Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Mâu thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.95 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐÌNH BÍCH

MÂU THUẪN XÃ HỘI
TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số

: 62.22.03.02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2018


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học:

GS.TS. Nguyễn Hữu Khiển

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Ngọc Long
Phản biện 2: GS.TS. Hồ Sĩ Quý
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn


Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại
Học viện Khoa học xã hội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2018.

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội; Thư viện Quốc Gia, Hà Nội


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình CDCCKT nông nghiệp ở các tỉnh ĐBSH hiện nay xuất hiện nhiều MTXH
có tính điển hình: mâu thuẫn giữa việc đẩy nhanh CNH, ĐTH với phát triển nông nghiệp và
đời sống nông dân; mâu thuẫn giữa phát triển nền nông nghiệp hiện đại với bảo tồn giá trị
văn hóa; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững với những hạn chế về chất
lượng nguồn nhân lực và vốn đầu tư; mâu thuẫn giữa cơ chế chính sách phát triển nông
nghiệp với sự tiếp cận và thụ hưởng của người dân; mâu thuẫn giữa phát triển nông nghiệp
dựa trên khai thác triệt để tài nguyên và sử dụng chế phẩm hóa học với việc bảo vệ môi
trường sinh thái;…Trong đời sống một bộ phận xã hội có sự xuống cấp về mặt đạo đức,
khoảng cách giàu nghèo và các tệ nạn xã hội gia tăng; nhiều nơi xuất hiện trạng thái bất mãn
của một bộ phận dân cư với chính quyền sở tại; tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp
ngày càng nhiều;... Những mâu thuẫn trên diễn ra phức tạp, có nguy cơ bùng phát những bất
ổn xã hội trong khu vực nông thôn ĐBSH.
Ổn định là điều kiện của sự phát triển và phát triển là điều kiện để đảm bảo cho sự ổn định
bền vững. Theo đó, cần phải có sự đồng thuận trong đời sống xã hội; phải giải quyết những
MTXH phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển; các giải pháp giải quyết MTXH
phải bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, hệ thống.
Nghiên cứu vấn đề MTXH trong CDCCKT nông nghiệp ở ĐBSH dưới góc độ triết học
nhằm góp phần giải quyết một cách đúng đắn và có hiệu quả những vấn đề xã hội nảy sinh;
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng, phát triển bền vững và giữ

vững sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Với ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu
đề tài “Mâu thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng
sông Hồng hiện nay” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành triết học Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ MTXH phát sinh trong quá trình CDCCKT nông nghiệp và
chỉ ra xu hướng biến đổi tất yếu của MTXH trong dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở vùng
ĐBSH, từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giải
quyết MTXH, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng và
phát triển KT-XH vùng ĐBSH nói chung.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Một là, tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Luận án; Hai là, làm rõ một số vấn đề lý luận về MTXH trong CDCCKT nông nghiệp; Ba
là, phân tích thực trạng MTXH nảy sinh trong CDCCKT nông nghiệp ở vùng ĐBSH từ năm
2000 đến nay; Bốn là, đưa ra giải pháp giải quyết MTXH trong CDCCKT nông nghiệp vùng
ĐBSH hiện nay.


2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các MTXH có tính điển hình nảy sinh trong
CDCCKT nông nghiệp ở các tỉnh ĐBSH hiện nay.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Luận án chủ yếu tập trung phân tích các MTXH điển hình
biểu hiện qua các quan hệ giữa chủ thể sản xuất nông nghiệp với chính quyền địa phương,
doanh nghiệp; các bức xúc xã hội nảy sinh từ quá trình CDCCKT nông nghiệp ở các tỉnh
ĐBSH trong khoảng 20 năm nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là Chủ nghĩa duy vật biện chứng về MTXH và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đường lối phát triển thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước

Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Phương pháp nghiên cứu là các quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng & Chủ
nghĩa duy vật lịch sử và cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc kết hợp với phương pháp so sánh loại hình; trong đó, đặc biệt là cùng với cách tiếp cận toàn diện, hệ thống, thực tiễn và phát
triển, luận án còn sử dụng phương phương pháp lịch sử cụ thể và phương pháp phân tích tổng hợp như là một trong những phương pháp nghiên cứu chính để thực hiện đề tài.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Một là, bổ sung thêm một số ý kiến ở góc độ lý luận về MTXH. Hai là, chỉ ra thực trạng và
nguyên nhân của MTXH nảy sinh trong CDCCKT nông nghiệp ở vùng ĐBSH hiện nay. Ba là,
đề xuất một số giải pháp cơ bản để giải quyết có hiệu quả MTXH nảy sinh trong quá trình
CDCCKT nông nghiệp vùng ĐBSH hiện nay, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực
kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng và phát triển KT-XH vùng ĐBSH nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần luận giải về MTXH, chỉ ra thực trạng các MTXH chủ yếu nảy sinh
trong CDCCKT nông nghiệp; đề xuất các giải pháp giải quyết MTXH, qua đó góp phần giải
quyết các vấn đề xã hội đặt ra trong phát triển nông nghiệp vùng ĐBSH; khái quát kinh
nghiệm thực tiễn về giải quyết MTXH cho đội ngũ cán bộ quản lý ở khu vực ĐBSH. Ở mức
độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy những nội dung có liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4
chương, 9 tiết.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Một số công trình nghiên cứu về mâu thuẫn xã hội, xung đột xã hội
MTXH được quan tâm từ rất sớm dưới nhiều góc độ khác nhau. C.Mác, Ăngghen, Lênin
đã phân tích MTXH trong xã hội TBCN, đã chỉ ra cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đối kháng
tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội; bên cạnh đó, các nhà tư tưởng tư sản cũng quan tâm

nghiên cứu vấn đề mâu thuẫn, xung đột xã hội.
Ở nước ta, vấn đề MTXH cũng thu hút nhiều nhà nghiên cứu, như: Phạm Ngọc Quang
trong Về mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và cách giải quyết trên con đường phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa quan niệm MTXH là sự thống nhất và đấu tranh
giữa những con người với các cấp độ khác nhau, giữa những khuynh hướng, các lực lượng và
các thiết chế xã hội tương ứng có lợi ích cơ bản đối lập nhau tạo thành nguồn gốc phát triển
của xã hội. Lê Hữu Tầng trong Về động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội khẳng định, phải
tiến hành phân tích các mâu thuẫn hiện tồn để tìm nguồn gốc và động lực phát triển của xã
hội, ngoài ra còn phải tìm các yếu tố khác đóng vai trò là động lực của sự phát triển nữa.
Nguyễn Ngọc Hà trong Một số vấn đề về nhận thức quy luật và mâu thuẫn cho rằng, mâu
thuẫn là nguyên nhân của sự phát triển khi nó được giải quyết đúng đắn, phù hợp với quy
luật phát triển của sự vật, ngược lại, nó sẽ là nguyên nhân của sự thoái hóa khi con người
chúng ta giải quyết mâu thuẫn không phù hợp với sự phát triển. Nguyễn Tấn Hùng trong
Phương pháp phân tích mâu thuẫn và sự vận dụng nó trong nghiên cứu quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội cho rằng, muốn hướng đến tự do, con người không có cách
nào khác là nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn những mâu thuẫn trong đời sống xã hội
của mình. Để làm được việc này, trước hết phải phân tích mâu thuẫn, sau đó vạch ra những
nguyên tắc, những con đường, những phương pháp để giải quyết chúng.
Nhìn chung, có sự thống nhất về nguồn gốc, bản chất, vai trò của MTXH ở các nhà nghiên
cứu trong nước. Phần lớn cho rằng MTXH là kết quả của quá trình phát triển LLSX mâu thuẫn
với QHSX lỗi thời, do sự yếu kém của cơ chế quản lý xã hội, sự không đồng bộ của các chính
sách, luật pháp, sự bất hợp lý trong chia sẻ lợi ích giữa các lực lượng xã hội.
1.2. Tổng quan nghiên cứu về thực trạng và những gợi ý giải pháp giải quyết mâu
thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Thực trạng MTXH trong phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn là đề tài được nhiều
học giả nghiên cứu, có thể kể đến, như: Đỗ Nguyên Phương trong Về sự phân tầng xã hội ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong Những đặc trưng và xu thế phát triển cơ cấu xã
hội Việt Nam đang đổi mới, tác giả cho rằng hiện có những MTXH nhất định trong phát triển
hiện nay, theo đó cần phải có một hệ thống chính sách KT-XH phù hợp, thỏa mãn các loại
lợi ích chính đáng của toàn xã hội. Trần Đắc Hiến trong Vấn đề mâu thuẫn xã hội ở nông

thôn Việt Nam hiện nay cho rằng MTXH ở nông thôn nước ta có nhiều hình thức và đan xen


4

lẫn nhau, diễn biến mâu thuẫn phức tạp. Theo tác giả, nguyên nhân cơ bản nhất của MTXH ở
nông thôn nước ta là những bất cập trong chủ trương, chính sách, luật pháp và việc thực hiện
các chủ trương, chính sách đó ở các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương nông thôn.
Lê Du Phong trong Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng
các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội, các công trình công cộng
phục vụ lợi ích quốc gia đã cho rằng những bức xúc của người dân trong thu hồi đất, đền bù,
giải phóng mặt bằng, tái định cư...bị dồn nén không được giải tỏa là tác nhân trực tiếp tạo
thành các điểm nóng gây mất an ninh trật tự xã hội, kìm hãm sự phát triển.
Nghiên cứu việc kết hợp giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề công bằng xã hội
và phát triển bền vững đã là những gợi ý có giá trị cho hướng nghiên cứu các giải pháp cơ
bản giải quyết các MTXH nảy sinh trong CDCCKT nông nghiệp vùng ĐBSH; tiêu biểu cho
nhóm nghiên cứu này có thể kể đến: Phạm Thanh Khôi, Lương Xuân Hiến trong Kết hợp
chính sách kinh tế với chính sách xã hội đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn đồng
bằng sông Hồng đề xuất quan điểm phải kết hợp ngay từ đầu giữa phát triển kinh tế và giải
quyết các vấn đề xã hội. Đỗ Đức Quân trong Phát triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc
Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp đề xuất giải pháp đào tạo việc
làm, nâng cao mức sống người nông dân nhằm phát triển bền vững nông thôn vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Lê Xuân Đình trong Từ quan điểm về giải pháp đột phá trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn nghĩ về đổi mới tư duy kinh tế hiện nay cho rằng cần phải xây dựng tư duy
chiến lược để lường trước những tác động tiêu cực trong phát triển nông nghiệp, qua đó giải
quyết những mâu thuẫn. Hà Huy Thành trong Một số biện pháp chủ yếu nâng cao nhận thức
về môi trường của nông dân nhằm phát triển bền vững nền nông nghiệp sinh thái ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ giai đoạn 2011-2020 đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức về môi
trường nhằm phát triển bền vững nông nghiệp sinh thái vùng. Các công trình của Lê Quý Đức
với Vai trò của văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông

nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng; Phạm Minh Hạc với Phát triển văn hóa con người và
nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;… chủ yếu nhấn mạnh các
giải pháp về văn hóa, con người trong phát triển.
Có thể thấy nhiều công trình khoa học, với các cách tiếp cận và phạm vi khác nhau đã ít
nhiều gợi ý những giải pháp cho những vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình phát triển KTXH nông nghiệp, nông thôn, đồng thời cũng là những gợi ý tốt cho việc xây dựng hệ thống
giải pháp đồng bộ giải quyết MTXH trong CDCCKT nông nghiệp vùng ĐBSH hiện nay.
1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Từ quá trình tổng quan các công trình liên quan đến vấn đề MTXH, những bức xúc xã hội
xuất phát từ lĩnh vực nông nghiệp cho thấy xoay quanh chủ đề này đã thu hút được nhiều học
giả quan tâm nghiên cứu từ rất nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Các công trình trên đã tiếp


5

cận một số vấn đề lý luận và thực tiễn về MTXH, về những bức xúc xã hội, về xung đột giữa
các nhóm lợi ích trong quá trình CNH, ĐTH ở nước ta; đi tìm nguyên nhân trực tiếp làm nảy
sinh mâu thuẫn và đề xuất những giải pháp để giải quyết các mâu thuẫn đó.
Khái quá những kết quả của các công trình đi trước cho thấy tuy chưa có công trình
nghiên cứu về thực trạng và giải pháp khắc phục MTXH trong CDCCKT nông nghiệp vùng
ĐBSH, nhưng những nghiên cứu về thực trạng và giải pháp khắc phục MTXH trong pháp
triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam là gián tiếp đề cập đến vấn đề nghiên cứu của đề tài
luận án; đặt ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ về MTXH trong CDCCKT
nông nghiệp vùng ĐBSH, ở các khía cạnh: (i) luận giải về mặt lý luận về MTXH trong
CDCCKT nông nghiệp và sự cần thiết phải giải quyết MTXH; (ii) nghiên cứu biểu hiện của
MTXH trong CDCCKT nông nghiệp vùng ĐBSH và thực trạng giải quyết MTXH trong
CDCCKT nông nghiệp hiện nay, đồng thời chỉ ra nguyên nhân làm nảy sinh những MTXH
đó; (iii) nghiên cứu xây dựng hệ thống các giải pháp có tính khả thi để giải quyết MTXH
trong CDCCKT nông nghiệp, tạo động lực cho phát triển KT-XH nông nghiệp, nông thôn.
Kết luận chương 1
Những công trình nghiên cứu của các tác giả được tổng hợp đều khẳng định tầm quan

trọng của việc giải quyết MTXH trong quá trình phát triển KT-XH. Những thành quả nghiên
cứu của các công trình đã tổng hợp giúp tác giả luận án kế thừa trong quá trình thực hiện đề
tài luận án. Tuy nhiên, vấn đề MTXH trong CDCCKT nông nghiệp ở các tỉnh ĐBSH hiện
nay là một vấn đề phức tạp và chưa có tác giả nào nghiên cứu trực diện. Làm sáng tỏ vấn đề
này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Tác giả đã kế thừa một số quan
niệm, tư tưởng trong những công trình khoa học có liên quan đến đề tài để thực hiện luận án.
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÂU THUẪN XÃ HỘI VÀ MÂU THUẪN XÃ
HỘI TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
2.1. Mâu thuẫn xã hội – khái niệm, đặc điểm và vấn đề phương pháp luận về nhận thức
và giải quyết
Trong quá trình CDCCKT nông nghiệp, các xu hướng phân hóa xã hội tạo nên mâu thuẫn
giữa các lực lượng, các giai tầng xã hội nhất định. Nghiên cứu MTXH là cơ sở để nhận thức
các MTXH trong CDCCKT nông nghiệp hiện nay.
2.1.1.Khái niệm mâu thuẫn
Mâu thuẫn là phạm trù trung tâm, là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật. Lý luận về
mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật chỉ ra nguồn gốc và động lực của sự phát triển, là chìa
khóa để tìm ra các nguyên tắc của sự phát triển biện chứng. Theo V.I. Lênin “có thể định nghĩa
vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm
được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự


6

phát triển thêm”. Từ điển Bách khoa triết học định nghĩa: “Mâu thuẫn biện chứng là sự tác
động lẫn nhau của các mặt, các khuynh hướng đối lập vừa bài trừ lẫn nhau, vừa nằm trong sự
thống nhất nội tại và xâm nhập lẫn nhau, là nguồn gốc của sự tự vận động và sự phát triển của
thế giới khách quan và của nhận thức” [120, tr. 545]. Theo đó, sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động. Theo Từ điển triết học của NXB Tiến
bộ Mát-xcơ-va, mâu thuẫn được hiểu là “biểu hiện nguồn gốc bên trong của mọi sự vận động,

gốc rễ của sức sống, nguyên lý của sự phát triển” [119, tr.361]. Theo F.F. Viackerev: “Mâu
thuẫn - đó là mối quan hệ giữa các mặt đối lập, chúng có đặc điểm là phủ định lẫn nhau, làm
tiền đề cho nhau, xâm nhập lẫn nhau, không cân đối (không ngang nhau)”.
Như vậy, mâu thuẫn biện chứng được hiểu là khái niệm chỉ sự tác động lẫn nhau của các
mặt, các khuynh hướng đối lập, chúng vừa bài trừ nhau, vừa nằm trong sự thống nhất nội tại,
xâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển của thế
giới khách quan cũng như của nhận thức con người. Mâu thuẫn không phải là tổng số của hai
mặt đối lập mà là mối quan hệ giữa hai mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh là hai khía
cạnh cơ bản trong mối quan hệ giữa các mặt đối lập.
Phạm trù mâu thuẫn có những nội dung chủ yếu: Thứ nhất, mâu thuẫn là hiện tượng khách
quan, phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy; Thứ hai, mâu thuẫn trong tư duy phản ánh
mâu thuẫn trong hiện thực khách quan; Thứ ba, mâu thuẫn là sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập; Thứ tư, mâu thuẫn là cơ sở của sự tồn tại của mọi sự vật, đồng thời mâu
thuẫn còn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
2.1.2. Khái niệm mâu thuẫn xã hội và những đặc điểm cơ bản
Hiện nay MTXH được giới nghiên cứu đề cập theo hai phạm vi rộng và hẹp tùy cách hiểu
khác nhau về thuật ngữ xã hội. Trong luận án này chúng tôi hiểu MTXH theo nghĩa rộng của
thuật ngữ xã hội, mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình tương tác xã hội phức tạp giữa các cá
nhân hoặc các lực lượng xã hội với nhau, trong nội bộ hoặc giữa các cộng đồng quốc gia, dân
tộc. Đó là quá trình từ bộc lộ những hiện tượng khác biệt, bất đồng, xích mích đến những hành
vi phê phán, chỉ trích, kình địch, tranh đấu và cao hơn là những cuộc va chạm, xung đột, đối
đầu, đọ sức, phá hoại, thậm chí mâu thuẫn cao trào dẫn đến nội chiến, chiến tranh và cao
nhất là cách mạng xã hội. Như vậy, theo quan điểm của chúng tôi, MTXH là mâu thuẫn giữa
con người với tự nhiên và giữa con người với con người trong hoạt động sống (sản xuất, tổ
chức sinh hoạt…), là mâu thuẫn giữa các tổ chức và các lực lượng xã hội khác nhau có lợi
ích cơ bản trái ngược nhau về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, diễn ra thường
xuyên với nhiều cấp độ, quy mô khác nhau. MTXH đóng vai trò là nguồn gốc và động lực
phát triển của xã hội qua các thời kỳ lịch sử.
MTXH bao gồm: (i) mâu thuẫn giữa con người với giới tự nhiên thông qua cuộc đấu tranh
của con người nhằm cải tạo giới tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu và lợi ích của mình; (ii)

mâu thuẫn giữa con người với con người trong cuộc đấu tranh vì những lợi ích vật chất và


7

tinh thần đối lập nhau; (iii) Mâu thuẫn giữa con người với các tổ chức, thiết chế xã hội và
(iv) mâu thuẫn giữa các tổ chức, thiết chế xã hội với nhau. Theo đó, nội dung của MTXH là:
Thứ nhất, MTXH là sự tác động qua lại giữa những con người với con người có lợi ích vật
chất, tinh thần đối lập nhau. Thứ hai, bên cạnh mâu thuẫn giữa các cá nhân với cá nhân, cá
nhân với cộng đồng xã hội, giữa các giai tầng, còn có mâu thuẫn giữa các tổ chức xã hội với
nhau. Thứ ba, có thể xuất phát từ những sai lầm chủ quan của con người làm cho MTXH trở
nên trầm trọng thêm.
Tóm lại, MTXH là một hiện tượng xã hội khách quan, phổ biến và phức tạp, diễn ra
thường xuyên với nhiều sắc thái, phạm vi, cấp độ, tính chất, quy mô khác nhau. Về sắc thái,
MTXH xuất hiện mỗi nơi mỗi lúc “đậm nhạt” khác nhau. Về phạm vi, MTXH diễn ra giữa
cá nhân với cá nhân đến giai cấp với giai cấp, quốc gia với quốc gia, thậm chí là giữa các
khối quốc gia với nhau. Về cấp độ, MTXH hình thành và phát triển ở các trình độ khác nhau,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Về tính chất, MTXH diễn ra có lúc có nơi thể hiện
là mâu thuẫn về lợi ích cơ bản, có lúc có nơi thể hiện ra là mâu thuẫn không xuất phát từ lợi
ích cơ bản. Về quy mô, có những MTXH chỉ biểu hiện trong giới hạn một địa phương nhỏ
bé, cũng có những MTXH có tính phổ biến trong cả một vùng, thậm chí cả nước. MTXH
cũng vận động theo cách thức thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất, có thể từ những
khác biệt nhỏ dẫn đến trạng thái tâm lý bất mãn, từ căng thẳng dẫn đến xung đột.
2.1.3.Phương pháp luận về nhận thức và giải quyết mâu thuẫn
Nhận thức MTXH để thấy rõ các vận động khách quan tất yếu trong các quá trình xã hội
là bước ngoặt cách mạng của triết học Mác so với các trào lưu triết học trước Mác trong
nhận thức về lịch sử - xã hội. Bởi, thứ nhất, nhận thức MTXH giúp cho chủ thể nhận thức
phát hiện ra nguồn gốc và động lực của vận động và phát triển của các xã hội khác nhau
trong lịch sử. Thứ hai, thông qua nhận thức MTXH giúp chủ thể nhận thức phát hiện ra các
quy luật chi phối sự biến đổi của các quá trình phát triển xã hội. Thứ ba, nhận thức MTXH

giúp chủ thể nhận thức về các yếu tố thúc đẩy phát triển xã hội, chỉ ra các giới hạn của các
mối liên hệ xã hội, khái quát các điều kiện của sự phát triển, làm rõ các liên hệ cơ bản, chủ
yếu, bên trong quyết định các hiện tượng xã hội. Trên cơ sở nhận thức đó, chủ thể có thể xây
dựng giải pháp tác động vào các hiện tượng xã hội, định hướng xã hội phát triển theo lợi ích
mà chủ thể mong muốn.
Việc phân tích đúng các nguyên nhân mâu thuẫn đóng vai trò quan trọng để chủ thể xã hội
đề xuất các giải pháp hiệu quả làm thay đổi thực sự chất lượng của tiến trình phát triển.
Nguyên nhân của MTXH luôn nằm trong chính bản thân xã hội với những điều kiện khách
quan của nó. Nguyên nhân hình thành các MTXH là: Thứ nhất, nguyên nhân sâu xa của
MTXH là mâu thuẫn gay gắt trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, xuất phát từ sự
phát triển của LLSX. Thứ hai, nguyên nhân cơ bản của MTXH là sự đối lập giữa các lợi ích
mà căn bản chính là lợi ích kinh tế. MTXH bao giờ cũng gắn liền với sự đối lập về lợi ích của


8

những nhóm, giai tầng nhất định, được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực xã hội: kinh tế, chính
trị, văn hóa, tinh thần. Thứ ba, nguyên nhân trực tiếp của MTXH là những bất cập trong thể
chế, chính sách quản lý xã hội của các tổ chức xã hội và cơ quan quản lý nhà nước. Sự bất cập,
sai lầm trong đường lối, chính sách của nhà nước có thể đưa MTXH từ chỗ không đối kháng
đến những xung đột có tính chất đối kháng. Thứ tư, nguyên nhân nhận thức của MTXH là do
nhận thức của các giai tầng, nhóm xã hội không giống nhau và thậm chí là đối lập nhau.
MTXH nhiều khi không được nhận thức đúng với bản chất của nó, nhận thức của các lực
lượng xã hội có thể khác nhau, thậm chí đối lập nhau và sinh ra mâu thuẫn. Thứ năm, nguyên
nhân bên ngoài của MTXH bắt nguồn từ sự tác động của các lực lượng thù địch. Sự tác động
của lực lượng thù địch bên ngoài có thể khoét sâu mâu thuẫn bên trong xã hội.
Mâu thuẫn khác nhau thì cần có thái độ, nguyên tắc và phương pháp giải quyết khác nhau.
Theo chúng tôi, MTXH được chia thành hai loại: MTXH biện chứng và MTXH siêu hình,
nên cần nhận diện để có thái độ và phương pháp giải quyết khác nhau cho mỗi loại. MTXH
biện chứng, được hiểu là những mâu thuẫn tự thân xuất hiện tất yếu từ bên trong của quá

trình phát triển xã hội, do các mặt đối lập tồn tại khách quan trong lòng xã hội đấu tranh với
nhau mà nảy sinh ra; do đó, cần phải tôn trọng tính khách quan cũng như tính chất, trình độ
của MTXH biện chứng để có giải pháp phù hợp nhằm tạo điều kiện để các mâu thuẫn phát
triển và phát huy động lực thúc đẩy của chúng. Còn đối với những MTXH siêu hình, tức
những mâu thuẫn xuất phát từ những lực lượng bên ngoài tác động vào quá trình phát triển,
mang theo đó là các yếu tố kìm hãm sự phát triển; nguyên nhân có thể là do các lực lượng
thù địch cố tình tạo nên nhằm phá hoại sự ổn định, đoàn kết của xã hội, hoặc do sự tha hóa
của một bộ phận người trong xã hội có động lực từ chủ nghĩa cá nhân, vì lợi ích cá nhân, lợi
ích nhóm, có hành động đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, vi phạm luật pháp để làm giàu
bất chính, thì cần phải có thái độ kiên quyết loại bỏ triệt để đối với loại mâu thuẫn này.
Về cơ bản, có hai cách giải quyết MTXH: Thứ nhất, giải quyết MTXH bằng phương pháp
đấu tranh (loại trừ) giữa các mặt đối lập. Việc giải quyết MTXH bằng con đường đấu tranh
giữa các mặt đối lập còn được thực hiện bằng việc cả hai mặt của MTXH đều mất đi, vận
động xã hội chuyển lên một chất mới, thông qua đó giải quyết hoàn toàn MTXH. Trong đời
sống xã hội, có những MTXH về nguyên tắc là phải áp dụng phương pháp loại trừ - đó là
những MTXH siêu hình mà sự tồn tại của chúng ảnh hưởng hoàn toàn tiêu cực đến tiến bộ
chung của xã hội. Thứ hai, giải quyết MTXH bằng phương pháp thống nhất (kết hợp) các
mặt đối lập. Cơ sở khách quan của phương pháp kết hợp là các mặt đối lập có những khuynh
hướng vận động phát triển chung, những yếu tố đồng nhất chiếm ưu thế dẫn đến sự thống
nhất. Khi MTXH chưa đạt đến “chóp đỉnh” thì việc giải quyết có thể thực hiện bằng phương
pháp kết hợp lợi ích của các lực lượng đối lập tạo thành quá trình phát triển mới. Xuất phát
từ việc nhận thức sự thống nhất lợi ích của những lực lượng xã hội, chủ thể nhận thức có thể
chủ động tiến hành kết hợp các lợi ích nhằm tiến hành giải quyết những MTXH.


9

2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam – khái niệm, nội dung và các
mâu thuẫn nảy sinh
2.2.1. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là hoạt động có mục đích, có định hướng với
những chủ trương, kế hoạch, biện pháp cụ thể của các cấp chính quyền và người dân nhằm
tạo nên sự thay đổi tích cực các yếu tố cấu thành ngành kinh tế nông nghiệp và mối quan hệ
giữa các yếu tố đó, trên cơ sở nắm vững, vận dụng đúng các quy luật kinh tế khách quan
thực hiện mục tiêu phát triển ngành kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững.
Theo đó, CDCCKT nông nghiệp là quá trình làm biến đổi cấu trúc bên trong của ngành nông
nghiệp theo vùng nhằm tạo ra hệ thống kinh tế nông nghiệp hợp lý cho phép khai thác tối ưu
các nguồn lực, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững. Nội
dung CDCCKT nông nghiệp được biểu hiện ra: (1) CDCCKT nội bộ ngành nông nghiệp:
Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp là giảm tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng
trọt, tăng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi, thủy sản. (2) CDCCKT nông nghiệp theo
vùng: CDCCKT nông nghiệp theo vùng thể hiện sự tái phân công lao động sản xuất nông
nghiệp theo vùng lãnh thổ. (3) Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau, chính sự đa
dạng hoá sở hữu đã quyết định sự tồn tại của các thành phần kinh tế. Sự khác nhau giữa các
thành phần kinh tế thể hiện ở trình độ xã hội hoá, sự phát triển của LLSX, trình độ tổ chức
quản lý, phương thức phân phối sản phẩm và các mối quan hệ về lợi ích. (4) CDCCKT nông
nghiệp theo trình độ công nghệ: Trình độ công nghệ trong sản xuất nông nghiệp có sự
chuyển dịch theo hướng từng bước được nâng cao, cơ sở vật chất kỹ thuật của nông nghiệp
ngày càng hiện đại, khai thác có hiệu quả hơn.
2.2.2. Khái niệm và nội dung mâu thuẫn xã hội trong CDCCKT nông nghiệp
Quá trình CDCCKT nông nghiệp ở nước ta hiện nay đang làm nảy sinh nhiều MTXH. Xét
một cách tổng thể, MTXH trong CDCCKT nông nghiệp bao gồm một số vấn đề cốt lõi như:
vấn đề lợi ích, vấn đề nhận thức, vấn đề môi trường, vấn đề văn hóa,... MTXH biểu hiện ra
trong quan hệ giữa các cá nhân, giữa các nhóm người, giữa cá nhân, nhóm xã hội với doanh
nghiệp và với chính quyền nhà nước... Các MTXH nảy sinh trong CDCCKT nông nghiệp ở
nước ta hiện nay là những mâu thuẫn không đối kháng nên việc giải quyết các mâu thuẫn ấy
chủ yếu phải thông qua các biện pháp giáo dục, thuyết phục, thỏa thuận, hợp tác.
Từ những phân tích trên, chúng tôi quan niệm: MTXH trong CDCCKT nông nghiệp là sự
tác động qua lại giữa con người với con người và con người với tổ chức xã hội có lợi ích vật

chất, tinh thần đối lập nhau trong quá trình biến đổi cấu trúc bên trong của ngành nông
nghiệp, nó xuất hiện một cách tất yếu khách quan trên cơ sở sự thay đổi các điều kiện sản
xuất, sinh hoạt, phong tục, tập quán, lối sống... dẫn đến thay đổi lợi ích vật chất và tinh thần


10

của các chủ thể; trong hoàn cảnh nhất định mâu thuẫn còn xuất phát từ những sai lầm chủ
quan của các chủ thể xã hội. MTXH trong CDCCKT nông nghiệp có thể tác động tích cực
nhưng cũng có thể làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội.
Các MTXH trong quá trình CDCCKT nông nghiệp nảy sinh trong quá trình vận động, cơ
bản biểu hiện ở: Thứ nhất: Mâu thuẫn giữa biến đổi của lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất. LLSX phát triển quy định sự thay đổi của QHSX, QHSX tác động biện chứng trở lại
LLSX, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến lợi ích của người sản xuất, từ đó
hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Sự biến đổi, phát triển xã hội và sự xuất hiện của MTXH xét đến cùng đều bắt nguồn từ mối
quan hệ này. Thứ hai, mâu thuẫn giữa sở hữu tư liệu sản xuất nông nghiệp với yêu cầu phát
triển KT-XH nông nghiệp, nông thôn. Sở hữu tư liệu sản xuất là vấn đề cốt lõi của QHSX.
Trong QHSX thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ quan trọng nhất, chi phối các
hoạt động tổ chức sản xuất và thụ hưởng sản phẩm lao động. Thứ ba, mâu thuẫn giữa sự
thay đổi của cơ sở hạ tầng kinh tế nông nghiệp với sự bất cập trong điều hành của các cấp
chính quyền. Với những đổi thay tích cực của PTSX nông nghiệp thì đồng thời cũng xuất
hiện những bất cập trong chính sách, trong điều hành của các cấp chính quyền, đã và đang
góp phần làm gia tăng MTXH. Thứ tư, mâu thuẫn giữa CDCCKT nông nghiệp với vấn đề
bảo đảm an toàn xã hội và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. CDCCKT nông nghiệp
mang lại tích cực cho phát triển thì đồng thời cũng làm xuất hiện những vấn đề trong đời
sống xã hội nông thôn. Đời sống văn hoá xã hội có nhiều biểu hiện xuống cấp. Nhiều quan
hệ cộng đồng làng bản tốt đẹp được hình thành ngàn năm đã bị phá vỡ, làng xóm trở nên mất
sức đề kháng khi tình huống có vấn đề. Xuất hiện lối sống thực dụng chạy theo lợi nhuận
đơn thuần mà không tính đến lợi ích của cộng đồng. Thứ năm, mâu thuẫn giữa xu hướng

CNH, ĐTH với phát triển kinh tế nông nghiệp. Quá trình CNH, ĐTH đòi hỏi sử dụng một
phần tư liệu sản xuất trong nông nghiệp như đất đai, nguồn nước, nhân lực… điều này tác
động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp và đời sống xã hội của người dân khu
vực nông thôn, đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm.
2.2.3. Sự cần thiết của việc giải quyết mâu thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Việc giải quyết MTXH trong CDCCKT nông nghiệp nhằm tạo ra động lực thúc đẩy nhanh
quá trình phát triển theo định hướng XHCN trên các bình diện cơ bản: Một là, cần khẳng
định sự tồn tại của các mâu thuẫn trong CDCCKT nông nghiệp ở nước ta là một tất yếu
khách quan và nó chỉ trở thành động lực thực sự của sự phát triển khi chủ thể xã hội nhận
thức đúng và có cách giải quyết phù hợp. Hai là, MTXH xét đến cùng là mâu thuẫn về lợi
ích trên lĩnh vực kinh tế. Nhận thức đúng các nguyên nhân chủ yếu giúp chủ thể khắc phục,
giảm thiểu những bức xúc xã hội, tạo động lực cho phát triển. Ba là, các mâu thuẫn trong


11

CDCCKT nông nghiệp nước ta thuộc về mâu thuẫn không đối kháng, tuy nhiên, những mầm
mống đối kháng xã hội không hẳn là không có. Những xung đột lợi ích về quyền lợi, tranh
chấp đất đai, tham nhũng,… đang có dấu hiệu ngày một sâu sắc, những điểm nóng, xung đột
xã hội giữa chính quyền địa phương và một bộ phận nhân dân trong đền bù và giải phóng
mặt bằng xảy ra gay gắt; các khiếu kiện đông người kéo dài, khiếu kiện vượt cấp gia tăng.
Do vậy, trong quá trình CDCCKT nông nghiệp, nông thôn, cần phải xác định đúng đắn
nguồn gốc của các mâu thuẫn để có giải pháp phù hợp và giải quyết một cách triệt để các
mầm mống của đối kháng xã hội, nhằm tạo sự ổn định xã hội thúc đẩy phát triển KT-XH.
Kết luận chương 2
Mâu thuẫn chính là quá trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, là sự chuyển
hóa giữa các mặt đối lập ngay khi chúng tác động qua lại với nhau. Trong quá trình phát
triển kinh tế, xã hội luôn nảy sinh các mâu thuẫn. Toàn bộ quá trình kinh tế đều là hoạt động
của con người, thông qua các hoạt động của mình thiết lập các quan hệ giữa con người với tự

nhiên, giữa con người với con người và giữa con người với các tổ chức xã hội, và theo đó
các mâu thuẫn trong lòng xã hội nảy sinh ra. Giải quyết mâu thuẫn chính là động lực của sự
phát triển và phải đạt mục tiêu hài hòa về lợi ích giữa các nhóm, giai tầng xã hội.
Thực tế hiện nay cho thấy quá trình CDCCKT nông nghiệp đang tồn tại những MTXH ở
các mức độ khác nhau làm nảy sinh nhiều bức xúc xã hội dẫn đến tác động tiêu cực, làm chậm
quá trình phát triển KT-XH. Vùng ĐBSH đang trong thời kỳ tái cơ cấu nền kinh tế nông
nghiệp, đẩy mạnh CDCCKT nông nghiệp hợp lý thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng. Do vậy, tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân của
những mâu thuẫn trong quá trình CDCCKT nông nghiệp ở các tỉnh ĐBSH theo hướng 5 mâu
thuẫn đã được nhận diện và đề xuất giải pháp giải quyết các mâu thuẫn là vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu ở chương 3 và chương 4 của luận án.
Chương 3
MÂU THUẪN XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở CÁC TỈNH
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. Thực trạng của mâu thuẫn xã hội nảy sinh trong chuyển cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Quá trình CDCCKT nông nghiệp vùng ĐBSH theo hướng CNH, HĐH làm thay đổi cơ
cấu kinh tế, thành phần kinh tế, lực lượng lao động xã hội và cơ cấu xã hội dẫn đến những
biến đổi kinh tế và xã hội. CDCCKT nông nghiệp của vùng ĐBSH có tác động hai mặt,
những tác động tích cực trở thành đòn bẩy cho đời sống KT-XH phát triển và ngược lại,
những hạn chế không được giải quyết dần trở thành những bức xúc, gây nên mâu thuẫn, tạo


12

ra bất ổn trong đời sống tinh thần xã hội, kìm hãm phát triển KT-XH. Dưới đây là thực trạng
một số MTXH chủ yếu nảy sinh trong quá trình CDCCKT ở vùng ĐBSH:
3.1.1. Mâu thuẫn giữa chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp với nhu cầu ổn

định và nâng cao đời sống người nông dân
Thời gian qua, việc chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp vùng ĐBSH có sự
chuyển dịch tích cực theo hướng tăng nhanh giá trị sản xuất các lĩnh vực có lợi thế hoặc
thâm dụng tài nguyên thấp. Giá trị sản phẩm/ha đất trồng trọt đã tăng từ 45,8 triệu đồng/ha
năm 2005 và 98,6 triệu đồng/ha năm 2015. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch này chưa được
đồng bộ, sản xuất còn manh mún, việc xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm ít được chú trọng,
khả năng tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm còn thấp, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
kém hiệu quả,…Những bất cập trong chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông đã làm xuất
hiện những MTXH tác động trực tiếp tới đời sống người dân khu vực nông thôn. Dạng mâu
thuẫn này được biểu hiện ra như sau:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa phát triển sản xuất với thu nhập không ổn định của người nông dân
Ở vùng ĐBSH, sản xuất nông nghiệp truyền thống vẫn là chủ yếu nên giá thành sản phẩm
cao, sản xuất không gắn với phát triển thị trường, thiếu sức cạnh tranh. Nông dân thiếu định
hướng sản xuất từ doanh nghiệp và các cơ quan chức năng, yếu kém trong thực hiện quy
hoạch, tổ chức, hợp tác sản xuất, “được mùa rớt giá” khiến thu nhập của người dân không ổn
định. Mâu thuẫn giữa phát triển sản xuất và sự bất ổn trong thu nhập của nông dân cho thấy
khâu tổ chức sản xuất là mắt xích yếu nhất, mang đến những bất lợi cho sự phát triển - điều
này hoàn toàn có thể loại bỏ được và cần thiết phải bị loại bỏ.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa CDCCKT nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH và phát triển
bền vững với việc chia sẻ lợi ích của các chủ thể.
Những bất đồng trong việc chia sẻ lợi ích giữa giữa nông dân và doanh nghiệp khiến mô
hình sản xuất nông nghiệp truyền thống không thay đổi; nông dân bỏ ruộng nhưng không trả
ruộng hoặc cho thuê làm cho sản xuất trì trệ; thanh niên nông thôn kiếm việc ở thành phố,
khu công nghiệp hoặc xuất khẩu lao động khiến nhiều ngôi làng chủ yếu còn người già và trẻ
con dẫn đến hạn chế trong tiếp thu KH-KT, năng suất lao động thấp. Như vậy, nhu cầu gia
tăng nhanh lợi ích kinh tế với những bất cập trong triển khai thực hiện quy hoạch và xác định
cơ cấu kinh tế là mâu thuẫn thuộc về khâu tổ chức sản xuất. Mâu thuẫn này cần được giải
quyết triệt để, nếu không mâu thuẫn có thể dẫn đến những hệ lụy như: hoạt động sản xuất
nông nghiệp biến dạng, phá vỡ các điều kiện cơ bản cho phát triển bền vững, đe dọa an ninh
lương thực; “ly nông, ly hương” tự do dẫn đến mất cân bằng trong cơ cấu dân cư;... tác động

tiêu cực đến đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội khu vực nông thôn.
Thứ ba,mâu thuẫn giữa nhu cầu đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp với bảo vệ môi trường
sinh thái nông thôn ĐBSH.
Việc đẩy mạnh sản xuất nông nông nghiệp theo hướng khai thác quá mức nguồn tài nguyên
thiên nhiên và lạm dụng các chất hóa học độc hại đã tác động tiêu cực tới môi trường. Phát


13

triển hệ thống thủy lợi đã góp phần đẩy mạnh sản xuất, tỷ lệ lúa 3 vụ đã tăng lên nhanh chóng;
tuy nhiên, điều này đã ảnh hưởng đến chế độ thủy văn bên ngoài hệ thống đê bao, còn bên
trong thì độ phì của đất giảm sút, suy thoái, làm thay đổi các quy luật vốn có của tự nhiên, suy
giảm tính đa dạng sinh học... Vì vậy, việc quan tâm giải quyết mâu thuẫn này trở thành một
yêu cầu bức thiết, nếu không mâu thuẫn sẽ tác động tiêu cực, ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng sống của người dân và mục tiêu hướng đến sự phát triển bền vững.
3.1.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp với sự hạn chế của các
nguồn lực (vốn, đất đai, lao động, KH-KT)
Trong nông nghiệp, các yếu tố nguồn lực có thể tồn tại dưới hình thái vật chất, bao gồm: đất
đai, máy móc, thiết bị, kho tàng, nguyên nhiên vật liệu, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón,
thức ăn gia súc, sức lao động với kỹ năng và kinh nghiệm sản xuất nhất định.v.v. và nguồn
lực sản xuất của nông nghiệp cũng có thể tồn tại dưới hình thái giá trị. Các yếu tố nguồn lực
cho phát triển nông nghiệp ở vùng ĐBSH có nhiều hạn chế đã làm nảy sinh những mâu thuẫn
trong yêu cầu phát triển nông nghiệp nhanh và bền vững, biểu hiện cụ thể trên các khía cạnh:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp với chất lượng nguồn nhân lực.
Trong giai đoạn 2006 - 2016, lao động nông nghiệp bình quân mỗi năm giảm 3,5%, nhưng
lao động nông nghiệp vẫn chiếm 42,63% so với tổng số lao động nông thôn của cả vùng
[105, tr.33]. Mặt khác, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp vùng ĐBSH đòi hỏi nguồn nhân
lực nông nghiệp, nông thôn phải ở một trình độ nhất định nhưng thực tế tỷ lệ lao động nông
thôn chưa qua đào tạo chiếm 82,51% [103, tr.34,244]. Cùng với đó, hằng năm vùng ĐBSH
có thêm ít nhất 0,4 - 0,5 triệu người đến tuổi lao động được bổ sung vào lực lượng lao động,

trong đó có khoảng 0,3 triệu lao động tăng thêm ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Tình
trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động cho thấy, chất lượng nguồn nhân lực khu vực nông
nghiệp, số lượng dư thừa cao dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất trong lao
động nông nghiệp. Đồng thời cũng cho thấy lực lượng lao động nông thôn chưa được khai
thác, đào tạo và việc quy hoạch lao động nông thôn chưa tốt, chính sách đào tạo nghề cho
khu vực nông nghiệp, nông thôn chưa đồng bộ, chưa mang tính khuyến khích và cạnh tranh.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nền nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH với
thực trạng đất nông nghiệp bị thu hẹp và manh mún.
Các hộ nông dân đều là sản xuất nhỏ với hiệu suất lao động thấp do ruộng đất manh mún,
phân tán, ảnh hưởng đến năng suất lao động và hiệu quả quản lý. Trước thực trạng này,
Chính phủ đã đề ra mục tiêu giảm mức độ manh mún đất đai thông qua chương trình dồn
điền đổi thửa, khuyến khích nông dân đổi ruộng cho nhau và gia nhập hợp tác xã. Tuy nhiên,
việc dồn điền đổi thửa ở vùng ĐBSH lại gặp nhiều khó khăn, như: người dân e ngại đối với
việc phải thay đổi hình thức sản xuất; một số khác vì mang tâm lý tiểu nông nên muốn giữ
nguyên các mảnh ruộng ở các vị trí của mình; và các yếu tố chủ quan trong tổ chức, thực
hiện của các cấp chính quyền đã làm chậm quá trình dồn điền đổi thửa. Như vậy, tình trạng
manh mún đất đai vẫn là cản trở đáng kể đối với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp.


14

Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu về nguồn vốn lớn đầu tư cho HĐH nông nghiệp với hiệu
quả mang lại từ đầu tư vào nông nghiệp còn thấp, rủi ro cao, thiếu hấp dẫn.
Mặc dù chiếm tỷ trọng gần 20% trong tổng sản phẩm quốc dân, nhưng vốn đầu tư toàn xã
hội cho ngành nông nghiệp chỉ từ 5-7% và có xu hướng giảm dần; tỷ lệ vốn FDI vào nông
nghiệp chỉ chiếm 5,4% trong tổng số vốn FDI; chỉ có 1% tổng số doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp với số vốn rất khiêm tốn, chỉ đạt gần 2% tổng số vốn của cộng đồng doanh
nghiệp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Có thể thấy vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước vào
nông nghiệp hiện nay là thấp và thiếu ổn định; vốn đầu tư nhà nước mới chỉ tập chung vào
cơ sở hạ tầng; trong khi nông dân thiếu vốn nên không thể tham gia vào các liên kết ngang,

dọc trong chuỗi giá trị. Thực trạng này cho thấy đây là một mâu thuẫn trong thực tế triển
khai thu hút đầu tư với chính sách thu hút đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Mâu
thuẫn này có tác động trực tiếp đến chất lượng phát triển ngành nông nghiệp.
3.1.3. Mâu thuẫn giữa quá trình CDCCKT nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH với vấn
đề bảo đảm an toàn xã hội và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Quá trình CDCCKT nông nghiệp được đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, do đó chứa đựng những thay đổi cơ bản về PTSX
nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất theo nhu cầu thị trường mà trong đó người nông dân là nhân
vật trung tâm nhận sự tác động cũng như hưởng lợi từ đó. Quá trình CDCCKT khu vực nông
nghiệp, nông thôn vùng ĐBSH đã làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa phát triển nông nghiệp
với vấn đề bảo đảm an toàn xã hội và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Dạng mâu
thuẫn này được biểu hiện ra như sau:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa nhu cầu việc làm với khả năng hạn chế trong vấn đề giải quyết
và tạo việc làm ở khu vực nông nghiệp nông thôn
Hiện nay, xu hướng chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ diễn ra chậm, nông nghiệp vẫn đang là khu tạo việc làm chủ
yếu cho nông dân. Năm 2014, thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn ĐBSH trung
bình vào 61,18% tổng quỹ thời gian; trong đó, nếu chỉ chuyên trồng trọt, số giờ làm việc
thực tế chỉ đạt khoảng 630 giờ/4.800 giờ làm việc, tức là chỉ sử dụng hết 13,13% tổng quỹ
thời gian trong năm. Trong khi đó, khu vực nông thôn có tốc độ gia tăng dân số luôn cao làm
cho lực lượng lao động nông nghiệp gia tăng nhanh, bình quân mỗi năm có khoảng 422.000
lao động bổ sung; một phần đất nông nghiệp được chuyển mục đích sử dụng sang xây dựng
khu công nghiệp và ĐTH; cơ giới hóa tăng mạnh trong khi khả năng tạo việc làm lại hạn chế
(công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển) đã dẫn tới việc dư thừa lao động nông thôn, đặc biệt là
nữ giới. Điều này đang là một vấn đề xã hội bức xúc ở nông thôn ĐBSH.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế nông nghiệp với vấn đề phân hóa giàu nghèo
ở nông thôn
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo là mối quan hệ biện chứng. Tăng



15

trưởng kinh tế được coi là cơ sở, là điều kiện và tiền đề để thực hiện giảm nghèo bền vững.
Đồng thời, thực hiện tốt giảm nghèo là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và phát
triển bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011-2015 vùng ĐBSH đã giảm từ 18,5% năm
2004 xuống còn 4,0% năm 2014. Như vậy, khi tổng sản lượng GDP của vùng ĐBSH tăng
1% trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2014 thì tỉ lệ nghèo giảm 0.43%, có nghĩa tăng
trưởng kinh tế có tác động đến giảm nghèo, song tỷ lệ tác động này khá thấp. Thực tế cho
thấy, sự thích ứng với cách thức sản xuất mới, khả năng đối diện với thách thức của cơ chế
thị trường của người nông dân vùng ĐBSH là rất hạn chế; đồng thời quá trình CNH, ĐTH
luôn tiềm ẩn rủi ro khiến cho tình trạng nghèo và tái nghèo của người nông dân vùng ĐBSH
khó được kiểm soát; khoảng cách giàu nghèo vì thế mà khó có thể thu hẹp.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa CDCCKT nông nghiệp, nông thôn với vấn đề tệ nạn xã hội gia tăng
Trong bối cảnh ĐBSH đang thực hiện đẩy nhanh quá trình CDCCKT, bên cạnh những
thành tựu đạt được về mặt kinh tế thì cũng làm xuất hiện những vấn đề xã hội như: sự thay
đổi lối sống với việc đề cao giá trị vật chất và hưởng thụ ở bộ phận người dân; phân hoá giàu
nghèo ngày càng tăng; tham nhũng, làm giàu phi pháp gây ra những bức xúc trong nhân dân;
các tệ nạn xã hội cờ bạc, mại dâm, nghiện hút gia tăng; mâu thuẫn giữa các bên trong thu
hồi, đền bù đất tạo ra những xung đột nhất định, khiếu kiện đông người, vượt cấp phức tạp...
Điều này cho thấy công tác quản lý xã hội còn chưa theo kịp với sự vận động và phát triển
kinh tế nói chung và quá trình CDCCKT nông nghiệp, nông thôn ĐBSH nói riêng.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa CDCCKT nông nghiệp, nông thôn với vấn đề bảo tồn và phát triển
văn hóa truyền thống
Vùng ĐBSH trong quá trình CDCCKT theo hướng CNH, HĐH, cùng với sự thay đổi cơ
cấu xã hội dân cư nông thôn và môi trường tự nhiên đã kéo theo những biến đổi về môi
trường văn hóa nông thôn, mà hệ lụy của nó chính là: những đặc trưng văn hóa truyền thống
ở nông thôn vùng ĐBSH có những biểu hiện bị lu mờ dần, một bộ phận người dân bị tha hóa
đạo đức lối sống, phân hóa giàu - nghèo trở nên ngày càng gay gắt… làm cho MTXH ngày
càng tích tụ đang đe dọa phá hủy tận gốc rễ đời sống tinh thần xã hội nông thôn vùng ĐBSH,
đặt ra thách thức lớn cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh

phát triển KT-XH hiện nay.
3.1.4. Mâu thuẫn giữa quá trình CDCCKT nông nghiệp, nông thôn với sự bất cập của các
cấp chính quyền trong triển khai thực hiện
Nhìn vào thực trạng hoạch định và thực thi chính sách CDCCKT nông nghiệp, nông thôn
theo hướng CNH, HĐH ở vùng ĐBSH hiện nay, chúng ta có thể nhận thấy vấn đề lợi ích
chính là yếu tố làm nảy sinh mâu thuẫn, biểu hiện như sau:
Thứ nhất, mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp và
người nông dân


16

Sự thiếu công bằng trong giải quyết các vấn đề liên quan đến ruộng đất đang là một mâu
thuẫn lớn, hình thành nên một mối quan hệ không tốt đẹp giữa nông dân với chính quyền,
giữa nông dân với doanh nghiệp. Đồng thời, cách thức xử lý hỗ trợ đền bù đất đai còn tạo ra
mâu thuẫn giữa nông dân với nông dân, phá vỡ quan hệ làng xã. Những mâu thuẫn này có
nhiều khả năng sẽ dẫn đến khủng hoảng xã hội, nhất là trong xã hội nông nghiệp đang
chuyển mình. Ở vùng ĐBSH, đôi chỗ, đôi nơi cũng đã có những căng thẳng, nhưng khủng
hoảng xã hội có xảy ra hay không là phụ thuộc vào thái độ ứng xử giữa các bên, trong đó vai
trò của các cấp chính quyền là nhân tố quan trọng nhất.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư phát triển nông nghiệp của người dân, doanh
nghiệp với bất cập trong thực thi chính sách của các cấp chính quyền.
Hiện nay việc đầu tư cho phát triển nông nghiệp ở vùng ĐBSH đang gặp phải nhiều vấn
đề, như: doanh nghiệp đầu tư nông nghiệp không muốn đầu tư quá lâu và cũng không muốn
mở rộng quy mô sản xuất; nhiều nông dân không đầu tư sản xuất nhưng cũng không bán hay
nhượng lại đất. Vấn đề là do: Quy định về thời hạn sử dụng đất nông nghiệp chưa thực sự rõ
ràng; Ở nhiều địa phương, việc xử lý các vấn đề đất đai còn tùy tiện, cùng một quy định của
Chính phủ nhưng mỗi địa phương làm một khác; sự thiếu đồng bộ giữa các cấp sở ban ngành
trong việc hoạch định chính sách, chưa thống nhất giữa chính sách đất đai với các chính sách
khác. Những bất cập này không những ảnh hưởng đến đầu tư phát triển của khu vực nông

nghiệp mà còn làm nảy sinh những MTXH gay gắt. Nếu các bất cập này không được giải
quyết thì có thể dẫn đến bất ổn xã hội, tác động tiêu cực đến an ninh trật tự, an toàn xã hội.
3.1.5. Mâu thuẫn giữa quá trình CNH, ĐTH với phát triển KT-XH nông nghiệp, nông thôn
Tại ĐBSH, hàng năm có hàng vạn ha đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích cho CNH,
ĐTH. Quá trình CNH, ĐTH diễn ra nhanh chóng khiến hơn 100 số xã, thôn giảm trong 10
năm (2005-2015), làm suy giảm nguồn lực của sản xuất nông nghiệp như: tài nguyên đất,
nước, vốn và nhân lực, biểu hiện ở mâu thuẫn sau:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa đẩy nhanh CNH, HĐH với vấn đề bảo vệ đất cho sản xuất
nông nghiệp.
Vùng ĐBSH những năm qua có khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp thu hồi nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm, trong đó, 80% là đất màu mỡ. Sự yếu kém trong quy hoạch, quản
lý, sử dụng cùng với tư tưởng chạy theo lợi ích trước mắt đưa tới tình trạng sử dụng đất tuỳ
tiện, lãng phí, tác động mạnh đến việc làm, thu nhập của hàng triệu lao động nông nghiệp,
góp phần phân hoá xã hội gay gắt. Có nơi vì bảo vệ đất sản xuất nông nghiệp mà đã xuất
hiện những xung đột xã hội. Đây là vấn đề cần được nhìn nhận thấu đáo và khắc phục sớm.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa đẩy mạnh CNH, ĐTH với vấn đề đảm bảo phát triển xã hội khu
vực nông thôn.
CNH, ĐTH đã góp phần thúc đẩy CDCCKT vùng ĐBSH đúng hướng. Tuy nhiên, CNH,
ĐTH khiến nhiều nông dân bị mất quyền sử dụng đất sản xuất dẫn đến những hậu quả KT-


17

XH khó lường, biểu hiện ở: Một là, sự ùn đọng lao động ở nông thôn. Việc thu hồi đất nông
nghiệp tác động đến khoảng 250.000 lao động nông nghiệp, có tới 67% nông dân vẫn phải
bám trụ nghề nông, 13% chuyển nghề mới và khoảng 20% mất việc làm, thu nhập của 37%
số hộ bị thu hồi đất sụt giảm, chỉ 13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước. Quy trình thu hồi
đất cũng góp phần gây bức xúc cho các đối tượng bị thu hồi đất. Hiện tượng khiếu kiện đông
người, khiếu kiện vượt cấp, chống người thi hành công vụ,… xảy ra, tiềm ẩn nhiều nguy cơ
gây bất ổn chính trị - xã hội. Hai là, hệ lụy đến các vấn đề về văn hoá, xã hội. CNH, ĐTH đẩy

nhiều giá trị phản văn hoá, trái ngược với thuần phong mỹ tục trong lối sống, kinh doanh,…
về thôn quê làm tha hoá một bộ phận cư dân nông thôn, làm vẩn đục môi trường văn hoá-xã
hội nông thôn thuần phác. Ba là, tác động tiêu cực đến môi trường. Tình trạng san lấp, lấn
chiếm ao hồ, sông, suối, nạn đốt phá rừng, khai thác khoáng sản tuỳ tiện cùng với sự yếu
kém trong xử lý nước thải, rác thải, bụi, tiếng ồn... làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá
vỡ hệ sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất nông nghiệp và
sức khoẻ người dân, làm trầm trọng thêm những tác động tiêu cực của tự nhiên.
3.2. Nguyên nhân của mâu thuẫn xã hội nảy sinh trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở đồng bằng sông Hồng
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến MTXH trong CDCCKT nông nghiệp vùng ĐBSH là:
3.2.1. Nguyên nhân do quá trình CDCCKT nông nghiệp còn thiếu bền vững
CDCCKT nông nghiệp thiếu bền vững, thể hiện ở: Thứ nhất, cơ chế chính sách phát triển
nông nghiệp thiếu tính đột phá. Thứ hai, môi trường đầu tư vào phát triển nông nghiệp thiếu
hấp dẫn. Thứ ba, đầu tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp,
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Thứ tư, công tác quy hoạch kết cấu hạ tầng cho các vùng
sản xuất nông nghiệp chưa đầy đủ.
3.2.2. Nguyên nhân do sự bất cập của một số chính sách trong phát triển nông nghiệp,
nông thôn
Thứ nhất, chính sách về đất nông nghiệp còn nhiều sơ hở. Các chính sách về quản lý và sử
dụng đất nông nghiệp, đất thổ cư, quỹ đất 5% còn nhiều sơ hở; việc kiểm tra, kiểm soát của
các cấp bị buông lỏng. Chính quyền địa phương nhiều nơi tự ý cấp bán và cho đấu thầu đất
trái pháp luật, tùy tiện thay đổi mục đích sử dụng đất; bị động trong tổ chức dồn điền đổi
thửa, chậm cấp giấy quyền sử dụng đất cho các hộ đã được giao nhận đất khiến người dân
không yên tâm đầu tư sản xuất. Thêm nữa, chủ trương mở rộng hạn điền, tích tụ ruộng đất
cũng là vấn đề tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định xã hội.
Thứ hai, chính sách thu - chi trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn không rõ
ràng. Có những vấn đề nóng bỏng, thường xuyên đụng chạm đến cuộc sống hàng ngày tại
các làng xã nhưng lại chưa được thể chế hóa bằng pháp luật gây ra những chuyện khó xử
hoặc làm sai như: đổi đất lấy công trình, lấy thu bù chi, đóng góp ngày công lao động nghĩa
vụ công ích… Sự tồn tại cơ chế "xin cho" đã phá vỡ nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính.



18

Thứ ba, chính sách về đền bù đất đai, giải tỏa mặt bằng thiếu sự nhất quán. Việc thực
hiện đền bù giải tỏa được chính quyền nhiều nơi áp dụng rất tùy tiện, làm cho dân cố chây ỳ,
khiếu kiện để được đền bù cao hơn. Mặt khác, mức đền bù nói chung còn thấp, với giá trị
đền bù mà người dân nhận được thì người dân không thể tạo lập lại được cuộc sống như trước.
3.2.3. Nguyên nhân do yếu kém trong quản lý và điều hành của các cấp chính quyền
Thực trạng MTXH nảy sinh trong CDCCKT nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSH trong
những năm qua cho thấy nguyên nhân cơ bản thuộc về vấn đề tổ chức điều hành của chính
quyền các cấp, cùng với đó là do sự yếu kém, tha hóa biến chất của một bộ phận không nhỏ
cán bộ trong bộ máy chính quyền. Những hạn chế đó bộc lộ ở các khía cạnh: Thứ nhất, tổ
chức bộ máy chính quyền các cấp và ngành nông nghiệp còn cồng kềnh, chức năng chồng
chéo và chưa hiệu quả. Thứ hai, sự buông lỏng công tác quản lý trong suốt thời gian dài trên
các lĩnh vực đất đai, tài chính, ngân sách, xây dựng cơ bản. Thứ ba, một bộ phận cán bộ suy
thoái về phẩm chất đạo đức, yếu kém về năng lực trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
3.2.4. Nguyên nhân do tác động tiêu cực từ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp cho phát triển CNH, ĐTH và tác động của mặt trái kinh tế thị trường
CNH, ĐTH nhanh chóng khiến ô nhiễm môi trường sinh thái lan rộng; đất nông nghiệp
bị ô nhiễm; thiếu nhân công ở vùng nông thôn, nông dân lâm vào cảnh nợ nần do gánh
nặng về vốn nông nghiệp, chi phí sinh hoạt gia tăng, phân hoá xã hội mạnh giữa thành thị
và nông thôn. Nguyên nhân là do: Thứ nhất, công tác quy hoạch nguồn lực cho phát triển
KT-XH ở địa phương còn nhiều yếu kém. Thứ hai, tác động của mặt trái kinh tế thị trường.
Mặt trái của kinh tế thị trường làm biến đổi sâu sắc đời sống nhân dân, tạo ra lối sống thực
dụng, tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp truyền thống thuần phong, mỹ tục và các giá trị
đạo đức cùng những chuẩn mực của pháp luật; tạo ra những quan niệm, hành vi sai lệch,
lấy đồng tiền làm thước đo để đánh giá các quan hệ giữa người với người, thậm chí xem rẻ
nhân phẩm con người.
Kết luận chương 3

Trong thời gian vừa qua, quá trình CDCCKT nông nghiệp ở khu vực ĐBSH diễn ra nhanh
chóng, bộ mặt nông thôn đã có nhiều đổi mới theo hướng tích cực. Tuy nhiên, đi kèm đó thì
khu vực nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSH cũng đang phải đối mặt với những bức xúc xã
hội. Các mâu thuẫn này tồn tại, đan xen lẫn nhau và diễn biến khá phức tạp trong rất nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội. Biểu hiện tiêu cực của các mâu thuẫn là sự xuống cấp của một bộ
phận xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, tệ nạn xã hội mở rộng; nhiều nơi xuất hiện
trạng thái nhân dân bất mãn với chính quyền sở tại; tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp
xuất hiện ngày càng nhiều,... có tác động tiêu cực đến xã hội nông thôn. Nguyên nhân trực tiếp
làm nảy sinh những MTXH phức tạp ở khu vực nông nghiệp, nông thôn ĐBSH chính là do
yếu kém trong quản lý và điều hành của các cấp chính quyền, sự bất cập trong cơ chế chính
sách cùng với việc sử dụng không hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp.


19

MTXH là hiện tượng tất yếu và khó tránh khỏi trong quá trình phát triển nói chung và
trong CDCCKT nông nghiệp vùng ĐBSH nói riêng. Phân tích một cách khách quan về
MTXH trong CDCCKT nông nghiệp và nguyên nhân của nó, sẽ giúp chúng ta nắm bắt được
nguồn gốc của những mâu thuẫn và xu hướng biến đổi của chúng, để qua đó xây dựng những
giải pháp khắc phục những mâu thuẫn có tính chủ quan. Các giải pháp cơ bản, đúng đắn giúp
chúng ta có thể hạn chế những tác động tiêu cực của mâu thuẫn, giải phóng LLSX, tạo động
lực thúc đẩy sự phát triển KT- XH khu vực nông nghiệp, nông thôn, được chúng tôi tiếp tục
chỉ rõ ở chương sau.
Chương 4
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN XÃ HỘI
TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
4.1. Một số căn cứ cho việc đề xuất giải pháp giải quyết mâu thuẫn xã hội trong chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng
Giải quyết mâu thuẫn theo hướng “phát triển kinh tế là tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi để

giải quyết các vấn đề xã hội... nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, mở ra triển vọng
phát triển LLSX nhanh hơn và với chất lượng cao hơn” [9, Tr.26] sẽ tạo tiền đề để cái mới
tiến bộ xuất hiện. Để giải quyết tốt các MTXH trong quá trình CDCCKT nông nghiệp vùng
ĐBSH, theo chúng tôi cần dựa trên các quan điểm cơ bản: Một là, giải quyết MTXH phải có
tính hệ thống và dựa trên xây dựng sự đồng thuận xã hội. Hai là, giải quyết MTXH phải là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Ba là, giải quyết các MTXH phải được tổ chức song
song, hoà nhập với các chương trình phát triển kinh tế. Bốn là, cần phát triển hài hòa giữa
kinh tế và xã hội để đảm bảo công bằng xã hội.
Bốn quan điểm nêu trên là phương châm để xây dựng các giải pháp đồng bộ nhằm giải
quyết MTXH nảy sinh trong quá trình CDCCKT nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH,
HĐH. Theo đó, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
4.2. Đề xuất các nhóm giải pháp giải quyết mâu thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng đến năm 2030
4.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách cho phát triển nông nghiệp, nông thôn
Chính sách có tác động trực tiếp đến sự chuyển dịch, phát triển nông nghiệp theo hướng
bền vững ở vùng ĐBSH hiện nay, như: chính sách đất đai, thuế, bảo vệ môi trường, vệ sinh
an toàn thực phẩm, cơ chế khuyến khích đầu tư... cần ưu tiên hoàn thiện trước, cụ thể:
Thứ nhất, khắc phục những bất cập trong chính sách đất nông nghiệp. Theo đó: (i) Trong
ngắn hạn, cần hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các lĩnh vực khác,
đặc biệt là loại đất cho năng suất cao. (ii) Về lâu dài, tạo ra hành lang pháp lý tập trung ruộng
đất quy mô lớn vào tay những người có năng lực quản lý, kỹ thuật canh tác tốt, sử dụng đất
có hiệu quả cao. (iii)Tăng thêm thời hạn sử dụng đất để chủ sở hữu yên tâm đầu tư vốn cải


20

tạo, khai thác đất. (iv) Phân chia lợi ích một cách công bằng giữa các chủ thể trên nguyên tắc
sử dụng quan hệ thị trường và chính sách điều tiết địa tô của Nhà nước. (v) Các chủ trương
chính sách về đất nông nghiệp giải quyết mục tiêu kinh tế phải trên cơ sở đồng thuận xã hội.
Thứ hai, phát triển chính sách quản lý chất lượng, an toàn nông sản. Theo đó: (i) Nhà

nước cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm hàng hóa (ii) Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực sản xuất, ban
hành quy trình kỹ thuật sản xuất, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch theo các tiêu chuẩn quốc
gia, khu vực và quốc tế.
Thứ ba, đổi mới và từng bước hoàn thiện công tác quy hoạch sản xuất nông nghiệp. Theo đó:
Một là, rà soát, lập lại quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai phù hợp với yêu cầu mới của quá
trình tái cơ cấu nông nghiệp. Hai là, công tác quy hoạch phải được xây dựng theo lộ trình, có
quy hoạch dài hạn làm nền tảng để phát triển và sự tham gia của các nguồn lực trong xã hội.
Ba là, chuyển đổi đất nông nghiệp sang sử dụng cho công nghiệp, đô thị, dịch vụ,… nhất
thiết phải gắn quy hoạch tổng thể của cả vùng để tránh trùng lắp, lãng phí.
Thứ tư, đổi mới chính sách hỗ trợ vốn tín dụng và khoa học kỹ thuật. Theo đó: (+) Nhà
nước cần đặc biệt quan tâm thực hiện các chính sách hỗ trợ về vốn tín dụng, có chính sách
ưu đãi các nguồn vốn cho sản xuất nông nghiệp, (+) Chính sách ưu tiên đầu tư cho các trung
tâm nghiên cứu, ứng dụng thuộc sở KH-CN và môi trường, các trung tâm giống tạo bước tiến
mới về giống, về quy trình sản xuất tiến bộ, về công nghệ chế biến, bảo quản nông - thủy sản.
Thứ năm, cần có chính sách đào tạo, thu hút nguồn nhân lực phục vụ cho CDCCKT nông
nghiệp theo hướng CNH, HĐH và bền vững, theo hướng: Một là, hoàn thiện chính sách đào
tạo nguồn nhân lực, hướng tới mục tiêu đào tạo ra nông dân giỏi đáp ứng trực tiếp nhu cầu
CDCCKT nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH và bền vững. Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế
chính sách sử dụng nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ba là, có chính
sách đặc biệt thu hút những người giỏi về hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp công tác.

4.2.2. Phải triển khai thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
bền vững ở vùng đồng bằng sông Hồng
Giải pháp cho chiến lược CDCCKT nông nghiệp theo hướng bền vững ở vùng ĐBSH cần
tập trung vào khâu yếu để tạo sự đột phá trong phát triển, gồm các giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các chủ thể trong quá trình CDCCKT nông nghiệp
theo hướng bền vững. Nhiệm vụ chính là tập trung tuyên truyền cho các chủ thể về tầm quan
trọng và lợi ích của CDCCKT nông nghiệp theo hướng bền vững. Khắc phục tình trạng coi lao
động nông nghiệp luôn là lực lượng yếu thế hoặc tâm lý mặc cảm, tự ti với nghề nông trong xã

hội. Coi quá trình CDCCKT nông nghiệp theo hướng bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng,
toàn dân; xây dựng ý thức đạo đức trong phát triển sản xuất bền vững, nếp sống văn hoá là tiêu
chí quan trọng của xã hội văn minh.
Thứ hai, đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất


21

nông nghiệp theo hướng thân thiện với môi trường. Nhà nước cần phải: Một là, tăng đầu tư
nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, ưu tiên cho nghiên cứu công nghệ nông nghiệp cao;
Hai là, tổ chức lại hệ thống nghiên cứu, chuyển giao công nghệ cho nông nghiệp, nông dân.
Ba là, củng cố, nâng cao năng lực trung tâm nghiên cứu ứng dụng, sản xuất và chuyển giao
khoa học, công nghệ của ngành nông nghiệp. Bốn là, phối hợp liên kết 5 nhà: Nhà nước nhà khoa học - nhà tư vấn - nhà doanh nghiệp và nhà nông để ứng dụng nhanh kết quả
nghiên cứu khoa học công nghệ vào sản xuất. Năm là, thực hiện tốt công tác quản lý nhà
nước trong sản xuất theo các tiêu chuẩn quốc gia, khu vực, quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu
của thị trường trong nước và xuất khẩu (VietGAP, GlobalGAP...).
Thứ ba, phát triển thị trường nông sản. Cần mở rộng thị trường, kết nối nhà sản xuất và
phân phối, thúc đẩy sản xuất phát triển, làm gia tăng cả số lượng và chất lượng nông sản. Thị
trường hàng hoá và dịch vụ nông nghiệp bao gồm: thị trường vốn, thị trường điền địa, thị
trường lao động, thị trường tiêu thụ nông sản...
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. CDCCKT nông nghiệp theo hướng bền
vững tập trung vào: Một là, CDCCKT nông nghiệp theo hướng bền vững tạo tăng trưởng ổn
định, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất mang lại giá trị kinh tế cao. Hai là,
CDCCKT nông nghiệp bảo đảm bền vững về môi trường trên cơ sở sử dụng tiết kiệm, hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường... Ba là, CDCCKT nông nghiệp góp phần
nâng cao đời sống người dân.
4.2.3. Khắc phục những tác động tiêu cực trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng
Cần được thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp và phải có sự tham gia của nhiều chủ

thể: các nhà đầu tư, chính quyền và nhân dân địa phương. Các giải pháp đó là:
Thứ nhất, giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích của nhân dân địa phương
với nhà đầu tư. (i) Phải tích cực tuyên truyền chủ trương của Nhà nước về mục đích chuyển
đổi đất nông nghiệp để người dân thấy rõ lợi ích của họ trong thực hiện chủ trương đó (ii)
Phổ biến và thực hiện đúng, đầy đủ, công khai mọi chế độ, chính sách liên quan đến đền bù,
giải phóng mặt bằng nhằm đảm bảo lợi ích của người dân, nhà đầu tư và lợi ích xã hội. (iii)
Các nhà đầu tư phải công khai trước nhân dân quy hoạch của dự án, cả những thay đổi, điều
chỉnh dự án trong quá trình triển khai. (iv) Công khai hóa các nguồn thu chi của chính quyền
địa phương liên quan đến quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Thứ hai, tổ chức đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất vừa căn cứ vào từng đối
tượng cụ thể vừa bám sát cơ cấu kinh tế của địa phương. Chính quyền địa phương kết hợp
với các nhà đầu tư, sắp xếp bố trí cho người lao động bị thu hồi đất những công việc phù
hợp; thanh niên nông thôn cần được đào tạo nghề lâu dài, cần thu hút họ vào làm việc tại các
khu công nghiệp, các làng nghề truyền thống, tức giải quyết việc làm tại chỗ cho thanh niên.


22

Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, bảo vệ quỹ đất nông nghiệp. Cần: Một
là, đảm bảo hài hoà các khía cạnh lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường của các địa phương
trong quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của vùng. Hai là, tăng cường sự tham gia của
các đối tượng có liên quan cùng với các nhà quản lý môi trường và các nhà quản lý các vấn
đề xã hội trong tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch. Ba là, cần tính đến vấn đề bảo vệ quỹ
đất nông nghiệp. Chính phủ phải có quy hoạch cụ thể về quỹ đất nông nghiệp trên phạm vi
cả nước, trên cơ sở quy hoạch đó, các địa phương xây dựng kế hoạch để thực hiện CNH,
ĐTH tùy theo tiềm năng, thế mạnh của mình.
Thứ tư, bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa ở nông thôn đi liền với quá
trình chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Để phòng và chống có hiệu quả thì cần
phải: (i) Chính quyền địa phương và các nhà đầu tư phải tính đến nguy cơ ô nhiễm môi
trường khi duyệt các dự án xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất hay khu du lịch; chủ

động xây dựng hệ thống xử lý chất thải trước khi các khu công nghiệp, du lịch…đi vào hoạt
động. (ii) Cần giám sát theo dõi khả năng ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp, khu
du lịch trong quá trình triển khai xây dựng và ngay khi đưa vào hoạt động. (iii) Xây dựng
quy chế bảo vệ môi trường cấp chính quyền cơ sở, trong đó đề cao vai trò giám sát, kiểm tra
của cộng đồng dân cư địa phương đối với các hành vi vi phạm môi trường. (iv) Tuyên truyền
có hiệu quả cho người dân hiểu rõ về nguy cơ ô nhiễm môi trường.
Thứ năm, hạn chế tác động của ĐTH để bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống và xây
dựng nếp sống mới. Đổi mới cách thức tổ chức thực hiện phong trào xây dựng “làng văn
hóa”, “gia đình văn hóa” để văn hóa truyền thống không bị tha hóa hoặc mất đi hoàn toàn.
Tiếp tục hoàn thiện biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước cả về văn hoá làng và văn
hoá đô thị, ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hoá; chính quyền các cấp
quan tâm đến công tác bảo tồn, phát triển văn hoá dân gian thông qua bảo tồn, phát triển
những thôn làng; nâng cao chất lượng các thể chế và thiết chế văn hoá; phát triển giáo dục để
nâng cao nhận thức, hiểu biết về văn hoá - thông tin và lối sống mới.
4.2.4. Đổi mới công tác lãnh đạo và tổ chức quản lý của hệ thống chính trị trong phát
triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bằng sông Hồng
Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong phát triển KTXH. Cần phải: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; nâng cao năng lực của Đảng trong
hoạch định đường lối phát triển KT-XH; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và việc tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
phát triển KT-XH; kiện toàn bộ máy tổ chức nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống
chính trị; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ
trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trị cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực
hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực KT-XH.
Thứ hai, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành


23

chính. Theo đó: Một là, nâng cao hiệu quả quản lý và định hướng phát triển KT-XH; xây
dựng và tổ chức thực hiện chính sách, luật pháp bảo đảm các loại thị trường vận hành thông

suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng; phát huy quyền dân chủ, sáng tạo của người dân trong
phát triển KT-XH. Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực đáp ứng yêu cầu
trong tình hình mới. Bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; định rõ chức
năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của cán bộ, công chức; tăng cường tính công
khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả của chính quyền cấp xã trong quản lý xã hội. Cần thực hiện tốt
những nội dung trọng tâm sau: Một là, cần đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND xã; Hai
là, cần đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND xã; Ba là, cần nâng cao năng lực, tiến tới
tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ xã; Bốn là, cần đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ
chức đảng và công tác mặt trận, các đoàn thể nhân dân tại xã.
Kết luận chương 4
MTXH trong khu vực nông nghiệp, nông thôn thuộc các tỉnh ĐBSH có tính điển hình cao,
nó phản ánh được những đặc trưng nổi bật nhất của các MTXH nông thôn Việt Nam hiện
nay. Những MTXH trong khu vực kinh tế nông nghiệp, cụ thể ở đây là quá trình CDCCKT
nông nghiệp, là những mâu thuẫn xuyên suốt thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta, cũng như trong
việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong bước phát triển thời gian tới. Giải quyết hiệu quả
kịp thời những vấn đề MTXH ở đây có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định chính trị và
phát triển KT-XH bền vững.
Các vấn đề xã hội không bao giờ tách rời với các vấn đề phát triển kinh tế, chính trị, văn
hóa - đây là nội dung xuyên suốt trong nhận thức về giải quyết các MTXH. Giải quyết
MTXH trong quá trình CDCCKT nông nghiệp vùng ĐBSH cần quán triệt quan điểm phát
triển kinh tế là tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi để giải quyết các vấn đề xã hội; tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong suốt
quá trình phát triển. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng
bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ sở vận hành của kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, dân chủ, có đời sống văn
hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ tạo động lực cho phát triển nông nghiệp, xây dựng
nông thôn mới và nâng cao đời sống nông dân. Giải quyết MTXH trong CDCCKT nông
nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập ở vùng ĐBSH là vấn đề hết sức

phức tạp, không thể chủ quan, nóng vội và đòi hỏi phải được thực hiện một cách đồng bộ các
giải pháp. Có như vậy mới có thể giải quyết tận gốc nguyên nhân nảy sinh MTXH trong
CDCCKT nông nghiệp vùng ĐBSH, tạo ra động lực cho sự phát triển.


×