STT
HỌ VÀ TÊN
MÃ SV
1
Hà Thảo Chi
13D200007
2
Nguyễn Thị Linh Chi
13D200145
3
Phan Thị Diễm
13D200009
4
Nguyễn Hương Diền
13D200147
5
Bùi Phương Dung
13D200214
6
Lê Thị Dung
7
Nguyễn Thu Dương
13D200175
8
Nguyễn Thị Thu Hà
13D200012
9
Vũ Thị Thanh Hà
13D200177
10
Đặng Thúy Hằng
13D200014
11
Nguyễn Hữu Dũng
12D160188
NHÓM 2
GHI CHÚ
Nhóm trưởng
Page 1
MỞ ĐẦU
Cùng với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường, thị trường chứng
khoán ra đời, tồn tại và phát triển như một điều tất yếu. Là một bộ phận của thị trường
tài chính có cơ chế hoạt động khá phức tạp nhưng những lợi ích to lớn mà nó đem lại
cho nền kinh tế là không thể phủ nhận được. Thị trường chứng khoán có vai trò như
một hệ thống khơi thông dòng chảy cho các nguồn vốn trong nền kinh tế. Vai trò này
càng trở nên hữu hiệu hơn đối với nền kinh tế đang trên đà phát triển do bản thân nó
chưa có một cơ chế huy động và sử dụng vốn hiệu quả, phù hợp với các quy luật của
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, ẩn sau những lợi ích tích cực mà thị trường chứng
khoán mang lại, còn tồn tại những khía cạnh tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng mà còn tác động đến sự phát triển
chung của toàn bộ nền kinh tế.
Bởi những lẽ đó, việc nghiên cứu những khía cạnh tiêu cực của thị trường chứng
khoán, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phòng ngừa và ngăn chặn là vô cùng cần thiết.
Đó cũng chính là nội dung mà nhóm sẽ đề cập trong bài thảo luận dưới đây.
NHÓM 2
Page 2
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I.1. Cơ sở hình thành thị trường chứng khoán
Lịch sử đã chứng minh rằng sự ra đời, tồn tại và phát triển thị trường chứng
khoán là sản phẩm tất yếu, khách quan của nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị
trường. Nhìn chung, sự ra đời của thị trường chứng khoán ở các quốc gia đều bắt
nguồn từ 2 nguyên nhân cơ bản:
Thứ nhất, giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu vốn tiền tệ
Đây là nguyên nhân mang tính tiền đề cho sự xuất hiện của thị trường chứng
khoán.
Thực tế cho thấy, các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội, trước hết là Nhà nước
và các doanh nghiệp, vì những lí do khác nhau mà thường có nhu cầu huy động vốn để
bổ sung thiếu hụt ngân sách của mình. Cầu vốn là lượng vốn cần thiết để tiến hành quá
trình đầu tư, xây dựng và sản xuất kinh doanh hay phục vụ cho một mục đích tiêu
dùng nào đó của các chủ thể trong nền kinh tế.
Đồng thời trong nền kinh tế - xã hội cũng luôn có cung vốn. Cung vốn là lượng
vốn hiện đang nhàn rỗi trong xã hội và có thể sử dụng cho các mục đích khác nhau,
hoặc cho tiêu dùng hoặc cho các hoạt động đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh.
Mỗi quốc gia nguồn cung vốn bao gồm: nguồn cung trong nước và nguồn cung
từ bên ngoài.
Nguồn cung trong nước: gồm nguồn cung tích lũy và nguồn cung cân đối tạm
thời.
- Nguồn cung tích lũy bao gồm tiết kiệm của dân chúng, lợi nhuận của các
doanh nghiệp, các quỹ chuyên dụng. Tùy theo tình hình phát triển kinh tế của mỗi
nước mà nguồn cung từ tích lũy cao thấp khác nhau. Đây là nguồn cung có tính chất
lâu dài và tương đối ổn định.
- Nguồn cân đối tạm thời: Đây là nguồn cung vốn từ việc cân đối tạm thời các
nguồn tiền hoặc quỹ chưa sử dụng đến ngân sách hay của các doanh nghiệp,… Nguồn
vốn này mang tính chất tạm thời, không ổn định
NHÓM 2
Page 3
- Nguồn vốn từ bên ngoài: Đây là nguồn vốn từ các tổ chức tài chính – tiền tệ
quốc tế hay các quốc gia khác chuyển đến, thường là từ các nước phát triển sang các
nước chậm phát triển. Nguồn vốn này bao gồm: kiều hối, đầu tư trực tiếp nước ngoài,
đầu tư gián tiếp (đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay,…). Nguồn cung vốn từ bên
ngoài có quy mô lớn nhưng là nguồn cung không liên tục và cũng không ổn định vì nó
phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố khách quan bên ngoài hơn là các yếu tố chủ quan
trong phạm vi quốc gia.
Như vậy, cung – cầu vốn tiền tệ xuất hiện và tồn tại là một thực tế khách quan,
cần được giải quyết hợp lí và hiệu quả để tạo điều kiện cho nền kinh tế tồn tại và phát
triển. Trong xã hội hiện đại, việc giải quyết mâu thuẫn trong quan hệ tương quan giữa
cung và cầu vốn tiền tệ có thể thông qua tổ chức trung gian (ngân hàng, công ty tài
chính,…) hoặc thông qua hình thức chuyển giao tài chính trực tiếp – thị trường chứng
khoán. Đây là một trong những lí do mà thị trường này còn được gọi là thị trường vốn.
Với cơ chế hoạt động của thị trường vốn, lực lượng cung và cầu vốn tiền tệ có thể gặp
gỡ trực tiếp để đáp ứng nhu cầu của nhau. Nhờ vậy, mâu thuẫn được giải quyết.
Thứ hai, sự xuất hiện của các loại chứng khoán
Đây là nguyên nhân trực tiếp quyết định đến sự xuất hiện của thị trường chứng
khoán.
- Về phía Nhà nước: Khi ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt, cũng có nghĩa là cầu
vốn về vốn tiền tệ xuất hiện. Chính phủ có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để
bù đắp thâm hụt đó như phát hành tiền, vay ngân hàng, tìm nguồn viện trợ,… Tuy
nhiên biện pháp tối ưu nhất đó là Nhà nước trực tiếp vay nợ của mọi tầng lớp dân cư
cũng như các chủ thể khác trong nền kinh tế dưới hình thức tín dụng Nhà nước, bằng
cách phát hành trái phiếu Chính phủ.
- Về phía doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là chủ thể
thứ hai sau Nhà nước có nhu cầu lớn và thường xuyên về vốn tiền tệ. Được chủ động
tạo vốn, doanh nghiệp sẽ lựa chọn phương án tài trợ hiệu quả nhất, nghĩa là với chi phí
sử dụng vốn thấp nhất, ít rủi ro nhất. Biện pháp truyền thống là vay ngân hàng, bên
cạnh những ưu điểm còn bộc lộ những hạn chế nhất định về thủ tục, điều kiện cho vay,
…. Việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu mở ra khả năng tài trợ to lớn với những ưu
NHÓM 2
Page 4
điểm nổi trội so với các phương pháp truyền thống. Các loại cổ phiếu và trái phiếu do
công ty phát hành gọi là chứng khoán.
Như vậy, sự ra đời của các loại chứng khoán cũng như quá trình thương mại
hóa chúng vừa thỏa mãn yêu cầu của người có vốn và người cần vốn, vừa là cơ sở để
hình thành thị trường chứng khoán.
I.2. Khái niệm thị trường chứng khoán
- Thuật ngữ “thị trường” là một khái niệm cơ bản của thị trường chứng khoán,
được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Hiểu một cách đơn giản, thị trường là nơi mua
bán trao đổi hàng hóa.
- Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với phần vốn góp hoặc phần vốn vay của tổ chức phát hành.
- Thị trường chứng khoán là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao
dịch mau bán chứng khoán. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp, khi
người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành chứng khoán, và
ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành từ thị
trường sơ cấp.
Như vậy, thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi
diễn ra quá trình phát hành, mua bán các chứng khoán, đó là những chứng khoán nợ và
chứng khoán vốn. Bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối
quan hệ cung - cầu về vốn đầu tư. Giá chứng khoán chứa đựng những thông tin về chi
phí vốn.
I.3. Đặc điểm của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là dạng thị trường trao đổi về vốn, nó mang các đặc
điểm sau:
- Thứ nhất, hàng hóa là các loại chứng khoán. Đó là công cụ chuyển tải giá trị
như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh. Chứng khoán
có những đặc điểm khác biệt so với hàng hóa thông thường. Nếu hàng hóa thông
thường có tính năng công dụng và người mua quan tâm đến mẫu mã, chất lượng thì
NHÓM 2
Page 5
chứng khoán không có tính năng riêng, người mua chỉ quan tâm đến chứng khoán thật
hay giả, khả năng sinh lợi và tiềm ẩn rủi ro như thế nào.
- Thứ hai, những người có khả năng cung ứng vốn có thể điều chuyển vốn trực
tiếp cho người cần vốn mà không cần qua các trung gian tài chính với tư cách là một
chủ thể riêng biệt, độc lập thực hiện huy động vốn để phân phối vốn nhằm đạt được
những lợi ích riêng.
- Thứ ba, hoạt động mua bán trên thị trường chứng khoán chủ yếu được thực
hiện qua người môi giới. Trên thị trường chứng khoán nhà đầu tư bằng những giác
quan thông thường khó có khả năng phân biệt được chứng khoán đó có đảm bảo yêu
cầu về mặt pháp lí cũng như chất lượng của chúng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho nhà đầu tư, đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động đúng pháp luật,
luật pháp các nước thường quy định hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường
có tổ chức phải thông qua trung gian, đó là những nhà môi giới được cấp phép là thành
viên giao dịch của thị trường đó.
- Thứ tư, thị trường chứng khoán gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Thị
trường chứng khoán bao gồm nhiều bộ phận thị trường khác nhau, trong đó thị trường
tập trung là bộ phận trung tâm. Ở thị trường này tất cả mọi người đều tự do tham gia
mua và bán theo nguyên tắc hoạt động của thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên
thị trường chứng khoán, giá cả ở đây được xác định dựa trên quan hệ cung cầu của thị
trường và phản ánh các thông tin có liên quan đến chứng khoán.
- Thứ năm, thị trường chứng khoán là thị trường liên tục. Sau khi các chứng
khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần
trên thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán bảo đảm cho các nhà đầu tư có thể
chuyển các chứng khoán của họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào mà họ muốn.
Các đặc điểm trên đây là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa thị trường chứng
khoán với các thị trường khác, đồng thời cũng là những điểm nhấn tạo sự hấp dẫn của
thị trường chứng khoán đối với các tổ chức phát hành, nhà đầu tư và kinh doanh chứng
khoán.
NHÓM 2
Page 6
I.4. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, thông thường
gồm có: tổ chức phát hành, nhà đầu tư, tổ chức kinh doanh chứng khoán, các tổ chức
phụ trợ, tổ chức quản lí thị trường chứng khoán.
- Tổ chức phát hành chứng khoán: là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy
động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Tổ chức phát hành là người cung cấp
chứng khoán - hàng hóa của thị trường chứng khoán. Bao gồm: Chính phủ và các cấp
chính quyền địa phương, doanh nghiệp, công ty quản lí quỹ đầu tư.
- Nhà đầu tư chứng khoán: là những người bỏ tiền đầu tư vào chứng khoán
nhằm mục đích thu được lợi nhuận. Có thể chia nhà đầu tư thành nhiều nhóm như: nhà
đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài.
- Người kinh doanh chứng khoán: những người tham gia kinh doanh chứng
khoán có thể bao gồm nhiều tổ chức như: công ty chứng khoán, công ty quản lí quỹ
đầu tư,… và cá nhân hành nghề độc lập.
- Các tổ chức phụ trợ: nhằm đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động
một cách bình thường và hiệu quả, ngoài các đối tượng nêu trên thị trường chứng
khoán còn cần có các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chứng khoán như tổ
chức lưu ký chứng khoán và thanh toán bù trừ, tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm, tổ
chức tài trợ chứng khoán, tổ chức kiểm toán,…
- Người quản lí và giám sát thị trường: tùy theo chính sách phát triển thị
trường và thực tế phát triển thị trường chứng khoán của mỗi quốc gia mà việc quản lí
và giám sát thị trường chứng khoán được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau. Thông
thường các chủ thể tham gia quản lí giám sát bao gồm: Nhà nước (Ủy ban Chứng
khoán nhà nước, ngân hàng nhà nước,…); các tổ chức tự quản (Sở giao dịch, Hiệp hội
các nhà kinh doanh chứng khoán,…).
I.5. Phân loại thị trường chứng khoán
Tùy theo tiêu thức phân loại mà thị trường chứng khoán gồm các loại thị trường
khác nhau.
- Theo đối tượng giao dịch:
+Thị trường cổ phiếu (Stock market)
+ Thị trường trái phiếu (Bond market)
+ Thị trường chứng chỉ quỹ đầu tư
+ Thị trường chứng khoán phái sinh (Derivaties Market)
- Theo quá trình lưu thông của chứng khoán:
+Thị trường sơ cấp (Primary market)
+Thị trường thứ cấp (Secondary market)
- Theo hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động:
NHÓM 2
Page 7
+Thị trường chứng khoán chính thức
+ Thị trường tập trung – Sở giao dịch
+ Thị trường phi tập trung
+ Thị trường chứng khoán không chính thức
- Theo hình thức giao dịch:
+ Thị trường giao ngay
+ Thị trường kỳ hạn
Việc phân loại thị trường chứng khoán có ý nghĩa quan trọng trong việc điều
tiết và chi phối hoạt động của thị trường chứng khoán một cách hiệu quả.
I.5. Vai trò của thị trường chứng khoán
Việc tạo lập và phát triển thị trường chứng khoán có ý nghĩa rất quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Ở hầu hết
các nước có nền kinh tế phát triển đều tồn tại thị trường chứng khoán với các vai trò
chủ yếu sau:
- Thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn linh hoạt của nền kinh tế.
- Thị trường chứng khoán góp phần kích thích cạnh tranh, nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Thị trường chứng khoán góp phần đa dạng hóa các hình thức đầu tư và huy
động vốn trong nền kinh tế.
- Thị trường chứng khoán là tấm gương phản ánh thực trạng và tương lai phát
triển của doanh nghiệp.
- Thị trường chứng khoán là công cụ hữu hiệu giúp nhà nước thực hiện chức
năng điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế.
- Thị trường chứng khoán là công cụ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
Ngoài những vai trò nêu trên, thị trường chứng khoán còn có các vai trò tích
cực như: đảm bảo tính thanh khoản cho chứng khoán,làm giảm áp lực lạm phát,…
I.7. Quản lí nhà nước về thị trường chứng khoán
Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán của một quốc gia là sự quản
lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt động xây dựng, vận hành và phát triển của thị
trường chứng khoán.
Mục tiêu quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán bao gồm:
- Thứ nhất là đảm bảo sự trung thực của thị trường.
- Thứ hai là đảm bảo sự công bằng.
- Thứ ba là đảm bảo hiệu quả.
NHÓM 2
Page 8
Quản lý là một hình thức đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm của tiến
trình phân công lao động và chuyên môn hóa việc quản lý, ở hầu hết các nước đang
phát triển, các chủ thể quản lý thị trường chứng khoán có hai chức năng chính:
- Duy trì sự hoạt động ổn định của thị trường.
- Tạo điều kiện để phát triển thị trường, làm cho thị trường có thể cạnh tranh và
thích ứng với mọi sự thay đổi trong xã hội.
Hoạt động quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán được cụ thể hóa ở
một số nhiệm vụ sau:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thị trường chứng khoán; xây
dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán
với từng bước đi cụ thể và thích hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội,
dân trí và các điều kiện khác.
- Cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép liên quan đến việc phát
hành, niêm yết, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán và thu lệ phí cấp giấy phép theo
quy định của pháp luật.
- Tổ chức và quản lý thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức và các tổ
chức trung gian, tổ chức phụ trợ hoạt động trên thị trường chứng khoán.
- Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của thị trường chứng khoán như: cơ quan
quản lý Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán, Công ty chứng khoán,…
- Xây dựng sự phối hợp giữa các tổ chức, các cá nhân là thành viên tham gia thị
trường chứng khoán để tạo được sự thống nhất trong mọi hoạt động của thị trường
chứng khoán.
- Điều chỉnh, xử lý các hành vi sai phạm trên thị trường chứng khoán như mua
bán gian lận, đầu cơ,… Mặt khác, tạo các điều kiện thuận lợi, khuyến khích những
hoạt động tiêu cực trên thị trường.
- Thực hiện công tác kiểm tra định kỳ, bất thường nhằm phát hiện các hành vi
vi phạm pháp luật, thực hiện tổng kết thống kê nhằm tổng hợp hoạt động của thị
trường.
NHÓM 2
Page 9
NHÓM 2
Page 10
CHƯƠNG II: CÁC KHÍA CẠNH TIÊU CỰC TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
II.1. Tác động tích cực của thị trường chứng khoán
Sự xuất hiện và tồn tại của thị trường chứng khoán có tác động vô cùng lớn đến
sự phát triển của nền kinh tế, có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động quản lí nhà nước
cũng như sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những tác động tích cực của thị
trường chứng khoán như sau:
- Một là, khuyến khích dân chúng tiết kiệm và hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào
đầu tư.
- Hai là, thị trường chứng khoán là công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương
trình phát triển kinh tế xã hội.
- Ba là, thị trường chứng khoán là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư
nước ngoài.
- Bốn là, thị trường chứng khoán lưu động hóa các nguồn vốn trong nước.
- Năm là, thị trường chứng khoán là tiền đề cho quá trình cổ phần hóa.
- Sáu là, thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp làm ăn đàng
hoàng.
II.2. Các khía cạnh tiêu cực của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán không phải là công cụ vạn năng, nó không thể giải
quyết được tất cả các nhu cầu mà nền kinh tế đặt ra. Bên cạnh những tác động tích cực
mà thị trường chứng khoán mang lại, nó còn chứa đựng những tác động tiêu cực ảnh
hưởng đến sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng và toàn bộ nền kinh tế
nói chung. Do đặc điểm của thị trường chứng khoán rất dễ nảy sinh các hành vi vi
phạm nguyên tắc, quy chế trong hoạt động mua bán. Đó là thao túng thị trường, giao
dịch nội gián, mua bán chứng khoán ngoài thị trường chứng khoán không chính thức
làm ảnh hưởng đến mục tiêu “công bằng, hiệu quả và phát triển ổn định” của thị
trường.
II.2.1. Thao túng thị trường
Có nhiều cách hiểu về khái niệm “thao túng thị trường”. Tuy nhiên, tựu chung
lại, các khái niệm này đều có nội hàm là những hành vi cố ý gây tác động đến thị
trường bằng cách vận dụng quy luật cung- cầu hoặc các hành vi nhân tạo khác để tác
động đến giá cả chứng khoán, nhằm đạt được mục tiêu có lợi cho riêng mình. Thao
túng thị trường thường được thể hiện thông qua các hình thức:
a)Đầu cơ chứng khoán
Song song với đầu tư chứng khoán, đầu cơ chứng khoán cũng là một hoạt động
cơ bản của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu hoạt động đầu tư có thể là trung
NHÓM 2
Page 11
hạn, dài hạn hoặc dài hạn thì hoạt động đầu cơ thường mang tính ngắn hạn. Các nhà
đầu cơ thường tìm kiếm lợi nhuận thông qua sự chênh lệch giá qua những lần mua đi
bán lại chứng khoán trên thị trường.
Xét trên góc độ tích cực, hoạt động đầu cơ đã giúp cho hoạt động của thị trường
không bị gián đoạn. Nhà đầu cơ góp phần làm tăng tính thanh khoản cho chứng khoán,
giúp cho hoạt động giao dịch thêm sôi động.
Tuy nhiên, cũng có những hoạt động đầu cơ gây tác động xấu tới thị trường. Đó
là những hành vi nhằm tạo ra sức ép về cung cầu một loại chứng khoán nào đó trên thị
trường. Hiện tượng này khiến giá chứng khoán không đúng với giá trị thực của nó, để
có lợi cho nhà đầu cơ và gây thiệt hại cho những nhà đầu tư khác. Ví dụ, các nhà đầu
cơ kết hợp với nhau cùng mua hay bán một loại chứng khoán, gây nên sự khan hiếm
hay thừa thãi chứng khoán một cách giả tạo, khiến giá chứng khoán tăng giảm đột
ngột. Khi giá đã tăng hay giảm một cách tối ưu, nhà đầu cơ sẽ bán ra hoặc mua vào
hết.
Một trong những vụ việc điển hình về đầu cơ chứng khoán là vụ việc của bà
Nguyễn Thị Kim Phượng. Đây là một vụ đầu cơ lộ liễu, gây nhiều bất bình cho dư
luận.
Từ ngày 1/10/2009 đến ngày 12/1/2010, bà Phượng đã có hành vi thông đồng
với ông Nguyễn Quang Hưng, ông Ngô Quốc Đạt và ông Ngô Quang Tài để thực hiện
mua, bán cổ phiếu VTV nhằm tạo ra cung cầu giả tạo đối với cổ phiếu này; giao dịch
chứng khoán bằng hình thức cấu kết với người khác liên tục mua, bán cổ phiếu VTV
để thao túng giá. Tiếp theo đó, để thực hiện mục đích của mình, bà Phượng đã chào
mua công khai 1,3 triệu CP VTV. Thời gian hoàn tất chào mua là 60 ngày và lệnh mua
sẽ bị huỷ trong trường hợp giá CP VTV tăng cao vượt quá 30% giá chào mua (40.000
đồng). Vì đơn đặt hàng lớn của bà Phượng, giá CP VTV tăng kịch trần 5 phiên liên
tiếp (lên tới 66.000 đồng - vượt quá mốc 30% giá đặt mua của bà Phượng). Đây là thời
điểm tốt để những kẻ thao túng thị trường bán ra. Lúc Sở Giao dịch chứng khoán Hà
Nội (HNX) phát hiện được vụ việc thì toàn bộ 557.800 CP (chiếm 8,5% số CP VTV
đang sở hữu) đã được bà Phượng bán hết. Qua vụ thao túng giá cổ phiếu này, theo tính
toán của cơ quan chức năng, bà Phượng đã kiếm lời cả chục tỉ đồng. Tuy nhiên, hành
vi này của bà Phượng chỉ bị cơ quan chức năng xử lý hành chính và mức xử phạt chỉ
dừng ở con số 170 triệu đồng, nhỏ hơn rất nhiều so với những gì mà bà Phượng thu
được.
NHÓM 2
Page 12
Ngoài vụ việc tiêu biểu trên, còn rất nhiều hoạt động đầu cơ vi phạm pháp luật
khác, tạo nên một tiền lệ xấu về hành vi thao túng giá trên thị trường.
Nguyễn Hải Sơn, bà Nguyễn Thị Hạnh, bà Trần Thị Thu, trong khoảng thời
gian từ 30/12/2009 đến 9/7/2010 đã sử dụng tài khoản của mình và các tài khoản đứng
tên người có liên quan thông đồng với nhau để thực hiện thao túng giá cổ phiếu SHI.
Trước đó, tháng 8/2010, Ủy ban chứng khoán có quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với bà Nguyễn Thanh Hải và ông Nguyễn Hữu Chí vì tạo cung cầu ảo
đẩy giá chứng khoán CTCP Bê tông Hòa Cầm - Intimex (HCC). Trong khoảng thời
gian từ 16/4 đến 30/6, bà Hải (sử dụng tài khoản của mình và 3 tài khoản đứng tên
người có liên quan) đã có hành vi thông đồng với ông Chí để thực hiện mua, bán cổ
phiếu HCC với tỷ trọng lớn so với khối lượng giao dịch toàn thị trường; có nhiều
phiên thực hiện các giao dịch chéo giữa các tài khoản trong nhóm nhằm tạo cung cầu
giả tạo đối với cổ phiếu HCC. Bà Hải và ông Chí đã bị phạt 50 triệu đồng/người.
Bằng kỹ xảo đặt lệnh tạo cung cầu ảo, ông Hoàng Minh Hướng và bà Quách
Thị Nga đã thực hiện thao túng giá cổ phiếu Công ty cổ phần Khoáng sản Sài Gòn Quy Nhơn (SQC). Theo kết quả điều tra của Uỷ ban chứng khoán, trong thời gian từ
ngày 17/12/2009 đến ngày 7/1/2010, ông Hướng và bà Nga đã đặt nhiều lệnh mua
khối lượng lớn cổ phiếu SQC với giá trần hoặc sát trần trong nhiều phiên liên tiếp,
Hành vi này tạo nên "cầu ảo" khiến giá SQC tăng trần liên tục với mục đích là thu hút
những nhà đầu tư khác đặt mua theo.
b)Hiện tượng chèn ép, cá lớn nuốt cá bé
Đây là hành vi những thương gia lớn thường lợi dụng ảnh hưởng của giá vào
quy luật cung cầu để đẩy giá lên hoặc hạ giá xuống để thu lợi, gây nên những thiệt hại
cho người có số lượng chứng khoán ít ỏi.
Một trong những minh chứng cụ thể là các doanh nghiệp nước ngoài với số vốn
lớn, tỷ lệ sở hữu cổ phần cao hoàn toàn có khả năng điều chỉnh giá chứng khoán để
mua vào hay bán ra theo ý mình.
NHÓM 2
Page 13
Năm 2007, với mong muốn có bước đột phá, công ty cổ phần bánh kẹo Bibica
(BBC) đã bắt tay với “đại gia thực phẩm Hàn Quốc” Lotte. BBC tin rằng với tiềm lực,
hệ thống phân phối và kinh nghiệm của mình, Lotte sẽ giúp BBC thực hiện được
những chiến lược táo bạo. Vì vậy, Lotte đã bước vào công ty với 30% vốn điều lệ
BBC. Sau đó, Lotte liên tục mua vào cổ phiếu BBC. Tới cuối năm 2013, Lotte đã nắm
hơn 6,7 triệu cổ phiếu BBC (tỷ lệ 43,56%). Tới lúc này, những lời đồn thổi khả năng
thâu tóm BBC của Lotte đã hiển hiện.
BBC muốn tìm đối trọng để chống lại nguy cơ thâu tóm. Và SSI là cái tên được
“chọn mặt gửi vàng”. Hai bên hợp tác thông qua công ty TNHH Quản lý Quỹ SSI
(SSIAM). Thời gian đầu, SSI chiếm trên 35% cổ phần tại Bibica.
Bibica vẫn chưa thoát nguy cơ bị thâu tóm Nhưng mối quan hệ này sớm nảy
sinh vấn đề. Dư luận lo ngại SSI có thể bán lại cổ phiếu BBC cho Lotte, để từ đó kế
hoạch thâu tóm của Lotte dễ dàng trở thành hiện thực hơn. Tuy nhiên, SSI không “bán
đứng” BBC.
Để chứng minh quyết tâm đầu tư lâu dài của mình, SSI có động thái mới khi để
gương mặt thứ 4 xuất hiện trong “cuộc tình tay ba” nổi tiếng Lotte – BBC – SSI. Đó là
công ty cổ phần Đầu tư Đường Mặt Trời.
Đường Mặt Trời là công ty độc lập nhưng thực chất vẫn là “người nhà” của SSI.
Về góc độ kinh doanh, SSI đang đầu tư gần 15 tỷ vào Đường Mặt Trời. Còn dưới góc
độ cá nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị Đường Mặt Trời, ông Nguyễn Hồng Nam là
em ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch Hội đồng quản trị SSI.
Trong năm 2014, Đường Mặt Trời liên tục có động thái khẳng định vị thế của
mình tại BBC. Chỉ từ tháng 2 đến tháng 5, Đường Mặt Trời đã có 7 lần giao dịch BBC.
Cả 7 lần công ty này đều mua vào mà không hề bán ra bất cứ cổ phiếu này. Tới
30/5/2014, Đường Mặt Trời nắm giữ 3,25 triệu cổ phiếu BBC (tương đương 21,09%
vốn BBC).
Trong khi đó, Lotte hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Kể từ quý III, việc gom cổ
phiếu BBC tạm lắng. Đến tháng 9, Lotte Confectionety.Ltd dè dặt khi mua vào 70.000
NHÓM 2
Page 14
cổ phiếu BBC, nâng tỷ lệ sở hữu lên gần 6,8 triệu cổ phiếu, tương đương 44,03% vốn
BBC. Còn Đường Mặt Trời khiến nhiều người ngạc nhiên khi giảm tỷ lệ nắm giữ từ
21,9% xuống chỉ còn 14,49%. Như vậy, Đường Mặt Trời và SSI càng yếu thế hơn so
với Lotte ở BBC.
15/1/2015, công ty TNHH Quản lý quỹ SSI (SSIAM) đăng ký bán toàn bộ hơn
3 triệu cổ phiếu BBC. Giao dịch dự kiến diễn ra trong khoảng thời gian từ 19/1 đến
17/2/2015. Thông tin này khiến những người lo lắng cho “số phận” BBC phải dõi theo
động thái của SSIAM.
Trong phiên giao dịch chiều 27/1/2015, BBC trở thành tâm điểm của thị trường,
khi có giao dịch khủng với số lượng 3,08 triệu đơn vị, gần 20% vốn điều lệ BBC.
Lượng cổ phiếu này tương đương giá trị trên 159 tỷ đồng. Đây cũng là số lượng cổ
phiếu mà SSIAM đã đăng ký bán.
Trong thương vụ này, danh tính người mua - điều được được nhà đầu tư quan
tâm nhất vẫn chưa được tiết lộ. Dù vậy, những người trong ngành tin rằng, SSIAM có
thể đã chuyển nhượng BBC cho SSI.Tuy nhiên, vẫn không loại trừ khả năng hơn 3
triệu cổ phiếu BBC được bán ra bên ngoài. Và nếu một phần trong số đó rơi vào tay
Lotte hoặc tổ chức, cá nhân có liên quan đến Lotte, tới lúc đó, Lotte sẽ nắm quyền
quyết định tại công ty bánh kẹo nổi tiếng này.
Tuy nhiên, ngày 30/1/2015, SSI công bố thông tin về thương vụ này nhưng
thông tin cũng không rõ ràng. SSI chỉ cho biết Bibica không còn là công ty liên kết của
SSI trên báo cáo hợp nhất, sau khi SSIAM bán hơn 3 triệu cổ phiếu BBC. SSI không
nêu rõ danh tính bên mua.
Dù SSI bán cổ phiếu BBC cho bất cứ ai thì có một điều chắc chắn SSI không
còn là đối trọng của Lotte tại BBC nữa. Với hơn 44% cổ phần, lượng nắm giữ vượt
trội, Lotte có quyền tự quyết nhiều vấn đề tại BBC.
c) Loan truyền thông tin không chính xác hay thông tin lệch lạc về hiện
trạng và triển vọng của một đơn vị kinh tế
NHÓM 2
Page 15
Hiện tượng các tin đồn thất thiệt có thể đem lại tình trạng cổ phiếu được đưa ra
bán ồ ạt làm giá trị cổ phiếu giảm ồ ạt, hoặc tình trạng đầu tư gia tăng làm giá cổ phiếu
tăng nhanh vượt quá giá trị thực của chúng. Những người có ý đồ xấu có thể đứng ra
mua hoặc bán cố phiếu đó để khống chế công ty và hưởng một số lãi đáng kể sau khi
tin đồn đã được kiểm chứng. Điều này có thể gây nên những hậu quả xấu cho đơn vị
phát hành, cho thị trường và cho các nhà đầu tư chân chính.
Thực tế đã có rất nhiều vụ việc xảy ra. Đã có thời gian, nhiều nhà đầu tư tung
tin tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai sắp tuyên bố phá sản. Thông tin này khiến giá cổ
phiếu HAG giảm mạnh. Nhiều kẻ đầu cơ đã lợi dụng để mua cổ phiếu với giá ở mức
rất thấp. Tuy nhiên, trên thực tế, tập đoàn vẫn duy trì các kế hoạch phát triển bất chấp
các tình huống xấu, giá chứng khoán đã ổn định trở lại. Đến thời điểm này, các nhà
đầu cơ có thể bán chứng khoán và thu về khoản lợi nhuận lớn hoặc có thể giữ cố phiếu
với mức giá ổn định.
d) Thực hiện các giao dịch được sắp đặt trước, giao dịch giả tạo
Theo Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, sau khi tốt nghiệp Đại học Dược,
làm việc cho một số công ty kinh doanh dược phẩm, năm 2004, Lê Văn Dũng đứng ra
thành lập Công ty DVD. Ngày 22/12/2009, công ty do Lê Văn Dũng làm chủ tịch kiêm
tổng giám đốc chính thức niêm yết trên sàn chứng khoán TP.Hồ Chí Minh (HOSE).
Để giữ và nâng giá, cũng như tăng tính thanh khoản giả cho cổ phiếu DVD, Lê
Văn Dũng đã trực tiếp mở tài khoản và mượn tư cách pháp nhân và danh nghĩa của
một số tổ chức, cá nhân là người nhà, người thân và bạn của Dũng mở 12 tài khoản tại
các Công ty chứng khoán để tiến hành giao dịch mua, bán cổ phiếu DVD. Cụ thể, 3 tài
khoản mở tại Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC); 6 tài khoản mở tại
Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (SBS); 3 tài khoản tại
Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS).
Sau khi mở các tài khoản trên, trong thời gian từ 1/1/2010 đến ngày 30/9/2010,
Lê Văn Dũng đã tiến hành nhiều phiên giao dịch mua bán cổ phiếu DVD, trong đó có
119 phiên với 1.725 lần giao dịch khớp chéo giữa các tài khoản trong nhóm với nhau.
NHÓM 2
Page 16
Tại Công ty BVSC, 13 phiên, 41 lần giao dịch khớp chéo giữa các tài khoản
trong nhóm với nhau; tại Công ty SBS 102 phiên, 1.569 lần giao dịch khớp chéo giữa
các tài khoản trong nhóm với nhau; có 28 lần tài khoản bán chuyển tiền sang tài khoản
mua (tài sản bán thực hiện ứng trước tiền bán chứng khoán tại Công ty SBS, ngay sau
đó số tiền này được chuyển sang tài khoản mua để thanh toán cho tài khoản bán), với
số tiền tổng cộng là 221.571.200.000 đồng...
Về nguồn tiền nộp vào các tài khoản, theo Cơ quan An ninh điều tra, tất cả đều
là tiền của cá nhân Lê Văn Dũng. Ngoài ra, Lê Văn Dũng đã cùng các Công ty chứng
khoán ký các hợp đồng mà trong đó các Công ty chứng khoán góp vốn vào các tài
khoản của nhóm Lê Văn Dũng dưới hình thức là hợp đồng hỗ trợ giao dịch ký quỹ
chứng khoán giữa Công ty chứng khoán và khách hàng (tại Công ty SBS) và hợp đồng
hợp tác kinh doanh đầu tư chứng khoán niêm yết (tại Công ty SHS).
Ngoài việc mở các tài khoản để tiến hành các giao dịch ảo, làm tăng tính thanh
khoản, tăng giá và tạo giá trị ảo cho cổ phiếu DVD để thu hút nhà đầu tư, cũng như
phục vụ việc niêm yết, chào bán chứng khoán, theo Cơ quan An ninh điều tra, Lê Văn
Dũng cùng đồng bọn còn đề ra mục tiêu thâu tóm, sáp nhập một số công ty dược phẩm
vào công ty DVD. Trong đó có Công ty dược phẩm Hà Tây (DHT) vì công ty này có
hệ thống sản xuất, bán hàng tốt và có nhiều bất động sản.
Để đạt được mục tiêu này, ngoài việc sử dụng 6 tài khoản tại Công ty SBS, Lê
Văn Dũng trực tiếp, cũng như mượn danh nghĩa cá nhân của người thân gồm vợ, em
vợ, em trai... và thông qua Lê Văn Truyền (nhân viên môi giới chứng khoán Công ty
SBS) mở thêm 5 tài khoản tại Công ty SBS. Gây biến động bất thường giá cổ phiếu
Theo Cơ quan An ninh điều tra, từ khi mở các tài khoản trên đến tháng 9/2010,
11 tài khoản của nhóm Lê Văn Dũng đã thực hiện nhiều lần mua đi, bán lại cổ phiếu
DHT với khối lượng lớn, chiếm tỉ trọng cao so với khối lượng giao dịch toàn thị
trường (mua 6.536.300 cổ phiếu DHT - chiếm 84,4% khối lượng giao dịch DHT toàn
thị trường và bán 4.973.800 cổ phiếu DHT - chiếm 64,2% khối lượng giao dịch DHT
toàn thị trường).
NHÓM 2
Page 17
Trong 106 phiên giao dịch, có 36 phiên với 160 lần giao dịch khớp chéo giữa
các tài khoản trong nhóm và thực hiện 28 lần chuyển tiền nội bộ từ tài khoản bán sang
tài khoản mua với tổng số tiền trên 186,4 tỉ đồng. Cũng theo Cơ quan điều tra thì đại
diện các tổ chức, các cá nhân đứng tên chủ tài khoản đều là người nhà, người quen của
Lê Văn Dũng.
Mặc dù đứng tên chủ tài khoản, nhưng thực tế họ đều không nộp tiền vào tài
khoản, không tham gia giao dịch chứng khoán. Toàn bộ các giao dịch chuyển tiền,
mua, bán cổ phiếu DVD và DHT đều do Lê Văn Dũng trực tiếp thực hiện thông qua sự
tiếp tay của nhân viên môi giới tại các công ty chứng khoán bằng hình thức gọi điện
hoặc nhắn tin qua điện thoại.
Trong đó, đặc biệt là Lê Minh Truyền, với vai trò là nhân viên môi giới phụ
trách 11 tài khoản trong nhóm của Lê Văn Dũng tại Công ty SBS, mặc dù biết các thủ
đoạn của Lê Văn Dũng nhưng Lê Minh Truyền vẫn thực hiện các yêu cầu đặt lệnh của
Dũng. Không những thế, để đảm bảo cho các giao dịch thành công khi thực hiện các
giao dịch nội bộ (giao dịch khớp chéo) giữa các tài khoản trong nhóm với nhau, tránh
tình trạng tài khoản nằm ngoài nhóm tài khoản của Lê Văn Dũng khớp lệnh mua mất
cổ phiếu từ tài khoản khác trong nhóm, Truyền đã chọn mốc thời gian ít có giao dịch
trên sàn nhất hoặc thời gian có các giao dịch ở mức giá thấp để thực hiện khớp lệnh ở
mức giá cao hơn mức giá đưa ra.
Theo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, thì hành vi của các đối tượng trên gây
hậu quả nghiêm trọng, tạo ra cung cầu giả tạo với loại cổ phiếu DVD, DHT trên thị
trường, làm mất an toàn trong hoạt động của thị trường... Có 13 nhà đầu tư tố cáo hành
vi thao túng giá chứng khoán của Lê Văn Dũng gây thiệt hại cho họ tổng cộng
1.972.350.000 đồng...
Cơ quan An ninh điều tra đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố 4 bị
can gồm: Lê Văn Dũng - Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty DVD; Lê Minh
Truyền - nhân viên môi giới chứng khoán, Công ty SBS; Lê Văn Mạnh (em trai Lê
Văn Dũng) - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần quốc tế Viễn Đông và
NHÓM 2
Page 18
Nguyễn Văn Việt (em vợ Lê Văn Dũng) - Uỷ viên Hội đồng quản trị Công ty DVD về tội “thao túng chứng khoán”.
Ngoài ra, ngày 12/11, Ủy ban chứng khoán nhà nước đã phạt ông Võ Văn
Trường và ông Phạm Đình Phú (cùng ngụ tại Đồng Nai) 250 triệu đồng/người do có
hành vi sử dụng 10 tài khoản để mua bán tạo cung cầu giả nhằm thao túng giá CP
Công ty cổ phầnsản xuất kinh doanh dược và thiết bị y tế Việt Mỹ (AMV).
Ngoài các hình thức thao túng thị trường phổ biến trên, còn có các hình thức khác
như
Cố ý gây sai lệch hay sự hiểu nhầm về hoạt động giao dịch của một loại chứng
khoán
Tìm mọi biện pháp để duy trì ổn định mức giá chứng khoán nhằm tạo ra những
lợi thế cho việc chào bán hoặc phát hành chứng khoán.
II.2.2. Giao dịch nội gián
Hành vi vi phạm quy định về mua bán nội gián là hành vi xảy ra một cách phổ
biến, có thể gây nguy hiểm đáng kể trong một số trường hợp, đe dọa sự ổn định và
phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán Việt Nam.
a. Khái niệm
- Giao dịch nội gián là hành vi của nhà đầu tư cá nhân hoặc nhà đầu tư tổ chức
có được thông tin nội bộ có giá trị và sử dụng thông tin đó trước khi thông tin được
công bố công khai nhằm mua – bán cho chính mình hoặc cung cấp cho bên thứ ba để
hưởng lợi. Cụ thể về các khoản giao dịch sau:
+ Sử dụng thông tin nội bộ để thực hiện mua- bán chứng khoán của công ty đại
chúng, quỹ đại chúng cho chính mình hoặc bên thứ ba.
+ Tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho bên thứ ba mua- bán chứng
khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.
- Thông tin nội bộ: là thông tin quan trọng, chưa được công bố, liên quan đến
người phát hành, người mua bán chứng khoán có kỳ hạn hay sản phẩm tài chính đã
NHÓM 2
Page 19
được niêm yết, mà nếu thông tin đó được công bố sẽ có khả năng ảnh hưởng đến giá
chứng khoán, giá hợp đồng quyền chọn, hoặc giá sản phẩm tài chính có liên quan.
Bao gồm: những thay đổi lớn trong chính sách đầu tư, quản lý của công ty
niêm yết, giao dịch của công ty với ngân hàng bị đình chỉ, công ty gặp tổn thất do
hiểm họa thiên nhiên, các vụ kiện tụng lớn, tình trạng phá sản hay thâu tóm công ty,
những thay đổi trong Ban quản trị, các kế hoạch sáp nhập giải thể công ty…
b. Đối tượng thực hiện hành vi mua bán nội gián
Người trong nội bộ bộ máy quản lý của tổ chức phát hành. Họ nắm được các
thông tin nội bộ nhờ vào tư cách thành viên của tổ chức quản lý, lãnh đạo, giám sát
hoặc nhờ vào chức năng của họ trong tổ chức phát hành.
c. Tác động tiêu cực của giao dịch nội gián
- Tác động đến nhà đầu tư
+ Một số nhà đầu tư nắm được nhiều thông tin sẽ thu được lợi nhuận cá biệt cao
hơn lợi nhuận thị trường: điều này là do các doanh nghiệp có những nguồn thông tin
tốt chưa được công bố, do đó giá cổ phiếu trên thị trường của các doanh nghiệp này
đang bị đánh giá thấp hơn giá trị thực .Tuy nhiên, một số nhà đầu tư, bằng cách này
hay cách khác, nắm được những nguồn thông tin đó và mua vào cổ phiếu với giá rẻ,
thu được lợi nhuận cá biệt cao hơn lợi nhuận của thị trường.
Một số nhà đầu tư nắm được ít thông tin sẽ phải bỏ ra chi phí cá biệt cao hơn
chi phí thị trường: trái ngược với điều trên, những nhà đầu tư nắm được ít thông tin sẽ
mua phải những cổ phiếu có giá thị trường cao hơn giá trị thực nên sẽ phải chịu chi phí
cao hơn chi phí thị trường, thu lợi nhuận thấp và có thể thua lỗ.
Hệ quả là những nhà đầu tư có ít thông tin sẽ dần từ bỏ thị trường. Điều này sẽ
tác động ngược trở lại những nhà đầu tư có nhiều thông tin (khi đó không có người
mua thì họ sẽ không bán được cổ phiếu và thu về lợi nhuận như kỳ vọng) và những
người này cũng sẽ chuyển hướng đầu tư sang những lĩnh vực khác hấp dẫn hơn.
- Tác động đến doanh nghiệp
Do tác động của bất cân xứng thông tin, các nhà đầu tư không còn niềm tin và
động lực (về lợi nhuận) tham gia Thị trường Chứng khoán. Điều này khiến cho việc
NHÓM 2
Page 20
huy động vốn thông qua cổ phần hóa của các doanh nghiệp trở nên khó khăn, họ phải
chuyển sang những hình thức huy động vốn khác như vay vốn ngân hàng hay phát
hành trái phiếu… Những hình thức này làm tăng chi phí huy động vốn của doanh
nghiệp và tác động đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra, các doanh
nghiệp sẽ không còn động lực tham gia Thị trường tài chính nói chung và Thị trường
Chứng khoán nói riêng.
- Tác động đến sự phát triển của Thị trường chứng khoán
+ Thứ nhất, do những tác động của bất cân xứng thông tin đến nhà đầu tư và
doanh nghiệp khiến các thành phần kinh tế không còn niềm tin và động lực tham gia
Thị trường Chứng khoán. Điều này ngăn cản sự phát triển của Thị trường Chứng
khoán nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
+ Thứ hai, nhiều nhà đầu tư có thể lợi dụng lợi thế về thông tin của mình để
làm giá một số loại cổ phiếu (thực tế, điều này thường xuyên diễn ra trên Thị trường
Chứng khoán Việt Nam, đặc biệt là đối với các cổ phiếu trên Sở Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội), tạo cung cầu ảo trên thị trường, tạo bong bóng và khiến thị trường tiềm
ẩn nguy cơ sụp đổ.
d. Nguyên nhân
- Theo qui định thì các công ty niêm yết phải chuyển các tài liệu, thông tin về
doanh nghiệp mình đến Trung tâm Giao dịch Chứng khoán để các trung tâm công bố.
Khoảng thời gian từ lúc thông tin gửi về cho đến lúc được Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán công bố có khi kéo dài đến 4 - 5 ngày. Với quãng thời gian như vậy, những
người nắm được các thông tin này hoàn toàn có thể đặt những lệnh mua, bán cổ phiếu
để kiếm lợi nhờ biết trước thông tin so với các nhà đầu tư khác. Thực chất, đấy chính
là giao dịch nội gián”. Chính việc qui định tất cả thông tin đều phải về qua đầu mối
này đã nảy sinh cơ chế “xin - cho” về thông tin, tự nhiên Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán lại có thêm những “quyền” mới trong tay. Ví dụ như việc có được trước những
thông tin về tỉ suất lợi nhuận cao của một công ty có thể khiến những người này lợi
dụng để “gom” khối lượng lớn cổ phiếu, chờ đến khi công bố thông tin, giá cổ phiếu
tăng họ bán ra thu chênh lệch giá. Hay như với những công ty bị lỗ, người có thông tin
hoàn toàn có thể quyết định bán sớm số cổ phiếu mà mình nắm giữ để tránh thiệt hại.
NHÓM 2
Page 21
- Hệ thống công bố thông tin trên Trung tâm Chứng khoán còn thô sơ, mang
tính hình thức; các quy định về công bố thông tin vẫn còn nhiều kẽ hở, chưa chặt chẽ,
chưa đủ tính răn đe và ý thức công khai thông tin của các nhà phát hành còn thấp.
- Theo thông lệ quốc tế thì Sở Giao dịch chứng khoán là mô hình tự chủ và tự
chịu trách nhiệm, ủy ban Chứng khoán nhà nước chỉ là cơ quan giám sát.
Còn ở Việt Nam hiện nay, các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đang là
những đơn vị hành chính sự nghiệp mà chủ quản chính là Ủy ban Chứng khoán nhà
nước. Vừa giữ vai trò giám sát, vừa giữ vai trò chủ quản, Ủy ban Chứng khoán nhà
nước sẽ khiến các trung tâm giao dịch chứng khoán không thể hoạt động theo cách
thức chuyên nghiệp và độc lập.
e. Ví dụ
Phiên giao dịch chứng khoán ngày 11/9/2013 chứng kiến một sự kiện bất ngờ.
Giao dịch đợt đóng cửa của phiên cổ phiếu PVF (Công ty Tài chính dầu khí) bị xả
ATC trên 1,1 triệu, cộng với 539.000 đơn vị nữa giá sàn, nhưng hoàn toàn là do nhà
đầu tư trong nước. Thời điểm đó dư luận cho rằng có một tổ chức nào đó đang cắt lỗ
PVF vì cổ phiếu này đã ở mức thấp chưa từng có trong lịch sử... Tổng cộng 1,6 triệu
cổ phiếu đã được bán thành công trên thị trường.
Nhưng chỉ vài giờ sau phiên giao dịch, câu trả lời đã được đưa ra: Công ty
chứng khoán FPT (FPTS) công bố loại cổ phiếu PVF ra khỏi danh mục được ký quỹ
kể từ ngày 12/9/2013. Và một cơn bán tháo PVF xảy ra vào ngày 12/9/2013 với gần 2
triệu cổ phiếu rao bán với giá sàn và chỉ đến 11 giờ PVF thật sự đã mất thanh khoản.
Vấn đề là ở chỗ tại sao một số nhà đầu tư lại biết trước thông tin của FPTS
trước khi nó được công bố, thậm chí biết rõ lượng cổ phiếu PVF đang cầm cố tại FPTS
đủ lớn để có thể gây một cơn bán tháo sốc trên thị trường. Như vậy thông tin nội bộ lọt
ra ngoài đã giúp một số nhà đầu tư “thoát” được 1,6 triệu cổ phiếu sắp mất thanh
khoản một cách ngoạn mục.
Một ví dụ khác là việc Thương vụ thu gom cổ phiếu của nhóm cổ đông lớn
nhằm giành quyền chi phối tại Sacombank (mã STB-HOSE) đã chính thức kết thúc.
Tuy nhiên, thiệt hại lớn nhất trong thương vụ này là hàng ngàn các cổ đông nhỏ lẻ.
Trong thời gian trước và sau Tết nguyên đán năm 2012, trước khi có thông tin đồn
NHÓM 2
Page 22
đoán về việc nhóm cổ đông lớn thuộc Eximbank thâu tóm STB khi nắm giữ tới 51%
cổ phiếu STB, có lúc giá STB lên hơn 26.500 đồng/cổ phiếu.
Trong khi đó, hàng ngàn cổ đông nhỏ lẻ của STB bị bưng bít thông tin, bằng chứng
khá rõ là HOSE thông báo, Công ty Cổ phần Đầu tư Sài Gòn Exim (SaigonExim) đã
mua cổ phiếu và trở thành cổ đông lớn của Sacombank từ ngày 9/1/2012 (tăng tỷ lệ sở
hữu ở STB lên 5,17%, tương ứng 50.355.510 cổ phiếu) nhưng 3 tháng sau, đến ngày
6/4/2012 mới chính thức công bố thông tin này.
SaigonExim có các cổ đông sáng lập gồm Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank, sở hữu 11% vốn), Công ty Cổ phần Bất động
sản Exim và Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Sài Gòn. Ngay khi có thông tin
STB sẽ bị cổ đông lớn Eximbank thâu tóm, mặc dù chưa chính thức, nhưng giá cổ
phiếu STB sụt mạnh, ngày 9/3 xuống tới 19.300 đồng/cổ phiếu.
Đây là cơ hội lớn cho những cổ đông lớn của Eximbank và Ngân hàng Phương
Nam (gần kết thúc thương vụ này mới xuất đầu lộ diện) tiếp tục mua vào cổ phiếu
STB để hoàn tất vụ thâu tóm quyền lực tại STB và thu về khoản lợi nhuận rất lớn
trong vòng 2 tháng qua, bởi sau khi thông tin chính thức được công bố, không còn là
tin đồn đoán, giá cổ phiếu STB tăng liên tục, ngày 1/6 lên tới 25.400 đồng/cổ phiếu,
với giao dịch thỏa thuận đạt mức kỷ lục là 26,348 triệu cổ phiếu, trị giá tới 659 tỷ
đồng.
II.2.3. Các hành vi tiêu cực khác
a) Bán khống
Nếu cho phép bán khống một cách tràn lan thì quy mô thị trường bị kích lên và
khi xảy ra khủng hoảng thì nguy cơ vỡ thị trường là rất lớn. Một số nhóm nhà đầu tư
chứng khoán có tiền lớn, quan hệ rộng đã liên kết vay cổ phiếu để bán ra theo kiểu
đánh xuống nhằm mục đích kéo theo các nhà đầu tư nhỏ lẻ không vững tâm bán tháo
ra, để đến một lúc nào đó họ lại mua gom cổ phiếu giá rẻ vào trả nợ và chốt lời.
Trên thực tế, bán khống đã diễn ra rất nhiều và ngày càng trở nên trầm trọng
hơn khi thị trường suy giảm và lòng tin của các nhà đầu tư gặp khủng hoảng. Nó khiến
cho thị trường đi xuống nhanh hơn nhất là khi thị trường khủng hoảng niềm tin.
NHÓM 2
Page 23
b) Kinh doanh chộp giật kiểu “rải đinh”
Đây là việc lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài khoản, những kẻ đầu cơ đã tạo
ra nhiều tài khoản riêng đứng tên những người khác nhau. Khi thực hiện lệnh mua
hoặc bán, họ đặt giá ở nhiều cấp độ khác nhau.
Việc làm này khiến không ít nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm cho rằng, cổ phiếu đang
xuống thấp hoặc lên cao ở các mức độ an toàn, có thể mua vào hoặc bán ra vào thời
điểm đó là hợp lý.Khi những nhà đầu tư “non nớt” làm việc trên thì các đại gia dựa
vào nhiều tài khoản khác mà họ đã lập sẵn để mua vào hoặc bán ra theo kế hoạch mà
họ đã sắp đặt trước.
Ngoài kiểu kinh doanh chộp giật trên, còn có kiểu chộp giật nữa thường thấy trên thị
trường chứng khoán Việt Nam là: một số nhà đầu tư liên kết với nhau để đưa một loại
cổ phiếu nào đó lên đỉnh cao hoặc dìm xuống với giá thấp để thực hiện ý đồ xấu.
Những mặt tiêu cực nêu trên và những biến tướng tinh vi của nó có thể hạn chế
và khắc phục bằng cách ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và có sự quản lí,
giám sát thường xuyên của các cơ quan chức năng.
II.3. Nguyên nhân dẫn đến các hành vi tiêu cực trên thị trường chứng khoán
Các khía cạnh tiêu cực trên thị trường chứng khoán xuất hiện ngày càng nhiều
và trở nên tinh vi hơn. Tựu chung lại, nó xuất phát từ các nguyên nhân dưới đây:
- Người mua có rất ít thông tin và điều kiện thẩm định giá trị của chứng khoán
mà mình định mua.
- Sự tham gia của các nhà đầu tư là tổ chức trên thị trường còn rất ít, phần đa là
các cá nhân nhỏ lẻ.
- Hoạt động của thị trường phi tập chung (OTC) lớn hơn nhiều so với thị trường
chính thức.
- Chính sách phát triển thị trường vốn của Chính phủ và hệ thống pháp lý điều
chỉnh hoạt động trên thị trường chứng khoán còn tồn tại nhiều bất cập.
- Quy mô và mức độ công khai thị trường còn thấp.
NHÓM 2
Page 24
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM
NGĂN CHẶN VÀ HẠN CHẾ CÁC KHÍA CẠNH TIÊU CỰC
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
III.1. Đối với Nhà nước
- Một là, đưa ra khung pháp lí nhằm bảo vệ quyền lợi cho cổ đông thiểu số.
Khái niệm “cổ đông thiểu số” không được quy định một cách cụ thể trong các
văn bản pháp luật có liên quan. Hiểu một cách tổng quát, cổ đông thiểu số là những cổ
đông nắm giữ thiểu số quyền biểu quyết trong doanh nghiệp. Song không có nghĩa là
cổ đông thiểu số nắm giữ ít cổ phần. Lúc này, họ không có “tiếng nói” trong việc quyết
định mọi hoạt động của doanh nghiệp. Cổ đông lớn có thể lợi dụng để quyết định giá
cổ phiếu mua hoặc bán có lợi cho mình. Điều này gây nên hiện tượng cá lớn nuốt cá
bé, ảnh hưởng tiêu cực đếnthị trường chứng khoán. So với Luật Doanh nghiệp 2005,
Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những thay đổi đáng kể trong các quy định tạo cơ chế
bảo vệ tốt hơn quyền lợi của cổ đông thiểu số. Các thay đổi tiêu biểu như việc giảm
mức tỷ lệ sở hữu vốn của cổ đông thiểu số hoặc nhóm cổ đông thiểu số trong công ty
TNHH để được hưởng các quyền mở rộng như yêu cầu triệu tập họp Hội đồng thành
viên, kiểm tra sổ sách tài liệu của công ty, hay yêu cầu tuyên hủy nghị quyết của Hội
đồng thành viên. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2014 mới có hiệu lực, hiệu quả của
những quy định mang tính đột phá này chưa thể đánh giá một cách toàn diện. Do đó,
cần đẩy mạnh hơn nữa việc tạo ra khung pháp lý để bảo vệ lợi ích chính đáng cho
những cổ đông này.
- Hai là,các thông tin, chính sách của Nhà nước phải được công khai, minh
bạch. Từ đó, các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán có thể nắm bắt đầy đủ
thông tin một cách nhanh nhất, giúp cho việc thực hiện đúng pháp luật.
III.2. Đối với nhà đầu tư
- Một là, cần phải có các hiểu biết cơ bản về thị trường chứng khoán. Khi nhà
đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán, muốn thu được lợi nhuận từ hoạt động
này buộc nhà đầu tư phải có hiểu biết nhất định trước khi bỏ tiền đầu tư. Đó là bản
NHÓM 2
Page 25