Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

phân tích để làm rõ những sai lầm của vinashin trong lĩnh vực quản trị tài chính doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.86 KB, 21 trang )

PHÂN TÍCH ĐỂ LÀM RÕ NHỮNG SAI LẦM CỦA VINASHIN TRONG
LĨNH VỰC QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Phần 1
1.1
1.2
1.3
Phần 2
2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.1.4
2.2
2.3
2.4
Phần 3
3.1
3.2
3.3
3.3.1
3.3.2
Phần 4
4.1
4.2
4.3
4.4
Phần 5

APENDIX
LỜI NÓI ĐẦU


Giới thiệu về tập đoàn VINASHIN
Khái quát về tập đoàn kinh tế Vinashin
Quá trình hình thành
Sự phát triển
Phân tích tài chính tập đoàn VINASHIN
Các chỉ số
Chỉ số linh hoạt
Chỉ số thanh toán hiện hành
Chỉ số thanh toán nhanh
Chỉ số thanh toán bằng tiền
Các chỉ số quản lý tài sản
Tỷ số đòn bẩy
Các chỉ số khả năng sinh lời
Những sai lầm của VINASHIN trong quản lý tài chính DN
Tổng quan vụ việc
Những hậu quả từ vụ việc
Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân chủ quan
Bài học kinh nghiệm về quản trị tài chính doanh nghiệp rút ra

Pages
3
4
4
4
5
6
6
6

7
7
7
7
9
10
11
11
13
13
13
14
18

từ sai lầm của VINASHIN
Bài học về phân cấp quản lý
Bài học về công tác quản lý vốn và đầu tư – tránh

18
19

đầu tư dàn trải, mất kiểm soát
Bài học về công tác kiểm tra, giám sát các tập

19

đoàn của các cơ quan chức năng
Bài học về năng lực quản lý
Kết luận
Các tài liệu tham khảo


20
20
21

LỜI NÓI ĐẦU

1


Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, nhu cầu xuất khẩu nhập khẩu đang gia
tăng nhanh nhất là khi Việt Nam hội nhập và nền kinh tế với việc trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại quốc tế WTO. Thị trường vận tải biển trong và ngoài nước mặc dù
hiện tại đang có những khó khăn nhất định nhưng vẫn tiềm ẩn những cơ hội phát triển rất lớn.
Tập đoàn Vinashin được thành lập với tầm nhìn là đơn vị dẫn đầu ngành công nghiệp tàu thủy
Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu vào ngày Vinashin chuyển đổi thành mô hình
tập đoàn: “Vinashin phải là nòng cốt của ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam”. Còn ông Phạm
Thanh Bình, lúc bấy giờ là chủ tịch HĐQT Vinashin tự hào nói: “Trên bản đồ ngành công
nghiệp đóng tàu thế giới đã xuất hiện một chấm đỏ mới: Việt Nam”.
Được kỳ vọng rất nhiều và đầu tư cũng không ít, Vinashin đã bước đầu đạt được những
thành công, thương hiệu Vinashin được công nhận trên trường Quốc Tế, đội ngũ lao động có
trình độ cao, năng lực hiện đại, cơ sở vật chất ngành công nghiệp đóng tàu dần được hoàn
thiện… những thành tựu to lớn đó được kỳ vọng sẽ góp phần đáng kể cho mục tiêu phát triển
kinh tế Biển của Việt Nam, nhằm tận dụng tối đa những lợi thế của một quốc gia nhiều Biển
Đảo. Tuy vậy, vào những năm 2008-2010 cùng với sự lao dốc của kinh tế thế giới nói chung,
ngành công nghiệp đóng tàu nói riêng, con tàu Vinashin cũng bộc lộ những yếu kém nghiêm
trọng của mình, đặc biệt là trong công tác quản trị doanh nghiệp. Đến tháng 6 năm 2010, tổng
tài sản của Tập đoàn Vinashin khoảng 104.000 tỷ đồng nhưng tổng số nợ là 86.000 tỷ đồng, vốn
điều lệ thấp lại sử dụng vốn dàn trải nên tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu gần 11 lần, rơi vào
tình trạng mất cân đối tài chính nghiêm trọng, đứng trước nguy cơ phá sản, sản xuất đình đốn,

công nhân chuyển việc, bỏ việc gần 17.000 người, mất việc gần 5.000 người.
Vậy nguyên nhân do đâu mà từ một Tập đoàn kinh tế hùng mạnh, Vinashin đã rơi vào
tình trạng khủng hoảng nợ nần? Liệu Vinashin có khả năng được phục hồi để tránh cho ngành
công nghiệp đóng tàu Việt Nam phải làm lại từ đầu? Qua môn học Tài chính Doanh nghiệp,
được hướng dẫn tận tình của Thầy Đặng Ngọc Đại, nhóm 2 đã nắm bắt được những bài học
về quản trị tài chính cần rút ra sau vụ vỡ nợ của Vinashin để hoàn thành tiểu luận của nhóm.
Tuy nhiên thời gian và kiến thức còn nhiều hạn chế kính mong sự nhận xét đóng góp của
Thầy và các bạn cùng lớp IeMBA. D01 để tiểu luận của nhóm 2 được hoàn thiện hơn.

PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ TẬP ĐOÀN VINASHIN
1.1 Khái quát về tập đoàn kinh tế Vinashin:
2


Tập đoàn Kinh tế Vinashin (Vinashin Business Group, viết tắt là VINASHIN) là
một tập đoàn kinh tế chuyên về hoạt động đóng tàu do Nhà nước nắm quyền sở hữu chi
phối. Tập đoàn được thành lập ngày
15/05/2006 trên cơ sở tổ chức và
sắp xếp lại Tổng công ty Công
nghiệp tàu thủy Việt Nam.
Trước khi tái việc tái cơ cấu hoàn tất,
Tập đoàn hoạt động theo mô hình
công ty mẹ - công ty con. Gồm công
ty mẹ là Tập đoàn công nghiệp tàu
thủy Việt Nam, 24 công ty con, 6 công ty liên kết và 10 liên doanh.
1.2 Quá trình hình thành:
- Tiền thân của tập đoàn là Tổng Công ty 91 được thành lập vào ngày 31 tháng 1
năm 1996. Căn cứ vào Quyết định số 69/TTg ngày 31 tháng 1 năm 1996 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam.
- Ngày 15 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số

103/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn kinh tế, đa sở
hữu, trong đó sở hữu Nhà nước chi phối, trên cơ sở sắp xếp tổ chức lại Tổng Công ty
Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam.
- Ngày 15 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định số
104/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt
Nam. Theo Quyết định này, Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam
được thành lập trên cơ sở tổ chức lại cơ quan quản lý, điều hành và các đơn vị thành
viên hạch toán phụ thuộc của Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Sự kiện
này đánh dấu chính thức sự ra đời của tập đoàn Vinashin.

1.3 Sự phát triển:
3


Khi mới ra đời Vinashin được mệnh danh là “Cú đấm thép” của nền kinh tế.
Vinashin được kì vọng sẽ là nòng cốt, là doanh nghiệp đi tiên phong để phát triển
nghành công nghiệp đóng tàu Việt Nam khi đó còn khá sơ khai, lạc hậu cũng như phục
vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế Biển, đáp ứng những nhu cầu quốc phòng, an ninh của
Việt Nam. Và thực tế, kể từ khi ra đời năm 1996 (Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy
Việt Nam) cho đến khi chuyển đổi thành mô hình tập đoàn kinh tế, Vinashin đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng:
- Bước đầu, đã hình thành được cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng và khá đồng bộ
của ngành công nghiệp đóng tàu biển với 28 nhà máy đóng tàu đang hoạt động có trình
độ công nghệ tiên tiến, sản phẩm tàu biển được thế giới công nhận về chất lượng, có
thương hiệu, uy tín trong ngành đóng tàu thế giới.
- Đội ngũ lao động trên 70.000 người, trong đó trình độ đại học, trên đại học
12.500 người, công nhân kỹ thuật trên 55.000 người với tay nghề khá, có hơn 5.000
người đạt chứng chỉ quốc tế. Đã thiết kế được phần công nghệ, bước đầu thực hiện được
phần thiết kế kỹ thuật cho các tàu 58.000 tấn, 115.000 tấn. Xây dựng được một số cơ sở
sản xuất công nghiệp phụ trợ, nâng cao được một bước tỷ lệ nội địa hóa trong đóng và

sửa chữa tàu biển.
- Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 1996-2007 đạt từ 35%40%/năm, đều có lãi; doanh thu thuần năm 2008 đạt gần 29.000 tỷ đồng. Tổng số đến
hết năm 2009 đã đóng góp vào ngân sách nhà nước trên 3.300 tỷ đồng. Từ chỗ vốn chủ
sở hữu chỉ có hơn 100 tỷ đồng và chỉ đóng được tàu 1.000 - 3.000 tấn, đến nay, vốn chủ
sở hữu đã tăng lên 8.000 tỷ đồng, giá trị tài sản 104.000 tỷ đồng, đóng được tàu hàng
đến 53.000 tấn, tàu chở dầu thô đến 105.000 tấn, tàu chở ô tô đến 6.900 xe, kho nổi chứa
xuất dầu…
- Đến tháng 3 năm 2009, đã có nhiều đơn hàng và thỏa thuận hợp đồng sơ bộ đóng
tàu với tổng giá trị khoảng 12 tỷ USD. Đã hoàn thành đóng và bàn giao được 279 tàu trị
giá trên 1,8 tỷ USD, bao gồm: 59 tàu trọng tải 6.500 tấn, 15.000 tấn, 9 tàu 22.500 tấn 34.000 tấn, 9 tàu 53.000 tấn, 6 tàu container, 1 tàu chở ô tô 4.900 xe, kho nổi chứa xuất
dầu 150.000 tấn và nhiều loại tàu khác. Trong số tàu trên, đã xuất khẩu cho các chủ tàu
nước ngoài 155 tàu, trị giá trên 1,1 tỷ USD; bán cho các chủ tàu trong nước 124 tàu, trị
4


giá 700 triệu USD. Ngoài ra, còn hoàn thành nhiều loại phương tiện thủy khác phục vụ
cho nhu cầu rất đa dạng của nền kinh tế và quốc phòng, an ninh.
- Đã hình thành được đội tàu viễn dương có tổng tải trọng khoảng 700 nghìn tấn từ
nguồn tự đóng mới và mua của nước ngoài, góp phần tăng thêm năng lực vận biển của
đất nước.
- Chế tạo thành công thép tấm khổ lớn, cần cẩu 150 tấn, cổng trục 450 tấn, máy

ép thủy lực 2.000 tấn, máy uốn tôn cán được khổ 13m, sản xuất dây hàn lõi thuốc, nắp
hầm hàng, cáp điện tàu thủy, chân vịt tàu 10.000 tấn, lắp ráp động cơ 8.400 mã lực… mà
5 năm trước phải nhập khẩu 100%.
PHẦN 2: PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẬP ĐOÀN VINASHIN
2.1 Các chỉ số:
2.1.1 Chỉ số linh hoạt:
Chỉ số này dùng để đo lường khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản lưu động và khả năng
thanh tóan nợ ngắn hạn của công ty cổ phần đầu tư và vận tải dầu khí VINASHIN.


Tài sản lưu động
Tỷ số thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu
Tiền và các khoản tương đương tiền
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
Các khoản phải thu ngắn hạn
Hàng tồn kho
Tài sản ngắn hạn khác
Tài sản lưu động
Nợ phải trả
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán hiện hành
Tỷ số thanh tóan nhanh
Tỷ số thanh toán bằng tiền

2010
44.070.135.245
1.099.583.421.54
3
2.172.390.809.29
1
158.385.295.172
3.474.429.661.25
1
6.907.419.920.78
4

4.218.843.034.01
8
0,823550351
0,308624626
0,010446024

2009
5.453.573.892

1.429.198.028.894
647.890.059.581
25.370.443.990
2.107.912.106.357
5.683.458.544.923
2.387.876.671.739
0,882755852
0,611431094
0,002283859

5


2.1.2 Tỷ số thanh toán hiện hành:
Năm 2009 cho thấy cứ 1 đồng nợ ngắn hạn chỉ có 0.88 đồng tài sản lưu động đảm bảo,
còn năm 2010 thì cứ 1 đồng nợ ngắn hạn chỉ có 0.82 đồng tài sản lưu động đảm bảo
Tỷ số thanh toán hiện hành của công ty giai đoạn 2009 – 2010 giảm 0.0 59%. Tỷ số này
giảm nhẹ do tốc độ tăng nợ ngắn hạn.
Tỷ số này giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm nhẹ và cũng là dấu hiệu công ty sử
dụng quá nhiều nợ ngắn hạn và báo trước khó khăn về tài chính.
2.1.3 Tỷ số thanh toán nhanh:

Cho ta thấy khả năng thanh toán thực của một công ty. Tỷ số thanh tóan của công ty
VINASHIN giai đọan 2009 – 2010 giảm 0.30%
Tỷ số thanh toán nhanh của VINASHIN năm 2010 là 0.61, điều này cho thấy công ty
VINASHIN có 61% tài sản có tinh thanh khoản cho mỗi đồng nợ đến hạn. Tỷ số thanh
toán nhanh 0.61 cho biết rằng nếu hàng tồn kho của công ty VINASHIN ứ động, không
đáng giá thì công ty sẽ lâm vào khó khăn tài chính gọi là “không có khả năng chi trả”.
Mà hàng tồn kho của năm 2010 tăng gấp 3 lần so với năm 2009 cho thấy công ty
VINASHIN sẽ gặp khó khăn về tài chính trong tương lai nếu không có biện pháp khắc
phục.
2.1.4 Tỷ số thanh tóan bằng tiền:
Khả năng thanh toán tiền của công ty nhanh, giai đoạn 2009 – 2010 tăng 5 lần.
2.2. Các chỉ số quản lý tài sản :
Tỷ số này dùng để đo lường hoạt động kinh doanh của công ty. Để nâng cao tỷ số
hoạt động, ta phải biết những tài sản chưa dùng hoặc không dùng không tạo ra thu nhập
vì thế công ty cần phải biết cách sử dụng chúng có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi. Tỷ số
hoạt động còn có thể gọi là tỷ số hiệu quả hay tỷ số luân chuyển.
Tỷ số hoạt động được thể hiện thông qua các chỉ tiêu:
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu
Doanh thu thuần
Số vòng quay hàng tồn kho =
6


Hàng tồn kho
Doanh thu thuần
Vòng quay tài sản cố định =
Tài sản cố định
Doanh thu thuần

Vòng quay tổng tài sản =
Tổng tài sản
Năm

Chỉ tiêu

So sánh

2010

2009

Các khoản phải
thu ngắn hạn

1.099.583.421.543

1.429.198.028.894

-329.614.607.351

Tài sản cố định

3.398.343.709.334

3.693.818.828.108

-295.475.118.774

Tổng tài sản


6.917.335.636.819

5.825.413.550.112

1.091.922.086.707

15.828.000.000

710.811.215.666

-694.938.215.666

2.172.390.809.291

647.890.059.581

1.524.500.749.710

0.014

0.49

-0.48

0.007

1.097

-1.089


0.004

0.192

-0.187

0.002

0.122

-0.119

Doanh thu thuần
Hàng tồn kho
Số vòng quay các
khoản phải thu (lần)
Số vòng quay hàng tồn
kho (lần)
Hiệu suất sử dụng tài
sản cố định
Hiệu suất sử dụng
toàn bộ tài sản

Số vòng quay các khoản phải thu: Từ năm 2009 đến năm 2010, số vòng quay các
khoản phải thu giảm từ 0.49 lần xuống còn 0.014 lần. Nguyên nhân là do doanh thu
thuần của công ty năm 2010 giảm so với năm 2009 là 694.938.215.666 đồng, và các
khoản ngắn hạn phải thu của công ty cũng giảm xuống so với 2009 là 329.614.607.351
đồng.
Xét riêng các khoản phải thu ngắn hạn:

Chỉ tiêu
Các khoản thu ngắn hạn
Phải thu khách hàng
Trả trước cho người bán
Phải thu nội bộ
Phải thu theo tiến độ HĐXD
Các khoản phải thu khác

2010
1.099.583.421.543
112.572.000
622.992.404.387
1.515.666.631
480.860.861.787

2009
1.429.198.028.894
112.822.200.894
716.299.632.698
32.853.273.972
567.222.921.330

So sánh
-329.614.607.351
-112.709.628.894
-93.307.228.311
-32.853.273.972
1.515.666.631
-86.362.059.543
7



Dự phòng phải thu ngắn hạn khó
đòi

-5.898.083.262

-5.898.083.262

Số tiền phải thu khách hàng của năm 2010 giảm nhiều so với năm 2009 là
112.709.628.894 đồng do vậy có thể nói là công ty bán không bán được hàng hóa hơn
so với năm 2009.
Về khoản trả trước cho khách hàng, năm 2010 giảm xuống 93.307.228.311 đồng
so với năm 2009. Vậy có thể nói công ty làm ăn thua lỗ hơn năm 2009
Xét về các khoản phải thu khác, năm 2010 cũng giảm xuống 86.362.059.543
đồng so với năm 2009.
Qua việc xét riêng các khoản phải thu ngắn hạn, ta có thể thấy công ty đang kinh
doanh sa sút. Do đó, nếu công ty không có chế độ thu hồi nợ tốt sẽ dẫn tới tình trạng thu
hồi vốn chậm, vốn của công ty bị tồn đọng và bị các khách hàng chiếm dụng, sẽ gây ra
khó khăn trong việc thanh toán của công ty.
Về số vòng quay các hàng tồn kho, năm 2010 giảm so với năm 2009 (từ 1.097 lần
năm 2009, giảm xuống 0.007 lần năm 2010). Số vòng giảm chứng tỏ chất lượng sản
phẩm của doanh nghiệp ngày càng thấp nên lượng hàng bán ra ít hơn, hàng hóa ứ đọng
còn kéo theo việc công ty phải cho thêm một khoản để dự trữ hàng tồn kho, làm công ty
khó khăn trong xoay vòng vốn để mở rộng sản xuất.
2.3 Tỉ số đòn bẩy:
Tỷ số đòn bẩy tài chính đánh giá mức độ mà một công ty tài trợ cho hoạt động
kinh doanh của mình bằng vốn vay. Đối với công ty, tỷ số đòn bẩy tài chính sẽ giúp nhà
quản trị tài chính lựa chọn cấu trúc vốn hợp lý nhất cho công ty mình.Qua tỷ số đòn bẩy
tài chính nhà đầu tư thấy được rũi ro về tài chính của công ty từ đó dẫn đến quyết định

đầu tư của mình.
Tỷ số đòn bẩy được thể hiện qua các chỉ tiêu:
Tổng nợ
Tỷ số nợ trên tài sản =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu
Tổng số nợ
Tổng tài sản
Tỷ số nợ/tài sản
trên tài sản

2010
6.907.419.920.784
6.917.335.636.819
0.99

2009

So sánh

5.683.458.544.923 1.223.961.375.861
5.825.413.550.112 1.091.922.086.707
0.97

0.02
8


Tỷ số nợ trên tài sản
Tỷ số này năm 2010 tăng 0.02% so với năm 2009. Điều này cho thấy phần trăm tài sản

được tài trợ bằng vốn vay của công ty đã gia tăng.
2.4 Các chỉ số “Khả năng sinh lời”:
Tỷ số này đo lường thu nhập của công ty với các nhân tố khác tạo ra lợi nhuận như
doanh thu thuần, tổng tài sản, vốn cổ phần.
Tỷ số này được thể hiện trên các chỉ tiêu:
Thu nhập thuần
Tỷ số Lãi (TLL) =
Doanh thu bán hàng
Thu nhập trước lãi tiền vay và thuế
Tỷ suất thu nhập của tài sản (TNTS) =
Tổng tài sản
Thu nhập thuần
Tỷ số sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) =
Tổng tài sản
Thu nhập thuần
Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần (ROE) =
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu
Doanh thu bán hàng
Thu nhập trước thuế
Thu nhập thuần
Vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản
TLL
TNTS
ROA
ROE

2010
15.828.000.000

-171.113.797.796
-170.661.045.049
9.915.716.035
6.917.335.636.819
-10,78222423
-0,024736952
-0,0246715
-17,21116704

2009
710.811.215.666
6.010.902.023
6.010.902.023
141.955.025.189
5.825.413.550.112
0,008456397
0,001031841
0,001031841
0,042343707

So sánh
-694.983.215.666
-177.124.699.819
-176.671.947.072
-132.039.309.154
1.091.922.086.707
-10,79068062
-0,025768793
-0,025703341
-17,25351075


Nhận xét:
- Năm 2010, doanh thu bán hàng giảm mạnh (-694.983.215.666 đồng), phải thu
khách hàng giảm, hàng tồn tăng dẫn đến thu nhập thuần năm 2010 âm

9


-Tổng nợ tăng, tổng tài sản năm 2010 cũng tăng (Tỷ số nợ trên tài sản tăng)
chứng tỏ VINASHIN sử dụng vốn vay để đầu tư vào tài sản, Vinashin
không chú ý đến yếu tố an toàn của doanh nghiệp.
- Vinashin sử dụng quá nhiều vốn vay, nợ ngắn hạn dẫn đến rủi ro về tài
chính.
- Các chỉ số TNTS, ROA,ROE năm 2010 đều âm chứng tỏ tập đoàn
VINASHIN đang bị thua lỗ.
Kết quả phân tích trên nhóm 2 dẫn trích từ bảng cân đối kế
toán, báo cáo kết quả kinh doanh các năm của tập đoàn Vinashin gửi
cho chi cục thuế, cho chúng ta thấy: năm 2009, VINASHIN kinh doanh
vẫn có lãi, chỉ đến năm 2010 VINASHIN mới bắt đầu thua lỗ. Tuy nhiên
trên thực tế Tập đoàn Vinashin rơi vào tình cảnh khó khăn bắt đầu từ
năm 2008.
PHẦN 3: NHỮNG SAI LẦM CỦA VINASHIN TRONG LĨNH VỰC QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
3.1 Tổng quan vụ việc:
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà Vinashin đã đạt được, tập đoàn cũng đã mắc
không ít những sai lầm, mà đỉnh điểm là vụ vỡ nợ của Vinashin năm 2010. Vụ việc
không chỉ gây nên tổn thất cho riêng tập đoàn mà còn trực tiếp gây tổn hại cho cả nền
kinh tế.
Bước vào năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho kinh tế thế
giới suy giảm mạnh, hàng loạt định chế

tài chính, tập đoàn kinh tế lớn trên thế
giới có bề dày hoạt động cả trăm năm bị
sụp đổ; nền kinh tế nước ta bị ảnh hưởng
rất lớn, thị trường xuất khẩu thu hẹp, sản
xuất khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế

10


chậm lại và giảm thấp; Tập đoàn Vinashin chịu tác động hết sức nặng nề, đặc biệt về thị
trường và nguồn vốn.
Ngân hàng thắt chặt cho vay, các dự án đầu tư đang triển khai thiếu vốn không
hoàn thành được để đưa vào sản xuất. Nhiều hợp đồng đóng tàu đã ký không tiếp tục vay
được vốn để hoàn thành đúng tiến độ.
Ngành vận tải viễn dương bị đình đốn, các chủ tàu đã hủy hợp đồng và các thỏa
thuận đóng tàu trị giá hơn 8 tỉ USD. Riêng trong năm 2010 số hợp đồng đóng tàu có
nguy cơ bị hủy lên tới trên 700 triệu USD.
Mặt khác, do công tác dự báo còn nhiều bất cập nên việc lập kế hoạch phát triển
sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư không chính xác. Các dự án đầu tư quá nhiều,
dàn trải, vượt khả năng cân đối tài chính, có dự án chưa thật cần thiết, nên nhiều dự án
chỉ được phân bổ vốn chưa đến 50% tổng mức đầu tư. Vốn điều lệ còn hạn chế, vốn tự
có trong nhiều dự án rất thấp, có dự án đầu tư bằng 100% vốn vay. Do vậy, hầu hết các
dự án đầu tư đều triển khai dở dang, như các dự án giải phóng mặt bằng khu công
nghiệp, dự án đóng tàu xuất khẩu, những dự án này chưa đưa vào sử dụng nhưng vẫn
phải trả lãi. Đầu tư cho phát triển đội tàu trong đó có những tàu mua của nước ngoài quá
cũ, hoạt động kém hiệu quả. Phát triển nhanh nhiều doanh nghiệp, góp vốn ra ngoài
ngành sản xuất kinh doanh chính quá rộng, cho vay và bảo lãnh cho các công ty liên kết
vay, nhiều đơn vị làm ăn không hiệu quả, không trả được nợ, không kiểm soát được.
Việc sử dụng vốn không hiệu quả nêu trên đã gây hậu quả nặng nề về tài chính đối với
Tập đoàn Vinashin.

Để giải quyết khó khăn nêu trên, Tập đoàn Vinashin đã phải vay nợ mới để trả nợ
cũ, vay ngắn hạn trả dài hạn, thậm chí lấy vốn lưu động để chi đầu tư. Kết quả là từ năm
2009 Tập đoàn Vinashin kinh doanh thua
lỗ. Đến tháng 6 năm 2010, tổng tài sản
của Tập đoàn Vinashin khoảng 104.000
tỷ đồng nhưng tổng số nợ là 86 nghìn tỷ
đồng (trong đó có hai khoản nợ lớn là
750 triệu USD nợ nước ngoài do Chính
phủ bảo lãnh và 600 triệu USD Vinashin
11


tự vay nước ngoài. Trong nước, Vinashin đang vay của 10 ngân hàng lớn mà chủ yếu là
ngân hàng thương mại Nhà nước), vốn điều lệ thấp lại sử dụng vốn dàn trải nên tỷ lệ nợ
phải trả/vốn chủ sở hữu gần 11 lần, rơi vào tình trạng mất cân đối tài chính nghiêm
trọng, đứng trước nguy cơ phá sản, sản xuất đình đốn, công nhân chuyển việc, bỏ việc
gần 17.000 người, mất việc gần 5.000 người.
Gặp nhiều khó khăn cũng như mắc phải nhiều sai lầm nêu trên, tuy vậy trong
nhiều năm Tập đoàn đã báo cáo không trung thực về tình hình tài chính của doanh
nghiệp, một trong nhiều biểu hiện đó là năm 2009 lỗ 1.600 tỷ đồng nhưng lại báo cáo lãi
750 tỷ đồng, quý 1 năm 2010 thua lỗ vẫn báo cáo lãi gần 100 tỷ đồng. Cùng với đó là
việc phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm nhưng không được xử lý, ngăn chặn kịp
thời, điển hình là "Qua 11 lần thanh tra, kiểm toán cho thấy những sai phạm như đầu tư
dàn trải tràn lan trên nhiều lĩnh vực không liên quan đến chức năng của tập đoàn, kém
hiệu quả, thua lỗ nặng nề; tình hình tài chính đứng trước bờ vực phá sản; sản xuất kinh
doanh đình trệ; tình hình nội bộ diễn biến phức tạp" đã góp phần làm nghiêm trọng thêm
những hậu quả mà Vinashin gây ra
3.2 Những hậu quả từ vụ việc:
- Gây thất thoát hơn 4 tỷ USD vốn Nhà Nước
- Gây ảnh hưởng đến lực lượng lao động của tập đoàn, công nhân bỏ việc gần

17.000 người, mất việc gần 5.000 người.
- Làm giảm uy tín vay nợ của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Quốc Tế,
Việt Nam bị hạ bậc tín nhiệm tín dụng Quốc Gia do Vinashin.
- Làm trì hoãn sự phát triển của kinh tế Biển Việt Nam do Vinashin từ lâu đã
chiếm gần như toàn bộ thị phần cung cấp trang bị kĩ thuật cho ngành này.
- Những khoản nợ của Vinashin tạo thêm gánh nặng chi phí cho chính sách tiền tệ
và chính sách tài khóa, từ đó tạo nên một hệ quả dây chuyền gây ảnh hưởng cho nhiều
doanh nghiệp cả trong và ngoài Quốc doanh.
3.3 Nguyên nhân vụ việc:
12


3.3.1 Nguyên nhân khách quan:
- Cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới 2008-2009 làm cho nền kinh tế thế giới
suy giảm mạnh, nền kinh tế nước ta bị ảnh hưởng rất lớn. Các tập đoàn kinh tế trong và
ngoài nước lao đao, phá sản phải cần đến bàn tay của Chính phủ để vực dậy. Cuộc khủng
hoảng kinh tế đã làm cho tình hình tài chính của Vinashin trở nên trầm trọng, đặc biệt về
thị trường và nguồn vốn. Các nguồn vay đến hạn trả dồn dập mà không có khả năng
thanh toán, lãi mẹ đẻ lãi con.
- Ngân hàng thắt chặt cho vay, các dự án đầu tư đang triển khai thiếu vốn không
hoàn thành được để đưa vào sản xuất. Nhiều hợp đồng đống tàu đã ký không tiếp tục
được vay vốn để hoàn thành đúng tiến độ. Ngành vận tải viễn dương bị đình đốn, các
chủ tàu đã hủy hợp đồng và các thỏa thuận đóng tàu trị giá hơn 8 tỷ USD. Riêng trong
năm 2010 số hợp đồng đóng tàu có nguy cơ bị hủy lên tới trên 700 triệu USD.
- Thị trường đóng tàu và vận tải biển thế giới sụt giảm đột ngột. Từ năm 1999 đến
2007 ngành công nghiệp đóng tàu thế giới phát triển rất mạnh với tổng trọng tải đóng
mới bằng 51% tổng tải trọng của toàn bộ đội tàu đang hoạt động trên thế giới. Bước sang
năm 2008, ngành vận tải biển bị đình đốn, ngành công nghiệp đóng tàu thế giới rơi vào
suy thoái. Tổng giá trị hợp đồng đóng mới giảm 38% so với năm 2007. Giá đóng mới
tàu giảm một nửa song thị trường đóng tàu vẫn ngừng trệ, các đơn đặt hàng giảm mạnh

(tàu chở container giảm 57%, tàu chở hàng rời cỡ lớn giảm 66%), nhiều tàu loại khác
(chở khí tự nhiên, hóa chất) giảm tới 80%, có loại tàu không còn hợp đồng đóng mới.
Một số công ty vận tải biển phải hủy hợp đồng đã ký. Nhiều hãng đóng tàu thế giới có
nguy cơ phá sản buộc phải cắt giảm nhân công, thu hẹp sản xuất và đầu tư. Hoạt động
sản xuất kinh doanh chính của Tập đoàn Vinashin là đóng mới, sửa chữa tàu biển và vận
tải viễn dương, đã hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và phụ thuộc lớn vào thị trường thế
giới nên trong bối cảnh trên việc đầu tư phát triển, sản xuất kinh doanh, tình hình tài
chính của Tập đoàn Vinashin bị ảnh hưởng hết sức nặng nề.
3.3.2 Nguyên nhân chủ quan:

 Do sự bao che và chủ quan của cấp trên:

13


Trước hết là trách nhiệm của Chính phủ và Bộ giao thông vận tải – những cơ
quan chủ quản của Vinashin.
Kiểm toán nhà nước (KTNN) đã nhiều lần có kế hoach thanh tra Vinashin vào
năm 2008 nhưng bị hoãn đến năm
2009. Nhưng kế hoạch lại bị hoãn đến
năm 2010. Tuy nhiên, kế hoạch này lại
tiếp tục bị "trì hoãn" bởi không được
phê duyệt. Vinashin xuất hiện dấu
hiệu của tội phạm tuy nhiên vẫn được
bao che, qua chuyện.
Nguyên nhân tiếp theo được chỉ ra là
“việc quản lý Nhà nước và thực hiện quyền chủ sở hữu của Chính phủ với tập đoàn kinh
tế nói chung và Vinashin nói riêng còn nhiều bất cập, lúng túng. Bộ Giao thông Vận tải
chưa phát hiện kịp thời những yếu kém trong hoạt động và cố ý làm trái của tập đoàn để
chủ động, đề nghị các cơ quan chức năng và báo cáo Thủ tướng ngăn chặn, xử lý.


 Do đầu tư dàn trải, thiếu khoa học:
Vinashin đã lạm dụng vị thế tập đoàn của mình để đầu tư tràn lan, giàn trải dẫn
đến không kiểm soát được hoạt động của mình.
Đi lên từ ngành đóng tàu, lẽ ra Vinashin nên chú trọng phát triển ngành nghề của
mình trước khi bành trướng sang các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, Vinashin đã đầu tư “lấn
sân” một số ngành như thép, tài chính, bất động sản, điện…. Năng lực lãnh đạo yếu kém
cùng sự đầu tư dàn trải không kiểm soát được là một trong những nguyên nhân cơ bản
đánh chìm con tàu Vinashin.
Việc sử dụng vốn kém hiệu quả, công tác dự báo còn nhiều bất cập, nên việc lập
kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư không chính xác. Các dự án đầu tư quá
nhiều, dàn trải, có dự án đầu tư bằng 100% vốn vay, nhiều dự án chưa đưa vào sử dụng
nhưng vẫn phải trả lãi.

14


Một số dự án điển hình của Vinashin cho thấy khả năng quản trị rất kém của Ban
giám đốc của Tập đoàn này:
- Công ty Vận tải viễn dương Vinashin (VNSlines) (công ty con của Vinashin)
đầu tư hơn 200 triệu USD (khoảng 3.136 tỷ đồng) để mua về tới 6 con tàu có tuổi từ 22
đến 26 năm trong số 9 tàu của Công ty này. Hầu như tất cả các con tầu này hiện tại đều
không chạy được, do hỏng hóc, do bị bắt giữ tại các cảng trong và ngoài nước (do thiếu
tiền trả tiền dịch vụ cảng hoặc do điều kiện kỹ thuật trang thiết bị quá tồi tệ).
- Đóng tàu Lash chở sà lan: Ngày 22.7.2005, VNS đã ký kết hợp đồng tín dụng
với Quỹ hỗ trợ phát triển Hải Phòng về khoản vay 309,896 tỷ đồng để triển khai kế
hoạch đóng tàu H165, giao cho Công ty Công nghiệp tàu thủy Nam Triệu (NASICO) và
thuê Cục Đăng kiểm Việt Nam giám sát, cấp đăng ký cho tàu. Nasico hứa sẽ giao tàu vào
tháng 8.2007 nhưng rồi mãi tới ngày 10.2.2008 mới chính thức bàn giao cho Công ty
Vận tải biển viễn dương VNS. Tổng chi phí đóng mới con tàu Lash H165 (và được

mang tên Lash Sông Gianh) khoảng 400 tỷ đồng.
- Đầu tư vào mua cổ phần Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), với trị
giá 1.467 tỷ đồng mua 20,4 triệu cổ phần chiếm 3,56% vốn với giá mua 70 ngàn VND,
sau đó Chính phủ yêu cầu Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước mua lại với
giá ban đầu, mặc dù giá thực tế lúc đó trên thị trường chỉ có 40 ngàn VND.
- Mua tàu Hoa Sen ngày 15.10.2007 từ Italia, chi phí mua tàu 60 triệu Euro tương
đương 1.300 tỷ đồng, chạy tuyến
Bắc Nam, hiện tại dừng hoạt động


mỗi chuyến chạy lỗ 1,5 tỷ VND.

tàu

Hoa Sen đã từng bị thủng đáy
trong thời gian khai thác ở Ý,
mang về phải sửa chữa, hiện tại
đang nằm tại vùng nước thuộc
Công ty công nghiệp đóng tàu
Cam Ranh. Dù tàu không chạy mà

vẫn phải cho máy nổ, phải có người canh giữ. Mỗi năm phải trả lãi vay gần 80 tỷ đồng.
15


- Nhà máy điện Diesel Cái Lân: mua thiết bị cũ kỹ, rỉ hoét, về lắp ráp và chấp
nhận cho nhà thầu làm ẩu đến mức Nhà máy điện diesel Cái Lân – VNS hoạt động có
hai tổ máy số 4 và số 5 đạt khoảng 75% công suất, 4 tổ máy khác hỏng nằm im. Sau hơn
hai năm vận hành (từ tháng 4-2007 đến 10-2009) Nhà máy Cái Lân lỗ hơn 62 tỷ đồng,
tổng các khoản nợ không có khả năng thanh toán lên đến 27,58 triệu USD và 107,5 tỷ

đồng.

 Do sai lầm cá nhân của cán bộ lãnh đạo cao cấp nhất trong quá trình quản
trị của tập đoàn Vinashin
Sự sai lầm có hệ thống do sự lãnh đạo yếu kém, quan liêu, độc đoán của những
người đứng đầu tập đoàn này. Tiêu
biểu là ông Phạm Thanh Bình
người tập trung trong tay mình một
thứ quyền lực tuyệt đối: Bí thư
đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản
trị, tổng giám đốc. Những thất bại
nặng nề của Vinashin là do chế độ
tập quyền quá mức, do sự quản lý
quan liêu, độc đoán, non kém, bao
che của những người đứng đầu tập đoàn.
Công tác tổ chức thiếu khoa học dẫn đến cơ cấu tổ chức nặng nề, chồng chéo,
chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các phòng ban cũng như các công ty con.
- Việc phân công công việc chưa hợp lý điển hình như Ban Tài chính kế toán của
Vinashin không theo dõi trực tiếp việc huy động vốn từ nước ngoài mà lại để Ban kinh
doanh lo. Khi tiền về, Ban Kinh doanh phân bổ cho các công ty con, đi vay nhưng không
thúc đẩy việc trả nợ, chậm tiến độ. Ban Tài chính kế toán do không được giao nhiệm vụ
nên không nắm được thông tin nợ nần.
- Mối liên hệ công ty con quá lỏng lẻo. Các công ty chưa có sự hợp tác với nhau,
chưa kết hợp hỗ trợ trong hoạt động sản xuất. Ở Vinashin xuất hiện hiện tượng chỗ thì có
tàu đóng, chỗ thì lại không có tàu đóng, chỗ thì nhiều tàu, đóng tàu không kịp tiến độ,
16


chỗ thì lại ít hợp đồng đóng tàu, chỗ thì mua vật tư thiết bị về dùng không hết, diện tích
lại rộng như nhà máy Nam Triệu, Phà Rừng... , chỗ thì thiếu vật tư thiết bị, có nhiều tàu

đóng lại không đủ diện tích mặt bằng như nhà máy đóng tàu Hạ Long...
Công tác kiểm tra bị lơ là, xem nhẹ, thiếu hẳn hành lang pháp lý nội bộ dẫn đến
xuất hiện những sai phạm nghiêm trọng nhưng không được điều chỉnh.
PHẦN IV: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
RÚT RA TỪ NHỮNG SAI LẦM CỦA VINASHIN:

Qua những nguyên nhân dẫn đến vụ việc vỡ nợ của tập đoàn Vinashin nêu trên, có
thể thấy những sai lầm trong công tác quản trị tại tập đoàn này là nguyên nhân quan
trọng nhất. Rõ ràng ban quản trị tập đoàn Vinashin đã mắc phải nhiều sai lầm
nghiêm trọng. Nhìn lại sự thất bại đó, có thể rút ra được những bài học bổ ích cho công
tác quản trị tại các doanh nghiệp.
4.1 Bài học về vấn đề phân cấp

quản lý:

Thực tế chứng minh rằng, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước và
người đứng đầu các tổng công ty, tập đoàn này được giao quá nhiều quyền lực. Một khi
được tập trung quyền lực trong tay sẽ dẫn đến tình trạng chuyên quyền, độc đoán, đầu
tư không kiểm soát. Vinashin đã đầu tư rất nhiều vào các siêu dự án, mua sắp trang thiết
bị lãng phí, vô tội vạ. Điển hình là việc mua con tàu Hoa sen trị giá gần 1.300 tỷ về
không sử dụng được.
Bên cạnh việc đầu tư mua sắm trang thiết bị hết sức lãng phí, tập đoàn này còn
đầu tư hàng nghìn tỷ vào cổ phiếu, cổ phần mà không thuộc lĩnh vực sở trưởng, thế
mạnh của mình.
Tất cả đều xuất phát từ ý chí của những người đứng đầu Tập đoàn vì họ đã có
trong tay một sự tập trung quyền lực quá lớn chuyển giao từ Chủ sở hữu. vì vậy cần
phân chia quyền lực hợp lý để tránh độc đoán chuyên quyền nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý, hoàn thành mục tiêu đã định.

17



Kiểm soát được các hành vi kinh tế của Tập đoàn nhưng vẫn tạo được hành lang
tự chủ cho Tập đoàn là bài học cần được các cơ quan chủ quản có lời giải phù hợp
4.2 Bài học về công tác quản lý vốn và đầu tư – tránh đầu tư
dàn trải, mất kiểm soát:
Nếu lấy nguồn vốn đối ứng của chủ đẩu tư để thực hiện các dự án, chắc chắn
Vinashin sẽ không bao giờ có đủ năng lực tài chính để thực hiện các siêu dự án. Dễ nhận
thấy rằng vốn chủ sở hữu của Vinashin (8.000 tỷ đồng) chỉ là quá nhỏ so với quy mô và
phạm vi đầu tư mà Tập đoàn này đã thực hiện. Để thực hiện “giấc mơ” của mình,
Vinashin đã vay những khoản vay thương mại khổng lồ tiềm ẩn rủi ro, mạo hiểm. Dù
cho làm kinh tế thì phải chấp nhận mạo hiểm nhưng mạo hiểm một cách mù quáng như
Vinashin thì chắc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước khác nên rút kinh nghiệm.
Theo số liệu từ kiểm toán và từ chính tập đoàn này, từ năm 2005 cho đến trước
khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào đầu 2008, danh mục các dự án đầu tư
của Vinashin đã lên đến con số 257, với tổng kinh phí hơn 50.000 tỉ đồng. Số tiền này là
không nhỏ, nhưng do dàn trải, nên rất nhiều trong số đó không được cấp đủ số vốn cần
thiết. Tới nay, hơn ba phần tư số dự án vẫn còn dở dang.
Bài học lớn cần rút ra là cần chống đầu tư dàn trải, không kiểm soát được. Việc
đầu tư giàn trải không chỉ thể hiện qua việc đầu tư ra bên ngoài ngành nghề lĩnh vực
kinh doanh chính của mình mà còn trong phạm vị ngành nghề chủ đạo của mình cũng
phải đầu tư một cách tập trung, đúng trọng điểm.
4.3 Bài học về công tác kiểm tra, giám sát các tập đoàn của
các cơ quan chức năng:
Như đã phân tích ở trên, nếu như các cơ quan quản lý và cơ quan giám sát tập
đoàn phối hợp với nhau nhuần nhuyển thì con tàu Vinashin sẽ không rơi vào tình trạng
như bây giờ. Nếu như Kiểm toán nhà nước và thanh tra Chính phủ có cơ chế phối hợp ăn
khớp hơn, hay Bộ Giao thông vận tải không chỉ dừng lại ở việc lắng nghe báo cáo sai sự
thật của tập đoàn này… Rõ ràng các cơ quan quản lý đã gần như bị động và luôn trong
trạng thái không theo kịp với mỗi bước đi của Tập đoàn này. Vinashin đã đầu tư một

18


cách thoải mái với nhiều siêu dự án, gồm cả vốn tự có, cả vay nợ trong nước và nước
ngoài. Trong khi năng lực quản lý của cả cơ quan quản lý và của lãnh đạo tập đoàn
không theo kịp lại mở rộng quá mức hoạt động đã gây ra những lỗ hổng nguy hiểm liên
quan đến vấn đề quản lý đầu tư, công nợ, dòng tiền... càng làm cho đoàn tàu Vinashin
nhanh chóng đi đến bờ vực thẳm. Dù có bao biện thế nào thì cũng không thể phủ nhận
phần lỗi của các cơ quan Bộ ngành đối với sự sụp đổ của Tập đoàn này.
4.4 Bài học về năng lực quản lý
Quy mô của Vinashin là quá lớn so với năng lực quản lý với hơn 200 doanh
nghiệp thành viên, hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn kinh doanh, trải trên địa bàn rộng suốt từ
Bắc đến Nam. Tình trạng “quá tải” trong quản lý như vậy sẽ dẫn đến thua lỗ là đương
nhiên. Rõ ràng sự thất bại của Vianshin phần lớn là do năng lực, trình độ quản trị doanh
nghiệp yếu kém; quản lý tài chính lỏng lẻo; xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư quá nhanh, quá nóng, không phù hợp với nguồn vốn và
năng lực quản lý.
Vì vậy cần nâng cao trình độ quản lý khi doanh nghiệp có quy mô ngày càng lớn,
trình độ quản lý phải theo kịp quy mô, đồng thời nên tinh giản bộ máy tổ chức thông qua
tái cơ cấu để giảm áp lực cho công tác quản trị của doanh nghiệp.
PHẦN V: KẾT LUẬN
Vinashin đi đến khủng hoảng, có cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, tuy
vậy có thể khẳng định nguyên nhân chủ quan xuất phát từ những sai lầm trong công tác
quản trị doanh nghiệp, năng lực quản trị cũng như dự báo yếu kém, thiếu chính xác là
những tác nhân trực tiếp gây ra sự thất bại của Vinashin. Vinashin thất bại, tổn thất mà
nó gây ra là vô cùng lớn, và theo quy luật thị trường nó đáng phải bị phá sản. Tuy vậy,
Vinashin lại là một nhân tố quan trọng trong chiến lược kinh tế biển của Việt Nam, “Nếu
cho Tập đoàn Vinashin phá sản sẽ phải xây dựng lại ngành Đóng tàu Việt Nam. Chính
phủ chủ trương cơ cấu lại toàn diện Vinashin để làm vai trò nòng cốt của ngành Đóng
tàu biển”. Và dù gây nhiều tranh cãi, những giải pháp nhằm cứu con tàu Vinashin đã
được đưa ra. Chính Phủ chủ trương cơ cấu lại toàn diện Vinashin, trong đó chuyển đổi

công ty mẹ - tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam thành mô hình công ty TNHH một
19


thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ
ra quyết định chia Vinashin ra làm ba phần, chuyển bớt các khoản nợ cũng như các dự
án sang Tập đoàn dầu khí Việt Nam (Vietnam Petrol) và Tổng công ty Hàng hải Việt
Nam (Vinalines).
Những giải pháp nêu trên bước đầu đã có một số kết quả. Các dự án chuyển về
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã khởi động trở lại, ở Nhà máy Đóng tàu Dung Quất hơn
1.000 công nhân nghỉ việc (trong tổng số hơn 6.000) đã trở lại làm việc, dự kiến tháng
10 năm 2010 sẽ hạ thủy được tàu chở dầu 104.000 tấn. Nhiều tàu trong đội tàu viễn
dương chuyển về Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đã hoạt động trở lại, khắc phục tình
trạng ngưng trệ hàng loạt. Mới đây, Tập đoàn Vinashin đã bán được 4 con tàu đóng mới
trị giá gần 110 triệu USD (1 tàu 53.000 tấn, 1 tàu 56.000 tấn, 2 tàu 17.000 tấn) cho khách
hàng và chuyển nhượng được một số dự án đầu tư ngoài ngành chính để thu hồi vốn;
đang dồn sức hoàn tất những con tàu đang đóng dở dang.
Một “Vinashin mới” đang được cố gắn xây dựng. “Với một Vinashin mới tập
trung vào ngành nghề chính, sẽ đủ sức vượt qua khó khăn hiện nay. Lộ trình phát triển
cho một Vinashin mới được xác định : Đến 2012 hết lỗ, 2014 có lãi”.
Có thể một “Vinashin mới” sẽ sớm xuất hiện trong tương lai, song những bài học
về công tác quản trị doanh nghiệp từ vụ việc vỡ nỡ của Vinashin năm 2010 chắc chắn sẽ
luôn còn nguyên giá trị. Qua đó có thể thấy vấn đề Quản trị đối với mọi doanh nghiệp là
vô cùng bức thiết, nó chính là nhân tố quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Để
thành công, nhất định công tác Quản trị phải luôn được Quan tâm, coi trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Báo cáo của Văn phòng Chính phủ về Vinashin...................


-

Wikipedia Tiếng Việt.......................................................

-

Website của Vinashin......................................................

-

Báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán của Tập đoàn VINASHIN các
năm 2008,2009,2010
20


-

Cùng nhiều tài liệu khác từ Internet

21



×