Tải bản đầy đủ (.docx) (146 trang)

Hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học chương Động học chất điểm (SGK Vật lí 10 nâng cao)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.24 MB, 146 trang )

1

MỞ ĐẦU

Formatted: Level 1, Indent: Left: 0",
Hanging: 0.17"

1. Lý do chọn đề tài

Formatted: Level 2, Indent: First line: 0.5"

Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,

Formatted: Indent: First line: 0.5"

HĐH) với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở
thành nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi
của công cuộc CNH, HĐH và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn lực người Việt
Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng
cao.Việc này đòi hỏi nền giáo dục nước nhà phải đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc, toàn
diện. Hội nghị ban chấp hành trung ương khoá VIII cũng đã khẳng định:“Đổi mới
phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học, áp dụng những phương pháp
giáo dục hiện đại, bồi dưỡng học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn
đề.”và nhấn mạnh một lần nữa: “ Đổi mới phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục
lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp
dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp dạy học hiện đại vào quá trình học ”
Luật giáo dục, điều 28.2,đã ghi “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy

Formatted: Condensed by 0.2 pt
Formatted: Condensed by 0.2 pt


tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
Trong những năm gần đây quan niệm của thầy và việc học của trò đã theo
hướng nhằm phát huy tích cực, tự lực của học sinh.Thầy giáo chủ thể của quá trình dạy
đóng vai trò chủ đạo, thể hiện ở chỗ người thầy xác định mục tiêu, nội dung dạy học,
thiết kế và tổ chức hoạt động, dự kiến tình huống có thể xảy ra, dự kiến phương hướng
và cách giải quyết tương ứng và là trọng tài khoa học trước học sinh Học sinh, chủ thể
nhận thức, chủ thể của hoạt động học phải đưa ra được vấn đề, suy đoán giải pháp thực
hiện và thực hiện tìm ra kết quả bằng hành động của mình dưới sự chỉ dẫn của thầy.
Ngày nay trong xã hội bùng nổ thông tin, kiến thức học sinh học trong trường không thể
học hết kiến thức mới mà nhân loại tạo ra. Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh tự học
không những phát huy khả năng tích cực tự lực của học sinh trong học tập, giúp học

Formatted: Indent: First line: 0"
Formatted: Condensed by 0.3 pt
Formatted: Justified
Formatted: Condensed by 0.3 pt
Formatted: Condensed by 0.3 pt


2

không những phát huy khả năng tích cực tự lực của học sinh trong học tập, giúp học
sinh nắm kiến thức một cách bền vững hơn mà còn tạo điều kiện cho học sinh có khả
năng học tập suốt đời. Học sinh có khả năng tự học thì sẽ tự biết tìm kiếm thông tin,
vận dụng kiến thức đã có vào trong hoàn cảnh sống mới của xã hội.
Chương “Động học chất điểm ”là chương có nhiều kiến thức mới xây dựng dựa

Formatted: Indent: First line: 0.5"


trên kiến thức vật lí học sinh đã được học trước đó: Chuyển động cơ học, chuyển động
đều, chuyển động không đều, chuyển động cong, vận tốc, tính tương đối của chuyển
động và kiến thức toán: Phương pháp vẽ đồ thị, lập phương trình bậc nhất, phương
trình bậc 2...Vì vậy, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tự học trên lớp cũng như ở
nhà.Từ những có cơ sở trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Hướng dẫn học sinh tự học
trong dạy học chương “ Động học chất điểm ” Vật lí 10 nâng cao.
2. Mục đích nghiên cứu

Formatted: Level 2, Indent: First line:

Xây dựng tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học chương “

0.5" Formatted: Indent: First line: 0.5"

Động học chất điểm ” nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và bồi dưỡng năng lực hoạt
động sáng tạo của học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Formatted: Level 2, Indent: First line:

- Nghiên cứu cơ sở lí luận về hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học.

0.5" Formatted: Indent: First line: 0.5"

- Điều tra khảo sát thực trạng việc học sinh tự học ở trung học phổ thông
- Nghiên cứu nội dung chương trình vật lí lớp 10 nói chung chương “Động học
chất điểm ”nói riêng.
- Soạn thảo tài liệu hướng dẫn học sinh tự học và kế hoạch hướng dẫn học sinh
tự học chương “ Động học chất điểm ” vật lí 10 nâng cao

- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá việc học sinh tự học để nâng cao chất
lượng dạạy và học.
4. Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
a. Đối tượng nghiên cứu.
Các hoạt động tổ chức hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học vật lí phổ thông.
b. Phạm vi nghiên cứu.

Formatted: Level 2, Indent: First line:
0.5" Formatted: Indent: First line: 0.5"
Formatted: Condensed by 0.3 pt


3

Xây dựng tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học chương
“ Động học chất điểm ”vật lí 10 nâng cao, với học sinh ở các trường THPT thuộc
thành phố Bắc Ninh
5. Phương pháp nghiên cứu

Formatted: Level 2, Indent: First line:

5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

0.5" Formatted: Indent: First line: 0.5"

- Nghiên cứu các tài liệu chủ chương chính sách của Đảng và nhà nước trong
công tài giáo dục và đào tạo
- Nghiên cứu tài liệu về hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học.
-Nghiên cứu nộidung chương trình vật lí10 THPT,đặc biệt phầnĐộng học chất điểm.


Formatted: Condensed by 0.3 pt

5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra thực trạng của giáo viên và học sinh về việc hướng dẫn học sinh tự
học của giáo viên và việc việc tự học của học sinh trong quá trình dạy học chương “
Động học chất điểm ” thông qua dự giờ, kiểm tra giáo án, kiểm tra vở bài tập của học
sinh, việc học ở nhà.
- Thực nghiệm sư phạm.
5.3. Phương pháp thống kê toán học
6. Giả thuyết khoa học

Formatted: Level 2, Indent: First line: 0.5"

Nếu soạn thảo được tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học bám sát nội
dung kiến thức vật lí và mục tiêu dạy học, đồng thời sử dụng một cách hợp lý các hình
thức tổ chức hướng dẫn học sinh tự học sẽ làm cho học sinh tự lực chiếm lĩnh kiến thức
một cách hệ thống, sâu sắc và bền vững góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
7. Bố cục của luận văn.

Formatted: Justified, Level 2, Indent:
First line: 0.5"

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm ba chương:

Formatted: Condensed by 0.3 pt

Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hướng dẫn hoạt động tự học của

0.5" Formatted: Indent: First line: 0.5"


Formatted: Justified, Indent: First line:

học sinh trong dạy học vật lí ở trường phổ thông.
Chương 2. Soạn thảo tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học
chương “ Động học chất điểm ” vật lí 10 nâng cao.
Chương 3.Thực nghiệm sư phạm

Formatted: Condensed by 0.3 pt


4

CHƯƠNG 1.

Formatted: Level 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
VIỆC HƯỚNG DẪN HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Quan niệm hiện đại về dạy học.
1.1.1. Nhiệm vụ của quá trình dạy học.
Dạy học là một hoạt động đặc trưng của loài người nhằm truyền lại cho thế hệ
sau những kinh nghệm mà loài người đã tích luỹ được, biến chúng thành “vốn liếng”

Formatted: Font: 5 pt
Formatted: Justified, Level 2, Indent:
First line: 0.5"
Formatted: Justified, Level 3, Indent:
First line: 0.5"
Formatted: Indent: First line: 0.5"


kinh nghiệm và phẩm chất, năng lực của cá nhân người học. Hoạt động dạy học bao
gồm hai hoạt động liên quan với nhau và tác động qua lại với nhau: Hoạt động dạy của
giáo viên và hoạt động học của học sinh. Hai hoạt động này có cùng mục đích cuối
cùng là làm cho học sinh lĩính hội được nội dung học, đồng thời phát triển nhân cách,
năng lực của mình. Quá trình dạy học xảy ra rất phức tạp và đa dạng trong đó sự phối
hợp giữa giáo viên và học sinh có ý nghĩa quyết định.
Quá trình dạy học là một quá trình nhận thức tâm lý tích cực có liên quan đến
nhu cầu hứng thú của học sinh. Dạy học không những chỉ chú ý phát triển động cơ
học tập của học sinh ngay trong quá trình dạy học mà còn phải đi trước sự phát
triển. Nhiệm vụ của quá trình dạy học không chỉ giới hạn ở sự hình thành các kiến
thức, kĩ năng, kĩ xảo mà phải phát triển được trí tuệ, hình thành và phát triển được
nhân cách toàn diện của học sinh. Sự phát triển trí tuệ vừa là điều kiện đảm bảo cho
học sinh nắm vững kiến thức, vừa đảm bảo cho học sinh có khả năng tiếp thu,
nghiên cứu, tìm tòi, giải quyết nhiệm vụ học tập, đáp ứng những đòi hỏi đa dạng
của hoạt động thực tiễn sau này.
Quá trình dạy học là một quá trình xã hội, sự học tập của học sinh sẽ tạo thuận lợi
và có hiệu quả hơn nhờ sự trao đổi và sự tranh luận với bạn qua vùng phát triển gần nhất.
Bởi vậy học tập của học sinh cần được tổ chức theo các hình thức làm việc khác nhau: Cá
nhân, theo
nhóm và giữa các nhóm.4

Formatted: Expanded by 0.2 pt


5

1.1. 2. Bản chất của học và chức năng của dạy trong hệ tương tác dạy học.

Formatted: Level 3, Indent: First line:

0.5", Line spacing: Multiple 1.45 li

a. Bản chất của sự học.

Formatted: Indent: First line: 0.5", Line
spacing: Multiple 1.45 li

Không thể quan niệm sự học của học sinh chỉ là sự in vào đầu óc của họ những
kiến thức xem như những cái có sẵn đã được diễn đạt bằng ngôn ngữ và tồn tại độc lập
với học sinh.
Tâm lý học và lí luận dạy học hiện đại khẳng định: Con đường có hiệu quả nhất
để làm cho học sinh nắm vững kiến thức và phát triển được năng lực sáng tạo là phải
đưa học sinh vào được chủ thể hoạt động nhận thức: “ Nắm vững kiến thức, thực sự
lĩnh hội chúng, cái đó học sinh phải tự làm lấy, bằng trí tuệ của bản thân”.
Theo quan điểm tâm lý học tu duy, sự học là sự phát triển về chất của cấu trúc
hành động. Cùng một biểu hiện hành vi bề ngoài giống nhau nhưng chất lượng, hiệu
quả của sự học vẫn có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào sự phát triển cấu trúc hành động
của chủ thể. Ở đây, hành vi được xem như biểu hiện ra bề mặt của kết quả hành động,
còn cách thức để đạt tới kết quả đó được xem như cấu trúc bên trong của hành động.
Theo quan niệm hiện đại, sự học phải là một quá trình hình thành phát triển các
dạng thức và hành động xác định của người học, đó là thích ứng của chủ thể với tình
huống học tập thchs đáng thông qua sự đồng hoá và sự điều tiết, nhờ đó người học phát
triển năng lực, thể chất, tinh thần và nhân cách...
Như vậy, sự học nói chung là sự thích ứng của người học với những tình huống
thích đáng làm nảy sinh và phát triển ở người học những hoạt động xác định, phát triển
ở người học năng lực thể chất, tinh thần và nhân cách cá nhân. Nói riêng, sự học có
chất lượng một tri thức khoa học mới nào đó phải là sự thích ứng của người học với
những tình huống học tập thích đáng. Chính quá trình thích ứng này là hoạt động của
người học xây nên tri thức mới với tính cách là phương tiện tối ưu giải quyết tình
huống mới. Đồng thời đó là quá trình góp phần làm phát triển các năng lực nhận thức

thực tiễn và nhân cách của người học. Nhưng học sinh chưa đủ điều kiện để tự lực giải
quyết vấn đề trong các tình huống và thông qua đó tìm được các quy tắc, quy luật logic
mà chỉ đúc rút được kinh nghiệm thông qua hành động học tập hàng ngày dưới sự giúp
đỡ của giáo viên.


6

b. Bản chất của sự dạy

Formatted: Indent: First line: 0.5"

Theo AM. Machinski thì dạy học phải làm cho người học phát triển được trí tuệ,
động cơ học tập và hứng thú nhận thức. Do vậy, sự dạy là sự tổ chức, hình thành và
phát triển nhân cách. Dạy học phải luôn tạo ra sự “ mất cân bằng” về mặt tâm lý, tạo ra
xung đột xã hội, nhận thức trong bản thân học sinh, nhằm thiết lập sự “cân bằng” mới
trong quá trình học tập.
Theo GS. TS Phạm Hữu Tòng: Nếu học là hành động xây dựng kiến thức cho bản
thân mình và vận dụng kiến thức của mình thì dạy học là dạy hành động chiếm lĩnh tri
thức và hành động vận dụng kiến thức. Do đó, trong dạy học, giáo viên phải tổ chức
các tình huống học tập đòi hỏi sự thích ứng của học sinh để qua đó học sinh chiếm lĩnh
được tri thức, đồng thời phát triển trí tuệ và nhân cách toàn diện của mình. Về mặt nhận
thức luận, dạy học có vai trò điều khiển, tổ chức nhận thức tri thức khoa học cụ thể của
học sinh theo một tiến trình nhận thức khoa học: Đề xuất vấn đề, suy đoán giải pháp,
khảo sát lý thuyết và thực
nghiệm, kiểm tra vận dụng kết quả. . 4
c. Hệ tương tác dạy học.
Trong hệ tương tác dạy học, mỗi hành động của người học được diễn đạt ra theo
các pha: “ Định hướng - chấp hành- kiểm tra”, trong đó cơ sở định hướng có vai trò
quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả của hành động. Giáo viên có vai trò quan trọng

trong việc giúp đỡ cho sự hình thành cơ sở khái quát hành động của học sinh. Đó là cơ
sở định hướng bao gồm những nội dung cơ bản nhất cần thiết cho sự thực hiện thành
công hành động của chủ thể.
Như vậy, muốn đạt được chất lượng hiệu quả cao trong sự vận hành của hệ
tương tác dạy học bao gồm người dạy ( giáo viên), người học ( học sinh ) và tư liệu
hoạt động dạy học (môi trường) thì giáo viên cần tổ chức, kiểm tra, định hướng hành
động của học sinh theo một chiến lược hợp lý sao cho học sinh tự chiếm lĩnh, xây dựng
tri thức cho mình và dó đó đồng thời năng lực trí tuệ và nhân cách toàn diện của họ
từng bước phát triển.
Có thể mô tả sự tương tác giữa dạy và học trong hệ dạy học bằng sơ đồ mô hình:

Formatted: Indent: First line: 0.5"


7

Định hướng
Giáo
viên
Liên hệ ngược
Liên hệ ngược

Thích ứng

Cung cấp tư liệu
Tạo tình huống

Tổ chức
Tư liệu hoạt động dạy
học


Hình 1.1. Hệ tương tác dạy học
Hành động của giáo viên với tư liệu hoạt động dạy học là sự tổ chức tư liệu và

Formatted: Font: Italic
Formatted: Font: 3 pt, Italic

qua đó cung cấp tư liệu và tạo tình huống cho hoạt động học của học sinh.
Tác động trực tiếp của giáo viên tới học sinh là sự định hướng của giáo viên đối
với hành động của học sinh với tư liệu, là sự định hướng của giáo viên với sự tương tác
trao đổi giữa học sinh với nhau và qua đó đồng thời còn định hướng cả sự cung cấp
những thông tin liên hệ ngược từ phía học sinh cho giáo viên. Đó là những thông tin
cần thiết cho sự tổ chức và định hướng của giáo viên đối với hành động của học sinh.
Hành động của học sinh với tư liệu hoạt động dạy học là sự thích ứng của học
sinh với tình huống học tập, đồng thời là hành động chiếm lĩnh, xây dựng tri thức cho
bản thân mình và sự tương tác đó của học sinh với tư liệu đem lại cho giáo viên những
thông tin liên hệ ngược cần thiết cho sự chỉ đạo của giáo viên với học sinh.
Tương tác trực tiếp giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh với giáo viên là sự
trao đổi, tranh luận giữa các cá nhân học sinh tranh thủ sự hỗ trợ xã hội từ phía giáo
viên và tập thể học sinh trong quá trình chiếm lĩnh, xây dựng tri thức.  4

Formatted: Level 2, Indent: First line: 0.38"


8

1.,2. Bản chất hoạt động nhận thức vật lí
1.2.1. Con đường nhận thức vật lí
Cũng như các môn khoa học khác, con đường nhận thức vật lí là “ Từ trục quan


Formatted: Level 3
Formatted: Not Expanded by / Condensed by

sinh động đến tư duy trìu tượng, rồi từ tư duy trìu tượng về thực tiễn” - như V.I. Lên
nin đã chỉ rõ. Điều này đã được các nhà vật lý nổi tiếng thể hiện qua chu trình nhận
thức ( chu trình của V.G. Razumopxki hay chu trình của Anhxtanh). Có thể diễn tả các
chu trình đó như sau:
Từ việc khái quát các sự kiện xuất phát, đi đến xây dựng mô hình trìu tượng giả
định

Formatted: English (United States), Not
Expanded by / Condensed by

( có tính chất như giả thuyết); từ mô hình dẫn đến việc rút ra các hệ quả lý thuyết (

Formatted: Not Expanded by / Condensed by

bằng logic hay toán học); kiểm tra bằng thực nghiệm những hệ quả đó. Nếu những kết
quả thực nghiệm phù hợp thì mô hình giả thuyết được xác nhận là đúng đắn và trở
thành chân lý, ngược lại phải xem lại lý thuyết, chỉnh lý hoặc thay đổi ( tức là đưa ra
mô hình mới) và lặp lại chu trình.  4
1.2.2. Bản chất hoạt động nhận thức vật lí ở trường phổ thông
Hoạt động nhận thức vật lý của học sinh phổ thông có những điểm rất khác biệt
với nhận thức của nhà khoa học. Nhà khoa học phải tìm ra cái mới, giải pháp mới mà
trước đây loài người chưa biết tới, còn học sinh lại tìm cho bản thân mình cái mà loài
người đã khám phá, tích luỹ, cái mà giáo viên đã biết; Về thời gian, nhà khoa học có
nhiều thời gian, thậm chí cả cuộc đời mình để khám phá ra một định luật, xây dựng
một thuyết nào đó, còn học sinh chỉ có thời gian ngắn; Về phương tiện, học sinh chỉ có
những dụng cụ thí nghiệm đơn giản. Với sự khác nhau đó ta không hy vọng làm cho
học sinh nhờ áp dụng phương pháp khoa học, chỉ mong các em làm quen với cách suy

nghĩ, tư duy khoa học, tạo ra những yếu tố ban đầu hoạt động sáng tạo.
Năng lực nói chung và năng lực sáng tạo không phải bẩm sinh mà được hình
thành và phát triển trong quá trình hoạt động của chủ thể. Bởi vậy, muốn hình thành
năng lực phải chuẩn bị cho học sinh những điều kiện cần thiết để họ thực hiện thành
công hoạt động đó. Những điều kiện đó là:

Formatted:
Condensed
Expanded

Not

Expanded

by
by

by

Formatted:
/

Formatted: Level 3

Condensed

/
Not
by



9

a) Đảm bảo cho học sinh có điều kiện tâm lý thuận lợi để tự lực hoạt động:
- Tạo mâu thuẫn nhận thức, gợi động cơ, hứng thú tìm tòi cái mới, ta thường gọi
là xây dựng tình huống có vấn đề.
- Tạo môi trường sư phạm thuận lợi.
b) Tạo điều kiện để học sinh giải quyết thành công những nhiệm vụ được giao:
- Lựa chọn một logic nội dung bài học thích hợp.

Formatted: Not Expanded by /
Condensed by Formatted: Not
Expanded by / Condensed by

- Rèn luyện cho học sinh thực hiện một số thao tác cơ bản gồm thao tác chân tay
và thao tác tư duy.
- Cho học sinh làm quen với các phương pháp nhận thức vật lí được sử dụng phổ
Formatted: Condensed by 0.3 pt

biến
Để đảm bảo những điều kiện này thì phương pháp dạy học là một trong những

Formatted: English (United States),
Condensed by 0.3 pt

thành tố đóng vai trò quyết định. Trong những năm gần đây ngành giáo dục nước ta
chú trọng nhiều tới các phương pháp dạy học “ Lấy người học làm trung tâm”
( phương pháp dạy học tích cực) . 4
1.3. Tính tích cực của học sinh trong học tập


Formatted: Level 2

Hoạt động học là hoạt động đặc trưng của loài người, nhằm truyền lại cho thế hệ
sau những kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích luỹ được, biến chúng thành vốn
liếng, kinh nghiệm và phẩm chất, năng lực của cá nhân người học. Theo quan điểm
hiện đại “ Dạy học bằng hoạt động, thông qua hoạt động của học sinh để học sinh tự
lực, tích cực chiếm lĩnh kiến thức”. Muốn vậy, trong dạy học giáo viên phải tạo được ở
học sinh động cơ, hứng thú đi tìm cái mới, kích thích học sinh hăng hái, tự giác hoạt
động, tức là phải phát huy được tính tích cực của học sinh trong học tập .16
1.3.1. Tính tích cực của học sinh trong học tập vật lí
Tính tích cực học tập là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở sự cố gắng cao về
nhiều mặt trong học tập (L.V.Rebrova, 1975). Học tập là một trường hợp riêng của
nhận thức “ Một nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới sự chỉ
đạo của giáo viên (P.N.Erđơnive, 1974). Vì vậy, nói tới tích cực học tập thực chất là
nói tới tích cực nhận thức, mà tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động nhận thức
của học sinh đặc trưng ở khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá

Formatted: Level 3


10

trình nắm vững kiến thức.
Con người chỉ thực sự nắm vững cái mà chính mình đã giành được bằng hoạt
động của bản thân. Học sinh sẽ hiểu và ghi nhớ những gì trải qua hoạt động nhận thức
tích cực của mình, trong đó các em phải có những cố gắng trí tuệ, đó là chưa nói tới
một trình độ nhất định, thì sự học tập sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học
cũng phải tìm ra kiến thức mới cho nhân loại. 16
1.3.2. Các biểu hiện của tính tích cực học tập.
Có những trường hợp tính tích cực học tập biểu hiện ở hoạt động cơ bắp nhưng

quan trọng là sự biểu hiện ở hoạt động trí tuệ: hai hình thức biểu hiện này thường đi
liền với nhau. Theo G.I.Sukina (1979) có thể nêu nững dấu hiệu của tính tích cực hoạt
động trí tuệ như sau:
- Học sinh khao khát tự nguyện tham gia trả lời câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả
lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu ra.
- Học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận
ra vấn đề mới.
- Học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới mẻ lấy
từ những nguồn thông tin khác nhau, vượt ra ngoài phạm vi bài học.
Ngoài những biểu hiện nói trên mà giáo viên dễ nhận thấy – còn có những biểu
hiện về mặt xúc cảm, khó nhận thấy hơn như : thờ ơ hay hào hứng, phớt lờ hay ngạc
nhiên, hoan hỉ hay buồn chán trước một nội dung nào đó của bài học hoặc khi tìm ra
lời giải cho một bài tập. Những dấu hiệu này biểu hiện khác nhau ở từng cá thể học
sinh, bộc lộ rõ ở các lớp học sinh bé, kín đáo ở học sinh lớp trên. G.I.sukina còn phân
biệt những dấu hiệu tích cực học tập về mặt ý chí:
- Tập trung chú ý vào vấn đề đang học.
- Kiên chì làm xong bài tập.
- Không nản trước những tình huống khó khăn.
- Thái độ phản ứng khi chuông báo hết tiết học: tiếc rẻ cố làm cho xong hoặc
vội vàng gấp vở chờ được lệnh ra chơi

Formatted: Level 2


11

Theo PGS. TSKH Thái Duy Tuyên, để giúp giáo viên phát hiện được học sinh
có tích cực hay không, cần dựa vào một số dấu hiệu sau đây:

- Các em có chú ý học tập hay không?

- Có hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học không?
( thể hiện ở chỗ giơ tay phát biểu ý kiến, ghi chép...).

- Có hoàn thành nhiệm vụ được giao không?
- Có ghi nhớ tốt những điều đã học không?
- Có hiểu bài không?Có thể trình bày nội dung bài họctheo ngôn ngữ riêng không?
- Có vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn không?
- Có đọc thêm, làm thêm các bài tập khác không?
- Tốc độ học tập có nhanh không?
- Có hứng thú trong học tập không hay vì một ngoại lực nào đó mà phải học?
- Có quyết tâm, có ý chí vượt khó khăn trong học tập không?
- Có sáng tạo trong học tập không? 16

Formatted: Level 3

1.3.3. Các cấp độ của tính tích cực học tập
Có thể phân biệt ở ba cấp độ khác nhau từ thấp lên cao:
a. Bắt chước: Học sinh tích cực bắt chước hoạt động của giáo viên của bạn bè.
Trong hoạt động bắt chước cũng phải có sự gắng sức của thần kinh và cơ bắp.
b. Tìm tòi: Học sinh tìm cách độc lập giải quyết bài tập nêu ra, mò mẫm những

Formatted: Condensed by 0.3 pt

cách giải khác nhau để tìm ra lời giải hợp lý nhất.
c.Sáng tạo:Học sinh nghĩ ra cách giải mới độc đáo hoặc cấu tạo những bài tập
mới, hoặc cố gắng lắp đặt những thí nghiệm mới để chứng minh bài học. Dĩ nhiên mức độ

Formatted:
0.3


Condensed

sáng

Condensed

pt

by

Formatted:
by

0.3

pt

Formatted: Level 3

tạo của học sinh là có hạn nhưng đó chính là mầm mống để sáng tạo về sau.16
1.3.4. Mức độ tích cực của học sinh
Về mức độ tích cực của học sinh có thể dựa vào một số dấu hiệu sau:
- Có tự giác học tập không hay bị bắt buộc bởi những động tác bên ngoài? ( gia
đình, bạn bè, xã hội...).

Formatted: Justified, Line spacing: 1.5
lines Formatted: English (United States)
Formatted: Tab stops: 0", Left + Not at
0.38"



12

- Thực hiện nhiệm vụ của thầy theo yêu cầu tối thiểu hay tối đa?

Formatted: Line spacing: Multiple 1.52 li

- Tích cực nhất thời hay thường xuyên, liên tục?
- Tích cực ngày càng tăng dần hay giảm dần?
- Có kiên trì vượt khó hay không? 16
1. 3.5. Nguyên nhân của tính tích cực trong nhận thức.
Tính tích cực nhận thức của học sinh tuy nảy sinh trong quá trình học tập nhưng

Formatted: Level 3, Line spacing: Multiple
1.52 li
Formatted: Line spacing: Multiple 1.52 li

nó là hậu quả của nhiều nguyên nhân: có những nguyên nhân phát sinh lúc học tập, có
những nguyên nhân hình thành từ quá khứ, thậm chí từ lịch sử lâu dài của nhân cách.
Nhìn chung, tính tích cực nhận thức phụ thuộc vào các nhân tố sau đây: Hứng thú,
nhu cầu, động cơ, năng lực, ý chí, sức khoẻ, môi trường.
Những nhân tố trên đây, có những nhân tố có thể hình thành ngay, nhưng có
những nhân tố chỉ được hình thành qua một quá trình lâu dài dưới ảnh hưởng của rất
nhiều tác động.
Như vậy, việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh đòi hỏi một kế
hoạch lâu dài và toàn diện khi phối hợp hoạt động gia đình, nhà trường và xã hội.
1. 3.6. Biện pháp của tính tích cựu trong nhận thức
1. 3.5. Nguyên nhân của tính tích cực trong nhận thức.
Phát huy tính tích cực nhận thức không phải là vấn đề mới. Từ thời cổ đại, các
nhà sư phạm tiền bối như Khổng Tử, Aritstot... đã từng nói đến tầm quan trọng to lớn

của việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và đã nói lên nhiều biện pháp
phát huy tính tích cực nhận thức.
J.A.Komenxki – nhà sư phạm lỗi lạc của thế kỉ 17 đã đưa ra những biện pháp dạy
học bắt học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ để tự nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng.
J.J.Ruxô cũng cho rằng phải hướng học sinh tính tích cực tự giác giành kiến thức
bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng tạo.
A. Distecvec thì cho rằng người giáo viên tồi là người cung cấp cho học sinh chân
lí, người giáo viên giỏi là người dạy cho họ tìm ra chân lí.

Formatted: English (United States)
Formatted: Level 3, Line spacing:
Multiple
1.52 li
Formatted: Line spacing: Multiple 1.52 li


13

K.D. Usinxki nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đièu khiển, dẫn dắt học sinh

Formatted: Expanded by 0.2 pt

của thầy giáo.
Trong thế kỉ 20, các nhà giáo đều kiếm tìm con đường tích cực hoá hoạt động

Formatted: Condensed by 0.3 pt

dạy học. Chúng ta thường kể đến tư tưởng của các nhà giáo dục nổi tiếng như B.P.Êxipôp,
M.A. Danilôp, M.N. Xeatkin, I.F. Kharlamôp, L.I. Xamôva (Liên Xô), Okon (Ba Lan),
Skinner (Mĩ)... Ở Việt Nam, các nhà lí luận dạy học cũng đã viết nhiều về tích cực


Formatted: English (United States),
Condensed by 0.3 pt

nhận thức, tư tưởng dạy học tích cực đã là một chủ trương quan trọng của ngành giáo

Formatted: Condensed by 0.3 pt

dục nước ta.
Các biện pháp nâng cao tính tích cực nhận thức của học sinh trong giờ lên lớp

Formatted: English (United States),
Condensed by 0.3 pt
Formatted: Condensed by 0.3 pt
Formatted: No widow/orphan control

được phản ánh tóm tắt như sau:
- Nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu.
- Nội dung dạy học phải mới, nhưng cái mới đây không phải quá xa lạ với học
sinh, cái mới phải liên hệ và phát triển cái cũ. Kiến thức phải có tính thực tiễn, gần gũi
với sinh hoạt, với suy nghĩ hàng ngày, thoả mãn nhu cầu nhận thức của các em.
- Phải dùng phương pháp dạy học đa dạng: Nêu vấn đề và giải quyết vấn đề, đàm
thoại, thuyết trình...làm việc độc lập và phối hợp chúng với nhau.
- Kiến thức phải được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu thuẫn với nhau.

Formatted: Condensed by 0.4 pt

Những vấn đề quan trọng, các hiện tượng then chốt có lúc diễn ra một cách đột ngột, bất
ngờ.
- Sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt ở các lớp nhỏ. Dụng cụ trực quan có

tác dụng tốt trong việc kích thích hứng thú của học sinh.
- Sử dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau: Cá nhân, nhóm, tập thể, tham
quan, làm việc trong phòng thí nghiệm...
- Luyện tập dưới các hình thức khác, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, vào các
tình huống mới.
- Kích thích tính tích cực qua thái độ, cách ứng xử giữa giáo viên với học sinh,
động viên, khen thưởng của thầy cô và bạn bè khi có thành tích tốt.
1.4. Tự học.
1.4. 1. Khái niệm tự học.

Formatted: Level 2, No widow/orphan control


14

Trong quá trình dạy học ở nước ta hiện nay, tự học của người học đang là vấn đề
đặc biệt được quan tâm. Để học được suốt đời thì phải có khả năng tự học. Khả năng
này cần rèn luyện ngay trong khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Lí thuyết dạy học theo cơ chế “ chuyển vào trong ” thế giới nội tâm của người học
kho tàng tri thức, tri thức trở thành tài sản riêng của người học là lý thuyết có ý nghĩa
sâu sắc để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học. Muốn tri thức tự nhiên và xã hội
trở thành tài sản riêng của người học thì người học dưới sự hướng dẫn, tổ chức, khơi
gợi của người dạy họ phải thực sự có tự do nội tâm ( hoạt động nhận thức rất tích cực,
khả năng liên tưởng, tưởng tượng và được phát triển cá tính ) và niềm đam mê cao cả
( động cơ học tập ).
Vì vậy, quá trình dạy học phải bao hàm dạy tự học. Cho nên việc dạy học trước hết
rèn luyện năng lực tự học sách giáo khoa cho học sinh để từ đó giúp học sinh biết phương
pháp tự học, tự học suốt đời trong xã hội học tập là một yêu cầu cực kỳ quan trọng và có
tính tất yếu. Dạy học sinh có phương pháp tự học với hạt nhân của động cơ học tập mạnh
mẽ, sâu sắc là con đường cơ bản giúp các em giải quyết tốt nhiệm vụ học tập theo yêu cầu

của mục tiêu đào tạo. Việc dạy tự học đương nhiên chỉ có thể thực hiện được trong một
cách dạy học mà người học là chủ thể, tự họ hoạt động để đáp ứng nhu cầu của xã hội
đã chuyển hoá thành nhu cầu của chính bản thân họ.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về tự học:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đào tạo, GS. Viện sĩ Nguyễn Cảnh
Toàn - một tấm gương lớn về tự học cho rằng: “ Tự học là tự mình động não, suy nghĩ,
sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ
bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ tình
cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan.....để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó
của nhân loại, biến lĩnh vực đó trở thành sở hữu của mình”  24
Còn theo cố GS. Nguyễn Văn Đạo ( Đại học Quốc gia Hà Nội ) đã có
một vài

Formatted: No widow/orphan control


15

suy nghĩ chung về vấn đề tự học: “ Tự học là công việc suốt cả cuộc đời mỗi người. Số
thời gian dành cho việc học với sự giúp đỡ của người thầy là rất ít, chỉ chiếm khoảng
1
4

của một đời người. Thời gian còn lại chủ yếu là dành cho việc tự học, cho lao động

sáng tạo. Ngay cả trong giai đoạn đi học, việc tự học luôn luôn có vai trò quan trọng.
Những người biết tự học, năng động, sáng tạo trong quá trình đi học là những người
có triển vọng và tiến xa trong cuộc đời này
Tự học là con đường tao ra tri thức bền vững cho mối con người trong quá trình
học hỏi thường xuyên của cả cuộc đời. Quá trình tự học diễn ra đúng quy luật của hoạt

động nhận thức. Kiến thức tự học là kết quả của hứng thú, của tìm tòi, của lựa chọn,
của định hướng ứng dụng. Kiến thức tự học bao giời cũng vững chắc, bền lâu, thiết
thực và nhiều sáng tạo. Tự học xét cho kỹ là một vấn đề then chốt của Giáo dục và Đào
tạo, đồng thời cũng là vấn đề có ý nghĩa văn hoá, khoa học, xã hội và chính trị sâu sắc.
Đề cao tự học trong suốt bối cảnh hiện nay của đất nước và thế giới là một cách nhìn
vừa thực tế, vừa có ý nghĩa chiến lược.
Như vậy, có thể nói là con người ai cũng phải học, khi nói đến học thì điều đương

Formatted: Condensed by 0.2 pt

nhiên là phải tự học, chính là cách học với sự tự giác, tính tích cực và độc lập cao của từng
các nhân. Chính hoạt động tự học tạo cơ hội cho người học phát huy được trí tuệ, tư duy
đồng thời giúp học sinh có lòng ham học. Kết quả tự học cao hay thấp còn phụ thuộc vào
năng lực của mỗi cá nhân, khả năng tự học tiềm ẩn trong mỗi con người.
1.4. 2. Vai trò của việc tự học của học sinh
Tự học có vai trò và có ý nghĩa rất lớn, không chỉ trong giáo dục nhà
trường mà nó còn có ý nghĩa cả trong cuộc sống. Trong nhà trường, bản chất của sự
học là tự học. Do đó mà kết quả học tập của học sinh tỷ lệ thuận với năng lực tự học
của họ. Ngoài ra, tự học còn tạo điều kiện hình thành và rèn luyện khả năng hoạt động
độc lập, sáng tạo của mỗi người, trên cơ sở đó tạo tiền đề và cơ hội cho họ học tập suốt
đời.
Theo V.P.Xtơrôcôrin tổ chức tự học cho học sinh có những vai trò sau:

Formatted: Level 3, Indent: First line: 0.5"


16

- Nâng cao tính tích cực tự giác và tính vững chắc trong việc nắm kiến thức của
học sinh.

- Rèn cho học sinh kĩ năng, kĩ xảo được quy định trong chương trình của mỗi bộ
môn, phù hợp với mục đích của nhà trường.
- Dạy cho học sinh biết cách áp dụng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đã thu nhận được vào
cuộc sống và lao động công ích.
- Phát triển khả năng nhận thức của học sinh ( tính quan sát, tính ham hiểu biết,
khả năng tư duy lôgíc, tính tích cực sáng tạo).
- Luyện cho học sinh khả năng lao động có kết quả, biết say mê vươn tới mục
đích đặt ra.
- Chuẩn bị cho học sinh để các em có thể tiếp tục tự học một cách có kết quả.
- Tự học là biện pháp tối ưu làm tăng độ bến kiến thức ở mỗi học sinh.
1.4.3. Nội dung hoạt động tự học
Theo tác giả Thái Duy Tuyên:“tự học là hoạt động chiếm lĩnh kiến thức kỹ năng, kỹ
xảo và kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người nói chung của chính bản thân người học”
Có nhiều cách tự học khác nhau:
- Tự học dưới sự hướng dẫn của thầy như tự học của học sinh, sinh viên, thực tập
sinh, nghiên cứu sinh...
- Tự học không có hướng dẫn của thầy ( liên quan đến những người đã trưởng
thành, những nhà khoa học )
- Tự học trong cuộc sống ( Các nhà văn, các nhà kinh tế, các nhà chính trị xã
hội...) Như vậy, hình thức và đối tượng tự học hết sức phong phú và đa dạng. Đối với
mỗi con người trong suốt cuộc đời đều phải kinh qua các dạng tự học trên.
Về nội dung hoạt động tự học cần bao gồm các nội dung cơ bản sau:
Một là: Chuẩn bị cho hoạt động tự học:
a) Xác định nhu cầu và động cơ, kích thích hứng thú học tập.
b) Xác định mục đích và nhiệm vụ dạy học
c) Xây dựng kế hoạch.
Hai là: Tự lực nắm vững nội dung học vấn:

Formatted: Level 3, Indent: First line:
0.5" Formatted: Condensed by 0.2 pt



17

a) Lựa chọn tài liệu và hình thức tự học.
b) Tiếp cận thông tin.
c) Xử lý thông tin.
d) Phổ biến thông tin.
Ba là: Kiểm tra và đánh giá. 31
1.4.4. Nội dung công việc học tập ở nhà về môn vật lí
Theo tác giả Nguyễn Đức Thâm: “dù bài giảng của giáo viên ở trên lớp
có đạt
hiệu quả cao, kích thích được tính tích cực và tính tự lực của học sinh thì vẫn phải coi
trọng sự tổ chức việc học tập ở nhà của học sinh về môn học của mình.”
Sở dĩ như thế trước là vì thời gian giảng bài và luyện tập trên lớp bao giờ
cũng có hạn, học sinh chưa thể nào kịp lĩnh hội sâu sắc kiến thức và vận dụng thành
thạo, linh hoạt kiến thức. Mặt khác việc học tập ở nhà đòi hỏi học sinh, phải làm việc
một cách có ý thức, tích cực và ở mức độ cao hơn hẳn so với học tập ở lớp, và điều này
là hoàn toàn cần thiết trong việc xây dựng các kiến thức vững chắc về vật lý và rèn
uyện kỹ năng, kỹ xảo và vận dụng kiến thức của học sinh. Giáo viên vật lý tổ chức
được tốt việc học ở nhà của học sinh về môn học của mình vừa phát huy được hiệu quả
của bài giảng trên lớp, đồng thời cũng là chuẩn bị cho học sinh, tiếp thu tốt các kiến
thức ở bài giảng mới. Như thế khâu học tập ở nhà của học sinh rõ ràng là một khâu
quan trọng trong qúa trình học tập, có tác động lớn đến chất lượng kiến thức vật lý của
học sinh.
Nội dung công việc học tập ở nhà của học sinh về môn vật lý cần bao gồm các
loại công việc theo trình tự sau:
1. Phục hồi các kiến thức vừa nghiên cứu tại lớp: đọc sách giáo khoa, làm lại thí
nghiệm cần thiết, bổ sung các cách ghi chép, hình vẽ, đồ thị....
2. Giải bài tập, bắt đầu từ những bài tập có tính chất luyện tập đơn thuần rồi đến

những bài tập có tính sáng tạo, rèn luyện tư duy.
3. Ôn tập kiến thức cần cho bài học sắp tới.

Formatted: Level 3, Indent: First line: 0.5"


18

4. Ôn tập thường xuyên trong một năm.
Việc tổ chức hoạt động tự học chỉ đạt được hiệu quả nếu thoả mãn các yêu cầu
- Công việc tự học ở nhà phải thích hợp với từng loại học sinh cá biệt, giỏi hoặc
kém. Ngoài những bài làm chung cho toàn lớp phù hợp với học sinh trung bình cần
phải có thêm những bài phụ dành cho học sinh kém để giúp đỡ thêm điều kiện hoàn
thành các bài làm chung, đồng thời lại có những bài làm bổ sung cho học khá để phát
triển tài năng của học sinh.
- Trong những trường hợp cần thiết có thể có những hướng dẫn để họ vượt qua
được những khó khăn sẽ gặp phải.
- Nhất thiết phải kiểm tra thường xuyên việc thực hiện của học sinh.  22
1.5. Năng lực tự học.
1.5.1. Khái niệm năng lực tự học
Ta đã biết học có nghĩa là tự học, có hai cách học cơ bản.
- Cách học có phần bị động, từ ngoài áp vào dựa theo mô hình Pavlốp.
- Cách học chủ động, tự bản thân mình tìm ra kiến thức theo mô hình
Skinner.
Về cách tự học thì mỗi người một vẻ tuỳ theo tư chất, điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể.Năng lực tự học luôn tiềm ẩn trong mỗi con người. Vậy năng lực tự học chính là
nội lực phát triển của bản thân mỗi người học.
Tiếp xúc với các nguồn kiến thức khác nhau, học sinh cần có kĩ năng hành
động tương ứng. Khi học sinh biết cách tổ chức, thu thập, xử lý thông tin, tự kiểm tra,
tự điều chỉnh khi làm việc với các nguồn tri thức nghĩa là đã nắm được phương pháp để

tự học trên lớp và tự học. Muốn thực hiện hoạt động học cần biết lựa chọn các hành
động học có mục đích phù hợp, đáp ứng mục đích chung, của hoạt động học, biết sắp
xếp trình tự các hành động một cách hợp lý, biết thực hiện các hành động học có kết
quả. Người nào biết lựa chọn, sắp xếp thực hiện đúng qui trình để đạt tới mục đích hoạt
động thì người đó biết phương pháp học.

Formatted: Level 2
Formatted: Level 3, Indent: First line: 0.5"
Formatted: Indent: First line: 0.5"


19

Theo Nguyễn Kì trong bất cứ con người Việt nam nào trừ những người bị
khuyết tật, tâm thần - đều tiềm ẩn một tiềm lực, một tài nguyên quốc gia vô cùng quý
giá đó là năng lực tự tìm tòi, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề thực tiễn, tự giải quyết
vấn đề thực tiễn, tự đổi mới, tự sáng tạo trong công việc hàng ngày gọi chung là năng
lực sáng tạo.
1.5. 2. Vai trò của năng lực tự học

Formatted: Level 3, Indent: First line: 0.5"

Năng lực tự học sáng tạo đã làm nên biết bao nhà quan sự, chính trị, khoa học
và văn hoá lỗi lạc của đất nước, của thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại
của dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất của thế giới chính là tấm gương lớn của năng
lực tự học sáng tạo.
Năng lực tự học có bốn vai trò chính sau:
+ Tự tìm ra ý nghĩa, làm chủ các kĩ năng, kĩ xảo nhận thức, tạo ra cầu nối nhận
thức trong tình huống học .
+ Làm chủ tri thức hiện diện trong chương trình học và tri thức siêu nhận thức

qua các tình huống học.
+ Tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lượm và xử lí thông
tin từ môi trường xung quanh mình.
+ Tự học, tự nghiên cứu, tự mình tìm ra kiến thức bằng hành động của chính
mình, cá nhân hoá việc học, đồng thời hợp tác với các bạn trong cộng đồng lớp học
dưới sự hướng dẫn của giáo viên – xã hội hoá lớp học.
1. 6. Tính tự lực học tập 33

Formatted: Level 2, Indent: First line: 0.5"

1.6.1. Cở sở lý luận của tính tự lực học tập

Formatted: Level 3, Indent: First line:

1.6.1.1. Bản chất của tính tự lực

0.5" Formatted: Font: Not Bold

a) Khái niệm tính tự lực

Formatted: Indent: First line: 0.5"

Tính tự lực là một trong những phẩm chất trung tâm của nhân cách, thể hiện ở:
- Sự tự làm lấy, tự giải quyết lấy vấn đề, không a dua, không ỷ lại, nhờ cậy
người khác.

Formatted: Indent: First line: 0.5"


20


- Sự tự làm lấy bắt đầu từ những việc đơn giản như tự uống, tự ăn, tự thu dọn
đồ chơi..., nhưng tự lực làm hoàn chỉnh bắt đầu từ việc đặt mục đích, nhiệm vụ, tổ chức
hoạt động, kiểm tra, đánh giá trên cơ sở sủ dụng tối đa các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của
mình với sự

Formatted: English (United States)

lỗ lực tối đa về trí tuệ, tâm hồn thể lực và ý chí nhằm đạt mục đích đề ra và thoả
mãn yêu cầu xã hội
Nếu đặc trưng chủ yếu của tính tích cực là sự nỗ lực bản thân, thì đặc trưng

Formatted: Indent: First line: 0.5"

của tính tự lực lại là ở mối quan hệ với người khác: không dựa dẫm vào người khác,
hết sức tiết kiệm nhờ cậy.

Formatted: Indent: First line: 0.5"


21

b) Các loại tính tự lực
Nhìn chung có hai loại tính tự lực:Tính tự lực nhận thức; Tính tự lực hành động.
Trong thực tế, nhiều người suy nghĩ rất chủ động, nghĩa là độc lập trong nhận
thức, trong tư duy, nhưng trong hoạt động thực tiễn lại hay dựa dẫm, ỷ lại. Trường hợp
này thường hay rơi vào các tầng lớp trí thức.
Ngược lại, người chiến sĩ, công nhân, nông dân lại rất chủ động, xông xáo trong
các hoạt động thực tiễn, nhưng trong học tập, nghiên cứu, nhiều trường hợp lại
tỏ ra rụt rè, e ngại.

c) Về cấu trúc
Tính tự lực là một phẩm chất có tính chất tổng hợp, liên quan đến những phẩm
chất và năng lực khác, như:
- Kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo. Đây là một nhân tố rất quan trọng để tạo nên tính
chất tự lực, vì chỉ có thể tự lực hoạt động khi nhận thức được sâu sắc bản chất của sự
vật, hiện tượng và nắm chắc phương pháp hoạt động.
- Niềm tin vào sự đúng đắn của công việc mình làm, vào năng lực bản thân.
Niềm tin này tạo ra sự vững vàng, sự kiên định về tâm thế, không dao động trước
những tác động bên ngoài.
- Có tình cảm, hứng thú, yêu thích kết quả và quá trình tự hoạt động. Những yếu
tố này kích thích tính tự giác của hoạt động mà không phải dùng sức mạnh của ý chí.
Thí dụ, đi hỏi vợ thì dù người rụt rè, dút dát đến đâu cũng là một hoạt động tự lực.
- Có nhu cầu, động cơ. Nhu cầu và động cơ càng mạnh thì tính tự lực càng cao.
- Có sự lỗ lực của ý chí.
- Thể chất tốt và có lòng dũng cảm. Đây là cơ sở vật chất cần thiết đảm bảo cho
hoạt động tự lực.
- Có tính quyết đoán, dứt khoát, rõ ràng, không chần chừ, do dự.
- Có tính mục đích và có tính kỷ luật.
- Tính kiên trì, nhẫn nại, không sờn lòng nản chí trước khó khăn.
- Tính kế hoạch, năng lực tổ chức làm cho hoạt động tự lực đạt hiệu quả.


22

- Thói quen tự lực, không trông chờ ỷ lại cũng là một phẩm chất cần được rèn
uyện từ nhỏ để trở thnàh một thói quen, một phản xạ tự nhiên của con người mà không
cần vận dụng sức mạnh của trí tuệ và ý chí.
1.6.1.2. Vai trò của tính tự lực trong việc hình thành nhân cách.
a) Tính tự lực có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách.


Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Indent: First line:
0.5"

Khi con người đã có một ít vốn sống, đã tích luỹ được những kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo nhất định, họ muốn tự hoạt động dưới những hình thức khác nhau để thoả mãn
nhu cầu cá nhân. Trong quá trình này họ sẽ gặp nhiều khó khăn ttrong việc giải quyết
các vấn đề đặt ra để đạt đến mục đích. Vì vậy , họ phải tiếp tục học hỏi, đúc rút kinh
nghiệm, suy nghĩ tìm tòi... và nhờ vậy mà năng lực ngày càng hoàn thiện hơn. Các
phẩm chất như tính kiên trì, vượt khó, không ngại gian khổ, khiêm tốn, giản dị, tự lực
tự cường... được rèn luyện và phát triển.
Để hoàn thành được công việc của mình, con người cần có thân thể khoẻ mạnh,
dẻo dai, vì vậy họ cũng quan tâm đến việc rèn luyện thể lực.
Sự thành công trong quá trình tự lực hoạt động thường mang lại niềm vui, hạnh
phúc lớn lao và niềm tin vào bản thân, vào bạn bè, đồng chí.
Vì vậy, hoạt động tự lực có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển
nhân
cách.

Formatted: Condensed by 0.3 pt
Formatted: Indent: First line: 0.5"

Các nhà sư phạm tiền bối đều rất coi trọng các hoạt động tự lực. J.A.Komensky
đã đưa ra luận điểm: “sự phát triển của mọi vật đều bắt nguồn từ bên trong” và rất coi
trọng tính tự lực. Ông thường dùng hình ảnh quả trứng và con gà. Khi được đặt ở một
nhiệt độ nhất định, quả trứng tự vận động nội tại để trở thành con gà, mà hoàn toàn
không cần một tác động nào từ bên ngoài.
b) Tính tự lực có ảnh hưởng đến tính tích cực, sáng tạo
Tính tích cực và tính tự lực có liên quan mật thiết với nhau.Khi đã hoạt động
tự lực có nghĩa là không dựa dẫm vào người khác, mà phải phát triển năng lực chủ

quan, phải nỗ lực phát huy sức mạnh bản thân: trí tuệ, tâm hồn, ý chí thể lực...để giải
quyết vấn đề. Như vậy , giữa tính tích cực và tính tự lực có mối quan hệ chặt chẽ.

Formatted: Indent: First line: 0.5"


23

Tính tự lực cũng có quan hệ chặt chẽ với tính sáng tạo.Để phát hiện ra một

Formatted: Condensed by 0.2 pt

vấn đề mới mà chưa ai biết, con người phải tiến hành một quá trình tư duy và tưởng tượng
trên cơ sở tái hiện những vấn đề đã biết. Như vậy, về bản chất quá trình sáng tạo là một
quá trình làm việc độc lập lâu dàivà gian khổ của cá nhân, nó manh màu sắc cá nhân rõ
nét.
c) Tính tự lực và rèn luyện đạo đức tư cách
Khi con người tự lực hoạt động, dù hoạt động chân tay hay trí óc họ đều được
rèn luyện các phẩm chất như: tính chính xác, thận trọng, vì những phẩm chất này là cần
thiết để đảm bảo chất lượng công việc; quý trọng thành quả lao động, biết thương yêu
người lao động vì cảm nhận được nỗi vất vả của họ, biết đoàn kết gắn bó với tập thể vì
các sản phẩm lao động thường là do công sức của nhiều người; được trải nghiệm niềm
hạnh phúc của sự thành công và nếm mùi cay đắng khi thất bại...
Tính tự lực làm cho con người được rèn luyện trong thực tiễn, sớm trưởng
thành, phát triển tốt cả trí tuệ, tâm hồn ý chí và sức khoẻ.
d) Tính tự lực và cảm xúc
Trong vòng hơn một thập kỷ trở lại đây việc nghiên cứu trí tuệ, xúc cảm đang
nổi lên, thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều người. Hiện nay người ta đã chứng minh
được rằng trí thông minh, xúc cảm có vai trò ta lớn cho những thành tích xuất sắc, sự
thăng tiến nghề nghiệp trong cuộc đời mỗi con người. Đặc biệt trong xã hội phát triển,

khi mà khoa học kỹ thuật, kèm theo đó là tự duy con người được đề cao, dễ dẫn đến
con người sống trong môi trường duy lý cực đoan, vô cảm, tàn lụi đi những cảm xúc
tích cực, thì trí thông minh xúc cảm hết sức cần thiết để đảm bảo cho sự cân bằng về trí
tuệ và cảm xúc trong mỗi con người, cho sự phát triển cá nhân và xã hội. Trí thông
minh xúc cảm được nhận diện như là năng lực làm chủ, điều khiển , kiểm soát tình
cảm, xúc cảm của mình và của người khác để tách biệt các phạm trù này, để sử dụng
thông tin này, định hướng cách suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân. Cấu trúc của
trí thông minh xúc cảm bao gồm hai năng lực

Formatted: Line spacing: 1.5 lines


24

* Năng lực cá nhân : Tự biết mình (nhận biết xúc cảm của mình, đánh giá mình,
tự tin); Tự kiểm soát, quản lý mình ( kiểm soát xúc cảm, có lòng tin, tự ý thức, thích
ứng, động cơ thành đạt, sáng tạo)
* Năng lực xã hội : Nhận biết các quan hệ xã hội; Quản lý, điều khiển các mối quan

Formatted: Line spacing: Multiple 1.45
li, No widow/orphan control

hệ xã hội; Qua quá trình tự lực hoạt động phong phú và đa dạng, tình cảm, xúc cảm lành
mạnh của con người được rèn luyện và phát triển. Đó là một thế mạnh của hoạt động tự
lực trong việc hình thành nhân cách.
1.6.1.3. Những biểu hiện của tính tự lực của học sinh THPT

Formatted: Font: Not Bold

Quá trình hình thành và phát triển tính tự lực của các em thay đổi theo lứa tuổi


Formatted: Indent: First line: 0.5", Line
spacing: Multiple 1.45 li, No
widow/orphan control

và đến khoảng 18 tuổi thì định hình về cơ bản.Tính tự lực có ở mọi người, tuy nhiên
mức độ thể hiện tuỳ thuộc vào đặc điểm cá nhân, điều kiện sống và điều kiện giáo

Formatted: Line spacing: Multiple 1.45
li, No widow/orphan control

dục.Tính tự lực của học sinh THPT biểu hiện ở
- Sự khao khát chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng.
- Tự khẳng định mình trong các hoạt động tập thể, lao động, học tập, giao tiếp và
trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống.
- Có kỹ năng tự đặt mục đích và nhiệm vụ hoạt động, biết lựa chọn các phương
tiện, vật liệu cho hoạt động, sơ bộ lập kế hoạch hoạt động, tự điều khiển bản thân, so
sánh kết quả với mục đích.
- Khả năng di chuyển cách thức hoạt động đã biết vào hoàn cảnh mới, tổng hợp
chúng và phân loại chúng theo kinh nghiệm, kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo đã có, thể hiện
cách làm sáng tạo.
- Sự nỗ lực của ý chí, khả năng biết vượt khó khăn để đạt mục đích.
1.6.2. Kỹ năng xây dựng kế hoạch tự học.
Để tính tự lực học tập trở thành hiện thực, một nhân tố rất quan trọng là

Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Indent: First line: 0.5", Line
spacing: Multiple 1.45 li, No
widow/orphan control


phải bồi dưỡng kĩ năng tự học cho các em.Sau đây chúng tôi sẽ trình bày vấn đề quan
trọng này.
Có kế hoạch tự học tốt là một trong những điều kiện ban đầu quan trọng để thành
công trong học tập. Sau đây sẽ trình bày những nguyên tắc xây dựng kế hoạch học tập
và trình tự của việc lập một kế hoạch học tập.

Formatted: Line spacing: Multiple 1.45
li, No widow/orphan control


25
1.6.2.1. Kế hoạch tự học

Formatted: Font: Not Bold

Kế hoạch tự học là sự sắp xếp các nội dung học tập được tiến hành trong thời

Formatted: Indent: First line: 0.5", Line
spacing: Multiple 1.45 li, No
widow/orphan control

gian hợp lý của mỗi cá nhân nhằm thực hiện tốt chương trình đào tạo. Các nội dung
của kế hoạch tự học được cá nhân xác định trên cơ sở dựa vào kế hoạch dạy học chung

Formatted: Line spacing: Multiple 1.45
li, No widow/orphan control

của nhà trường.
Xác định nội dung tự học phải hướng tới bổ xung và hoàn thiện kiến thức, đào
sâu và mở rộng những hiểu biết, hoàn thành những nhiệm vụ học tập được giao của

mỗi cá nhân thực hiện.
1.6.2.2. Nguyên tắc xây dựng kế hoạch tự học
a) Bảo đảm thời gian tự học cho từng môn học tương xứng với lượng thông tin

của môn học đó 32 .
Tth = a.T.k
Trong đó:
Tth: thời gian tự học tối thiểu cho môn học.
T: số tiết trên lớp của môn học
a: Hệ số phụ thuộc điều kiện khách quan và chủ quan ( hứng thú với môn học,
sự cần thiết phải đầu tư thời gian, công sức.... 0 < a  1)
k: Tỉ lệ trong tự học và lên lớp của môn học
k = Tổng Tth / Tổng Tng
Tng: Thời gian nghe giảng
b) Đảm bảo xen kẽ luân phiên một cách hợp lý các dạng tự học, các môn học có
tính chất khác nhau
Trong quá trình tự học người học sẽ phải tiến hành lao động trí óc căng thẳng,
vỏ não bị hưng phấn ở những vùng nhất định. Nếu chỉ dùng một kích thích ( học một
môn, một hình thức học ) thì vỏ não sẽ bị ức chế và điều này dẫn tới năng lực của
người học sẽ giảm sút. Để khắc phục người học cần thay đổi luân phiên các dạng hoạt
động tự học, chẳng hạn có thể chuyển từ đọc sách, nghiên cứu lý thuyết sang làm bài

Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Indent: First line:
0.5"


×