Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về dân vận và vận dụng vào công tác dân vận ở tỉnh hải dương luan van thac si

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.06 KB, 129 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quần chúng, công tác vận động quần chúng có vai trò hết sức quan
trọng trong suốt tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam. Ông cha ta đã
tổng kết: "chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân", "Dễ mười lần
không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong". Chủ nghĩa Mác - Lênin
khẳng định: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", " Quần chúng là
người sáng tạo ra lịch sử".
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của dân, của công tác dân vận đối với sự
nghiệp cách mạng, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt
quan tâm tới công tác dân vận. Nhờ đó trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đã tập hợp được đông đảo quần chúng trong Mặt trận dân tộc
thống nhất, phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, đánh thắng hai đế quốc
to là Pháp và Mỹ, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước,
đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, nhờ làm tốt
công tác dân vận, Đảng ta đã bước đầu thực hiện thành công đường lối đổi
mới, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.
Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước luôn diễn biến phức tạp,
khó lường, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá ta quyết liệt về
mọi mặt, chúng thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", "bạo loạn lật đổ"
bằng những hành động kích động quần chúng, chia rẽ dân tộc, tôn giáo hòng
phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ rất nặng nề, tình hình còn diễn biến phức
tạp, trong khi đó, như Đảng ta đã nhận định: một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu,



2
tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu quần chúng, đã ảnh hưởng tiêu cực đến
lòng tin của nhân dân, chia rẽ Đảng với dân, cán bộ với quần chúng đã và
đang đặt ra cho công tác dân vận những khó khăn, thách thức mới. Những vấn
đề trên đã và đang làm ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" mà Đảng và nhân dân
ta đang phấn đấu xây dựng.
Để khắc phục những trở ngại trên, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy mọi nguồn lực, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Đảng ta đã khẳng định: Công tác dân vận là vấn đề cốt tử, trong
đó vấn đề quan trọng hàng đầu là phải nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
nhằm tìm ra phương hướng, giải pháp phù hợp với giai đoạn hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản vô giá mà Người đã để lại cho
Đảng và nhân dân ta, trong đó tư tưởng dân vận là một phần quan trọng trong di
sản đó. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy khi nào, ở đâu vận dụng đúng
đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận nói riêng vào thực tiễn, thì khi đó và ở đó sẽ giành được thắng lợi và ngược
lại.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương, công tác dân vận đã có đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tuy nhiên công tác dân vận chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực tiễn đó đã và đang đặt ra cho công tác dân
vận là phải nghiên cứu, đề ra các phương pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác dân vận, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận và vận dụng vào công tác dân vận ở tỉnh Hải Dương" làm đề tài luận văn
thạc sỹ khoa học chính trị chuyên ngành Hồ Chí Minh học, và hy vọng đóng góp
phần nhỏ bé vào công tác dân vận ở địa phương - nơi tôi đang công tác.


3

2. Tình hình nghiên cứu
Bước vào thời kỳ đổi mới, việc nghiên cứu, học tập, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta luôn luôn quán triệt. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI Đảng ta khẳng định: Muốn đổi mới thắng lợi Đảng phải nắm
vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời
phải kế thừa những di sản quý báu của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã trân trọng ghi trong Cương lĩnh và
Điều lệ: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và dân tộc ta. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX nêu rõ: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, trong đó tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận là một bộ phận trong tư
tưởng của Người. Tư tưởng đó đã và đang được Đảng và nhà nước, các cơ
quan, tổ chức, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và đã có một số công
trình được công bố như: Tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh, của Ban Dân vận
Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận, của TS. Đỗ Quang Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của TS. Thanh Tuyền, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Cán bộ dân vận thấm nhuần lời dạy của Bác
Hồ, của TS. Trịnh Xuân Giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tác
phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi tỏa sáng, soi đường cho
công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới, của TS. Nguyễn Văn Hùng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh với việc
xây dựng kỹ năng, nghiệp vụ công tác dân vận, của Lương Ngọc, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác dân vận của
hệ thống chính trị, của Đinh Hồng Vân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,


4
2005; Học tập tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh, Tạp chí Dân vận, số 5- 2000;

PGS.TS Nguyễn Tri Thư: Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề trong công
tác vận động quần chúng, Tạp chí Dân vận, số 1+2-2000; PGS.TS Hoàng Chí
Bảo: Hồ Chí Minh với quan điểm thực tiễn và phương pháp khoa học về dân
vận, Tạp chí Dân vận, số 10-2000; TS. Phạm Văn Khánh: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về sức mạnh nhân dân và công tác dân vận, Tạp chí Dân vận, số 102003; PGS.PTS Đức Vượng: Đầu Xuân suy ngẫm về dân vận trong sự nghiệp
đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Dân vận, số 1+2-1999; PGS. TS
Bùi Đình Phong: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào việc thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 9-2003; GS.TS Mạnh
Quang Thắng: Dân vận vấn đề luôn luôn mới (qua nghiên cứu tác phẩm "Dân
vận" của Hồ Chí Minh), Tạp chí Lý luận chính trị, số 8-2006; Lại bàn về dân
vận, của GS. Đặng Nguyên Anh, Tạp chí Dân vận, số 1-2003; Dân vận khéo
thì việc gì cũng thành công, của Phạm Thế Duyệt, Tạp chí Dân vận, số 102002; Công tác dân vận là một bộ phận quan trọng của công tác cách mạng,
của Phan Diễn, Tạp chí Dân vận, số 11-2000; Cơ quan nhà nước làm công
tác dân vận như thế nào, của Nguyễn Khánh, Tạp chí Dân vận, số 8-2000;
Giáo trình công tác quần chúng của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2004;.... Các công trình nghiên cứu trên là những tư liệu quý báu để tôi tham
khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận và vận dụng vào công tác dân vận ở tỉnh Hải Dương".
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Khái quát lại những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận; từ việc nghiên cứu tìm hiểu sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận
của Đảng bộ tỉnh Hải Dương những năm gần đây và thực trạng hiện nay, tác


5
giả luận văn mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn xác định mục tiêu, nhiệm vụ

chủ yếu sau đây:
- Khái quát có hệ thống những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận.
- Tìm hiểu và khái quát tình hình công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh
Hải Dương trong những năm gần đây, phân tích thực trạng tình hình công tác
dân vận ở địa phương hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và việc quán triệt, vận
dụng tư tưởng đó vào lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác dân vận của Đảng
bộ tỉnh Hải Dương.
Nghiên cứu tình hình công tác dân vận của Đảng Bộ tỉnh Hải Dương;
tình hình kinh tế - xã hội địa phương từ năm 1996 đến năm 2007.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở hình thành, nội dung cơ bản tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận, nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đó trong lãnh đạo,
chỉ đạo, thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong những
năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin.


6
- Về phương pháp cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử,
lôgíc, phân tích, tổng hợp, so sánh, điền dã...
6. Đóng góp mới của luận văn
- Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, luận văn

bước đầu đánh giá thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hải Dương,
từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận.
- Luận văn mạnh dạn nêu ra phương hướng, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong
thời gian tới.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn là tài liệu tham khảo, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận nói riêng; vận dụng vào công tác
dân vận ở Hải Dương và các địa phương.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


7

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG DÂN VẬN HỒ CHÍ MINH

Bất cứ một học thuyết, tư tưởng nào ra đời đều dựa trên cơ sở lý luận
và thực tiễn, cùng với nhân tố tự thân của người sáng lập ra học thuyết, tư
tưởng đó. Đó chính là nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến quá trình
hình thành và phát triển của một học thuyết, một tư tưởng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận hình thành và phát triển cũng
không nằm ngoài quy luật đó.
1.1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.1. Những giá trị tư tưởng truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa tốt đẹp, đó là: Tinh thần
yêu nước, đoàn kết, tương thân, tương ái,.... Truyền thống đó được hình thành

và phát triển trong quá trình lao động sản xuất và chiến đấu chống giặc ngoại
xâm. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhiều vị
vua hiền, tôi sáng đã nhận thức và đánh giá cao vị trí, vai trò của dân, đề cao
tư tưởng trọng dân, tin dân, thương dân, yêu dân, hòa mình với dân, làm
gương cho dân, chăm lo cho dân, dựa vào dân,.... Ông cha ta nhiều đời kế tiếp
luôn kế thừa, phát huy những tư tưởng tốt đẹp đó để vận động, tập hợp lực


8
lượng của toàn dân tham gia vào công cuộc đấu tranh chống thiên tai, chống
giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng đất nước.
Lý Công Uẩn đã viết trong chiếu dời đô: Muốn mưu việc lớn, tính kế
muôn đời cho con cháu thì trên phải vâng mệnh trời, dưới phải theo dân.... Bệ hạ
vì thiên hạ lập kế lâu dài để trên cho cơ nghiệp to lớn được thịnh vượng, dưới
cho nhân dân được nhiều của nhiều người, việc lớn như thế ai không dám theo.
Lý Thường Kiệt danh tướng đại thần triều Lý, khi làm bài thơ "Thần" để
cổ vũ động viên nhân dân, tướng sỹ quyết tâm đánh giặc giữ nước, ông viết:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Như đẳng hành khan thủ bại hư 6, tr.65.
Lý Thái Tông khi về Bố Hải -Thái Bình, ông xuống cày ruộng, cận
thần can ngăn, ông nói: Trẫm mà không chính mình cày ruộng thì lấy đâu có gạo
làm tế phẩm để thờ cúng nhà tông miếu và lấy gì để nêu gương cho thiên hạ.
Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai (tháng 11/1285), vua Trần Thánh Tông tổ chức hội nghị
Diên Hồng, họp với các bô lão trong nước ở Thăng Long hỏi kế đánh giặc.
Tất cả những người đến dự họp đều đồng lòng hô: " Xin đánh". Điều đó thể
hiện tư tưởng trọng dân, dựa vào dân của vua Trần; tinh thần đoàn kết, ý chí
tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam.
Trần Quốc Tuấn, vị tổng chỉ huy hai cuộc kháng chiến chống quân

Nguyên - Mông thắng lợi, người có công lớn trong sự nghiệp dựng nước ở
đời Trần, khi nói về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến, Ông đã
viết: "Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức". "Cả nước
góp sức" chính là sức mạnh của toàn dân được tập hợp. Lúc sắp mất Ông
còn căn dặn vua Trần Nhân Tông: "Phải làm sao để lòng dân không xa rời


9
mình", phải "khoan thư sức dân để làm kế bền gốc sâu rễ, đó là thượng
sách giữ nước" 50, t.r 80.
Chính nhờ tư tưởng trọng dân, tin dân, yêu thương dân, nhà Trần đã
động viên, lôi cuốn nhân dân vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Trong 30 năm của thế kỷ XIII, quân và dân nhà Trần đã ba lần đánh thắng
quân xâm lược Nguyên - Mông.
Kế thừa những tư tưởng tiến bộ trên, trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh, Tả tướng quân Hồ Nguyên Trừng khẳng định: "Tôi không sợ
đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi" 50, tr.235.
Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, nhà kinh bang tế thế lỗi lạc ở
thế kỷ XV đã nâng tư tưởng thân dân lên một tầm cao mới. Trong "Bình Ngô
đại cáo", ông viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", "Chở thuyền là dân mà
lật thuyền cũng là dân" 87, tr.203. Tuy không xem nhẹ vai trò của vĩ nhân,
nhưng theo ông, vĩ nhân cũng phải được lòng dân mới thành sự nghiệp.
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà tư tưởng đời Lê Trung Hưng ở thế kỷ XVI
từng nói với vua rằng: Nếu vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nhà nát,
xóm nghèo.... Xưa nay nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ
được nước cốt phải được lòng dân.
Đến đầu thế kỷ XX, Cụ Phan Chu Trinh đưa ra bảng "Thất điều trần"
kết tội vua Khải Định, nêu tư tưởng 'trọng dân" đề cao tư tưởng "dân chủ".
Cụ viết: "Nói về học thuyết Tây Âu thì nước là nước của dân, đặt ra triều đình
để chịu phần ủy thác của quốc dân, còn ông vua hay ông quan tổng thống tức

là người đại biểu trong một nước....Ai coi nước nhà như một món của riêng
mình thì ví như bọn trộm cướp, còn ai cậy quyền mà áp chế nhân dân thì ví
như quân phản nghịch" 34, tr.175-176
Cụ Phan Bội Châu một chí sỹ yêu nước nhiệt thành đã từng sang
Trung Quốc, sang Nhật tìm đường cứu nước, cứu dân, Cụ viết những lời tâm


10
huyết gửi quốc dân, đồng bào: " Kẻ làm vua kia, chỉ là người đứng đầu một
làng, là viên quản lý một công ty mà thôi. Nếu nó chết đi thì làng và công ty
vẫn còn đó. Nó cũng chỉ là một phần số người trong một nước, có hay không
một phần số người này, đối với nước có thêm bớt gì đáng kể.... Ta thương yêu
nhất là dân" 11, tr.200. Trong tác phẩm "Hải ngoại huyết thư" Cụ đã chỉ ra
ba nguyên nhân mất nước:
"Một là vua sự dân chẳng biết
Hai là quan chẳng thiết gì dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc, mặc thần với ai"
Đặc biệt là Cụ thấy được vai trò to lớn của dân, không thể thiếu dân:
"Sông xứ Bắc, bể Phương Đông
Nếu không có dân cũng là không có gì".
Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đề cao vai trò của dân, nhưng do
hạn chế của những quan điểm giai cấp nên các Cụ chưa có phương pháp đánh
giá và vận động nhân dân một cách khoa học, chưa thấy được hạt nhân đoàn
kết là công nông nên chưa tập hợp, đoàn kết được lực lượng, không có sức
mạnh nên nghiệp lớn không thành.
Tóm lại: Tư tưởng trọng dân, tin dân, dựa vào dân, ... của ông cha ta là
những cơ sở tư tưởng để Hồ Chí Minh tiếp thụ, kế thừa trong quá trình xác
định quan điểm về vai trò của quần chúng và ý nghĩa của công tác vận động
quần chúng, để hình thành nên tư tưởng dân vận của Người.

1.1.1.2. Những giá tư tưởng tiến bộ trong truyền thồng văn hóa
phương Đông, phương Tây
Tư tưởng tiến bộ trong truyền thống văn hóa phương Đông


11
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, Người
sớm có điều kiện tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Đông, đặc biệt là tư tưởng
của Nho giáo và Phật giáo.
Trong tư tưởng Nho giáo: Trọng Dân hơn trọng Thần là một tư tưởng
tiến bộ thời Trung Hoa cổ đại. Sách "Tả truyện" thời Xuân Thu có viết: "nước
đang thịnh là vì nghe dân, nước sắp mất là vì nghe thần"; "Dân là chủ của
thần, cho nên kẻ thánh vương trước hết phải làm yên vui được dân, rồi mới
cúng tế thần"; "Cái mà dân muốn, trời đất phải theo"93, tr.49
Dân là gốc của nước, Dân là quý nhất, do đó phải làm thế nào để được
lòng dân. Quan hệ giữa dân với nước, với vua, đã được một số nhà triết học
Trung Hoa thời cổ đại đúc rút thành bài học kinh nghiệm quý báu và được ghi trong
một cuốn sách kinh điển của Nho giáo, đó là: Kinh Thư (hay còn gọi là Thượng
Thư). Sách này viết: "Dân là gốc của nước, gốc vững thì nước yên" 93, tr.260.
Những tư tưởng đó được Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mạc Tử kế thừa và
phát triển. Khổng Tử không chỉ đề cao vai trò của dân, mà Ông còn nhấn
mạnh trách nhiệm của vua đối với dân. Theo Ông, vua muốn có sức mạnh, trị
vì được đất nước thì vua phải được lòng dân. Muốn được lòng dân thì phải:
Thứ nhất, phải biết dưỡng dân, tức là phải biết chăm lo cải thiện đời sống cho
dân, phải biết sử dụng sức dân vào những công việc phù hợp, khi mất mùa
phải biết giảm thuế cho dân,... Thứ hai, phải biết giáo dân, tức là phải biết
cách làm cho dân hiểu và tự giác làm. Ông còn nói, muốn giáo hóa cho dân
thì trước hết mình phải tự giáo hóa mình trước. "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ" theo Khổng Tử là như vậy.
Mạnh Tử cũng rất đề cao vai trò của dân trong mối quan hệ với vua và

trong cách đánh giá vai trò của dân với xã tắc, với vua. Ông nói: "Dân vi quý, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh" 91, tr.352, tức là: dân là quý nhất, xã tắc là thứ yếu,
vua là thường. Ông cho rằng vua (nhà cầm quyền) phải có lòng thương yêu dân,


12
chân thật với dân, vui sự vui của dân, lo sự lo của dân; như thế dân mới thương
yêu mình, vui sự vui của mình, lo sự lo của mình, sẵn sàng chết vì mình. Ông đề
cao trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân, coi việc cải thiện, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho dân là trách nhiệm của nhà cầm quyền.
Đề cao vai trò của dân, Tuân Tử cho rằng: "Trời sinh dân không phải
vì vua, mà trời lập ra vua là để vì dân" 80, tr.267. Ông ví, dân như nước, vua
như thuyền, nước chở thuyền và nước cũng lật thuyền.
Hồ Chí Minh còn nghiên cứu và tiếp thu tư tưởng, quan điểm về Chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn về dân tộc - độc lập, dân quyền - tự do,
dân sinh - hạnh phúc. Đó là những tư tưởng tiến bộ, có ý nghĩa lớn trong việc
tập hợp lực lượng. Sự tiếp thu, vận dụng được thể hiện trong quốc hiệu của
nước Việt Nam: "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc".
Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp thu
những tư tưởng tiến bộ của Phật giáo Người nhận xét, đạo phật của Thích Ca
Mầu Ni có ưu điểm là tinh thần từ bi, cứu khổ, cứu nạn, cứu chúng sinh ra
khỏi khổ nạn. Đó là tinh thần lục hòa: Thân hòa đồng trụ, Ngôn hòa đồng
hiệp, Ý hòa đồng duyệt, Giới hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giác, Lợi hòa đồng
quân. Hiểu một cách tổng quát, nghĩa là khuyên mọi người chung sống vui vẻ,
nói năng, ý trí thuận hòa, biết cùng nhau chia sẻ vui buồn, thương yêu lẫn
nhau, chớ làm những việc mất lòng nhau.
Tư tưởng tiến bộ trong truyền thống văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc tư tưởng nhân văn trong hệ tư tưởng
tư sản, đó là: "tự do, bình đẳng, bắc ái", tư tưởng mà giai cấp tư sản đã sử
dụng để tập hợp lực lượng lật đổ chế độ phong kiến. Vì thế, khi tìm đường

cứu nước, Người đã chủ động tìm hiểu những tư tưởng tiến bộ được thể hiện
trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của cách mạng tư sản Pháp (1789). Đó là: quyền tự do, bình đẳng.


13
Người cho rằng đó là những quan điểm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân
loại. Nhưng Người cũng đưa ra nhận xét: Sau khi nắm được chính quyền, giai
cấp tư sản đã đi ngược lại những tư tưởng tốt đẹp đó; cách mệnh thành công
nhưng nhân dân vẫn cực khổ, nhân dân vẫn cứ lo tính làm cách mệnh lần nữa.
Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng tiến bộ của Thiên Chúa giáo, đó là lòng
nhân ái, đức hy sinh, yêu thương tất cả mọi người, sống lương thiện. Người
đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người, không gợn chút riêng tư. Đối với cán bộ, đảng viên,
Người luôn tuyên truyền giáo dục về lòng thương người, thương dân, thương
các chiến sỹ ngoài mặt trận.... Đó là những tư tưởng thấm đượm những giá trị
cao cả mang tính nhân loại mà ta có thể tìm thấy trong tư tưởng Thiên Chúa
giáo.
Hồ Chí Minh nghiên cứu văn hóa phương Đông, phương Tây, tiếp thu
những nhân tố tích cực, vận dụng và phát triển những nhân tố đó phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh mới, hình thành nên tư tưởng dân vận của mình, đồng thời cũng
nhận thức rõ những hạn chế trong tư tưởng văn hóa phương Đông và phương Tây.
1.1.1.3. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần
chúng và công tác vận động quần chúng trong cách mạng vô sản
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác Lênin và đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga. Người khẳng định,
chủ nghĩa Mác - Lênin là "chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mạng nhất, khoa học nhất" 54, tr 268; là "cẩm nang thần kỳ"; là "kim chỉ
nam"; là ngọn đèn pha soi sáng con đường đấu tranh giành độc lập cho dân
tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách

mạng là sự nghiệp của quần chúng, sức mạnh của quần chúng nhân dân là vô
cùng to lớn, song sức mạnh đó chỉ có thể có được khi quần chúng được tập


14
hợp, tổ chức lại, có sự đoàn kết chặt chẽ với nhau, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản. Đảng cộng sản là người lãnh đạo nhưng nếu không có quần
chúng thì không có lực lượng; ngược lại, quần chúng không có Đảng lãnh đạo
thì đó cũng chỉ là một tập hợp người không có sức mạnh, mọi phong trào của
quần chúng chỉ là phong trào tự phát. Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng
là mối quan hệ tự nhiên, Đảng phải có quần chúng mới có lực lượng, quần
chúng cần có Đảng mới có người dẫn đường, chỉ lối. Để có lực lượng Đảng
phải tiến hành công tác vận động quần chúng, đó là một công tác cực kỳ quan
trọng của Đảng, quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng.
Nghiên cứu cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động chống giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột nhằm lật đổ sự thống trị của
giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột, xây dựng một xã hội mới văn minh
hơn, tiến bộ hơn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: Các cuộc cách mạng
đó muốn thắng lợi phải có hai yếu tố cơ bản: Thứ nhất, cuộc đấu tranh đó phải
do giai cấp công nhân lãnh đạo, giai cấp công nhân phải tự tổ chức ra được
chính đảng độc lập của mình. Thứ hai, bản thân quần chúng phải tự giác tham
gia vào cuộc đấu tranh ấy, phải hiểu rõ đó là vấn đề gì và vì sao mình phải
tham gia vào cuộc đấu tranh ấy. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, các cuộc cách
mạng không phải do một cá nhân hay một nhóm quần chúng không tự giác
tiến hành, mà phải do giai cấp công nhân mà đội tiên phong là đảng cộng sản,
được trang bị lý luận tiên phong, biết giáo dục, thuyết phục, giác ngộ và tập
hợp quần chúng lãnh đạo. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng muốn tập
hợp được quần chúng, muốn quần chúng hiểu rõ mình phải làm gì, làm như
thế nào và tự giác mà làm thì các đảng phải tiến hành một công tác lâu dài và
kiên nhẫn. Đó chính là công tác dân vận của đảng, một công tác không thể

thiếu đối với đảng, với cách mạng. Đó cũng là công tác khó khăn, lâu dài,
phức tạp, quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Phải nhận


15
thức rõ, thời kỳ cách mạng khác nhau phải có những hình thức, nội dung vận
động cho phù hợp. Trong tác phẩm "Đấu trang giai cấp ở Pháp từ 1848 đến
1850", ở Lời nói đầu, C.Mác viết:
Đã qua rồi, thời kỳ những cuộc đột kích, thời kỳ những cuộc cách
mạng do những nhóm thiểu số tự giác cầm đầu những quần chúng
không tự giác tiến hành. Ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo
hoàn toàn chế độ xã hội, thì bản thân quần chúng phải tự mình tham
gia vào công cuộc cải tạo ấy, phải tự mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành
đấu tranh, vì sao mình phải đổ máu và hy sinh tính mạng 52, tr.775.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng quần chúng có sức mạnh vô
cùng to lớn, nhưng sức mạnh đó chỉ được phát huy khi họ được tập hợp, tổ
chức lại, có sự đoàn kết, thống nhất, có sự lãnh đạo, nếu không đó cũng chỉ là
một tập hợp người không có sức mạnh, mọi hoạt động của họ chỉ là hoạt động
tự phát. Trong tác phẩm "Tuyên ngôn của đảng cộng sản" C.Mác và
Ph.Ăngghen viết: "Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là
mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô
sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản
giành lấy chính quyền" 51, tr.615, và hai Ông nêu khẩu hiệu kêu gọi: "Vô
sản tất cả các nước, đoàn kết lại!" 51, tr.649.
Kế thừa, vận dụng và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen,
V.I.Lênin tiếp tục khẳng định: Chúng ta cần có những đảng có liên hệ thực tế
thường xuyên với quần chúng và biết lãnh đạo những quần chúng đó. Người
cho rằng:
Muốn phục vụ quần chúng và đại biểu cho lợi ích được nhận
thức một cách đúng đắn của họ, thì đội tiên phong, tức là tổ chức,

phải tiến hành toàn bộ hoạt động của mình trong quần chúng, vừa
thu hút ở trong quần chúng tất cả mọi lực lượng ưu tú nhất, không


16
trừ một lực lượng nào, vừa kiểm tra trên mỗi bước đi, một cách cẩn
thận và khách quan, xem mối liên hệ với quần chúng có được giữ
vững không, mối liên hệ đó có mật thiết không. Như thế, và chỉ có
như thế, đội tiên phong mới giáo dục và giác ngộ được quần chúng,
đồng thời đại biểu cho những lợi ích của họ, dạy cho họ biết tổ chức
lại, hướng toàn bộ hoạt động của quần chúng đi theo một đường lối
chính trị giai cấp tự giác 42, tr.51.
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
quần chúng nhân dân có sức mạnh vô cùng to lớn, để phát huy được sức mạnh
to lớn đó cần phải tổ chức, tập hợp, giác ngộ họ, để họ có ý thức và hoạt động
một cách tự giác. Lênin khẳng định:
1) không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc
được nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục
gồm những người lãnh đạo; 2) Càng có đông đảo quần chúng được
thu hút tự phát vào cuộc đấu tranh, tạo thành cơ sở cho phong trào
và tham gia phong trào, thì càng cần thiết phải có một tổ chức như
thế và tổ chức ấy lại càng phải vững chắc (nếu không thì bọn mị dân
sẽ dễ lôi cuốn được những tầng lớp lạc hậu trong quần chúng); 3)
một tổ chức như thế thì chủ yếu phải gồm những người lấy hoạt
động cách mạng làm nghề nghiệp của mình 41, tr.158- 159.
"Một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là
khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phán đoán được
về mọi cái và đi vào hành động một cách có ý thức" 43, tr.23. Nhận thức rõ
vấn đề đó, V.I.Lênin khẳng định: "Hãy cho chúng tôi một tổ chức những
người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên!" 41, tr.162.



17
Để vận động, tập hợp được đông đảo quần chúng tham gia, theo
V.I.Lênin cần phải sử dụng nhiều phương pháp, trong đó có một số phương
pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền,giáo dục, thuyết
phục. Đây là phương pháp và cũng là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của các
đảng cộng sản. Người nói: "phải thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự
đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình" 44, tr.208.
Thứ hai, phải bằng phương pháp nêu gương; phải coi đây là phương
pháp có ý nghĩa xây dựng niềm tin nhằm động viên, tập hợp quần chúng có
hiệu quả nhất. V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng trong công tác vận động quần
chúng tuyệt đối không được dùng mệnh lệnh. Người thẳng thắn phê phán một
số cán bộ, đảng viên, một số tổ chức thiếu gương mẫu, không hoặc rất ít dùng
những điển hình, những tấm gương cụ thể, sinh động trong mọi lĩnh vực của
đời sống để giáo dục quần chúng.
Thứ ba, phải dân chủ, công khai. Theo V.I.Lênin đây là phương pháp
có tác dụng phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, động viên được
mọi nguồn lực của quần chúng, bảo đảm cho cách mạng thắng lợi.
Thứ tư, phải sát thực tế, gần gũi với quần chúng, lắng nghe ý kiến của
quần chúng, nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách và biện pháp thực hiện có hiệu quả. Đảng là
người tập hợp, lãnh đạo quần, không hiểu đối tượng lãnh đạo thì không thể tập
hợp, lãnh đạo được. Vì vậy, Người đề nghị phải tìm mọi cách để duy trì, phát
triển và mở rộng hội nghị công nhân, nông dân ngoài đảng; thông qua những hội
nghị như thế, Đảng có thể "nhận xét tâm trạng của quần chúng, gần gũi họ, giải
quyết những nhu cầu của họ, giao cho những phần tử tốt nhất trong số họ đảm
nhiệm những chức vụ trong bộ máy nhà nước, v.v.". 46, tr.39.
Tóm lại: Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quần chúng

và công tác vận động quần chúng là những quan điểm lý luận đúng đắn, khoa


18
học. Nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng tạo những quan điểm ấy vào thực
tiễn là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng nhằm xây dựng, bồi dưỡng những
nhân tố thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác Lênin, xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô
sản, con đường đó hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò, sức mạnh của
quần chúng thực sự trở thành thế giới quan khoa học, cơ sở phương pháp luận
giúp Hồ Chí Minh hình thành tư tưởng dân vận của Người.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Vào cuối thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai
đoạn suy tàn, triều đình nhà Nguyễn đã thi hành chính sách chuyên chế phản
động, nhằm củng cố quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến, tăng cường áp
bức bóc lột nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động. Mâu thuẫn cơ bản
trong xã hội lúc này là mâu thuẫn giữa nhân dân -chủ yếu là nông dân - với
giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng gay gắt, nông dân và các tầng lớp nhân
dân đã vùng lên đấu tranh, các cuộc đấu tranh của nông dân liên tiếp nổ ra,
nhưng đều bị thất bại. Chính lúc ấy, thực dân Pháp lại chuẩn bị tiến hành xâm
lược nước ta.
Giữa thế kỷ thứ XIX ( tháng 5-1858), đế quốc Pháp bắt đầu nổ súng
xâm lược nước ta. Triều đình nhà Nguyễn, đại biểu cho thế lực phong kiến
thống trị thối nát và phản động đã đầu hàng từng bước và đến năm 1884,
chúng hoàn toàn bán nước ta cho thực dân Pháp. Từ khi đặt ách thống trị trên
đất nước ta, thực dân Pháp đã thực hiện nhiều chính sách rất thâm độc và xảo
quyệt, trong đó có chính sách "chia để trị", với hy vọng phá hoại tình đoàn
kết, nghĩa đồng bào trong lòng người dân Việt Nam và tạo ra những mối xung
khắc giữa các dân tộc, các vùng miền trên đất nước ta. Chúng chia nước ta ra



19
làm ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau nhằm chia rẽ dân tộc, gây thành
kiến giữa người Bắc, người Trung với người Nam; chia rẽ đồng bào miền
xuôi với đồng bào miền ngược; đồng bào theo đạo với đồng bào không theo
đạo. Chúng còn gây thù hằn dân tộc giữa các dân tộc trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam, giữa ba dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương. Thực tế
đó đặt ra cho cách mạng Việt Nam phải đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu
nước để chống lại bọn thực dân và bè lũ tay sai, giành lại độc lập cho dân tộc,
tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Ngay từ khi thực dân pháp xâm lược nước ta, nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo kiên cường của Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, ... đã nhất tề
cầm vũ khí đứng lên đánh giặc cứu nước. Khi triều đình nhà Nguyễn đầu
hàng, nhân dân ta dưới ngọn cờ yêu nước của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám,... vẫn liên tiếp nổ ra, nơi này chưa bị dập tắt thì nơi kia đã vùng dậy
đấu tranh. Mặc dù những người lãnh đạo rất kiên quyết, quần chúng đấu tranh
rất anh dũng, nhưng vẫn không giành được thắng lợi.
Sang đầu thế kỷ thứ XX, phong trào dân chủ tư sản trên thế giới, đặc
biệt là phong trào cải cách ở Trung Quốc, phong trào duy tân ở Nhật Bản đã
tác động vào Việt Nam. Phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra và phát triển
ngày càng mạnh mẽ, dưới sự lãnh đạo của những sỹ phu yêu nước, tiêu biểu
như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, ... Tuy phong trào phát triển mạnh mẽ,
nhưng do không có đường lối chính trị đúng đắn, không tập hợp, thống nhất,
đoàn kết được lực lượng toàn dân; rơi vào sai lầm. Trần Dân Tiên trong tác
phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh" đã
nhận xét về con đường cứu nước của hai cụ như sau: "Phan Châu Trinh chỉ
yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương... chẳng khác gì xin giặc rủ lòng
thương"; còn "Phan Bội châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất
nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau"" 84, tr.10.

Quả thật, về sau nhà cầm quyền Nhật đã cấu với Pháp phá hại, làm tiêu tan sự


20
nghiệp và con đường mà hai cụ đã lựa chọn. Thực tế đó đặt ra cho dân tộc
Việt Nam là phải có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc, đem
lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh của
các nhà cách mạng tiền bối, nhưng Người cũng nhận thấy những hạn chế của
các nhà yêu nước trong việc xác định đường lối, đặc biệt là trong các chủ
trương vận động, tổ chức quần chúng, tập hợp lực lượng và Người quyết định
không đi theo con đường của những người đi trước mà quyết chí ra đi tìm con
đường mới để cứu nước, giải phóng dân tộc.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc. Người đã tiến hành những công việc cực kỳ trọng đại, một
quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, hoạch định đường lối, quan điểm, quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam, trong đó những quan điểm tư tưởng về vai trò của quần
chúng và công tác vận động quần chúng, như Người và Đảng ta thường gọi là
công tác dân vận - là một bộ phận quan trọng.
Kể từ khi có Đảng, dưới sự lãnh đạo của Người và Đảng ta, công tác
dân vận đã được thực hiện một cách khoa học, đúng đắn, phù hợp với thực
tiễn kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam và có hiệu quả cao. Đó là một trong
những nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc những năm 1930 - 1945 và Cách mạng Tháng Tám 1945;
trong ba mươi năm chiến tranh cách mạng chống thực dân Pháp xâm lược và
chống Mỹ cứu nước. Phải khẳng định rằng, thực tiễn cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Người và Đảng ta đã cung cấp những dữ liệu để từ đó
Người khái quát thành những quan điểm, tư tưởng về dân vận, để ngày nay



21
Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo trong công cuộc đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, phong trào cách mạng Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm
lược đến đầu thế kỷ XX phản ánh tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm chống
giặc ngoại xâm của nhân dân ta, bất chấp mọi hành động khủng bố, đàn áp dã
man của kẻ thù; thể hiện nguyện vọng độc lập, tự do của nhân dân ta. Hồ Chí
Minh nhận thức rõ khát vọng cháy bỏng đó của cả dân tộc, nhận thấy được
những hạn chế của những nhà yêu nước trước đó trong chủ trương vận động,
tập hợp lực lượng và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử
dân tộc trong các giai đoạn cách mạng sau này
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, hòa mình vào cuộc sống
của những người lao động và phong trào đấu tranh của quần chúng lao khổ ở
nhiều nước tư bản, nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đã thực
hiện một cuộc nghiên cứu, khảo nghiệm trên bình diện thế giới. Thực tiễn thế
giới khi đó là: Chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn cao, trở thành chủ
nghĩa đế quốc, các nước tư bản cấu kết với nhau đi xâm chiếm, đàn áp, áp
bức, bóc lột các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, nhưng do bản chất của chủ
nghĩa đế quốc nên sự liên kết, hợp tác đó chỉ là tạm thời, cá lớn nuốt cá bé.
Khi nghiên cứu các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, Người nhận thức rõ: các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có sức mạnh vĩ đại vì họ bị thực dân đế quốc
đàn áp, áp bức, bóc lột một cách dã man, tàn bạo; họ đã đứng lên đấu tranh,
nhưng không giành được thắng lợi, vì trong cuộc đấu tranh đó, họ chưa biết
liên hiệp, đoàn kết chặt chẽ lại với nhau, chưa biết tổ chức, nên không có sức
mạnh. Trong khi đó chủ nghĩa đế quốc nhất quán thực hiện chính sách "chia để
trị" trên bình diện mỗi nước và trên toàn thế giới. Vì vậy, muốn có sức mạnh để
chiến thắng kẻ thù thì các giai cấp bị áp bức, bóc lột, các dân tộc trên thế giới
phải đoàn kết nhau lại.



22
Đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu
phong trào cách mạng ở Trung Quốc; nghiên cứu phong trào đấu tranh đòi
độc lập ở Ấn Độ. Người đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích, trong đó
có bài học kinh nghiệm về tập hợp lực lượng yêu nước, tiến bộ để tiến hành
cách mạng, giành chính quyền.
Hồ Chí Minh nghiên cứu kinh nghiệm công xã Paris, tìm hiểu nguyên
nhân dẫn đến sự thất bại của công xã. Người nghiên cứu Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 và rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong
đó có bài học về huy động tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân, tạo thành
sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù.
Tóm lại, những giá trị tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam,
những giá trị nhân văn, nhân bản trong truyền thống văn hóa phương Đông,
phương Tây, chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế
giới là những nhân tố khách quan chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận, trong đó chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng, là hạt nhân.
1.1.3. Nhân tố tự thân Hồ Chí Minh
Tư tưởng của một vĩ nhân được hình thành trên cơ sở những nhân tố
khách quan, đồng thời phải có những nhân tố chủ quan như hoạt động thực
tiễn, năng lực tổng kết, khái quát, nhân cách, đạo đức...của chính vĩ nhân đó,
đó là điều có tính quy luật. Hồ chí Minh đã thể hiện một phẩm chất cá nhân
hết sức tiêu biểu. Đó là một người sống có hoài bão, có lý tưởng, có bản lĩnh,
giàu lòng nhân ái. Người từng nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" 56,
tr.161. Là người yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị khổ đau, bị áp
bức; Người sớm có chí hướng cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã tin tưởng
tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân.



23
Là người có bản lĩnh kiên định, kiên cường trong đấu tranh vì mục
tiêu lý tưởng đã chọn, Hồ Chí Minh đã có đã có bước chuyển biến tư tưởng
mang tính đột phá, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, tìm
thấy con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam con đường cách mạng vô sản.
Mặc dù bị bắt bớ, tù đầy gian khổ; bị các quan điểm tả khuynh của Quốc tế
Cộng sản và của Đảng ta những năm 1930 - 1935 chi phối, nhưng Người vẫn
kiên định, bền bỉ đấu tranh cho mục tiêu lý tưởng đã chọn. Người còn là một
biểu tượng mẫu mực về đạo đức, lối sống, tác phong công tác và có nghệ
thuật cảm hóa mọi người.
Là người ham học hỏi, nghiên cứu lý luận, kiên trì rèn luyện trong
thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh đã tích lũy được những kinh nghiệm, tri
thức vô cùng phong phú của thời đại, nắm vững nguyên lý lý luận, yêu cầu
của thực tiễn. Thông qua thực tiễn phong phú và sinh động, Hồ Chí Minh đã
nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, tổng hợp, khái quát thành những luận điểm
đúng đắn và sáng tạo, hình thành nên tư tưởng của mình nói chung và tư
tưởng dân vận nói riêng.
Ngay khi còn nhỏ ở trong nước, Người đã chứng kiến cảnh đàn áp dã
man của thực dân Pháp đối với những người yêu nước Việt Nam, cảnh sống
cơ cực, đói rách của nhân dân lao động, cuộc sống xa hoa của thực dân Pháp
và quan lại tay sai, Người tham gia phong trào biểu tình chống thuế của nhân
dân Trung Kỳ. Khi ra đi tìm đường cứu nước, Người đã chứng kiến những
cảnh đàn áp, áp bức tàn nhẫn, dã man của chủ nghĩa đế quốc, thực dân đối với
nhân dân lao động. Thông qua nhiều hoạt động thực tiễn phong phú, với
những điều mắt thấy tai nghe, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: Ở đâu, thực
dân và tư bản cũng đều tàn ác, vô nhân đạo; xã hội tư bản là xã hội đầy dẫy sự
áp bức, bóc lột; ở đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc
lột dã man, bị ngược đãi; giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng



24
là bạn; các thuộc địa đều có kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Từ
đó, Người khái quát: "Dù mầu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối
tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản" 53, tr.266. Khi thay mặt những
người Việt Nam yêu nước gửi đến Hội nghị Vécxây bản yêu sách của nhân dân
An Nam, nhưng không được chấp nhận, Người rút ra kết luận: "Muốn được
giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng
của bản thân mình" 84, tr.33.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN, DÂN VẬN

1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân và vai trò của dân
trong sự nghiệp cách mạng
Dân là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong các chế độ xã
hội, nhưng nội hàm của nó có sự khác nhau. Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển
những yếu tố tích cực trong quan niệm về dân trong các chế độ xã hội truớc,
đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân, Người đã đưa ra một
quan niệm về dân rất đơn giản, dễ hiểu, nhưng lại rất sâu sắc.
Theo Hồ Chí Minh "Dân" là những người sống trong cùng một cộng
đồng quốc gia dân tộc, có chung một nguồn gốc, một cội nguồn, nên có lúc
Người gọi là "đồng bào", "quốc dân", "con Lạc, cháu Hồng", "con Rồng cháu
Tiên". "Dân" gồm đủ các dân tộc, tôn giáo: "Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán...,
lương, giáo" 55, tr.553, là tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội: "sĩ,
nông, công, thương, binh"57, tr.444 , là tất cả mọi người, không phân biệt
già - trẻ, trai - gái, giàu -nghèo, sang - hèn có lòng yêu nước, một lòng một dạ
đi theo Đảng cộng sản Việt Nam làm cách mạng giải phóng dân tộc, đem lại
tự do, hạnh phúc cho mọi người. Hồ Chí Minh quan niệm về dân như vậy,
nhưng không có nghĩa là Người xem nhẹ vấn đề giai cấp, mà ngược lại Người

luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Khi xác định lực


25
lượng của cách mạng, Người vẫn nói: "công nông là gốc cách mệnh; còn học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ...chỉ là bầu bạn cách mạng của công nông"
54, tr.266, muốn cách mệnh thành công thì phải có Đảng cách mệnh, Đảng
phải tập hợp những phần tử ưu tú của công nhân, nông dân và trí thức.
Theo Hồ Chí Minh "Dân" là tất cả mọi người, nhưng không bao hàm
bọn phản quốc, bọn tai sai bán nước hại dân, những kẻ đi ngược lại lợi ích,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân, đó là kẻ thù của dân.
Trong nhiều bài viết, bài nói, Hồ Chí Minh dùng thuật ngữ quần
chúng, cũng đồng nghĩa với "Dân" trong dân vận. "Dân" là các tầng lớp nhân
dân yêu nước, có tổ chức, phân biệt với bộ phận cầm quyền, lãnh đạo. Đó là
lực lượng rất quan trọng trong mọi cuộc cách mạng mà Hồ Chí Minh luôn
luôn trân trọng.
Quan niệm về "Dân" của Hồ Chí Minh được thể hiện và sử dụng để
chỉ mọi người thuộc các dân tộc sống trên dải đất Việt Nam, không phân biệt
nòi giống, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, chỉ trừ những kẻ phản bội, làm tay
sai cho đế quốc, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của dân tộc, đi ngược
con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh
không coi dân nhân dân là một khối đồng nhất, mà là một cộng đồng, bao
gồm nhiều dân tộc, giai cấp, tầng lớp. Các nhóm xã hội ấy có lợi ích chung và
lợi ích riêng, có vai trò và thái độ khác nhau đối với sự phát triển của xã hội
và cách mạng. Công nhân, nông dân, trí thức luôn được Người coi là lực
lượng cách mạng to lớn nhất, là nền tảng của khối đoàn kết dân tộc. Quan
niệm đó vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính dân tộc và tính thời đại.
Từ quan niệm về dân như trên nên trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của dân, luôn hướng về dân, giành
trọn cuộc đời để phấn đấu vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân

dân. Với Người, yêu dân, tin dân trước hết phải nhận thức đúng vai trò của


×