Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Quyền tự định đoạt của đương sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.99 KB, 164 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ HẰNG

QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9.38.01.07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐINH VĂN THANH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu của Luận án là trung thực, đảm bảo độ tin cậy, chính xác và không
trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố; các số liệu phục
vụ cho việc phân tích, đánh giá và một số thông tin trích dẫn đều đã được chú thích
nguồn gốc rõ ràng, chính xác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đinh Thị Hằng



DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Từ viết tắt

Nghĩa của từ viết tắt

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

CHV

Chấp hành viên

CHXHCN

Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa

HĐTPTANDTC

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao


HĐXX

Hội đồng xét xử

LTHADS

Luật Thi hành án dân sự

LTCTADN

Luật tổ chức tòa án nhân dân

Nxb

Nhà xuất bản

NCQLNVLQ

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

NNPQ

Nhà nước pháp quyền

PLTTGQCVADS Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989
PTSTDS

Phiên tòa sơ thẩm dân sự

TAND


Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

Tố tụng dân sự

THA

Thi hành án

THADS

Thi hành án dân sự

VVDS

Vụ việc dân sự

VADS

Vụ án dân sự

VKS

Viện kiểm sát


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................ 9
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ...................................................... 9
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................... 19
1.3. Những vấn đề được nghiên cứu trong luận án .............................................. 21
1.4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án .............................................. 21
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ........................................... 24
2.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS ... 24
2.2. Cơ sở của quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS ............................ 42
2.3. Nội dung quyền tự định đoạt của đương sự ................................................. 47
2.4. Cơ chế bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự ....................................... 52
2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự
trong TTDS .......................................................................................................... 57
Chương 3: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN .................................................................................................................... 71
3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS ................................................................................................................... 72

3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS .................................................................................................................. 103
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ ... 124
4.1. Những định hướng hoàn thiện pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự ............................................................................................ 124
4.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự ..................................................................... 135
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN .......................................................................................................... 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 153


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới” nhằm giải
quyết một bước những hạn chế, vướng mắc bức xúc nhất của công tác tư pháp đã
tồn tại trong nhiều năm qua; tiếp đó, ngày 02/06/2005, đã ban hành Nghị quyết
49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhằm đổi mới đồng
bộ, toàn diện nền tư pháp nước nhà. Đồng thời đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao”; xác định nhiệm vụ “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ
hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp”. Chỉ thị số 01/2017/CT-CA ngày 18/01/2017 của Chánh án Tòa án nhân

dân tối cao về việc triển khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác
Tòa án nhân dân năm 2017 đặt ra yêu cầu các Tòa án nhân dân cần đổi mới việc tổ
chức phiên tòa xét xử theo đúng tinh thần cải cách tư pháp; đồng thời, giao chỉ
tiêu mỗi Thẩm phán trong hệ thống Tòa án nhân dân trong năm 2017 chủ tọa xét
xử ít nhất một phiên tòa rút kinh nghiệm. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh,
bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người" [17,tr.250]
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp, Đảng ta đã xác định “Toà án có vị trí
trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”[1].
Như vậy, việc ban hành chiến lược cải cách tư pháp là nhằm hướng tới mục
tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
XHCN, Nhà nước ta đã và đang có những hoạt động tích cực trong công cuộc cải
cách Tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan Tư pháp, đáp
1


ứng kịp thời xu hướng phát triển của xã hội.
Hiện nay, trong xu hướng hội nhập toàn cầu thì vấn đề bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia các quan hệ trong xã hội ngày càng
được quan tâm. Nhà nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản
lý xã hội đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, tổ
chức bảo vệ một cách tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, cần
cơ chế đề cao quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS, theo đó, nguyên tắc
quyền tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự
Việt Nam; đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa
chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, được quyết định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự. Bên cạnh việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì

nguyên tắc này còn có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm của Tòa án
trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự. Tòa án phải luôn luôn tôn
trọng quyền tự định đoạt của đương sự, việc thụ lý giải quyết vụ việc dân sự
hoàn toàn dựa trên sự định đoạt của đương sự. Đồng thời, quyền tự định đoạt
trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự thì đương sự chỉ yêu cầu Tòa án công
nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm
dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. Tòa án
chỉ thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện của các chủ thể, đây là phương
thức đặc trưng trong việc thực hiện quyền tự định đoạt trong TTDS. Với việc
khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết việc dân sự kịp thời thì các quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự sẽ được bảo vệ, những thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn
chặn và chấm dứt được hành vi trái pháp luật…
Mặc dù nhiều điều, khoản của BLTTDS hiện hành đề cao nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự trong vụ việc dân sự, nhưng cũng tại BLTTDS lại có
những điều, khoản lại “làm khó” quyền tự định đoạt của đương sự, bất hợp lý,
mâu thuẫn, vi phạm nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự,
quy định căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là Khi có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng là không hợp lý theo quy định trước đây. Bởi vì,
trên thực tế nhiều trường hợp đương sự thấy có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
2


tụng nhưng các bên vẫn đồng ý với nội dung bản án, quyết định của Toà án và tự
nguyện thi hành án, nhưng bản án, quyết định đó vẫn bị người có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Đây là một khiếm khuyết, là sự can
thiệp quá sâu vào đời sống dân sự của đương sự, làm mất thời gian, lãng phí tiền
bạc, vi phạm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự đã được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ.
Do đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã quy định “Việc bảo đảm cho đương sự

thực hiện quyền quyết định và tự định đoạt luôn được tôn trọng”. Tuy nhiên, một
số quy định của pháp luật TTDS hiện hành vẫn hạn chế quyền tự định đoạt của
đương sự. Để khắc phục tình trạng trên, việc nghiên cứu của luận án tiến sĩ về
quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS sẽ góp phần để linh hoạt, mềm dẻo
khi giải quyết vụ việc nhằm kết thúc vụ việc một cách nhanh chóng mà vẫn bảo
đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Luận án cũng cấp cơ sở lý luận và
thực tiễn cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục bổ sung thêm quy định
để hoàn thiện quy định chặt chẽ hơn trách nhiệm của Tòa án trong việc thụ lý,
giải quyết vụ việc dân sự nhằm bảo đảm thực hiện quyền quyết định, tự định đoạt
của đương sự trong TTDS và việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế.
Do đó, nhiều vấn đề của Bộ luật TTDS, trong đó có các quy định về quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu làm sáng
tỏ. Xuất phát từ những lý do trên đây, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quyền tự định
đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam” cho luận án Luật chuyên ngành Luật
Kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích chính của luận án là nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề
lý luận để làm rõ bản chất pháp lý quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự; nghiên cứu các quy định của pháp luật quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự Việt Nam nhằm đưa ra những đánh giá có cơ sở khoa học và
thực tiễn về thực trạng pháp luật; luận án phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến
việc thực thi pháp luật nhằm lý giải về tình trạng pháp luật đã không được áp
3


dụng trong thời gian có hiệu lực vừa qua và dự báo những khó khăn cần giải
quyết khi tổ chức thực thi pháp luật. Thông qua luận án, tác giả mong muốn góp
phần hoàn thiện một bước lý luận, các quy định của pháp luật và đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao năng lực áp dụng pháp luật quyền tự định đoạt của

đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Theo đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
1. Nghiên cứu các cơ sở xã hội - pháp lý về quyền tự định đoạt của đương
sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, phân tích bản chất của quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam và tác động nhiều mặt của nó đến sự
phát triển hoạt động tố tụng dân sự Việt Nam, đồng thời nghiên cứu về nhu cầu
điều chỉnh của pháp luật quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
Việt Nam.
2. Trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng pháp luật quyền tự định đoạt của đương
sự trong tố tụng dân sự Việt Nam bao gồm các quy định về căn cứ quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, xác định phạm vi quyền tự
định đoạt của đương sự và quan hệ tố tụng khác có liên quan đến quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong góc độ tiếp cận quyền; các quy định về thủ tục thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, luận án sẽ nêu
lên những nội dung chưa được pháp luật giải quyết hoặc giải quyết chưa triệt để
cũng như các nội dung chưa phù hợp với pháp luật của Hiến pháp năm 2013 và
Bộ luật Dân sự năm 2015,... để đưa ra các giải pháp khắc phục.
3. Nghiên cứu cơ chế thực thi pháp luật quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự Việt Nam. Trên cơ sở phân tích và đối chiếu với định hướng pháp
luật tố tụng dân sự và dân sự hiện nay, luận án có những phân tích về đặc trưng và
những bất cập của hệ thống quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
Việt Nam hiện nay để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và cơ chế thực thi tại Việt Nam và các kiến
nghị nhằm nâng cao nâng lực áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.

4


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự; định hướng cải cách tư pháp của Đảng và
Nhà nước ta về đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự; các quy định của pháp
luật TTDS Việt Nam về quyền tự định đoạt của đương sự và thực tiễn thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự tại các Tòa án việt Nam trong những năm gần đây.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Quyền tự định đoạt của đương sự có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Trong đề tài này tác giả chỉ nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự theo nghĩa hẹp, đó là quyền tự định đoạt của đương sự gắn liền hoặc
xuất phát với các quyền, lợi ích dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động (sau đây gọi chung là quyền, lợi ích dân sự). Theo đó, quyền định
đoạt của đương sự gắn liền với quyền và lợi ích dân sự của đương sự trong tố tụng
dân sự được thực hiện thông qua các hoạt động tố tụng như khởi kiện, rút yêu cầu
khởi kiện, thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, kháng cáo, thỏa thuận về quyền và
lợi ích dân sự. Đồng thời, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu nội dung quyền tự
định đoạt của đương sự và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự định
của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án.
Đề tài không nghiên cứu quyền tự định đoạt dưới góc độ là quyền tố tụng để
thực hiện, bảo vệ quyền, lợi ích dân sự của mình tại Toà án như: quyền tham gia
phiên tòa, quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng ... Các vấn đề về quyền
tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết việc dân sự và trong giai
đoạn thi hành án dân sự sẽ được tác giả tiếp tục nghiên cứu trong các công trình
tiếp theo.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu của đề tài, việc nghiên cứu được tiến
hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lêin, quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài luận án còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa

5


học chuyên ngành khác như phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê. Cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng trong toàn bộ 4 chương của
Luận án. Tại chương 1 tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích tình hình
nghiên cứu và đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu hiện nay. Chương 2 tác
giả sử dụng phương pháp này để phân tích khái niệm, ý nghĩa của việc ghi nhận
quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam. Ở chương 3, tác giả sử
dụng phương pháp phân tích để xem xét, bóc tách các qui định của pháp luật
hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam. Trong
chương 4, khi nghiên cứu những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành về
quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam, tác giả đã sử dụng
phương pháp phân tích để làm rõ hơn những vướng mắc này, từ đó đưa ra các
kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số qui định nhằm hoàn thiện các qui định của
pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự.
Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng để so sánh qui định của pháp luật
Việt Nam liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS qua các thời
kỳ lịch sử để thấy được sự tiến bộ và kế thừa của pháp luật ở từng giai đoạn.
Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng khi thống kê số liệu về tình
hình thụ lý, kết quả giải quyết và việc áp dụng các qui định về quyền tự định
đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam tại chương 3 của Luận án khi đưa ra
những thành tựu mà ngành tư pháp đã đạt được trong quá trình thực hiện qui
định của BLTTDS.
Phương pháp tổng hợp cũng được tác giả sử dụng trong toàn bộ luận án.
Trên cơ sở các tài liệu đã phân tích, so sánh, thống kê, tác giả sử dụng phương
pháp này để tổng hợp lại những vấn đề đã nêu ra, từ đó rút ra những nhận định,
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
Việt Nam trong thời gian tới.

5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
Đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ về những vấn đề liên
quan đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này
6


nên có những điểm mới sau:
- Hoàn thiện khái niệm, xác định rõ ý nghĩa, cơ sở của quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự; làm rõ các yếu tố ảnh hưởng hoặc tác động
đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự.
- Làm rõ nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành; thông qua đó phân tích đánh
giá các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 so với các qui định trước đó và
với quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong pháp luật tố tụng của một
số nước thế giới.
- Đánh giá đúng thực trạng và thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự 2015 về quyền tự định đoạt của đương sự tại Tòa án.
- Đề xuất được một số kiến nghị về việc hoàn thiện và thực hiện các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về quyền tự định đoạt của đương sự tại Tòa
án trong bối cảnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của nhà nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học của Luận án
Về mặt lý luận: đây là luận án nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện
về pháp luật quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam. Các kiến
nghị, kết luận nêu ra trong luận án là những luận cứ khoa học của tác giả. Có
thể nói đây là công trình khoa học được nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ
thống và đề cập đến nhiều vấn đề về pháp luật quyền tự định đoạt của đương sự
trong TTDS Việt Nam mà từ trước đến nay chưa được giải quyết hoặc giải

quyết chưa triệt để. Đó là vấn đề về quá trình nhận thức về quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS trong khoa học pháp lý của Việt Nam, cơ sở xã hội pháp lý cho việc xác định bản chất của hiện tượng tự định đoạt của đương sự
trong TTDS Việt Nam, những thành tựu và tồn tại trong pháp luật quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam….
Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo hữu ích trong việc nghiên cứu về lý luận và pháp luật quyền tự định

7


đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam, làm tài liệu giảng dạy và học tập cho
sinh viên đại học chuyên ngành luật học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án
Về thực tiễn: những nghiên cứu, kết luận, đề xuất của luận án còn có ý
nghĩa trong việc hoàn thiện pháp luật quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
7. Cơ cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận. Luận án được chia làm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự
Chương 3: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền tự định
đoạt của đương sự và thực tiễn thực hiện
Chương 4: Phương hướng hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về
quyền tự định đoạt của đương sự

8


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là
một nguyên tắc truyền thống của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Sự quan
tâm và chú ý tới vấn đề quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự trở
thành vấn đề thời sự khi Đảng và Nhà nước thực hiện tiến trình cải cách tư pháp
cùng sự minh bạch các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp cận các tài liệu, sách, báo, bài viết của các học
giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu này, nghiên cứu sinh
tổng quan tình hình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề sau:
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về lý luận quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS Việt Nam
- Các giáo trình, sách chuyên khảo về luật TTDS của các trường Đại học và
Học viện như giáo trình Luật TTDS của Khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội xuất bản năm 1995; Giáo trình Luật TTDS Việt Nam của Trường Đại
học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2009; Giáo trình Luật
TTDS của Học viện tư pháp do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm
2007; Giáo trình Luật TTDS Việt Nam của Viện Đại học Mở Hà Nội do nhà
xuất bản Tư pháp năm 2013 … Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật
tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng của Lê Thu Hà, nhà xuất bản tư pháp năm
2006; Trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao
động, hôn nhân và gia đình của tác giả Hà Mai Hiên, nhà xuất bản công an nhân
dân năm 2008; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 của Bùi Thị
Huyền, nhà xuất bản lao động năm 2016; Bình luận Bộ luật tố tụng dân sự, Luật
trọng tài thương mại và thực tiễn xét xử của Tưởng Duy Lượng, nhà xuất bản Tư
pháp năm 2016; Các giáo trình, sách chuyên khảo này trình bày một cách đơn
giản các nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt nhằm cung cấp các kiến
thức cơ bản cho sinh viên cũng như độc giả mà không có sự phân tích, đánh giá
các quy định của pháp luật TTDS về quyền tự định đoạt của đương sự.


9


- Các công trình nghiên cứu cấp cơ sở: “Cơ chế bảo đảm quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự đáp ứng tiến trình cải cách tư pháp ở
Việt Nam” do TS. Nguyễn Triều Dương làm chủ nhiệm đề tài thực hiện năm
2015. Đề tài này đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện cơ
chế đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong pháp luật TTDS. Trong
công trình nghiên cứu tác giả tập trung phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về cơ chế đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở và nội dung cơ chế bảo đảm quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Đồng thời phân tích, đánh giá thực
trạng và thực tiễn thực hiện cơ chế bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự
trong một qui trình tố tụng bao gồm cả vụ án dân sự và việc dân sự. Tuy nhiên,
đề tài được tiến hành trước khi ban hành BLTTDS năm 2015 nên một số phân
tích về quy định của pháp luật không còn phù hợp và một số kiến nghị về quyền
tự định đoạt của đương sự trong đề tài đó được sửa đổi, bổ sung trong BLTTDS.
- Các công trình nghiên cứu bậc Tiến sĩ có: “Bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam” năm 2006, do tác giả Nguyễn Công
Bình thực hiện; “Đương sự trong vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” năm 2010, do tác giả Nguyễn Triều Dương thực hiện. Có thể nói, các luận
án tiến sĩ này nghiên cứu một cách khái quát các quyền của đương sự và việc
bảo đảm thực hiện các quyền của đương sự chứ không đi vào cụ thể làm sáng tỏ
quyền tự định đoạt của đương sự theo qui định của pháp luật TTDS năm 2015.
Nhóm các công trình nghiên cứu về lý luận về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS Việt Nam đã chỉ ra những mặt tồn tại, khó khăn về quyền
tự định đoạt của đương sự TTDS như: (i) nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan mới chỉ quy định về đương sự trong vụ án dân sự còn các
chủ thể có yêu cầu trong việc dân sự lại chưa được bộ luật công nhận cho một
“danh phận tố tụng” cụ thể. Sự thiếu hụt này đã gây không ít khó khăn cho

đương sự trong vụ việc dân sự khi họ tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc
dân sự; (ii) địa vị tố tụng của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố
tụng độc lập và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không
độc lập là khác nhau. Nhưng hiện nay pháp luật tố tụng lại chưa có quy định rõ
10


sự khác biệt về địa vị tố tụng của hai chủ thể này nên việc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn nhiều vướng mắc;
(iii) BLTTDS quy định thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và việc dân sự khác
nhau, nhưng lại không quy định thủ tục chuyển hóa trong việc giải quyết giữa
các vụ việc dân sự dẫn đến làm phức tạp hóa quá trình giải quyết các vụ việc cụ
thể, gây khó khăn cho đương sự trong việc định đoạt bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình; (iv) quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự BLTTDS quy định còn
mâu thuẫn và chưa rõ ràng dẫn đến việc hiểu và thực hiện không thống nhất. Các
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, với việc quy định như hiện nay vẫn chưa phát huy
tối đa quyền tự định đoạt của đương sự, không những gây khó khăn cho đương
sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của mình.
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về
quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam
- Các công trình nghiên cứu bậc thạc sĩ có: “Quyền tự định đoạt của đương
sự trong tố tụng dân sự” năm 1997 do tác giả Nguyễn Tiến Trung thực hiện;
“Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự Việt Nam” năm 1997 của tác giả
Nguyễn Văn Cung; “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự” năm 2011 của tác giả Nguyễn Văn Tuyết; “Quyền tự định đoạt của
đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại” năm 2013 của Nguyễn Thị Thu
Minh; “Quyền yêu cầu, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự trong tố
tụng dân sự Việt Nam” năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Minh Trang; “Khởi
kiện, thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại tòa án nhân dân quận Đống
Đa” năm 2015 của tác giả Hồ Thanh Huyền; “Hòa giải vụ án dân sự và thực

tiễn thực hiện tại tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội” năm 2016
của tác giả Phạm Kim Ngân; “Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân
sự Việt Nam” năm 2016 của tác giả Phạm Thị Ánh Ngọc; “Tranh tụng tại phiên
tòa dân sự sơ thẩm qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thanh Hóa” năm 2016 của
tác giả Trịnh Xuân Tùng. Nhìn chung các Luận văn này chủ yếu tập chung
nghiên cứu đơn lẻ một nội dung cụ thể của quyền tự định đoạt và đều nghiên cứu
theo BLTTDS năm 2004 và luật sửa đổi, bổ sung năm 2011.

11


- Các Khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự” của Đỗ Văn Đại năm 1997; “Nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự” của Lương Bạch Đằng năm 1997;
“Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”
của Nguyễn Nữ Giang Anh năm 2010; “Bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự
trong tố tụng dân sự Việt Nam” của Trần Thị Hà năm 2011; “Quyền yêu cầu,
thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự trong Tố tụng dân sự”, năm 2011
của Nguyễn Thị Mỹ Lệ; “Qui định pháp luật hiện hành về hòa giải VADS - Thực
tiễn thực hiện và giải pháp hoàn thiện” năm 2015 của Hoàng Thị Huệ. Nội dung
của các khóa luận này mới chỉ tập trung nghiên cứu nội dung của nguyên tắc
quyền tự định đoạt theo BLTTDS năm 2004 mà chưa có sự so sánh, đối chiếu
quyền tự định đoạt của đương sự với các văn bản pháp luật khác; các kiến nghị,
giải pháp đưa ra chưa hợp lý và chưa xác thực, đang còn nhiều ý kiến tranh luận.
- Các sách chuyên khảo như: “Kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự” của
Trường Đào tạo các chức danh tư pháp nay là Học viện Tư pháp do nhà xuất bản
Công an nhân dân năm 2004; “Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử” của
tác giả Tưởng Duy Lượng do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm
2009; “Tìm hiểu về quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự Việt Nam” của Nguyễn Phương Hạnh, do nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia xuất bản năm 2012. Các nội dung được trình bày trong các cuốn sách
chuyên khảo này cũng chỉ mang tính chất liệt kê, đơn giản, chưa đi sâu vào
nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự một cách có hệ thống theo
BLTTDS năm 2015.
Ngoài ra còn có cuốn “Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành
luật học” do GS.TS. Võ Khánh Vinh làm chủ biên. Cuốn sách đã trình bày các
vấn đề về bảo đảm quyền con người trong các lĩnh vực khác nhau, trong đó phải
kể đến bài viết của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà với chủ đề “Quyền con người
trong tố tụng dân sự”. Tác giả đã dành một phần bài viết của mình để đi sâu phân
tích mối quan hệ giữa các qui định của luật nội dung và luật hình thức. Qua đó,
mối quan hệ này được thiết lập trên ba phương diện đó là: Thứ nhất, pháp luật tố
tụng dân sự là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ
12


quyền con người trong hoạt động tố tụng dân sự. Theo đó, quyền dân sự của con
người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Nhà nước với tư cách là cơ quan có
chức năng quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội. Thứ hai, pháp
luật tố tụng dân sự là phương tiện thể chế hóa hay pháp lý hóa các quyền tố tụng
của các chủ thể tham gia trong hoạt động tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình trước sự xâm phạm của người khác. Thứ ba, pháp luật tố
tụng dân sự tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể tham gia trong hoạt động tố tụng
dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy pháp luật tố tụng dân
sự được xem là công cụ để cá nhân tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
Nhóm các công trình nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam đã chỉ ra: (i) Nghiên cứu về
quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự nói chung đã được thực
hiện trong một số công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí, nhưng chỉ nghiên
cứu quy định chung hoặc phản ánh dưới một góc độ hẹp; (ii) trong thực tiễn giải

quyết vụ việc dân sự, các Tòa án đã bảo đảm cho các đương sự thực hiện khá tốt
quyền tự định đoạt của mình từ quyền khởi kiện vụ án, yêu cầu giải quyết việc
dân sự, quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu; quyền hòa giải, thương lượng;
quyền kháng cáo, khiếu nại các bản án, quyết định của Tòa án; (iii) việc thực
hiện về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS thời gian qua vẫn còn bộc
lộ những hạn chế nhất định. Những hạn chế này thể hiện cả trong các hoạt động
tố tụng dân sự của đương sự và Tòa án: (i) về phía đương sự, do không hiểu biết
đầy đủ các quy định của pháp luật nên nhiều trường hợp đã không thực hiện
đúng được các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của mình. Trên thực tế, đã không
ít trường hợp đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi
đã hết thời hiệu khởi kiện nên đã bị trả lại đơn khởi kiện. (ii) về phía Tòa án, còn
có trường hợp không bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự do sai sót trong
việc trả lại đơn khởi kiện, không xem xét hết các yêu cầu của đương sự, xét xử
vượt quá yêu cầu của đương sự, gò bó, cưỡng ép đương sự thỏa thuận khi hòa
giải; (iii) Sai sót của Tòa án do trả lại đơn khởi kiện không đúng pháp luật; Tòa
án không xem xét hết (bỏ sót) yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của đương
13


sự; Tòa án xét xử vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Tòa án gò bó,
cưỡng é đương sự thỏa thuận khi hòa giải.
Nhóm các công trình nghiên cứu về các giải pháp đề xuất, kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam
- Các bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí có nghiên cứu về những
vấn đề riêng lẻ về quyền tự định đoạt của đương sự như “Nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Phạm Hữu Nghị đăng
trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/2000; “Nguyên tắc quyền quyết định
và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Ngọc Khánh đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2005; “Việc
thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại phiên toà sơ thẩm” của Bùi

Thị Huyền đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2007; “Sự thoả thuận
của các đương sự tại phiên toà sơ thẩm dân sự” của Bùi Thị Huyền đăng trên
Tạp chí Luật học số 8/2007; “Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự” của tác giả Lê Minh Hải đăng trên Tạp chí Nhà nước và
pháp luật tháng 4/2009; “Một số quan điểm củng cố và phát triển nội dung
quyền tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật tố tụng dân sự” của Thạc sỹ Lê
Minh Hải; “Nguyên tắc quyền tự định đoạt và tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự, tố tụng hành chính” của Nguyễn Quang Hiền đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp của Văn phòng Quốc hội số 17/2013; “Về quyền quyết định
và tự định đoạt của người khởi kiện trong tố tụng hành chính” của Lê Việt Sơn
đăng trên tạp chí Nghề luật của Học viện tư pháp số 6/2014…. Các bài viết này
đề cập đến các vấn đề khác nhau của quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS cũng như phân tích các vấn đề này dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên,
các bài viết này chủ yếu là phân tích, đánh giá các quy định của BLTTDS năm
2004, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS, những vấn đề có tính lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS hầu như không được đề cập đến, nhiều vấn đề có ý nghĩa về lí luận và
thực tiễn chưa được nghiên cứu hoặc có đề cập đến nhưng chưa được lý giải một
cách thỏa đáng và cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn.
Bài viết “Vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền của cá nhân, cơ
14


quan, tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” của TS. Đào
Thị Xuân Loan được viết trong tài liệu hội thảo một số vấn đề lớn còn có các ý
kiến khác nhau về dự án Bộ luật TTDS, tháng 7/2015. Trong bài viết tác giả đã
phân tích cơ ở lý luận và cơ sở thực tiễn về vai trò của Tòa án trong việc bảo
đảm quyền của cá nhân, cơ quan tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp đối với yêu cầu gaiir quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có luật, điều
luật để áp dụng.

Nhóm các công trình nghiên cứu về các giải pháp đề xuất, kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam đã chỉ
ra: (i) tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về quyền tự định đoạt của đương sự; (ii) đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật tố tụng dân sự nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân; (iii) khắc
phục những hạn chế, thiếu sót từ phía ngành Tòa án nhằm nâng cao chất lượng
xét xử và đảm bảo cho đƣơng sự thực hiện tốt quyền tự định đoạt của mình.
Nhóm các công trình nước ngoài nghiên cứu về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS
Ở nước ngoài, tác giả nghiên cứu những vấn đề về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS trong các sách như:
- Cuốn sách “Civil procedure Doctrine, Practice and Context” (lý luận,
thực tiễn, tình huống tố tụng dân sự) của các đồng tác giải Stephen N.Subrin,
Martha L.Minow, mark S.Brodin, Thomas O.Main và Alexandra D.Lahav, nhà
xuất bản Wolters Kluwer Law & Business in New York, 2012. Cuốn sách trình
bày hơn 40 chủ đề khác nhau về các vấn đề lý luận, thực tiễn và tình huống cụ thể
trong tố tụng dân sự. Trong đó có chủ đề “The supreme court and ligitlation
access fees: The right to protect one’s rights” (Tòa án tối cao và việc tham gia
kiện tụng: quyền để bảo vệ một quyền). Theo các tác giả thì có nhiều lý do khác
nhau dẫn đến việc kiện tụng, chúng ta không nên cố gắng để giới hạn nó trong
phạm vi của những giá trị về kết quả, lợi ích, mục đích. Do đó, cần đẩy mạnh bằng
cách trao cho đương sự quyền khởi kiện. Đây là quyền quan trọng nhất để bảo vệ
các quyền dân sự khác. Các tác giả cũng đưa ra kết luận rằng: để bảo đảm cho
những lợi ích được bảo vệ thì tranh tụng được coi là một quá trình hoặc là một
15


phần của một quá trình, được cung cấp để bảo vệ và bảo đảm thực hiền quyền.
- Bài giới thiệu của Giáo sư Micheal Browde, Giáo sư Khoa Luật Trường
Đại học New Mecxico (Mỹ) về “Pháp luật tố tụng dân sự của Mỹ và một số

nước theo hệ thống luật án lệ”. Trong bào viết này, tác giả có một số nhận xét về
vấn đề khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Mỹ và so sánh với
các qui định tương tự trong BLTTDS Việt Nam. Tác giả đưa ra các nội dung
chính như sau: Ở Mỹ đơn khởi kiện chỉ mang tính hình thức, không quan trọng,
tất cả các đơn khởi kiện đều được tiếp nhận chính thức, không có trường hợp nào
đơn khởi kiện bị trả lại như qui định trong BLTTDS Việt Nam. Việc tiếp nhận
đơn khởi kiện đó có thể được thực hiện kể cả trong trường hợp vụ kiện đó đã bắt
đầu không hợp lý. Lý do của việc đó là Tòa án có đầy đủ tư liệu về các vụ kiện
đến Tòa án và đương sự sẽ có được lối giải thích của Tòa án thông qua phán
quyết tại sao đơn khởi kiện không được chấp nhận. Đồng thời nếu Tòa án ra
phán quyết không chấp nhận đơn khởi kiện thì đương sự có quyền kháng cáo để
xem xét lại phán quyết của Tòa án đó. Vậy bước đầu tiên bắt đầu của một vụ kiện
là nộp đơn khởi kiện tới Tòa án, sau khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì bên bị
đơn có nghĩa vụ nộp một bản trả lời về đơn khởi kiện đó, BLTTDS Mỹ cho phép
bên bị đơn đó nộp lên Tòa án những khiếu nại phản tố lại bên nguyên đơn; đối với
khiếu nại phản tố đó thì bên nguyên đơn lại trở thành bị đơn và bị đơn trở thành
nguyên đơn. Bộ luật TTDS Mỹ cũng cho phép có thể thực hiện những khiếu nại
khác liên quan đến vụ kiện ở trong quá trình giải quyết (có thể kiện người thứ ba
có liên quan trong cùng một vụ kiện). Bộ luật TTDS của Mỹ có những qui định
cho phép sự tham gia tố tụng của cá nhân, tổ chức để bảo vệ lợi ích cho xã hội. Họ
không phải là một trong các bên đương sự trong vụ kiện [28].
- Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về nguyên tắc tranh tụng trong
tố tụng dân sự của Tiến sĩ Tobias Oelsner - Thẩm phán Tòa khu vực Berlin,
Cộng hòa liên bang Đức. Trong báo cáo này tác giả chỉ ra rằng, theo qui định
của pháp luật Anh, trước khi bắt đầu thủ tục tố tụng dân sự, các bên đương sự có
trách nhiệm thực hiện việc trao đổi tài liệu và thông tin nhằm thương lượng giải
quyết tranh chấp mà không phải qua thủ tục tố tụng tại Tòa án. Thủ tục tố tụng
bắt đầu khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện cùng với các tài liệu liên quan. Đơn
16



khởi kiện và tài liệu liên quan phải trình bày tóm tắt các tình tiết vụ việc. Bị đơn
có quyền chấp nhận đơn khởi kiện hoặc sẽ bào chữa và phải thông báo cho Tòa án
bằng đơn bào chữa kèm theo cả đơn phản kiện (nếu có) trong thời hạn 28 ngày kể
từ ngày nhận được đơn khiếu kiện. Nếu bị đơn không đưa ra được đơn bào chữa
sẽ cho phép nguyên đơn mặc định thắng kiện. Tác giả cũng chỉ ra rằng, trong tố
tụng dân sự của Đức, về nguyên tắc quyết định khởi kiện vụ án ra trước tòa hoàn
toàn là quyền tự quyết định của các cá nhân liên quan. Đối với tráp hầu tòa,
nguyên đơn đồng thời xác định được vụ án về vấn đề gì. Nếu không có bản mô tả
cụ thể về nội dung khởi kiện, Tòa án sẽ không thụ lý vụ kiện. Tòa án sẽ không
được xem xét các nội dung khác không được nêu trong đơn khởi kiện và không
được ban hành quyết định có lợi hơn so với những gì mà nguyên đơn yêu cầu[74].
- Cuốn sách “Luật 101 mọi điều bạn cần biết về pháp luật Hoa Kỳ” của tác
giả Jay M.Feinman, Nhà xuất bản Hồng Đức, 2012. Tác phẩm lý giải về tầm
quan trọng của qui trình xét xử công bằng và quyền được xét xử trước Tòa án
trên cơ sở phân tích các qui định của pháp luật Hoa Kỳ. Theo tác giả thì không ai
có thể tước đoạt quyền tự do, quyền sở hữu nếu không có qui trình xét xử công
bằng trước pháp luật. Ông cũng đặt ra câu hỏi, nếu như các quyền đó được bảo
vệ thì sẽ được bảo vệ ở mức độ nào, cụ thể qui trình xét xử như thế nào sẽ tạo
được sự công bằng? Đồng thời tác giả cũng đưa ra lập luận của riêng mình khi
ông cho rằng khi đương sự quyết định nộp đơn khởi kiện, có nghĩa là họ đã thể
hiện quyền tự định đoạt của mình, họ phải đưa ra được những lập luận, những
chứng cứ xác đáng để giải thích cho quyết định khởi kiện của mình là có cơ sở
pháp lý.
- Luật Nhật bản của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản; Luật so sánh của
giáo sư Michanel Bogdan; Kỷ yếu của dự án VIE/95/017 Về pháp luật TTDS,
Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội năm 2001; Kỷ yếu hội thảo pháp luật TTDS,
nhà pháp luật Việt - Pháp, Hà Nội năm 1999, 2000, 2001; một số tài liệu hội
thảo về pháp luật TTDS do Nhà pháp luật Việt pháp tổ chức tại Hà Nội … Các
tài liệu này có trình bày những vấn đề lý luận về quyền tự định đoạt của đương

sự và các quy định của pháp luật TTDS về quyền tự định đoạt của đương sự.
Những vấn đề này được nghiên cứu sinh sử dụng để so sánh với các hệ thống
17


pháp luật, tìm ra cơ sở khoa học của các quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS đồng thời chỉ ra các quy định có tính hợp lý, phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam để có thể tiếp thu trong quá trình hoàn thiện pháp
luật TTDS Việt Nam về quyền tự định đoạt của đương sự.
- Tác phẩm “Phương thức hoạt động của Tòa án Hoa Kỳ” đăng trên Tạp chí
điện tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ tháng 9/1999. Tác phẩm này bao gồm nhiều bài viết
của nhiều tác giả về các phương diện cơ bản của hệ thống tư pháp Hoa Kỳ trong đó
chủ yếu đề cập đến lịch sử hình thành và phát triển của nền tư pháp Hoa Kỳ, những
thành tựu của Tòa án Hiến pháp Hoa Kỳ trong việc bảo vệ Hiến pháp và thúc đẩy sự
phát triển của quyền con người. Điển hình là bài viết của Anthoony Kennedy về mối
quan hệ giữa “đạo đức tư pháp và pháp quyền” đã cung cấp những bài học kinh
nghiệm trong việc bảo đảm sự vô tư, khách quan của Thẩm phán bằng hệ thống đạo
đức nghề nghiệp Thẩm phán và đưa ra các phương thức xử lý kỷ luật Thẩm phán của
hệ thống tư pháp Hoa Kỳ. Điều này nhằm ngăn chặn, hạn chế việc lạm dụng quyền lực
của Thẩm phán gây ảnh hưởng đến việc làm hạn chế hay mất quyền tự định đoạt của
đương sự cũng như hạn chế những án oan sai xẩy ra trên thực tế. Thiết nghĩ đây cũng
là bài học kinh nghiệm của Hòa Kỳ mà Việt Nam cũng nên xem xét vận dụng khi mà
nền tư pháp nước nhà đang trong quá trình cải cách, hội nhập quốc tế.
Nhóm các công trình nghiên cứu của nước ngoài có những quan điểm chung
như: (i) Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một hệ thống quyền
tố tụng của đương sự trong việc lựa chọn các phương thức bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ trước Toà án, trong việc thoả thuận và đưa ra quyết định cuối cùng để giải
quyết vụ việc dân sự; (ii) Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự họ quy
định tương đối đầy đủ như đương sự có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải
quyết việc dân sự, đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; có quyền thay đổi, bổ sung,

rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; có
quyền thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự; có quyền kháng cáo, khiếu nại bản án,
quyết định của Tòa án; (iii) ghi nhận quyền tư định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự bằng việc quy định một hệ thống các quyền tố tụng đã góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho các đương sự thực hiện tốt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
trước Tòa án.
18


1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Những thành tựu trong nghiên cứu mà luận án kế thừa và tiếp tục
phát triển
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên các phương diện lớn như:
tổng quan các công trình, các bài viết nghiên cứu chung về quyền tự định đoạt
của đương sự; về nguồn gốc của thuật ngữ quyền tự định đoạt của đương sự; về
cơ sở pháp lý của quyền tự định đoạt của đương sự; về nội dung quyền tự định
đoạt của đương sự; về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự định
đoạt của đương sự; về việc hoàn thiện khung pháp lý và bảo đảm thực hiện pháp
luật về quyền tự định đoạt của đương sự ở Việt Nam. Qua việc khảo cứu các tài
liệu nghiên cứu về vấn đề này có thể thấy, các nghiên cứu đã làm được những
vấn đề sau:
Thứ nhất, các công trình, bài viết, khóa luận, luận văn, luận án, giáo trình,
sách chuyên khảo đã đưa ra được khái niệm định đoạt và quyền tự định đoạt của
đương sự. Ở góc độ nhất định cũng đã nêu được ý nghĩa của quyền tự định đoạt.
Thứ hai, các công trình, bài viết, khóa luận, luận văn, luận án, giáo trình
đã phần nào phân tích được các quy định pháp luật về quyền tự định đoạt của
đương sự; phân tích làm rõ các quy định pháp luật về quyền tự định đoạt của
đương sự; về cơ sở pháp lý của việc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự
trong pháp luật TTDS Việt Nam.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu ở mức độ nhất định cũng đã phân tích về

những mức độ ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự,
trong đó đặt ra vấn đề trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo thực hiện quyền
tự định đoạt của đương sự; sự tham gia TTDS của Viện kiểm sát và trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp tài liệu chứng cứ cho đương sự.
Do vậy ở mức độ nhất định, trong quá trình nghiên cứu đề tài sẽ có sự tiếp
thu, kế thừa những thành quả, các giá trị mà các nghiên cứu đã chỉ ra làm nền
móng cho việc tiếp tục nghiên cứu đề tài của mình về lý luận cũng như thực tiễn
thực hiện.

19


1.2.2. Các vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa được giải quyết thấu đáo cần
tiếp tục nghiên cứu
Qua các công trình nghiên cứu đã công bố và được tổng quan cho thấy việc
nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS ở Việt Nam vẫn còn
những hạn chế, thiếu sót, bất cập sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu chưa đưa ra một quan điểm đầy đủ về
khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự, đặc biệt là chưa tiếp cận khái niệm
quyền tự định đoạt của đương sự trên cơ sở nội hàm của thuật ngữ này;
Thứ hai, chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích một cách bài bản về
nguồn gốc của sự ra đời của thuật ngữ cũng như cơ sở của quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS ở Việt Nam.
Thứ ba, các công trình tuy có đưa ra được ý nghĩa của quyền tự định đoạt
của đương sự, tuy nhiên chưa công trình nào có sự phân biệt rạch ròi giữa thuật
ngữ tự định đoạt với quyền tự định đoạt hay quyền tự định đoạt của đương sự;
Thứ tư, các công trình nghiên cứu mặc dù có liệt kê nội dung của quyền
tự định đoạt của đương sự, nhưng hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào
làm rõ nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS theo pháp luật
Việt Nam hiện hành; đồng thời phân tích đánh giá cả các quy định của Bộ luật

TTDS 2015.
Thứ năm, một số nghiên cứu liên quan đến quyền tự định đoạt của đương
sự đã lạc hậu không còn phù hợp với pháp luật và thực tiễn pháp lý hiện nay.
Thứ sáu, một số kiến nghị, đề xuất và hoàn thiện pháp luật liên quan đến
quyền tự định đoạt của đương sự không còn phù hợp với thực tiễn các qui định
của pháp luật trong bối cảnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và xây dựng
nhà nước pháp quyền của nhà nước ta hiện nay và Bộ luật TTDS năm 2015.
Thứ bảy, cần nghiên cứu pháp luật thực định của một số quốc gia trên thế
giới trong lĩnh vực này, từ đó so sánh với thực tiễn Việt Nam giúp chúng ta có sự
nhìn nhận vấn đề một cách khách quan toàn diện và khoa học để hoàn thiện
khung pháp lý về quyền tự định đoạt của đương sự ở Việt Nam.

20


Trên cơ sở những vấn đề đặt ra, nghiên cứu sinh dự kiến sẽ đề xuất các
kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật quyền tự định đoạt của
đương sự trong pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện nay.
1.3. Những vấn đề được nghiên cứu trong luận án
Việc khảo cứu các công trình nghiên cứu đã được đề cập ở trên cho thấy
vấn đề nghiên cứu về bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự hiện nay còn chưa được giải quyết thấu đáo và cần phải được tiếp tục
nghiên cứu.
Luận án tập trung nghiên cứu các nội dung chính như: những vấn đề lý luận
về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự; pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự và thực tiễn thực
hiện; so sánh đối chiếu với các qui định của BLTTDS 2015; hoàn thiện và bảo
đảm thực hiện pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự; các yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực hiện quyền tự định của đương sự trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự tại Tòa án.

1.4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án
1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài
Luận án được triển khai với các câu hỏi về khía cạnh lý luận, khía cạnh
pháp luật thực định để làm rõ mục đích của luận án đó là:
Thứ nhất, quyền tự định đoạt là gì, quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS là gì, đương sự trong TTDS là gì? quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS tác hại gì? và tại sao phải quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS ? quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS được thực hiện ở những
nội dung gì?
Thứ hai, quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS, pháp luật về quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS là gì? Nội hàm của quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS? Chủ thể nào có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo đảm thực
hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS ? Đối tượng, nội dung, thủ
tục, cách thức thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS?
Thứ ba, các đặc điểm của quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS?;
Thứ tư, quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS được quy định như
21


×