Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.8 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ TRANG
ĐÀO XUÂN HỘ
I

GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI THẾ HỆ TRẺ
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 9229002

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI V
IỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN XUÂN TẾ

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Văn Tài
Phản biện 2: GS.TS. Trần Văn Phòng

Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn


Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp
tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 201...

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tổ ấm của mỗi người. Gia đình đảm nhận những chức
năng do hoàn cảnh lịch sử khách quan quy định, trong đó giáo dục
của gia đình luôn là chức năng không thể thiếu của gia đình, có ảnh
hưởng quan trọng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của thế
hệ trẻ, góp phần xây dựng con người với tư cách vừa là thành viên
của gia đình, vừa là thành viên của xã hội.
Hiện nay, ĐBSCL cũng như trên cả nước đang trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế. Trong thời gian qua thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng, Nhà nước, ĐBSCL đã đạt được những thành tựu quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị
trường, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của quá trình hội nhập và
toàn cầu hóa cũng đã và đang có những tác động tiêu cực đối với
giáo dục gia đình ở ĐBSCL. Như vậy, giáo dục của gia đình vùng
ĐBSCL đang gặp phải những thách thức, những vấn đề đòi hỏi phải
được nhận thức và xử lý đúng đắn mới có thể thực hiện tốt chức năng
giáo dục của nó, góp phần đắc lực vào việc xây dựng con người mới
với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã

hội, trước hết và trực tiếp là của từng địa phương trong vùng. Từ
những vấn đề trên cũng chính là lý do để nghiên cứu sinh chọn
hướng nghiên cứu "Giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ triết học,
chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật
lịch sử.


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về gia đình,
giáo dục của gia đình và thực trạng giáo dục của gia đình đối với thế
hệ trẻ ở ĐBSCL, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở ĐBSCL hiện nay.
Nhiệm vụ: Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến
đề tài luận án. Thứ hai, làm rõ một số vấn đề lý luận về gia đình và
giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay. Thứ ba,
phân tích thực trạng giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở ĐBSCL
và những vấn đề đặt ra. Thứ tư, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở ĐBSCL hiện
nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu giáo dục
của gia đình đối với thế hệ trẻ chủ yếu lứa tuổi vị thành niên chịu sự
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục của gia đình ở ĐBSCL hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: luận án nghiên cứu về giáo
dục của gia đình đối với thế hệ trẻ vùng ĐBSCL. Về thời gian:
nghiên cứu việc giáo dục của gia đình đối với thế ở ĐBSCL hiện nay,
khảo sát từ năm 2005 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận: Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
chính sách của Nhà nước về gia đình và giáo dục của gia đình.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp luận
chung nhất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phân tích và
tổng hợp, lịch sử và logic, thống kê, đối chiếu, so sánh, điều tra xã hội


học…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, chỉ ra những đặc điểm của gia đình vùng ĐBSCL ảnh
hướng đến giáo dục đối với thế hệ trẻ; từ kết quả khảo sát, phân tích thực
trạng giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ trên cả hai mặt thành tựu và
hạn chế, làm cơ sở cho việc xác định giải pháp phù hợp. Thứ hai, đề
xuất một số giải pháp đồng bộ, hiệu quả, có tính khả thi, phù hợp với
thực tiễn giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở ĐBSCL hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về phương diện lý luận: luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý
luận về giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay.
Về phương diện thực tiễn: Những giải pháp được đề xuất trong
luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng
trong việc hoạch định và thực thi các chính sách về gia đình. Luận án
cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập liên quan đến các môn Triết học,
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Xã hội học… cho cho tất cả ai quan tâm
đến vấn đề gia đình, giáo dục gia đình hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án gồm 4 chương, 14 tiết.
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu về gia đình, giáo dục của gia
đình và vai trò giáo dục của gia đình ở Việt Nam hiện nay

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về gia đình, giáo dục của
gia đình ở Việt Nam hiện nay


“Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội” do Lê Minh
(chủ biên), Nxb Lao động, Hà Nội, 1995. “Gia đình Việt Nam với
chức năng xã hội hóa” của Lê Ngọc Văn, Nxb Giáo dục, 1996. “Văn
hóa gia đình Việt Nam” tác giả Vũ Ngọc Khánh, Nxb Văn hóa Dân
tộc, 1998. “Gia đình và dân tộc” của tác giả Nguyễn Thế Long, Nxb.
Lao động, Hà Nội, 1999. “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất
nước đổi mới” của Lê Thi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002. “Tục
ngữ ca dao về quan hệ gia đình” tác giả Phạm Việt Long, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Trong công trình “Gia đình học” của tác
giả Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý, Nxb Chính trị - Hành chính,
Hà Nội, 2009. “Nghiên cứu gia đình và giới” của tác giả Nguyễn
Hữu Minh và Trần Thị Vân Anh đồng chủ biên, Nxb Khoa học xã
hội, 2009. “Gia đình và giáo dục gia đình” của các tác giả Nguyễn
Thị Phương Thủy và Nguyễn Thị Thọ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2014.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu về vai trò giáo dục của gia
đình ở Việt Nam hiện nay
Đề tài cấp nhà nước KX 07.09 “Vai trò gia đình trong sự hình
thành và phát triển nhân cách của con người Việt Nam” được thực
hiện bởi Trung tâm Nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, tác giả Lê Thi

làm chủ nhiệm, năm 1994. “Gia đình Việt Nam ngày nay” tác giả Lê
Thi làm chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996. “Gia đình,
phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hóa và sự phát triển bền vững” của
tác giả Lê Thi, Nxb. Khoa học Xã hội, 2004. Phạm Minh Thế - tác
giả của bài viết “Quan điểm của Đảng về vai trò của gia đình đối với
việc xây dựng con người mới trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tạp
chí Cộng sản (6/2013). “Phát huy vai trò của gia đình trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nguyễn Thị Vân, Tạp chí


Phát triển nhân lực (số 1/2007). “Vai trò của gia đình đối với sự phát
triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện
nay”, Hà Văn Tác, Tạp chí Khoa học chính trị, số 5 năm 2009. “Vai
trò của môi trường văn hóa với việc xây dựng văn hóa gia đình Việt
Nam”, Phạm Việt Hà, Tạp chí cộng sản, tháng 6/2015.
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục của
gia đình ở Việt Nam nói chung và liên quan đến thực trạng giáo
dục của gia đình ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng

1.2.1. Những công trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục
của gia đình ở Việt Nam
Luận án tiến sĩ triết học của Dương Thị Minh chuyên ngành Chủ
nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội, 2003. “Gia đình trong quá trình đô
thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết học
của Nguyễn Tiến Vững đã được in thành sách, Nxb Văn hóa dân tộc,
2005. “Đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Thị Thọ chuyên
ngành Đạo đức học, Hà Nội, 2010. “Vai trò của gia đình đối với sự
phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở thành phố Hồ Chí Minh”, Luận án Tiến sĩ triết học của Hà Văn

Tác, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã được in thành sách, Nxb Thanh niên, 2011. “Gia đình
và biến đổi gia đình ở Việt Nam”, của tác giả Lê Ngọc Văn, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2012. “Tác động của kinh tế thị trường đến
chức năng gia đình ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết học
của Phạm Thị Bình, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Hà Nội, 2012.

1.2.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng
giáo dục của gia đình ở đồng bằng sông Cửu Long


“Phụ lục báo cáo đánh giá tác động xã hội” trong Dự án Quản lí
thủy lợi phục vụ phát triển nông thôn vùng ĐBSCL của Viện Xã hội
học, Hà Nội, 2011. “Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ”, Trần
Ngọc Thêm (chủ biên), Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh,
2014. “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng Tây Nam Bộ trong
tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” tác giả Hoàng
Mạnh Tưởng, Tạp chí Khoa học Chính trị, 2015. Đề cập đến văn hóa
vùng đất Nam Bộ, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, “Lược sử vùng đất
Nam bộ Việt Nam”, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2008; “Đồng bằng sông
Cửu Long vùng đất - con người”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2010; “Đặc điểm văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long”, Trần Phỏng
Điều (biên soạn), Nxb Văn hóa thông tin, 2014.
1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp giáo dục của
gia đình ở Việt Nam nói chung và những công trình liên quan
đến giải pháp giáo dục của gia đình ở đồng bằng sông Cửu Long
nói riêng

1.3.1. Những công trình nghiên cứu về giải pháp giáo dục của

gia đình ở Việt Nam
Luận án tiến sĩ triết học của Nghiêm Sĩ Liêm “Vai trò của gia đình
trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay”, chuyên ngành Chủ
nghĩa cộng sản khoa học, Hà Nội, 2001. Luận án tiến sĩ triết học của
Dương Văn Bóng “Đổi mới thực hiện chức năng giáo dục gia đình đối
với thế hệ trẻ trong gia đình nông dân Việt Nam hiện nay”, chuyên
ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Hà Nội, 2003. Luận án Tiến sĩ
triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử của Phạm Lê Quang “Xây dựng gia đình ở thành phố
Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới”, thành phố Hồ Chí Minh, 2009.
Bài viết “Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của gia đình trong


ổn định xã hội nông thôn Hà Tĩnh” của Trịnh Thị Thủy, Tạp chí Cộng
sản, tháng 3/2005. Tác giả Trần Tuyết Ánh, có bài viết “Xây dựng gia
đình Việt Nam trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”, Tuyên
giáo, số 6/2014.

1.3.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp
giáo dục của gia đình ở đồng bằng sông Cửu Long
“Hôn nhân và gia đình người Khmer Nam Bộ”, do ThS.Nguyễn
Hùng Khu (chủ biên), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2008. Luận án
tiến sĩ triết học “Giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống
văn hóa cho thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long” của Lương
Thanh Tân, Hà Nội, 2009. Các bài viết “Khảo sát vai trò của phụ nữ
nông thôn trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn huyện Phụng Hiệp
– tỉnh Hậu Giang” của Phạm Ngọc Nhàn, Sử Kim Anh và Lê Trần
Thanh Liêm, đăng trên Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
30 (2014). “Giáo dục Đồng bằng sông Cửu Long chất lượng thấp, vì
sao?” Huỳnh Phước Lợi, báo Sài Gòn giải phóng, tháng 3/2005.

“Kiến nghị cho giáo dục Đồng bằng sông Cửu Long”, Lưu Phước
Lượng, Phó Trưởng ban chỉ đạo Tây Nam bộ, báo Sài Gòn giải
phóng, tháng 9/2009.
1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và một số vấn
đề đặt ra mà luận án cần tiếp tục giải quyết
Kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, luận án
đặt mục tiêu tiếp tục giải quyết những vấn đề như sau: Thứ nhất, làm
rõ một số vấn đề lý luận về giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở
Việt Nam hiện nay. Thứ hai, phân tích thực trạng giáo dục của gia
đình đối với thế hệ trẻ ở ĐBSCL và những vấn đề đặt ra. Thứ ba, đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của gia đình
đối với thế hệ trẻ ở ĐBSCL hiện nay.


Chương 2
GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
THẾ HỆ TRẺ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan niệm về gia đình, giáo dục gia đình và vai trò giáo
dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở Việt Nam

2.1.1. Khái niệm gia đình và mối quan hệ giữa gia đình và xã
hội
Khái niệm gia đình. Gia đình là một nhóm người được hình
thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở các quan hệ cơ bản là quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành
viên. Giữa họ có chung những giá trị vật chất, tinh thần và cùng thực
hiện các chức năng phù hợp với yêu cầu của mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định.
Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Thứ nhất, trình độ phát
triển kinh tế - xã hội quy định hình thức, quy mô và kết cấu của gia

đình. Thứ hai, sự tác động của gia đình có ảnh hưởng quan trọng đối
với sự phát triển và tiến bộ của xã hội.

2.1.2. Quan niệm về giáo dục gia đình và đặc điểm giáo dục
của gia đình
Quan niệm về giáo dục gia đình. Giáo dục gia đình là toàn bộ
tác động của những thành viên trong gia đình (ông bà, cha mẹ, anh
chị em với nhau) và toàn bộ nếp sống của gia đình tới các thành viên,
trước hết là thế hệ trẻ.
Quan niệm về thế hệ trẻ. Thế hệ trẻ là lớp người ở độ tuổi vị thành
niên đang chủ yếu chịu sự nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục của gia
đình, lứa tuổi chưa được pháp luật quy định trách nhiệm, nghĩa vụ công
dân.
Đặc điểm giáo dục của gia đình. Thứ nhất, giáo dục của gia đình


xuất phát từ tình cảm, thông qua tình cảm đôi khi không cần lời nói
mà qua cử chỉ, thái độ, việc làm... Thứ hai, không một hệ thống giáo
dục nào có thể có sự gần gũi, hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh, điều
kiện sống, cá tính, sở thích… của đối tượng như giáo dục của gia
đình. Thứ ba, giáo dục của gia đình luôn hết sức linh hoạt trong sự
kết hợp với giáo dục nhà trường và xã hội.

2.1.3. Vai trò giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở Việt
Nam hiện nay
Thứ nhất, giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ góp phần trực
tiếp xây dựng nhân cách con người mới. Thứ hai, tạo điều kiện tinh
thần cho sự tiến bộ và hạnh phúc của gia đình. Thứ ba, góp phần
quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy văn hóa gia đình cũng như
văn hóa dân tộc Việt Nam. Thứ tư, góp phần đảm bảo sự phát triển

nhanh, bền vững của xã hội.
2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục của gia đình đối với
thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay

2.2.1. Những nội dung giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ
ở Việt Nam hiện nay
Một là, giáo dục đạo đức, lối sống. Chủ yếu là giáo dục lòng hiếu
thảo đối với ông bà, cha mẹ, giáo dục thái độ ứng xử giữa anh chị
em, giáo dục lòng nhân ái, yêu thương con người, yêu quê hương đất
nước, giáo dục tính khiêm tốn, đức tính trung thực.
Hai là, giáo dục tri thức. Bao gồm nội dung toàn diện: tri thức
làm người, tri thức khoa học - kỹ thuật, tri thức chính trị - xã hội, tri
thức nghề nghiệp… Tuy nhiên, trong phạm vi gia đình, giáo dục chủ
yếu là tri thức làm người, là giáo dục thái độ học tập cho thế hệ trẻ.
Ba là, giáo dục lao động. Giáo dục thái độ, kỹ năng, thói quen,
tình cảm, kỷ luật lao động, quý trọng sản phẩm của lao động, giáo


dục cho thế hệ trẻ phải tôn trọng, quý mến người lao động, bất kể là
họ lao động chân tay hay trí óc.
Bốn là, giáo dục sức khoẻ, thẩm mỹ. Giáo dục cho thế hệ trẻ thấy
sự cần thiết, quan trọng của sức khoẻ đối với mỗi người cũng như đối
với gia đình và xã hội. Giáo dục thẩm mỹ nhằm giúp thế hệ trẻ biết
cảm thụ cái đẹp, phân biệt được cái đẹp và cái xấu, giáo dục tình yêu
cái đẹp, thực hành cái đẹp.
Năm là, giáo dục giới tính. Giáo dục giới tính là hệ thống các biện
pháp tâm, sinh lý nhằm giáo dục thế hệ trẻ có thái độ đúng đắn đối
với các vấn đề về giới và giới tính. Giúp cho các em có được những
kiến thức về cơ thể học, sinh lý học, chức năng sinh sản.


2.2.2. Phương pháp giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ
ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, phương pháp thuyết phục, khuyên bảo; thứ hai, phương
pháp thông qua lao động hằng ngày; thứ ba, phương pháp nêu gương.
thứ tư, phương pháp phân hóa và cá biệt hóa; thứ năm, phương pháp
khen thưởng, trách phạt.
2.3. Các yếu tố tác động đến giáo dục của gia đình đối với thế
hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay

2.3.1. Giá trị văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam
Gia đình Việt Nam đang trong quá trình biến đổi mạnh mẽ từ
truyền thống sang hiện đại. Nhiều giá trị quý báu của gia đình truyền
thống như quan cha hệ giữa mẹ và con cái, quan hệ giữa vợ và chồng,
quan hệ giữa anh chị em trong gia đình… đang tác động tích cực,
cũng có những yếu tố không còn phù hợp trong thời kỳ mới vẫn hiện
diện trong đời sống gia đình Việt Nam hiện nay.

2.3.2. Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường đã tạo điều kiện vật chất để gia đình nâng cao


hiệu quả giáo dục con cái. Khi nền kinh tế tăng trưởng, phát triển
cao, Đảng và nhà nước có điều kiện quan tâm đến gia đình. Bên cạnh
đó, cũng có nhiều tác động tiêu cực làm xuất hiện lối sống hưởng
thụ, thực dụng, đề cao sức mạnh của đồng tiền, gia đình thiếu thời
gian, thiếu kiến thức, có gia đình buông lỏng sự giáo dục...

2.3.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện thuận lợi
cho khoa học và công nghệ phát triển, ứng dụng khoa học vào đời

sống, đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của
mọi tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó thì các gia đình cũng gặp những
vấn đề khó khăn trong công việc, cuộc sống, trong giáo dục con cái.

2.3.4. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo điều kiện phát triển kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, giúp thay đổi diện mạo của nhiều gia đình
theo hướng tích cực về bình đẳng giới và quyền của trẻ em, quyền tự
do, dân chủ… Mặt trái của nó cũng gây tác động tiêu cực đó là
cường điệu giá trị của tự do và chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống,
mẫu hình gia đình của phương Tây khác lạ...

2.3.5. Chính sách văn hóa - giáo dục của Đảng và Nhà nước
Việt Nam
Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang tập trung cho giáo dục, coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Những thành tựu của giáo dục thời
gian qua một phần là do chính sách giáo dục đúng đắn của Đảng và
Nhà nước, truyền thống giáo dục đúng đắn của bao thế hệ Việt Nam
và công lao giáo dục con cái của các bậc cha mẹ.
Kết luận chương 2


Chương 3
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH
ĐỐI VỚI THẾ TRẺ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Khái quát về những điều kiện ảnh hưởng đến giáo dục
của gia đình đối với thế hệ trẻ ở đồng bằng sông Cửu Long

3.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hóa vùng

đồng bằng sông Cửu Long
Về điều kiện địa lý - tự nhiên. Vùng ĐBSCL gồm 12 tỉnh và 1
thành phố, phía bắc và tây bắc giáp Campuchia, Tây Ninh, Thành
phố Hồ Chí Minh, phía tây và tây nam giáp vịnh Thái Lan, phía đông
và đông nam giáp với Biển Đông. Khí hậu chia thành hai mùa rõ rệt,
mùa mưa và mùa nắng. Nguồn nước trong vùng khá dồi dào, bao
gồm hệ thống sông và kênh đào chằng chịt.
Về kinh tế - xã hội. Là khu vực sản xuất cây lương thực, nuôi
trồng, đánh bắt thủy hải sản, vùng cây ăn trái lớn nhất cả nước.
ĐBSCL có diện tích tự nhiên là 405.760 km², dân số là 17.617,6
nghìn người. Năm 2014 tốc độ tăng trưởng kinh tế ước tính đạt
8,98%, công tác xóa đói giảm nghèo đạt nhiều kết quả, đời sống văn
hóa ở nông thôn và thành thị được nâng cao.
Về văn hóa. Ở ĐBSCL có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo,
Tin lành, Cao đài, Hòa hảo, Đạo Hồi. Người dân vùng ĐBSCL từ
người Việt, người Khmer, người Hoa, người Chăm... đều không phải
là người dân bản địa.

3.1.2. Đặc điểm của gia đình ở đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay
Thứ nhất, các gia đình cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, thậm
chí cùng “sống chung với lũ”, các gia đình có thể sống rất xa, thậm


chí sống một mình không có láng giềng hàng xóm. Thứ hai, ít lo xa
và tính toán chi li tằn tiện, có lối sống phóng khoáng, hào hiệp, đôi
khi thiếu tính kế hoạch. Thứ ba, quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình ông bà, cha mẹ, con cái tương đối bình đẳng, hòa thuận, gần
gũi, không khí dân chủ đậm nét. Thứ tư, gia đình sống ở nông thôn
chiếm tỷ lệ cao (75%), đời sống vật chất của các gia đình còn thấp,

điều kiện giao thông đi lại khó khăn, điều kiện sinh hoạt văn hóa gia
đình còn hạn chế. Thứ năm, các tập tục, tập quán như ma chay, cưới
hỏi, lễ tết nặng nề về hình thức, gây lãng phí về thời gian, tiền của.
Thứ sáu, trình độ học vấn của các bậc cha mẹ ở ĐBSCL còn thấp.
Thuận lợi: Tâm lý cởi mở, đậm nét dân chủ trong mỗi gia đình
tạo nên các thế hệ gần gũi nhau hơn, dễ dàng cho việc giáo dục con
cái của các bậc cha mẹ.
Khó khăn: Một là, lối sống lề mề, chậm chạp, không biết tận dụng,
không biết quý trọng thời gian làm chậm sự phát triển. Hai là, suy nghĩ
giản đơn, ít có sự nhìn xa, trông rộng để có sự đầu tư cho con cái trong
tương lai về vấn đề học hành, sự nghiệp. Ba là, trình độ học của những
người làm cha làm mẹ thấp nên còn nhiều bất cập trong giáo dục con trẻ.
3.2. Những thành tựu, hạn chế trong giáo dục của gia đình
đối với thế hệ trẻ ở đồng bằng sông Cửu Long những năm qua

3.2.1. Giáo dục đạo đức, lối sống
Việc giáo dục đạo đức, lối sống của các gia đình ở các tỉnh vùng
ĐBSCL luôn được coi trọng, duy trì và phát triển bền vững. Gia đình
cả thành thị và nông thôn, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cũng
có sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi của xã hội trong thời kỳ đổi
mới. Số gia đình văn hóa ở các tỉnh trong vùng không ngừng tăng.
Năm 2014, toàn tỉnh Vĩnh Long có 255.068/tổng số 259.300 hộ đang
cư trú trên địa bàn đăng ký cuộc vận động, qua kết quả chấm điểm có


240.551 hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa (chiếm tỷ lệ 92,76%), tăng
7.632 hộ so với cuối năm 2013. Năm 2014, toàn tỉnh Đồng Tháp có
378.685/426.796 gia đình đạt chuẩn văn hóa, đạt tỷ lệ 88,73%, so với
năm 2013 đạt 88,12%, tăng 0,61% . Bên cạnh đó cũng gặp một số
khó khăn, hạn chế: tội phạm vị thành niên trong vùng vẫn diễn biến

phức tạp, không giảm, thậm chí một số loại tội phạm có xu hướng gia
tăng. Bạo lực học đường đang có xu hướng gia tăng, lan rộng. Thành
phần người nghiện ma tuý có cả thanh thiếu niên, sinh viên, học sinh
nam. Ý thức tiêu dùng của một bộ phận lớp trẻ ở ĐBSCL đang có
những biểu hiện lệch lạc.

3.2.2. Giáo dục tri thức
Việc học tập của thế hệ trẻ trong gia đình được các bậc cha mẹ
đặc biệt quan tâm. Số liệu của Tổng cục thống kê năm 2014 cho thấy:
năm 2006 tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học
trong 12 tháng ở ĐBSCL là 934.000 đồng; năm 2012 đã tăng lên
2.618.600. Những buổi học tập chuyên đề được các bậc cha mẹ
hưởng ứng tích cực nhằm nâng cao trình độ. Ở ĐBSCL tỷ lệ học sinh
bỏ học ở tất cả các cấp học năm học 2014-2015 đã giảm đáng kể so
với những năm trước. Bên cạnh những thành tựu vẫn còn nhiều hạn
chế , tỷ lệ học sinh bỏ học trong vùng vẫn còn khá cao: 0,45% ở cấp
tiểu học (cả nước chỉ 0,16%), 3,26 % cấp trung học cơ sở (cả nước
1,37%) và trung học phổ thông là 3,94% (cả nước là 1,79%). Điều
đáng quan tâm là tình trạng bỏ học có sự chênh lệch rất lớn giữa các
tỉnh trong vùng. Nam đi học nhiều hơn nữ, chênh lệch trong việc đầu
tư cho giáo dục ở thành phố và nông thôn. Một bộ phận nhỏ trẻ em
đến tuổi đi học nhưng không có điều kiện đến trường. Ở các gia đình
khó khăn các em nữ thường vừa phải học, vừa phải giúp đỡ gia đình
thậm chí nhiều em phải bỏ học.


3.2.3. Giáo dục lao động, nghề nghiệp
Ở ĐBSCL, đa số các gia đình đã chú ý đến giáo dục lao động cho
trẻ theo phương châm “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình”.
Một bộ phận, nhất là các gia đình nông thôn trẻ đã ý thức hoàn cảnh

gia đình khó khăn nên tích cực hoạt động lao động. Các bậc cha mẹ ở
vùng ĐBSCL còn khuyến khích con cái phải biết năng động, sáng tạo
trong lao động, tạo cho trẻ có tính tự lập cao. Nhiều gia đình đã định
hướng nghề nghiệp cho con ngay từ khi còn nhỏ, nhất là các nghề
truyền thống lâu đời của gia đình. tỉnh Tiền Giang, với hơn 6.000 cơ sở
và 13 làng nghề; tỉnh Vĩnh Long, hiện có 23 làng nghề; thành phố Cần
Thơ 32 làng nghề. Nhiều bậc cha mẹ đã có những tư tưởng tiến bộ,
định hướng từ nhỏ cho con học lên cao để sau này có nghề nghiệp ổn
định. Bên cạnh những thành tựu, giáo dục lao động, định hướng nghề
nghiệp cho thế hệ trẻ ở vùng ĐBSCL vẫn còn một số hạn chế nhất định
như: có sự không đồng đều giữa thành thị, nông thôn giữa các gia đình
có thu nhập cao và gia đình có thu nhập thấp, giữa con trai và con gái.

3.2.4. Giáo dục sức khỏe, thẩm mỹ
Đa số các gia đình chú ý chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ ăn uống
hằng ngày hợp vệ sinh và hợp lý trong điều kiện gia đình mình.
Nhiều gia đình đã xây dựng nhà vệ sinh riêng, năm 2008 toàn vùng
có 35,2% hộ có nhà vệ sinh; năm 2014 tăng lên 61,1%. Tỷ lệ hộ sử
dụng nguồn nước hợp vệ sinh trong vùng cũng liên tục tăng, năm
2008 chỉ có 80,6%; năm 2014 là 89,1% . Các gia đình chú ý xây
dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm cách xa nhà. Nhiều gia
đình tích cực hưởng ứng phong trào “nuôi con khỏe, dạy con ngoan”
và tạo điều kiện cho trẻ rèn luyện sức khỏe, chơi thể thao. Việc giáo
dục thẩm mỹ cho con cái được các bậc cha mẹ ở ĐBSCL luôn chú
trọng. Cha mẹ còn luôn chỉ bảo thế hệ trẻ hiểu và phân biệt xấu đẹp,


trong quan hệ giao tiếp, trong lao động… Mặc dù có những thành tựu
bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế. Một số gia đình ở ĐBSCL vẫn
chưa chú trọng quan tâm đến giáo dục sức khỏe cho con cái. Một số

gia đình chưa chú ý đến chế độ ăn uống, nhiều bà mẹ trẻ chưa đủ
kiến thức chăm sóc con cái, nhất là trẻ nhỏ. Ở nông thôn, nhiều gia
đình chế độ ăn uống, vệ sinh nơi sống còn chưa được chú ý, vẫn còn
(38,9%) các hộ gia đình chưa có nhà vệ sinh, hoặc có nhưng vẫn còn
mang tính tạm thời. Nhiều hộ gia đình vẫn dùng nước kênh, mương,
nước sông, nhà thiếu kiên cố và nhà đơn sơ chiếm tỷ lệ cao 26,4%.
Nhiều gia đình ở nông thôn vẫn chưa chú ý đến giáo dục trong quan
hệ ứng xử như thế nào là đúng, là đẹp trong quan hệ ứng xử hằng
ngày với anh chị em, họ hàng, xã hội.

3.2.5. Giáo dục giới tính
Nhiều gia đình, khi các em đến tuổi dậy thì, cha mẹ đã chủ động
quan tâm giáo dục trang bị cho thế hệ trẻ những hiểu biết về giới tính,
tình bạn, tình yêu, tình dục, sức khỏe sinh sản... giúp cho thế hệ trẻ có
nhận thức đúng và có thể tự xử lý tốt các quan hệ đó. Một bộ phận
các bậc cha mẹ ở thành thị và các gia đình viên chức còn mua sách
báo, hoặc thông qua các kênh thông tin truyền thông, truyền hình...
nhằm nâng cao kiến thức, hiểu biết về giới tính của con cái trong gia
đình. Mặc dù vậy, giáo dục giới tính đối với thế hệ trẻ trong gia đình
ở ĐBSCL còn rất nhiều hạn chế. Các gia đình ở ĐBSCL, nhất là các
gia đình ở vùng nông thôn vẫn chưa thật sự quan tâm đúng mức đến
việc giáo dục giới tính cho thế hệ trẻ hoặc không có thời gian hoặc
thiếu kiến thức, không có nội dung phương pháp cụ thể, không biết
bắt đầu giáo dục con khi nào, từ đâu. Tình trạng mang thai sớm của
trẻ vị thành niên cao nhất cả nước. Tỷ lệ dưới 6 tuổi bị lạm dụng tình
dục chiếm 6,5%. Tỷ lệ từ 6 tuổi đến dưới 14 tuổi chiếm tới 37,2%.


Như vậy, chỉ 13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL tỷ lệ trẻ em dưới 14
tuổi bị xâm hại tình dục chiếm gần 50% so với toàn quốc.

3.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong giáo
dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở đồng bằng sông Cửu Long
và những vấn đề đặt ra

3.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong
giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở đồng bằng sông Cửu
Long những năm qua
Nguyên nhân của những thành tựu. Một là, trình độ hiểu biết
của các bậc cha mẹ ngày được nâng cao, sự quan tâm của các bậc cha
mẹ đối với con cái ngày càng tăng. Hai là, công cuộc đổi mới và phát
triển kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho hoạt
động giáo dục thế hệ trẻ của gia đình ở ĐBSCL. Ba là, công tác gia
đình và giáo dục của gia đình đã nhận được sự quan tâm của Đảng,
chính quyền, toàn thể nhân dân, các cấp, các ngành ở ĐBSCL.
Nguyên nhân của những hạn chế. Một là, một bộ phận không
nhỏ gia đình ở ĐBSCL còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh
tế, thiếu việc làm, thu nhập thấp ... Hai là, một số gia đình ở ĐBSCL
nhận thức chưa đúng, chưa rõ về tầm quan trọng, về nội dung và
phương pháp giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ. Ba là, sự thiếu
gương mẫu về đạo đức và lối sống của người làm cha làm mẹ trong
một số gia đình. Bốn là, sự phối, kết hợp, giữa giáo dục gia đình, nhà
trường và xã hội còn nhiều hạn chế. Năm là, sự lãnh đạo của Đảng,
chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với vấn đề xây
dựng gia đình và giáo dục của gia đình ở vùng ĐBSCL.

3.3.2. Những vấn đề đặt ra trong giáo dục của gia đình đối với
thế hệ trẻ ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
Thứ nhất, cần phải làm gì để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức,



lối sống trong gia đình đối với thế hệ trẻ hiện nay. Thứ hai, làm thế
nào để phát triển kinh tế, góp phần xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc. Thứ ba, cần nâng cao trình độ dân trí, góp phần nâng cao
tri thức, nhận thức của các bậc cha mẹ nhằm phát huy tốt chức năng
giáo dục của gia đình ở ĐBSCL đối với thế hệ trẻ. Thứ tư, cần kết
hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và xã hội.
Thứ năm, cần phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy
Đảng, các ngành và các đoàn thể Chính trị - Xã hội sâu sát hơn nữa
nhằm thay đổi tâm lý, thói quen cũng như hạn chế những khó khăn
do hoàn cảnh tự nhiên mang lại.
Kết luận chương 3
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI THẾ HỆ TRẺ
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
4.1. Giải pháp về nhận thức

4.1.1. Nâng cao hơn nữa nhận thức của gia đình và xã hội về
chức năng giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay
- Tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho những người đang chuẩn
bị bước vào cuộc sống hôn nhân gia đình có những kiến thức cơ bản
như tuổi kết hôn và sinh con phù hợp; - Thường xuyên mở các lớp
học tập cộng đồng tại địa phương; - Tuyên truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức cho các bậc cha mẹ nhận thức đúng về vai trò của giáo dục
gia đình; - Tuyên truyền, giáo dục gắn với biểu dương những tấm
gương người tốt, việc tốt, gia đình văn hóa điển hình…

4.1.2. Các bậc cha mẹ ở đồng bằng sông Cửu Long phải tự
nhận thức về vai trò giáo dục đối với thế hệ trẻ của gia đình



Thứ nhất, những bậc cha mẹ ở ĐBSCL phải là một tấm gương về
đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ học tập và noi theo. Thứ hai, những
bậc làm cha làm mẹ cần phải tự nâng cao trình độ, trau dồi kinh
nghiệm. Thứ ba, cần phải thống nhất nội dung, phương pháp giáo dục
giữa các thành viên. Thứ tư, trong việc giáo dục con cái cha mẹ cần
nắm vững đặc điểm tâm lý lứa tuổi và đặc điểm cá nhân từng đứa trẻ:

4.1.3. Tăng cường kết hợp chặt chẽ, sự thống nhất giữa gia
đình, nhà trường và xã hội để nâng cao hiệu quả giáo dục của gia
đình đối với thế hệ trẻ ở ĐBSCL
Mỗi thiết chế có những đặc trưng riêng, sức mạnh riêng nhưng
đều có một mục tiêu là nhằm phát triển con người toàn diện, phù hợp
với yêu cầu xã hội yêu cầu của đất nước, yêu cầu của thời đại đặt ra.
Vì vậy, Tăng cường sự phối kết hợp chặt chẽ, sự thống nhất giữa gia
đình, nhà trường và xã hội để nâng cao hiệu quả giáo dục của gia
đình đối với thế hệ trẻ ở ĐBSCL.
4.2. Các giải pháp về kinh tế

4.2.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy tác dụng của
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chú trọng phát triển kinh tế hộ
gia đình vùng đồng bằng sông Cửu Long
Vùng ĐBSCL phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhất
là công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Trong
những năm tới, vùng ĐBSCL cần đảm bảo quá trình chuyển dịch cơ
cấu theo hướng khai thác thế mạnh vốn có của vùng một cách bền
vững, tập trung xây dựng hai loại cơ cấu chính đó là cơ cấu ngành
và cơ cấu các thành phần kinh tế.


4.2.2. Giải quyết việc làm cả ở thành thị và nông thôn, nâng
cao đời sống vật chất của gia đình nhất là các gia đình ở nông thôn


vùng đồng bằng sông Cửu Long
Giải quyết việc làm:
Nâng cao đời sống vật chất gồm: nhà ở, nước sạch, giao thông,
hệ thống bưu chính - viễn thông.
4.3. Các giải pháp về văn hóa - xã hội

4.3.1. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở các
tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long
Thứ nhất, tiếp tục công tác tuyên truyền, vận động một cách sâu
rộng giúp các gia đình ở ĐBSCL thực hiện tốt các tiêu chuẩn gia đình
văn hóa đã đề ra ở các tỉnh. Thứ hai, xây dựng gia đình văn hóa trên
cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình và giáo
dục của gia đình đồng thời tiếp thu những giá trị hiện đại. Thứ ba,
xây dựng gia đình văn hóa gắn liền với xây dựng gia đình ấm no,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

4.3.2. Đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa ở các tỉnh vùng
đồng bằng sông Cửu Long
Mở rộng không gian và môi trường văn hóa; chú trọng tới việc
xây dựng đời sống văn hóa, gắn với các hoạt động văn hóa của cá
nhân và cộng đồng; mở rộng xây dựng ấp (khóm), và môi trường xã
hội văn hóa; các khu di tích lịch sử văn hóa trong vùng các tượng đài,
các di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh và cấp Quốc gia... cần được đầu
tư và sửa chữa; xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa, cảnh quan văn
hóa gắn với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các

thiết chế văn hóa; tạo điều kiện để người dân chủ động tham gia các
hoạt động văn hóa cộng đồng.

4.3.3. Đẩy mạnh chương trình xoá đói giảm nghèo bền vững,
nâng cao mức hưởng thụ giáo dục và dịch vụ y tế của các gia đình
vùng đồng bằng sông Cửu Long


Đẩy mạnh chương trình xoá đói giảm nghèo bền vững
Về giáo dục: cần đầu tư mạnh về tài chính; cần hoàn thiện mạng
lưới trường học; đổi mới nội dung, thay đổi phương pháp dạy.
Về y tế: tăng cường dịch vụ y tế từ tuyến xã, có chính sách y tế
bảo hiểm rộng rãi, xây dựng thêm cơ sở vật chất cho các trạm y tế ở
cơ sở, cần làm tốt công tác truyền thông.

4.3.4. Đấu tranh phòng ngừa và chống các tệ nạn xã hội tạo
môi trường lành mạnh cho giáo dục thế hệ trẻ trong gia đình vùng
đồng bằng sông Cửu Long
Quy định rõ ràng và đầy đủ các hành vi cũng như chế tài xử lý đối
với những hành vi vi phạm; chú trọng đến công tác phòng ngừa; tập
trung tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, hiểu biết của người
dân, cho các bậc cha mẹ, thanh niên, học sinh, sinh viên…

4.3.5. Cần tạo điều kiện để phát huy vai trò của người mẹ đối
với giáo dục thế hệ trẻ trong gia đình vùng đồng bằng sông Cửu
Long
Chính sách chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ và kế hoạch
hoá gia đình; phòng chống bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ;
thực hiện và phối hợp giám sát thực hiện các chính sách ưu tiên của
nhà nước, của các tỉnh trong vùng đối với các đối tượng phụ nữ .

4.4. Giải pháp về chính trị
Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền cần phải chủ động rà soát,
đánh giá tình hình thực hiện công tác gia đình ở các địa phương trong
vùng; Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; Thứ ba, trong lãnh đạo về công
tác gia đình phải có sự phân công, phân nhiệm vụ cụ thể, đồng bộ để
phát huy thế mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị và các tổ
chức xã hội ở ĐBSCL. Thứ tư, chính quyền các tỉnh trong vùng


ĐBSCL cần có kế hoạch quy hoạch đủ cán bộ, tạo điều kiện cho cán
bộ được học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Kết luận chương 4
KẾT LUẬN
Gia đình là một trong những hình thức cơ bản trong đời sống cộng
đồng của con người, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù, được
hình thành và duy trì chủ yếu dựa trên cơ sở của quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng... giữa các thành viên. Ở
mỗi chế độ xã hội khác nhau, mặc dù hình thức gia đình có thay đổi,
song gia đình sẽ luôn tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quy định hình thức, quy mô và kết
cấu của gia đình. Mặt khác, sự tác động của gia đình có ảnh hưởng
quan trọng đến sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Giáo dục gia đình được hiểu là toàn bộ tác động của gia đình đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách con người, trước hết là thế
hệ trẻ. Với những đặc điểm riêng của nó thì giáo dục của gia đình đối
với thế hệ trẻ là một chức năng tự nhiên, tất yếu, ngày càng được
khẳng định, được đề cao. Giáo dục của gia đình đóng vai trò quan
trọng góp phần xây dựng nhân cách con người mới; tạo điều kiện tinh
thần cho sự tiến bộ và hạnh phúc của gia đình; góp phần quan trọng

vào việc bảo tồn và phát huy văn hóa gia đình cũng như văn hóa dân
tộc Việt Nam; góp phần đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững của
xã hội. Giáo dục gia đình có nội dung toàn diện, nhiều mặt nhưng có
thể khái quát thành những nội dung cơ bản sau đây: giáo dục đạo
đức, lối sống; giáo dục tri thức; giáo dục lao động, nghề nghiệp; giáo
dục sức khỏe, thẩm mỹ; giáo dục giới tính. Phương pháp gia đình
cũng hết sức phong phú, linh hoạt, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể, nhưng về cơ bản gồm: phương pháp thuyết phục khuyên


bảo; phương pháp thông qua lao động hằng ngày; phương pháp nêu
gương; phương pháp phân hóa và cá biệt; phương pháp khen thưởng,
trách phạt. Hiện nay, giáo dục gia đình cũng như các môi trường giáo
dục khác, cũng chịu tác động của nhiều nhân tố, các nhân tố này
không tác động một cách riêng rẽ, mà tác động một cách kết hợp
đồng thời với nhau, có cả tích cực và tiêu cực vì thế gia đình phải
phát huy lợi thế từ các nhân tố, hạn chế những tác động tiêu cực
trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ.
Là một vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn, ĐBSCL là vùng đất
được thiên nhiên ban tặng khí hậu thuận hòa, đất đai màu mỡ, với
thủy hải sản phong phú. Gia đình ở ĐBSCL ngoài những đặc điểm
chung của gia đình Việt Nam thì những đặc điểm về địa lý, lịch sử,
văn hóa quy định gia đình ở ĐBSCL có những đặc điểm riêng: có lối
sống phóng khoáng, hào hiệp, tự do, đôi khi thiếu tính kế hoạch trở
thành một tính cách đặc trưng của mỗi con người, mỗi gia đình trên
vùng đất trù phú này; quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ông
bà, cha mẹ, con cái ở ĐBSCL tương đối bình đẳng, hòa thuận, gần
gũi giữa các thế hệ kể cả con dâu, con rể ít có vùng miền nào có
được; trong mỗi gia đình không khí dân chủ đậm nét;truyền thống gia
đình gắn với truyền thống văn hóa nông nghiệp, các tập tục, tập quán

như ma chay, cưới hỏi, lễ tết nặng nề về hình thức, gây lãng phí về
thời gian; trình độ học vấn của các bậc cha mẹ thấp. Với những đặc
điểm riêng này thì giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ ở ĐBSCL
có những thuận lợi và khó khăn nhất định của riêng mình.
Từ sự nỗ lực của bản thân các gia đình và các cấp ủy Đảng, chính
quyền, đoàn thể nhân dân giáo dục của gia đình ở ĐBSCL trong
những năm qua đã thu được những thành tựu quan trọng về nhiều
mặt từ giáo dục đạo đức, lối sống đến giáo dục tri thức, giáo dục lao


×