Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tiểu luận kiểm toán và các vấn đề có liên quan tới kiểm toán ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.23 KB, 8 trang )

Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ là một công cụ kiểm toán tối ưu để tạo ra bằng chứng
trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính, khắc phục những nhược điểm của kiểm toán chứng
từ trong trường hợp đơn vị được kiểm toán lập báo cáo tài chính giả để hợp thức số liệu. Phương
pháp kiểm toán ngoài chứng từ được kiểm toán viên (KTV) thực hiện trên cơ sở tuân thủ quá
trình chúng của phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ theo chuẩn mực kế toán, kiểm toán
Việt Nam và chuẩn mực kế toán, kiểm toán thế giới được Việt Nam thừa nhận sẽ góp phần nâng
cao chất lượng của báo cáo kiểm toán.

1. Kiểm kê

2. Tiến hành kiểm kê vào thời điểm nào để có thể loại trừ mọi ảnh hởng xấu đến kết quả
kiểm kê. Trờng họp này thì kinh nghiệm và trình độ thể hiện ở khả năng phán đoán
của kiểm toán viên có ý nghĩa rất quan trọng. Kiểm toán viên căn cứ vào đặc thù của
từng cuộc kiểm toán cụ thể hơn nữa chức năng của kiểm toán đợc thực hiện với nhiều
đối tợng khác nhau, trong nhiều khách thể với những chủ thể khác nhau để từ đó đề
ra một phơng pháp kiểm kê thích ứng về thời điểm.
3. . về không gian: kiểm toán viên phải xác định một phạm vi kiểm kê phù họp.
4. . Kiểm toán viên cần căn cứ vào tính chất của các loại vật t, tài sản cần kiểm kê vể số
lợng, giá trị cũng nh đặc tính kinh tế, kỳ thuật của chúng... để chọn một loại hình
kiểm kê tối u nhất.
5. Tổng kiểm kê hay kiểm kê toàn diện.
6. Kiểm kê điển hình.
7. Kiểm kê chọn mẫu.
8. . Lập một kế hoạch kiểm kê hay quy trình kiểm kê theo hớng đơn giản, kinh tế nhng
hiệu quả.
9. . Căn cứ vào mục tiêu, hay qui mô và thời hạn kiểm kê để tiến hành bố trí lực lợng,
cơ cấu nhân viên kể cả những chuyên gia về kỳ thuật (nh kỳ s hoá chất, kỳ s điện, các
chuyên viên về vật t...) và cũng nh các phơng tiện kỳ thuật đo lòng cần thiết, bởi lẽ
đây là những yếu tố quyết định chất lợng của kiểm kê nói riêng và của kiểm toán nói
chung.
10. . Tiến hành kiểm kê phải theo đúng yêu cầu và mục đích đề ra.


11. Nh vậy, kiểm kê là một phơng pháp kiểm toán ngoài chứng từ với kỳ năng kiểm tra
đơn giản, rất có cơ sở thực tế và hơn nữa lại rất phù họp vói chức năng của kiểm toán
(thông qua thực tế để khẳng định số liệu trên sổ sách). Do đó trong kiểm toán phải
luôn luôn gắn chặt kỉêm kê vào quy trình chung của kiểm toán, nhất là ngoại kiểm,
vấn đề mấu chốt của phơng pháp này là kiểm toán viên phải chứng kiến một cách


trực tiếp việc kiểm kê và đếm tài sản để chứng mịnh số lợng cũng nh chất lợng và
tình trạng của tài sản là đúng với bảng kê khai và xác nhận tình trạng tài sản đó. Do
tính u việt và lợi thế nh trên, phơng pháp kiểm kê thòng đợc áp dụng với việc kiểm kê
tiền mặt, tín phiếu, tài sản thế chấp, hàng hoá, nguyên vật liệu và tài sản cố định hữu
hình.

Kiểm kê là phương pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài sản để chứng minh tính hiện hữu của tài
sản đó trong doanh nghiệp. Kiểm kê thường được thực hiện vào thời điểm khoá sổ kế toán để
xem đơn vị đươck kiểm toán có tuân thủ các quy định về kiểm kê tài sản cố định, công cụ dụng
cụ (TSCĐ, CCDC) hay không. Công việc kiểm kê thường được tiến hành ở một số khoản mục chủ
yếu sau:
1.1 Khoản mục vốn bằng tiền:
- Chuẩn bị kiểm kê:
+ Niêm phong két: KTV tiến hành niêm phong kết để đảm bảo tính trung thực cao của thủ quỹ
cũng như các bộ phận liên quan. Việc thực hiện niêm phong két phải đảm bảo có ít nhất 3 người
tham gia (thủ quỹ, kế toán trưởng, nhân viên kiểm kê).
+ Yêu cầu lập biên bản: Đây là công việc cần thiết để củng cố tính pháp lý của công việc kiểm
kê và cũng là để cho công việc kiểm toán được dễ dàng trong việc quy trách nhiệm sau này:
Với thủ quỹ: Cam đoan tiền mặt có tại két là của đơn vị; cam kết về biện pháp xử lý trong
trường hợp thủ quỹ vi phạm để quy kết trách nhiệm và nó sẽ giúp kiểm toán viên trong việc xử
lý các sai phạm do lỗi cố ý hoặc không cố ý của thủ quỹ.
Với kế toán quỹ: Cam đoan thực hiện việc ghi chép đầy đủ và có đủ chứng từ hợp lý, hợp pháp
nhằm chứng minh tính trung thực hợp lý và tránh tình trạng khai khống của kế toán công ty vì

một mục đích nào đó.
+ Khoá sổ kế toán: Thường được thực hiện bởi một kế toán.
Sau đó, kiểm toán viên tiến hành chuẩn bị về hiện vật: sổ ghi chép trong quá trình kiểm kê,
dụng cụ kiểm kê: máy đếm tiền, máy soi tiền, mẫu biểu báo cáo kiểm kê… và phân công nhân
lực cho quá trình kiểm kê.
- Thực hành kiểm kê
+ Mở niêm phong két: Công việc này thường được thực hiện bởi một nhân viên kiểm kê có sự
chứng kiến của thủ quỹ, kế toán trưởng hoặc giám đốc công ty và kiểm toán viên tiến hành mở
niêm phong két và thực hiện công việc kiểm kê là phân loại tiền và đếm tiền.
+Phân loại, đánh giá các loại tiền: Việc phân loại và đánh giá các loại tiền: Tiền mặt, trái phiếu
chính phủ... được thực hiện ngay tại nơi kiểm kê dưới sự chứng kiến của kế toán trưởng (hoặc
giám đốc), thủ quỹ và kiểm toán viên.
+ Đếm tiền: Tiền được đếm theo từng loại và ghi chép theo từng loại riêng.
- Kết thúc kiểm kê: KTV ra biên bản kiểm kê quỹ tiền mặt tồn thực tế đến thời điểm kiểm toán
cụ thể theo: Phiếu thu (đến số…, ngày…); Phiếu chi (đến số…, ngày…); Tồn tiền mặt theo sổ
sách kế toán: ….VND; Tồn tiền mặt theo thực tế (kiểm kê theo từng loại tờ tiền: 500.000,
100.000,…, số tờ, thành tiền…), chênh lệch thực tế so với sổ sách, lý do…


1.2. Kiểm kê khoản mục TSCĐ, CCDC
Chuẩn bị kiểm kêC
- Về phương tiện, nhân sự : Việc phân bổ về nhân sự phụ thuộc chặt chẽ vào mô hình quản lý
tài sản của doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp quản lý tài sản một cách tập trung thì việc phân
bổ nhân viên sẽ ít hơn và cũng tập trung hơn còn nếu doanh nghiệp quản lý tài sản một cách
phân tán thì việc phân công nhân sự cũng cần sử dụng nhiều nhân viên kiểm kê hơn).
- Về các điều kiện khác:
Xem xét việc tách biệt giữa việc quản lý tài sản và việc ghi chép tài sản trong doanh nghiệp vì
yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến tính trung thực của kế toán ghi sổ cũng như ảnh hưởng trực tiếp
đến tính trung thực của bộ phận quản lý tài sản.
Chú ý đến việc doanh nghiệp có quy định rõ ràng về thẩm quyền của các cấp quản lý với việc

phê chuẩn các nghiệp vụ kinh tế liên quan tới mua bán, thanh lý, điều chuyển … các tài sản của
doanh nghiệp? Việc có quy định rõ thẩm quyền của việc phê chuẩn hay không sẽ tránh được
tình trạng người bảo quản tài sản trong doanh nghiệp cũng chính là người sử dụng và là người
mua sắm tài sản trong doanh nghiệp… dẫn đến rủi ro, thất thoát tài sản do lạm dụng quyền
hành tự do mua bán, thuyên chuyển hoặc thanh lý tài sản trong doanh nghiệp.
Tìm hiểu hệ thống bảo quản của tài sản trong doanh nghiệp nhất là đối với công cụ dụng cụ vì
giá trị của CCDC thường nhỏ và thất thoát của CCDC thường lớn và xem xét doanh nghiệp đặt
ra định mức hao mòn có phù hợp với từng loại tài sản và phù hợp với từng môi trường bảo quản
tài sản không.
- Thực hiện kiểm kê:
- Kiểm toán viên lựa chọn phương thức tiến hành kiểm kê: theo lô, khối hoặc theo vùng, điểm…
TSCĐ được phân loại, thống kê, đánh số, dán tem kiểm kê TSC như do viện trợ, biếu, tặng, đều
phải được xác định nguyên giá, lập hồ sơ quản lý.
Kiểm toán viên lựa chọn phương pháp ghi sổ và biên bản kiểm kê cho phù hợp với điều kiện
thực tế, ghi chép đầy đủ trong việc kiểm kê sẽ giảm thiểu sai sót trong việc lập báo cáo kiểm
toán.
- Kết thúc kiểm kê:
- Kiểm toán viên tiến hành lập bảng kê các loại TSCĐ, CCDC trên cơ sở ghi chép đầy đủ công
việc hàng ngày chi tiết theo từng loại hình tài sản riêng biệt để có thể lập được bảng kê một
cách chi tiết và chính xác.
BẢNG KÊ TSCĐ, CCDC
TT
Tên tài sản

Nguyên giá

Số lượng

Tổng tiền


Cộng

- Biên bản kiểm kê được lập dưới sự chứng kiến của cả hai phía là đơn vị được kiểm toán và
KTNN. Biên bản được lập thành 2 bản có tính chất pháp lý như nhau: phía đơn vị được kiểm toán
giữ một bản và KTNN lưu một bản để làm bằng chứng kiểm toán cho công việc kiểm toán của
mình. Yêu cầu chung của biên bản kiểm kê là phải chỉ rõ được số lượng tài sản thực tế có tại
thời điểm kiểm kê, so với sổ sách đã ghi chép thì thực tế chênh lệch là bao nhiêu và lý do của


sự chênh lệch đó để khi đối chiếu với chứng từ kiểm toán viên có thể tìm ra nguyên nhân và
cách khắc phục sự chênh lệch (nếu có).
1.3. Khoản mục liên quan tới hàng tồn kho:
Hàng tồn kho có giá trị không lớn nhưng có số lượng các nghiệp vụ phát sinh lớn, lặp đi lặp lại
nhiều lần và được quản lý cả về giá trị và hiện vật. Công việc kiểm kê hàng tồn kho là một trong
những bước để đánh giá sự tồn tại và hiện hữu của hàng tồn kho trong đơn vị
- Chuẩn bị kiểm kê:
Về cơ sở vật chất kỹ thuật: có thể phải sử dụng máy móc thiết bị trong việc kiểm kê để bảo
đảm độ chính xác cao, tránh nhầm lẫn… Về con người: ngoài việc phân bổ nhân viên kiểm kê
cho phù hợp, đôi khi kiểm toán viên phải sử dụng ý kiến của các chuyên gia để kiểm kê tài sản
vì có những loại hàng tồn kho không thể cân, đo, đong, đếm được như khi kiểm kê một số loại
hoá chất…
- Thực hiện kiểm kê:
Khi tiến hành kiểm kê, kiểm toán viên phải lựa chọn tính trọng yếu để kiểm kê loại hàng nào
trước, loại hàng nào sau để thuận tiện cho quá trình kiểm toán.
Đối với những đơn vị được kiểm toán mà kiểm toán viên có chứng kiến kiểm kê tại thời điểm
khoá sổ kế toán thì kiểm toán viên thực hiện xác nhận những tài sản mà đơn vị nhận giữ hộ cho
các đơn vị khác, các TSCĐ chưa sử dụng, hư hỏng, chờ thanh lý...
Đối với những đơn vị được kiểm toán mà kiểm toán viên không trực tiếp chứng kiến kiểm kê tại
thời điểm khoá sổ kế toán thì kiểm toán viên phỏng vấn khách hàng về các thủ tục kiểm kê mà
họ đã thực hiện để đánh giá mức độ tin cậy của tài liệu kiểm kê đã nhận được…

- Kết thúc kiểm kê: KTV đưa ra biên bản kiểm kê hàng tồn kho tại đơn vị: Phương pháp kiểm kê;
nội dung kiểm kê; số lượng hàng tồn kho thực tế tại thời điểm kiểm kê (tên hàng, đơn vị tính, số
lượng, tổng số); số lượng hàng tồn kho theo sổ sách kế toán;, chênh lệch; kết luận.
Nhận xét:
- Ưu điểm: Phương pháp này đơn giản, dễ thực hiện phù hợp với chức năng xác minh của
kiểm toán. Bằng chứng có độ tin cậy cao.
- Nhược điểm: Chi phí gắn liền với kiểm kê thường lớn. Kiểm kê chỉ khẳng định được tính
hiện có của tài sản mà không khẳng định được tính sở hữu và tình trạng kỹ thuật của tài sản.
2. Thực nghiệm
Thực nghiệm là phương pháp diễn lại hoặc nghiên cứu, phân tích từng yếu tố cấu thành của
một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra và cần xác minh lại để kiểm tra độ chính xác của
các thông tin tài chính đã được kế toán công ty ghi chép từ giai đoạn đầu tiên đến giai đoạn tạo
ra sản phẩm mà kế toán đã ghi chép trong sổ sách kế toán.
Do đặc thù riêng của nền kinh tế Việt Nam mà phương pháp thực nghiệm thường ít được tiến
hành, nếu được tiến hành thì chỉ có thể tiến hành trong một số ngành mang tính chất đặc thù
riêng và trong những trường hợp đặc biệt. Trong từng trường hợp đặc biệt đó, tuỳ từng điều kiện
cụ thể mà phương pháp thực nghiệm là khác nhau không có tính bắt buộc chung.

a. Điều kiện áp dụng phơng pháp này:
- Khi tiến hành kiểm toán viên quan tâm độ tin cậy của kết quả các qúa trình đã diễn
ra, các tài sản đã tồn tại...


- Cần sử dụng cả những cách thức, kỳ thuật trong khoa học hoá nghiệm hay trong kỳ
thuật hình sự... để khẳng định một vụ việc trớc khi đa ra kết luận.
- Đôi khi kiểm toán viên phải vận dụng cả những kỳ thuật chuyên nghành khác nh:
phải thuê chuyên gia giám định... trong các lĩnh vực hoá học, cơ lý học, xây dựng...

2. Điều tra
Điều tra là phương pháp xác định lại một tài liệu hoặc một thực trạng để đi đến những kết luận

kiểm toán. Điều tra được sử dụng rất rộng rãi trong kiểm toán.
Nhận xét:
- Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong kiểm toán do cách thức tiến hành đơn
giản, hiệu quả cao.
- Để bảo đảm hiệu quả kiểm toán, điều tra cần được kết hợp với các phương pháp khác
để nâng cao hiệu quả kiểm toán.
- Chuẩn bị kiểm toán:
Tìm hiểu khách thể kiểm toán: Đây là bước điều tra sơ bộ nhằm lập kế hoạch kiểm toán.
Tiếp cận với các bên có liên quan: Đây là cách thức lấy thông tin từ các bên có liên quan để qua
đó tìm hiểu về thực tế hoạt động của doanh nghiệp để đánh giá được một cách chính xác nhất
về thực trạng hoạt động của công ty và đưa ra được nhận định chung nhất với rủi ro thấp
nhất… Công việc kiểm tra được tiến hành chủ yếu thông qua tìm hiểu, phỏng vấn, thu lượm và
tích luỹ dữ liệu…
Xác minh bằng văn bản qua thư xác nhận của các bên có liên quan: Đây là cách thức thu thập
bằng chứng kiểm toán đối với những khách hàng ở xa, không tiện để tiến hành xác minh bằng
cách phỏng vấn…
Chọn mẫu hoặc chọn điển hình các đối tượng kiểm toán, xác minh làm rõ các vấn đề cần kiểm
toán: vì quy mô của đối tượng kiểm toán thường rất lớn, số lượng các nghiệp vụ phát sinh nhiều
do vậy khi chọn mẫu kiểm toán thì KTV có thể rút ngắn được thời gian kiểm toán mà vẫn thu
được kết quả kiểm toán tương đối chính xác…
Để đảm bảo hiệu quả kiểm toán thì điều tra cần kết hợp với hàng loạt kỹ thuật dự báo, phân
loại, tổng hợp đối tượng kiểm toán, chọn mẫu ngẫu nhiên hoặc chọn mẫu điển hình và cả những
kinh nghiệm trong việc tiếp cận, tìm hiểu những đối tượng có liên quan…
Tìm hiểu đơn vị kiểm toán: Việc tìm hiểu đơn vị kiểm toán đóng một vai trò quan trọng trong
việc ra quyết định kiểm toán: lĩnh vực kinh doanh, vốn điều lệ, vốn cố định, vốn lưu động, tình
hình kinh doanh của đơn vị kiểm toán gặp thuận lợi hay khó khăn, do nguyên nhân nào, đặc
điểm thị trường, cơ cấu của công ty .... Nắm được tính hình kinh doanh cũng như quy mô của
đơn vị được kiểm toán sẽ hạn chế rủi ro trong quá trình kiểm toán, xác định được mục tiêu kiểm
toán chung, mục tiêu kiểm toán đặc thù và lập được chương trình kiểm toán một cách trọng yếu
nhất.

Xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng:
+ Xem xét tính liêm chính của Ban giám đốc: Chuẩn mực kiểm toán số 400 “Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ”, tính liêm chính của Ban giám đốc là bộ phận cấu thành then chốt, nền tảng
của môi trường kiểm soát, của hệ thống kiểm soát nội bộ. Vì vậy, tính liêm chính của Ban giám


đốc rất quan trọng đối với quy trình kiểm toán bởi lẽ, Ban Giám đốc có thể phản ánh sai các
nghiệp vụ hoặc giấu diếm các thông tin dẫn đến các sai sót trọng yếu trên Báo cáo tài chính.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 “Gian lận và sai sót” nhấn mạnh tầm quan trọng về đặc
thù của Ban Giám đốc và ảnh hưởng của nó tới môi trường kiểm soát như là nhân tố rủi ro ban
đầu của việc báo cáo gian lận các thông tin tài chính. Ngoài ra, Ban Giám đốc là chủ thể có
trách nhiệm chính trong việc tạo ra một môi trường kiểm soát nội bộ vững mạnh.
Tính liêm chính của Ban Giám đốc sẽ quyết định đến kết quả của cuộc kiểm toán trong trường
hợp kiểm toán viên không có đủ các bằng chứng kiểm toán để chứng minh một vấn đề nào đó.
Lúc này, dựa vào tính liêm chính của Ban Giám đốc để kiểm toán viên đưa ra từng loại ý kiến
kiểm toán (ý kiến chấp nhận toàn phần, ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến trái ngược hoặc ý
kiến từ chối đưa ra ý kiến). Những nghi ngại về tính liêm chính của Ban Giám đốc có thể nghiêm
trọng đến mức kiểm toán viên kết luận rằng cuộc kiểm toán không thể thực hiện được.
Kiểm toán viên tiến hành điều tra, thu thập thông tin từ những nguồn sau: Kinh nghiệm thực
tiễn về đơn vị và ngành nghề kinh doanh của đơn vị được kiểm toán trên báo cáo tổng kết, biên
bản làm việc, báo chí; hồ sơ kiểm toán năm trước; trao đổi với Giám đốc, kế toán trưởng hoặc
cán bộ, nhân viên của đơn vị được kiểm toán; trao đổi với kiểm toán viên nội bộ và xem xét báo
cáo kiểm toán nội bộ của đơn vị được kiểm toán; trao đổi với kiểm toán viên khác và với các
nhà tư vấn đã cung cấp dịch vụ cho đơn vị được kiểm toán hoặc hoạt động trong cùng lĩnh vực
với đơn vị được kiểm toán; trao đổi với chuyên gia, đối tượng bên ngoài có hiểu biết về đơn vị
được kiểm toán; tham khảo các ấn phẩm liên quan đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị được kiểm
toán (báo chí chuyên ngành, thông tin của ngân hàng, thông tin của thị trường chứng khoán…);
các văn bản pháp lý và các quy định có liên quan đến đơn vị được kiểm toán; khảo sát thực tế
văn phòng, nhà xưởng của đơn vị được kiểm toán; các tài liệu do đơn vị được kiểm toán cung
cấp.

Thực hành kiểm toán
Để tiến hành thu thập các bằng chứng cho quá trình kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán
viên tiến hành điều tra trực tiếp thông qua tình hình thực tế hoặc điều tra thông qua bên thứ ba
trên một số khoản mục chủ yếu:
Khoản mục tiền gửi ngân hàng
Điều tra để tiến hành thu thập bằng chứng cho kiểm toán khoản mục vốn bằng tiền là một công
việc quan trọng vì bằng chứng thu được qua quá trình điều tra luôn có giá trị cao nhất trong các
loại bằng chứng kiểm toán thu được liên quan tới khoản mục này. Cùng với khoản mục vốn
bằng tiền thì tiền gửi ngân hàng luôn đóng vai trò cao trong hầu hết các giao dịch vì vậy kiểm
toán khoản mục tiền gửi ngân hàng luôn được coi là trọng yếu trong các cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính.
Trong khoản mục tiền gửi ngân hàng thì điều tra chủ yếu tập chung vào xác minh số tiền tại
ngân hàng và số tiền gửi ngân hàng ghi trên sổ sách kế toán có trùng khớp nhau hay không.
Để tiến hành công việc này, kiểm toán viên thường điều tra bằng cách đối chiếu số dư theo giấy
báo Nợ, giấy báo Có, sổ chi tiết để tính số dư… với sổ sách kế toán đã ghi, sổ phụ ngân hàng và
số dư tiền gửi ngân hàng
Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt kiểm toán viên có thể gửi thư xác nhận đến ngân
hàng để yêu cầu xác nhận số dư tiền gửi ngân hàng tại thời điểm kiểm toán.
Đề nghị xác nhận số dư tài khoản 112
Thời điểm 31/12/N
Số hiệu tài khoản: .......
Tên tài khoản: Tiền gửi ngân hàng đơn vị X


Người vay / người gửi: ....
Địa chỉ: .....

Số liệu tại ngân hàng

Đơn vị xác nhận


Số dư đến 31/12/N

Số dư đến 31/12/N

...... VND

....... VND

Giám Đốc

Giám Đốc

(ký tên)

(ký tên)

Khoản mục phải thu, phải trả:
Trong doanh nghiệp, ngoài tiền mặt, tiền gửi ngân hàng thì các khoản nợ phải thu, phải trả cũng
liên quan trực tiếp đến tình hình tài chính trong doanh nghiệp. Cũng giống như khoản mục tiền
gửi ngân hàng, khoản mục phải thu, phải trả thường liên quan tới bên thứ 3 do vậy để kiểm tra
khoản mục này kiểm toán viên cũng thường chú trọng vào việc xác nhận số dư do bên thứ 3
cung cấp thông qua các biên bản đối chiếu công nợ hoặc các thư xác nhận công nợ.
Kiểm toán viên thường tiến hành hai dạng công việc chính là điều tra trực tiếp người bán hoặc
người có liên quan tới khoản mục phải thu, phải trả và gửi thư xác nhận khi cần thiết.
Đối với việc điều tra thông qua những người liên quan: kiểm toán viên thường tiến hành phỏng
vấn trực tiếp nhân viên bán hàng, mua hàng hoặc đôi khi có thể phỏng vấn những người giao
hàng, bộ phận quản lý…
Đối với việc gửi thư xác nhận công nợ phải thu, phải trả: Công việc này được tiến hành sau khi
kiểm toán viên đã thực hiện bước đối chiếu công nợ với những Biên bản đối chiếu công nợ mà

khách hàng đã cung cấp. Với những khách hàng ghi trong sổ sách mà chưa có biên bản đối
chiếu công nợ hoặc có Biên bản đối chiếu công nợ nhưng số tiền trên Biên bản khác với số tiền
ghi trên sổ sách hoặc không có Biên bản đối chiếu công nợ thì kiểm toán viên sẽ tiến hành gửi
thư xác nhận.
Đôi khi, việc gửi thư xác nhận công nợ còn được tiến hành trong trường hợp đặc biệt khi KTNN
muốn thu được bằng chứng chứng minh cho một khoản nợ phải thu khó đòi của đơn vị được
kiểm toán để chứng minh cho khoản nợ mà khách hàng đã trích lập dự phòng rồi.
KTV tiến hành đối chiếu tương đối đầy đủ các biên bản đối chiếu công nợ, các số liệu ghi trên
biên bản đối chiếu, cũng như chữ ký của bên xác nhận công nợ, nếu như có một khoản mục
công nợ nào đó cần đối chiếu thì kiểm toán viên gửi thư xác nhận để xác định thời gian của hợp
đồng giao dịch cuối cùng lưu ở phía khách hàng của đơn vị có trùng với ngày tháng ghi trên sổ
sách kế toán hay không...; hoặc kiểm toán viên tiến hành đối chiếu công nợ thì phát hiện một
số khách hàng chưa có Biên bản đối chiếu công nợ cũng như một số Biên bản đã lập và lưu
nhưng chưa có chữ ký của khách hàng của đơn vị do vậy kiểm toán viên tiến hành gửi thư xác
nhận đến khách hàng.
Biên bản đối chiếu xác nhận công nợ giữa đơn vị được kiểm toán và đơn vị liên quan có công nợ
cần đối chiếu, trong đó hai bên thống nhất số liệu xác nhận công nợ với nội dung: nợ cũ là bao
nhiêu, theo biên bản thanh lý hợp đồng ngày .. /../N đơn vị này còn Nợ đơn vị kia số tiền là bao
nhiêu, Nợ đã thanh toán cho bên cho vay là bao nhiêu; kết luận: Tính đến ..... đơn vị này còn Nợ
đơn vị kia số tiền là bao nhiêu (quá hạn...tháng); đề nghị hai đơn vị ký Biên bản đối chiếu công
Nợ và đồng thời có kế hoạch chuyển trả số Nợ nói trên vào tài khoản ...... trước ngày.... Biên bản
xác nhận công Nợ và KTNN sẽ coi là bằng chứng có giá trị cao hơn bằng chứng thu được về tình
hình thực tế được ghi trong sổ sách kế toán.


Khoản mục hàng tồn kho
Phương pháp điều tra đối với khoản mục hàng tồn kho thì phỏng vấn là chủ yếu. Việc phỏng vấn
thường chú trọng vào phỏng vấn những người trực tiếp làm nhiệm vụ xuất kho (thủ kho); người
trực tiếp sử dụng loại hàng tồn kho đó (bộ phận sản xuất hoặc bộ phận bán hàng); hoặc phỏng
vấn đối với nhân viên bảo vệ của cơ quan đó.

Đối với thủ kho: phỏng vấn thường hướng vào việc xem xét xem sau mỗi lần nhập xuất sổ liệu
có được ghi chép một cách đầy đủ hay không, việc cân đếm có đúng quy định hay không…
Đối với bộ phận sản xuất: phỏng vấn để tìm hiểu xem việc xuất kho có theo đúng yêu cầu mà
bộ phận mình đã yêu cầu không, chất lượng sản phẩm có phù hợp không, thời gian có đảm bảo
không…
Đối với nhận viên bảo vệ: việc phỏng vấn chủ yếu tập trung vào việc xem xét xem việc cho
hàng ra vào công ty có được kiểm tra kỹ càng cả về số lượng và chất lượng không, việc xuất
kho có đầy đủ chữ ký của các bộ phận cần thiết hay không…
Xem xét các khoản nợ ngoài dự kiến
Đây là công việc điều tra nhằm xem xét xem sau ngày khoá sổ kế toán có còn khoản nợ nào
phát sinh hoặc bỏ sót mà ảnh hưởng trọng yếu đến tình hình tài chính của đơn vị hay không,
nếu có thì đơn vị đã xử lý thế nào, đã đưa vào bản thuyết minh báo cáo tài chính chưa?
Công việc điều tra này chủ yếu chú trọng vào việc phỏng vấn đơn vị khách hàng là chính. Trong
một số trường hợp đặc biệt, có thể gửi thư xác nhận lần thứ hai đến một số đơn vị khách hàng
của công ty.
- Xem xét giả thuyết về tính liên tục trong hoạt động của đơn vị
Việc xem xét giả thuyết về tính liên tục của đơn vị thường được tiến hành chủ yếu trong các
doanh nghiệp xây dựng theo đúng chuẩn mực kiểm toán số 570 “liên tục hoạt động”.
- Thu thập thư giải trình của Ban Giám đốc đơn vị là bằng chứng mang tính pháp lý cao trong
việc đưa ra kết luận kiểm toán của kiểm toán viên. Ngoài ra, việc thu thập thư giải trình của
giám đốc còn có tác dụng làm sáng tỏ thêm những nhận định ban đầu của kiểm toán viên về
tính liên tục hoạt động cũng như một số nội dung khác trong tình hình tài chính của đơn vị
khách hàng.
- Kết thúc kiểm toán
Theo chuẩn mực kiểm toán số 560 Điều 11, có một số sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế
toán mà KTNN thường chú ý xem xét khi kết thúc việc kiểm toán là: Những số liệu tạm tính hoặc
chưa được xác nhận; những cam kết, khoản vay hay bảo lãnh mới được ký kết; Bán hay dự kiến
bán tài sản; những cổ phiếu hay trái phiếu mới phát hành; thoả thuận sáp nhập hay giải thể đã
được ký kết hay dự kiến; những tài sản bị trưng dụng hay bị phá huỷ do hoả hoạn hay lụt bão…
những rủi ro hay sự kiện có thể xảy ra; những điều chỉnh kế toán bất thường đã thực hiện hay

dự định thực hiện…
Tóm lại, việc ứng dụng phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ vào thực tế kiểm toán sẽ tăng
thêm công cụ tìm kiếm bằng chứng kiểm toán, như vậy sẽ giảm thiểu được rủi ro kiểm toán và
thu được nhiều bằng chứng hơn cho công việc kiểm toán báo cáo tài chính. /.



×