồn
nhân lực
1)Về giáo dục đào tạo:
Để làm điều được điều trên trên thì việc đổi mới giáo dục,đào tạo nguồn nhân
lực là 1 trong những việc cần làm đầu tiên.Trong trình tự giải quyết phải đi tuần tự
từ tiếp tục xoá mù chữ, phổ cập tiểu học, trang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo
nghề từ sơ cấp đến các bậc cao hơn nhưng phải tạo ra một bộ phận người lao động
có chất lượng cao, đặc biệt phải chú trọng đào tạo lao động kỹ thuật, nhằm đáp ứng
nhu cầu của những ngành công nghệ mới, các khu công nghiệp và các khu kinh tế
mở.Việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết. Đảng và nhà nước cần
có chính sách khuyến khích mở rộng và hỗ trợ về kinh phí cho các trường dạy nghề
,tạo điều kiện đưa ra nước ngoài đào tạo nếu cần thiết nhằm thu hút học sinh, sinh
viên, khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của giáo dục đào
tạo. Vì thực tế cho thấy rằng một số ngành được học sinh, sinh viên theo học như
một phong trào, một số ngành thì rất ít người theo học. Giáo dục,đào tạo hiện tại
phải lien kết được 3 nhà: Nhà nước-nhà trường-nhà doanh nghiệp. Kết hợp lí luận
14


với thực tiễn,lí thuyết với thực hành,”học phải đi đôi với hành”. Từ đó cho thấy
giáo dục phải đổi mới mục tiêu,nội dung chương trình và phương pháp đào tạo.
2)Tăng cường chặt chẽ sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần thiết lập mối quan hệ với các trường đại học, cao đẳng
để tham gia ý kiến về nội dung và phương pháp đào tạo.Đối với sinh viên mới ra
trường cần phải có kế hoạch đào tạo , huấn luyện sâu hơn theo mục đích và yêu cầu
đề ra của từng doanh nghiệp.Đây chính là việc gắn kết khả năng với hiện thực-cặp

phạm trù của phép biện chứng duy vật.Khả năng và hiện thực tồn tại một cách chặt
chẽ với nhau trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.Khả năng nào biến
thành hiện thực là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.Nếu thực hiện được các phương
pháp trên thì chất lượng nguồn nhân lực nước ta sẽ được nâng lên.
3)Thu hút nguồn chất xám và tạo thêm việc làm
Nhà nước cần có chính sách đặc biệt để thu hút nguồn lực nước ngoài vào
Việt Nam.Tạo môi trường thuận lợi ,ổn định về chính trị,an ninh, trật tự xã hội. Cần
có những chính sách ưu đãi đặc biệt cho lao động nước ngoài như ưu đãi về
thuế,chỗ ăn ở.. cho phép thành lập các trường đại học,học viện,viện nghiên cứu để
đón kiến thức,kinh nghiệm của thế giới vào Việt Nam.Cần tiếp tục kí kết các hợp
đồng thuê khoán với các tập đoàn thế giới như intel,bosch,IBM,cisso nhằm tạo
công ăn việc làm cho người lao động ,giải quyết phần nào vấn đề nhu cầu việc làm
hiện nay bên cạnh xuất khẩu lao động,góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ.Kêu gọi
kiều bào nước ngoài về góp sức phát triển kinh tế và khoa học nước nhà. Kiều bào
ta ở nước ngoài những người có lượng chất xám rất cao đều chung quan điểm, Nhà
nước cần tạo ra môi trường hợp tác, cần”cởi trói” cho các nhà khoa học để có thể
phát huy hết tiềm lực tri thức(nguồn Do đó
nhà nước cần có chính sách trọng dụng nhân tài, xây dựng đề án các chương trình
hợp tác,khuyến khích các nhà khoa học thương mại hóa chất xám. Một vấn đề nữa
do cơ chế tuyển dụng chưa thật hợp lí, cho nên cơ hội việc làm chưa thực sự trở
15


thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy người lao động hăng say làm việc.Vi thế ngoài
biện pháp tạo cơ hội việc làm cần có một số biện pháp khác nhằm khai thác phát
huy tính tích cực của người lao động.
4) Phát triển con người 1 cách toàn diện
Tiêu chuẩn cơ bản của một con người toàn diện là đức và tài,Bác Hồ đã dạy
chúng ta rằng
“Người có tài mà không có đức là kẻ vô dụng

Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”
Câu nói trên của Người giúp ta hiểu rằng đức là gốc.Do đó chúng ta không chỉ
chú trọng xây dựng mội người lao động giỏi về chuyên môn,mà phải đào tạo những
con người toàn diện có đạo đức tri thức,sức khỏe,trung thành với lí tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội,hình thành và bồi dưỡng nhân cách,phẩm chất,năng
lực,công dân,đáp ứng yêu cầu vừa xây dựng vừa bảo vệ tổ quốc.Nguyên tắc để xây
dựng con người toàn diện là tu dưỡng rèn luyện trong hoạt động thực tiễn. Xây
dựng con người trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Các lĩnh vực khác nhau hỗ
trợ nhau để hình thành cuộc sống mới con người mới toàn diện hơn.Đây chính là
việc áp dụng nguyên tắc toàn diện-một trong những phương pháp luận cơ bản quan
trọng của phép biện chứng duy vật.
Ngoài ra phải nâng cao trình độ kiến thức, khả năng quản lí của nguồn nhân
lực trong đội ngũ lãnh đạo, phân bố hợp lí lao động…

Kết luận
Noí tóm lại, nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình
công nghiệp hóa,hiện đại hóa và phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện
nay.Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định:”Phát triển và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao là
yếu tố quan trọng trong sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Con người
Việt Nam trong thời đại mới phải nêu cao tinh thần trách nhiệm công dân để không
16


ngừng họctập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã
hội, nhất là phải có khả năng làm chủkhoa học - công nghệ, vận dụng đúng đắn,
thành thạo các kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại, các tri thức khoa họcđể lao động
sản xuất giỏi. Hơn nữa, để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao, với cường độ lao
động lớn, đòi hỏimỗi người phải có ý thức rèn luyện sức khoẻ, nâng cao thể lực đủ
sức lao động trong môi trường cạnh tranh gaygắt. Con người Việt Nam hiện nay

ngoài lao động giỏi, trình độ cao..., còn phải coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo
đức,sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng.Cuối cùng,em tin rằng Việt Nam sẽ
thay đổi được chất lượng nguồn nhân lực hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1] Giáo trình triết học Mác Lênin ,NXB chính trị quốc gia
2] Tạp chí xây dựng Đảng-Phát triển nguồn nhân lực trong Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XI 6/6/2014
3] C.Mác và Ph.Ăngghen Tuyển tập tập 1,Nxb Sự Thật,Hà Nội năm 1980
4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ V,Nxb
Sự Thật,Hà Nội năm 1982
5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ VI,Nxb
Sự Thật,Hà Nội năm 1987
6]. Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế xã hội quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
7]. Nghiên cứu nghị quyết của Đảng về vấn đề công nghiệp hoá , hiện đại hoá
đất nước.
8] Dự thảo Nghị quyết Trung ương 4 khoá 8- Bộ chính trị.
9] Chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người. NXB Thống Kê. Hà Nội 1995
10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX,Nxb Chính trị Quốc gia,Hà Nội năm 2001
11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI,Nxb Chính trị Quốc gia,Hà Nội năm 2009
17


12] Trang web />13] Tạp chí The Economist 17/10/1992
14] số liệu từ "Thông tin tài chính" - số 3 tháng2/1998

18




×