TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Hiện nay, “Dạy học hướng vào người học” là luận điểm then chốt của lý
luận dạy học hiện đại, là bản chất của đổi mới phương pháp dạy - học mà Bộ
GD&ĐT đang thực hiện. Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) thể hiện
rất rõ quan điểm này với một loạt hoạt động đổi mới: đổi mới về tổ chức lớp học,
về tài liệu dạy – học, về phương pháp dạy – học, về đánh giá học sinh, về quan hệ
với cha mẹ học sinh và cộng đồng. Được bắt đầu triển khai thí điểm từ năm 2012,
cho đến nay, mô hình trường học mới này đã nhận được những phản hồi cả tích
cực và chưa tích cực. Ưu điểm nổi bật của mô hình dạy học này là rèn luyện cho
học sinh sự tự tin, tích cực, bản lĩnh chủ động xử lý các tình huống trong cuộc
sống. Tuy nhiên, không phải đơn vị nào cũng có thể áp dụng ngay chương trình
sách giáo khoa mới cho học sinh, giáo viên giảng dạy. Hiện tại kinh phí để đầu tư
sách giáo khoa, cơ sở vật chất đáp ứng cho việc học tập hoàn toàn theo mô hình
trường học mới chưa thể đáp ứng. Đây chính là điểm khó khăn nhất hiện nay của
việc nhân rộng chương trình trường học mới ra các đơn vị trường học. Nhận thấy
những khó khăn trên tôi đã nghiên cứu các phương pháp giảng dạy của mô hình
trường học mới và áp dụng một phần các phương pháp giảng dạy này vào cho
chương trình sách giáo khoa hiện hành. Trên cơ sở áp dụng trong gần một năm
qua, tôi đã xây dựng thành sáng kiến kinh nghiệm: “Áp dụng một phần mô hình
trường học mới vào giảng dạy cho chương trình giáo dục hiện hành môn Tin
học”, bài viết bước đầu đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học
của mô hình mới này tại các trường trung học cơ sở.
Tính mới của của sáng kiến đề cập đến nội dung dạy học, đến hình thức tổ
chức và phương pháp dạy học, đến nội dung và phương pháp kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập. Sử dụng phương pháp dạy học theo mô hình mới áp dụng một
phần vào chương trình giảng dạy hiện nay. Đặc biệt là môn Tin học khối 6. Giúp
giáo viên có nhiều lựa chọn trong khâu thiết kế, đa dạng hình thức tổ chức và
phương pháp dạy học.
Giáo viên khi dạy áp dụng phương pháp mới giúp giáo viên củng cố, rèn
luyện phương pháp dạy học, giúp giáo viên hoàn thiện năng lực trong tổ chức hoạt
1
động học tích cực, tự lực và sáng tạo cho học sinh, đặc biệt quan tâm đến hoạt
động thực hành và ứng dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Giáo viên đã sử dụng được các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực để tổ
chức hoạt động học của học sinh, thay vì dạy học theo lối truyền thụ kiến thức thì
hạn chế này có thể được giải quyết triệt để.
Qua quá trình thực hiện giúp giáo viên trang bị thêm mặt kiến thức về mô
hình trường học mới; xác định những năng lực có thể phát triển cho học sinh trong
mỗi chủ đề; biên soạn các câu hỏi, bài tập để đánh giá năng lực của học sinh trong
dạy học; thiết kế tiến trình dạy học thành các hoạt động học của học sinh; tổ chức
dạy học để dự giờ, phân tích, rút kinh nghiệm. Qua các hoạt động chuyên môn đó,
năng lực chuyên môn của mỗi giáo viên từng bước được nâng cao, đáp ứng được
yêu cầu của đổi mới giáo dục.
Để thực hiện sáng kiến này, tôi đã tham khảo nhiều tài liệu chuyên ngành,
tiếp nhận các ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp, cũng như dựa trên những
kinh nghiệm có được của bản thân trong quá trình giảng dạy, học tập. Tuy nhiên
với kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế cho nên cũng không tránh khỏi những
thiếu sót trong quá trình làm sáng kiến. Rất mong nhận được sự quan tâm đóng
góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn
thiện hơn.
2
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Hiện nay, “Dạy học hướng vào người học” là luận điểm then chốt của lý
luận dạy học hiện đại, là bản chất của đổi mới phương pháp dạy - học mà Bộ
GD&ĐT đang thực hiện. Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) thể hiện
rất rõ quan điểm này với một loạt hoạt động đổi mới: đổi mới về tổ chức lớp học,
về tài liệu dạy – học, về phương pháp dạy – học, về đánh giá học sinh, về quan hệ
với cha mẹ học sinh và cộng đồng. Được bắt đầu triển khai thí điểm từ năm 2012,
cho đến nay, mô hình trường học mới này đã nhận được những phản hồi cả tích
cực và chưa tích cực. Ưu điểm nổi bật của mô hình dạy học này là rèn luyện cho
học sinh sự tự tin, tích cực, bản lĩnh chủ động xử lý các tình huống trong cuộc
sống. Sau một thời gian triển khai thử nghiệm, tổng kết, rút kinh nghiệm, rất nhiều
tác giả, với những công trình khoa học của mình, đã công bố những kết luận,
những bài học kinh nghiệm về bản chất cũng như thực trạng của quan điểm dạy
học mới này. Trong tài liệu tập huấn của Bộ GD&ĐT đã có những trình bày, kiến
giải tường minh, giản dị các vấn đề xoay quanh mô hình dạy học VNEN, rất phù
hợp với số đông giáo viên chưa có điều kiện tiếp cận với mô hình dạy học này.
Bên cạnh đó, để bắt đầu cho quá trình chuẩn bị và song song thực hiện dạy học mô
hình này trên một số địa bàn, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã tập hợp lực lượng chuyên
gia xây dựng một bộ tài liệu tập huấn đủ các chủ đề, các môn học bậc Tiểu học,
THCS. Bộ Tài liệu này bước đầu là những cẩm nang cho giáo viên trong viêc dạy
học theo mô hình tại địa phương. Tuy nhiên, thời gian chuẩn bị biên soạn chưa
nhiều nên tài liệu không tránh khỏi những bất cập, hạn chế (về mức độ khó, dễ của
bài tập, về sự dài, ngắn của dung lượng, về sự không phù hợp của phần ngữ liệu ,
…). Hơn thế nữa, không phải đơn vị nào cũng có thể áp dụng ngay chương trình
sách giáo khoa mới cho học sinh, giáo viên giảng dạy. Hiện tại kinh phí để đầu tư
sách giáo khoa, cơ sở vật chất đáp ứng cho việc học tập hoàn toàn theo mô hình
trường học mới chưa thể đáp ứng. Đây chính là điểm khó khăn nhất hiện nay của
3
việc nhân rộng chương trình trường học mới ra các đơn vị trường học. Nhận thấy
những khó khăn trên tôi đã nghiên cứu các phương pháp giảng dạy của mô hình
trường học mới và áp dụng một phần các phương pháp giảng dạy này vào cho
chương trình sách giáo khoa hiện hành. Trên cơ sở áp dụng trong gần một năm
qua, tôi đã xây dựng thành sáng kiến kinh nghiệm: “Áp dụng một phần mô hình
trường học mới vào giảng dạy cho chương trình giáo dục hiện hành môn Tin
học”, bài viết bước đầu đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học
của mô hình mới này tại các trường trung học cơ sở.
2. Cơ sở lý luận của mô hình trường học mới áp dụng cho chương
trình giáo dục hiện nay.
2.1. Giới thiệu về mô hình “Trường học mới” (VNEN)
Mô hình trường học mới Việt Nam là dự án do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối
hợp với Quỹ hỗ trợ phát triển giáo dục toàn cầu, triển khai ở các trường Tiểu học
trên toàn quốc từ 6/2012 đến 6/2015. Bắt đầu vào năm học 2015 – 2016 mô hình
này được phát triển và nhân rộng lên lớp 6 khối các trường THCS. Mô hình này
vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự
đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập,
phương pháp dạy học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất
phục vụ cho dạy – học.
Mô hình VNEN là một trong những mô hình nhà trường phát triển theo xu
hướng hiện đại, với định hướng tiếp cận là giáo dục năng lực của người học. Dựa
trên cơ sở mô hình dạy học truyền thống, Dự án GPE-VNEN đã tiến hành nghiên
cứu, chuyển đổi các thành tố trong Chương trình dạy học, đặc biệt các nội dung về
mặt sư phạm theo định hướng tiếp cận giáo dục của mô hình.
Mô hình VNEN là một quá trình chuyển đổi từ mô hình dạy học chủ yếu
truyền thụ kiến thức sang mô hình dạy học, giáo dục hình thành nhân cách và phát
triển năng lực của học sinh.
4
- Học sinh được học theo tốc độ phù hợp với trình độ nhận thức của cá
nhân; Nội dung học thiết thực, gắn kết với đời sống thực tiễn hàng ngày của học
sinh; Kế hoạch dạy học được bố trí linh hoạt; Môi trường học tập thân thiện, phát
huy tinh thần dân chủ, ý thức tập thể; Tài liệu có tính tương tác cao và là tài liệu
hướng dẫn học sinh tự học; Chú trọng kĩ năng làm việc theo nhóm hợp tác; Phối
hợp chặt chẽ giữa phụ huynh, cộng đồng và nhà trường; Tăng quyền chủ động cho
giáo viên và nhà trường, phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của các cấp quản lý
giáo dục địa phương.
- Tổ chức hội đồng tự quản lớp học và hướng dẫn, bồi dưỡng của giáo viên
cho các thành viên, các ban của Hội đồng tự quản lớp học;
- Sự hợp tác của phụ huynh học sinh và sự phối hợp của cộng đồng với giáo
viên và nhà trường;
- Tổ chức lớp học ở mô hình trường học mới VNEN (góc học tập, thư viện
lớp học, hòm thư cá nhân và hòm thư bạn bè, điều em muốn nói, sơ đồ cộng
đồng...).
- Vai trò của nhóm học tập, của giáo viên chủ nhiệm lớp.
Nhìn chung, theo tư tưởng đổi mới của mô hình VNEN, quá trình dạy học
và giáo dục, được hiểu là:
Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh. Tổ chức các hoạt
động học tập của học sinh cần phải trở thành trung tâm của quá trình giáo dục.
Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, phương pháp tư duy và phương
pháp giải quyết vấn đề. Đây là những phẩm chất và điều kiện tốt nhất để có thể
duy trì thói quen học tập thường xuyên và học tập suốt đời.
Tăng cường học tập của mỗi cá nhân, phối hợp với học hợp tác và học
nhóm. Học sinh là chủ thể của quá trình học, tự mình chủ động chiếm lĩnh kiến
thức. Tạo ra môi trường học tập tương tác, thày – trò, trò – trò vì thế nó có tác
dụng rất tốt để phát huy năng lực của mỗi cá nhân học sinh.
5
Dạy và học chú trọng tới sự quan tâm và hứng thú của học sinh, nhu cầu và
lợi ích của xã hội. Dạy học sinh trên những gì các em đã có, tạo hứng thú, óc tò
mò, sáng tạo cho học sinh. Học sinh phải biết cách làm việc độc lập, sáng tạo, biết
tổ chức công việc để giải quyết các đòi hỏi của xã hội và nhu cầu đa dạng, phức
tạp của công việc sau này.
Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tòi, học qua trải nghiệm. Giáo viên
hướng dẫn mang tính định hướng mà không có ý áp đặt trong quá trình học của
học sinh.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò, của gia đình, cộng đồng.
Ngoài đánh giá kết quả học (đánh giá kết thúc) rất coi trọng đánh giá bằng nhận
xét qua quá trình học của học sinh (đánh giá theo tiến trình, đánh giá theo từng
phần).
2.2. Thực trạng của phương pháp dạy học những năm gần đây.
Khi bàn về hiện trạng phương pháp dạy học những năm gần đây, chúng ta
phải tránh một nhận xét chung chung là: Chúng ta đã sử dụng phương pháp dạy
học lạc hậu trì trệ. Tuy nhiên, cũng không thể nói trong thực tế ngày nay phương
pháp truyền thống vẫn được coi là ưu việt, bởi thực chất của phương pháp dạy học
những năm vừa qua chủ yếu vẫn xoay quanh việc: “thầy truyền đạt, trò tiếp nhận,
ghi nhớ” thậm chí ở một số bộ môn do thúc bách của quỹ thời gian với dung lượng
kiến thức trong một giờ (đặc biệt ở các lớp có liên quan đến thi cử) dẫn đến việc
“thầy đọc trò chép” hay thầy đọc chép và trò đọc, chép”… Nói như vậy, cũng
không phủ nhận ở một số không ít các thầy cô giáo có ý thức và tri thức nghề
nghiệp vững vàng vẫn có nhiều giờ dạy tốt, phản ánh được tinh thần của một xu
thế mới.
Trong một thời gian dài, người thầy được trang bị phương pháp để truyền
thụ tri thức cho học sinh theo quan hệ một chiều: Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận. Ở
một phương diện nào đó, khi sử dụng phương pháp này thì các em học sinh – một
chủ thể của giờ dạy – đã “bị bỏ rơi” giáo viên là người sốt sắng và nỗ lực đi tìm
6
chiếc chìa khoá mở cửa cái kho đựng kiến thức là cái đầu của học sinh, và phải
đem bất kỳ một điều tốt đẹp nào của khoa học để chất đầy cái kho này theo phạm
vi và khả năng của mình. Còn người học sinh là kẻ thụ động, ngoan ngoãn, cố
gắng và thiếu tính độc lập. Ngoan ngoãn, bị động, nhớ được nhiều điều thầy đã
truyền đạt. Để chiếm được vị trí số một trong lớp, người học sinh phải có được
không phải một tính ham hiểu biết khôn cùng của một trí tuệ sắc sảo mà phải có
một trí nhớ tốt, phải thật cố gắng để đạt được điểm số cao trong tất cả các môn
học. Ngoài ra, phải chăm lo sao cho quan điểm của chính mình phù hợp với quan
điểm của thầy cô giáo nữa.
Trong phương pháp dạy học truyền thống, khoa sư phạm chú ý đến người
giáo viên và ít quan tâm tới học sinh. Học sinh như “cái lọ” mà người thầy phải
nhét đầy “lọ” này như thế nào? Tính thụ động của học sinh được bộc lộ rất rõ
ràng. Học sinh chỉ phải nhớ những gì người ta đã cung cấp cho nó ở trạng thái
hoàn thành. Trong phương pháp dạy học cũ, nguyên tắc thụ động biểu lộ ở hình
ảnh người giáo viên đứng riêng biệt trên bục cao trong lớp và cung cấp “cái mẫu”,
còn phía dưới là hình ảnh các học sinh ngồi thành hàng trên ghế, cùng làm một
công việc giống nhau là sao lại cái mẫu mà thầy đang cung cấp cho họ.
Nếu quan niệm nghệ thuật dạy học và nghệ thuật thức tỉnh trong tâm hồn
các em thanh thiếu niên tính ham hiểu biết, dạy các em biết suy nghĩ và hành động
tích cực, mà tính ham hiểu biết đúng đắn và sinh động chỉ có được trong đầu óc
sảng khoái. Nếu nhồi nhét kiến thức một cách cưỡng bức thì hiệu quả giáo dục
khó có thể như mong muốn, bởi để “Tiêu hoá” được kiến thức thì cần phải
“Thưởng thức chung” một cách ngon lành.
Để học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập thì tất yếu phải đổi
mới phương pháp giảng dạy.
7
3. Thực trạng của vấn đề áp dụng mô hình trường học mới vào dạy học
tin học hiện nay.
Thực tế hiện nay cho thấy giáo viên rất tích cực trong việc đổi mới phương
pháp, vận dụng quan điểm dạy học theo mô hình trường học mới vào giảng dạy ở
bộ môn Tin học để nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục. Giáo viên đã nêu ra
những thuận lợi cũng như khó khăn khi vận dụng quan niệm dạy học này, học sinh
có hứng thú tìm hiểu kiến thức. Tuy nhiên, việc vân dụng quan niệm dạy học này
cũng gặp phải những khó khăn nhất định như điều kiện dạy học còn nhiều hạn
chế, thiếu thốn, do lượng kiến thức nhiều song thời gian học cho tiết học thì ít;
Học sinh ít hứng thú với bài học. Đặc biệt là việc đáp ứng cơ sở vật chất, trang bị
sách giáo khoa mới theo mô hình trường học mới còn hạn chế, thiếu thốn. Gia
đình học sinh chưa có điều kiện trang bị sách giáo khoa, nhà trường chưa có kinh
phí đầu tư phòng học, lớp học, lắp đặt lại hệ thống máy tính... vì vậy mà việc phát
triển mô hình VNEN còn rất nhiều khó khăn, hạn chế.
Hơn nữa học sinh nông thôn hiện nay giao tiếp còn yếu. Sĩ số học sinh trong
lớp còn quá đông, rất khó cho việc chia nhóm, kê lại bàn ghế đủ cho học sinh
trong một lớp thực hiện dạy học theo mô hình mới. Theo quy chuẩn thì mô hình
trường học mới cần phòng học tối thiểu 100 m2 trong khi thực tế phòng học của
các lớp chỉ rộng 50 m2.
Không phát huy được khả năng sáng tạo của giáo viên: những hoạt động
ứng dụng cho học sinh rất rập khuôn; tài liệu dạy học được hướng dẫn quá tỉ mỉ.
- Học sinh rất ồn. Cách bố trí học nhóm tạo điều kiện cho một số em lười
học nói chuyện riêng trong khi cô giáo bận đi hướng dẫn các nhóm khác.
Để giải quyết những tồn tại và khó khăn này, mà vẫn có thể áp dụng các
phương pháp giảng dạy tích cực hiện đại vào giảng dạy, tôi chỉ muốn đưa ra một
số nội dung cơ bản, trong việc “Áp dụng một phần mô hình trường học mới
vào giảng dạy cho chương trình giáo dục hiện hành môn Tin học” để giải
quyết vấn đề nảy sinh trong quá trình dạy học.
8
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
Cần thiết phải có giáo án minh họa, đồ dùng, đồ chơi sáng tạo,… để chứng
minh khả năng áp dụng, tính mới, tính sáng tạo của giải pháp, biện pháp đưa ra
(đưa vào phần Phụ lục)
4.1. Đổi mới PPDH của giáo viên và phương pháp học tập của học sinh.
Mục tiêu tổng thể của việc áp dụng mô hình trường học mới vào chương
trình giáo dục hiện hành là nhằm phát triển con người: Dạy chữ – Dạy người.
Giải pháp thực hiện nhằm hướng tới chuyển các hoạt động giáo dục trong
nhà trường thành các hoạt động tự giáo dục cho học sinh.
Mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường đều Vì lợi ích của học sinh, Của
học sinh và do học sinh thực hiện. Sự kết hợp này nhằm hướng tới cho học sinh ý
thức được vai trò của mình trong việc chiếm lĩnh tri thức. Giáo viên có thể chủ
động trong tiết dạy
+ Học sinh:
Tự giác, tự quản;
Tự học, tự đánh giá;
Tự tin, tự trọng.
+ Giáo viên:
Tự chủ;
Tự bồi dưỡng.
+ Nhà trường:
Tự nguyện
- Tổ chức các hoạt động giáo dục Đạo đức, Thể chất, Nghệ thuật và Kĩ
năng sống cho học sinh.
4.2. Vai trò của giáo viên:
Từ đặc thù nêu trên, hoạt động của giáo viên đã thay đổi căn bản. Việc
chính của giáo viên là cùng học sinh xây dựng kiến thức, tùy nội dung bài học,
tiến trình lên lớp mà tổ chức lớp học thành các nhóm vàà̀ theo dõi, hướng dẫn hoạt
động của mỗi học sinh ở nhóm học tập.
Nhóm trưởng là người thay mặt giáo viên điều hành các thành viên trong
nhóm: tự giác, tích cực hoạt động, tự quản, tự học, tự tìm tòi, khám phá phát hiện
9
kiến thức theo sách giáo khoa. Mọi thành viên trong nhóm phải tự nghiên cứu tài
liệu, tự học, chia sẻ với bạn, báo cáo với nhóm kết quả học tập. Các thành viên
trong nhóm trao đổi, thống nhất và báo cáo kết quả học tập với giáo viên.
Giáo viên phải soạn bài, phải nghiên cứu kĩ bài học, hiểu rõ quá trình hình
thành kiến thức để tổ chức lớp học, chuẩn bị đồ dùng dạy học, điều chỉnh nội
dung, yêu cầu bài học cho phù hợp với đối tượng và dự kiến các tình huống khó
khăn mà học sinh dễ mắc phải trong quá trình hình thành kiến thức để có những
giải pháp hợp lí, kịp thời.
Qua đây cũng cần phải hiểu không thể để học sinh làm chủ hoàn toàn như
mô hình VNEN mà chỉ áp dụng một phần quá trình lên lớp. Từ đó tránh được
nhược điểm hiện nay của VNEN là nhiều khi tiết dạy trở lên quá lí tưởng, học sinh
trở lên rập khuôn, máy móc và hình thức. Từ đó dung hòa được nhược điểm của
phương pháp giảng dạy thuyết trình truyền thống và lại vận sáng tạo được lợi thế
của phương pháp mới.
4.3. Hoạt động của giáo viên:
Giáo viên không chọn vị trí thích hợp để quan sát được hoạt động của tất cả
các nhóm, các học sinh trong lớp như mô hình VNEN mà còn cùng học sinh gợi
mở lên những kiến thức trong bài học. Giáo viên hỗ trợ học sinh khi học sinh có
nhu cầu cần giúp đỡ hoặc giáo viên cần kiểm tra việc học của một học sinh, hoặc
một nhóm.
Thông qua quan sát, kiểm tra, giáo viên đánh giá sự chuyên cần, tích cực
của mỗi học sinh; đánh giá hoạt động của từng nhóm và vai trò điều hành của mỗi
nhóm trưởng.
Phát hiện những học sinh chưa tích cực, học sinh gặp khó khăn trong quá
trình học; kiểm tra, hỗ trợ kịp thời những học sinh yếu để giúp các em hoàn thành
nhiệm vụ học tập.
Đặt biệt giáo viên “Chốt” lại những vấn đề cơ bản của bài học, từ đó giải
quyết được nhược điểm của VNEN là giáo viên thường để việc nắm kiến thức
10
trọng tâm này cho nhóm trưởng hoặc chủ tịch hội đồng tự quản. Dẫn đến một số
học sinh không tự giác trong học tập sẽ không nắm được nội dung bài học.
Đánh giá hoạt động học của các cá nhân, các nhóm và cả lớp trong từng tiết
dạy, từ đó thúc đẩy quá trình học sinh học tập tích cực, tham gia vào các hoạt động
tìm kiếm, tiếp thu, xây dựng và hình thành kiến thức.
Tạo cơ hội để mỗi học sinh, mỗi nhóm tự đánh giá tiến trình học tập của
mình.
4.4. Dự giờ và đánh giá tiết dạy:
Người dự không tập trung quan sát, đánh giá hoạt động của giáo viên mà
đánh giá quá trình học, kết quả học của học sinh.
Việc đánh giá dựa vào các bước lên lớp của bài học, đánh giá hoạt động và
kết quả học tập của mỗi nhóm và mỗi học sinh, tập trung vào:
- Học sinh có thực sự tự học ?
- Học sinh có tự giác, tích cực ?
- Học sinh có thực hiện đúng các bước lên lớp ?
- Các nhóm có hoạt động đều tay, sôi nổi ?
- Nhóm trưởng điều hành nhóm có tốt ?
- Các hoạt động học diễn ra đúng trình tự lô gic ?
- Học sinh hoàn thành các hoạt động nêu trong sách ?
- Học sinh có hiểu bài, nắm được bài, hoàn thành mục tiêu bài học ?
4.5. Đánh giá học sinh:
4.5.1. Giáo viên đánh giá học sinh thông qua việc quan sát:
- Tình thần, thái độ học tập, tính tự giác, tích cực tham gia hoạt động
nhóm;
- Tính hợp tác với các bạn, thực hiện điều hành của nhóm trưởng;
- Kết quả thực hiện các hoạt động trong bài, đối chiếu với mục tiêu
bài học;
- Ghi chép của học sinh.
11
4.5.2. Học sinh tự đánh giá:
Đánh giá việc hoàn thành từng hoạt động trong bài học;
Đánh giá kết quả đạt được sau mỗi hoạt động, sau bài học;
Đánh giá việc hoàn thành mục tiêu bài học.
4.5.3. Đánh giá của nhóm:
Tinh thần, thái độ; Sự tương tác với bạn bè; Thời gian và chất lượng hoàn
thành hoạt động học; Kết quả các hoạt động học tập.
4.5.4. Cộng đồng đánh giá:
Có thường xuyên trò chuyện với cha mẹ việc học ở trường; Có thực hiện
chăm sóc cây cối, vật nuôi, sức khỏe bản thân và người thân trong gia đình; Sự tự
tin trong trao đổi, trò chuyện, giao tiếp; Khả năng diễn đạt, đối thoại, tương tác;
Sự chuyên cần trong học tập, tiến bộ trong học tập. Đặc biệt là việc áp các kiến
thức đã học vào thực tế.
4.5.5. Công cụ đánh giá:
Sự quan sát, theo dõi; Phiếu đánh giá tiến độ học tập; Bản tổng hợp ý kiến
đánh giá của giáo viên, học sinh, nhóm, cha mẹ học sinh và cộng đồng.
4. 6. Cấu trúc bài học khi vận dụng phương pháp giảng dạy của mô
hình VNEN với chương trình dạy học hiện tại:
Phương pháp này giữ nguyên nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng và kế
hoạch dạy học theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Như vậy nội dung,
yêu cầu và thời lượng học các tiết học không thay đổi.
Bài học được cấu trúc theo một đơn vị kiến thức hoàn chỉnh, nhằm giải
quyết trọn vẹn, liên tục một vấn đề: hình thành, cũng cố, vận dụng, ứng dụng kiến
thức vào thực tế.
Thông thường, giáo viên có toàn bộ quyền bố trí thời gian để học sinh đạt
được mục tiêu bài học, nắm được bài.
Mỗi bài học được thiết kế khoảng từ 3 đến 5 hoạt động với các nội dung
chính sau:
12
- Mục tiêu bài học;
- Hoạt động cơ bản;
- Hoạt động thực hành;
- Hoạt động ứng dụng thực tiễn;
Phần hoạt động cơ bản giúp học sinh học qua trải nghiệm, học qua việc làm
thực tế, học qua tìm tòi, khám phá, phát hiện với sự hỗ trợ, giúp đỡ thích hợp với
giáo viên.
Phần hoạt động thực hành thể hiện các hoạt thực hành của học sinh ngay
trên lớp học nhằm củng cố, rèn luyện, phát triển các kiến thức, kĩ năng vừa học.
Phần hoạt động ứng dụng khuyến khích học sinh bước đầu biết vận dụng
kiến thức trong thực tế cuộc sống. Nhấn mạnh sự quan tâm, hỗ trợ học sinh học
tập từ phía gia đình và cộng đồng. Khuyến khích học sinh mở rộng vốn kiến thức
qua các nguồn thông tin khác nhau ( từ gia đình, cộng đồng thôn xóm, đội, …).
Trong thiết kế bài học, trước mỗi hoạt động giáo viên cần có các chỉ dẫn.
Học sinh theo các chỉ dẫn đó để biết hoạt động đó thực hiện cá nhân, hay nhóm
đôi, nhóm lớn hoặc chung cả lớp.
Giáo viên nên hiểu chỉ dẫn, hướng dẫn chỉ có tác dụng định hướng cho các
nhóm học sinh hoạt động, không máy móc mà có thể điều chỉnh để hoạt động học
của học sinh đạt hiệu quả.
Với các hoạt động cá nhân của học sinh thì làm việc cá nhân hiểu là cá nhân
làm việc là chính. Nhưng khi làm xong có thể đổi vở cho bạn để kiểm tra bài làm
của nhau, hoặc báo cáo với nhóm kết quả mình đã làm được.
Khi học sinh làm việc nhóm chủ yếu nhắc nhở học sinh hoạt động theo
nhóm có sự tương tác trong nhóm để cùng giải quyết môt nhiệm vụ học tập nào
đó. Tuy nhiên khi hoạt động nhóm, thì mỗi học sinh vẫn phải suy nghĩ, phải làm
việc cá nhân, nhóm không làm thay, học thay cá nhân. Như vậy rất cần sự điều
chỉnh linh hoạt của giáo viên để hoạt động học diễn ra tự nhiên, hiêu quả.
13
4.7. Quy trình lên lớp của một tiết dạy áp dụng phương pháp mô hình
trường học mới vào chương trình giáo khoa hiện hành:
Để thực hiện tốt các phương pháp nêu trên, một tiết dạy khi áp dụng cần
thực hiện qua một số bước cơ bản sau:
Bước 1. Gợi động cơ, tạo hứng thú cho học sinh.
- Kết quả cần đạt:
+ Kích thích tính tò mò, khơi dạy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học;
học sinh cảm thấy vấn đề nêu lên rất gần gũi với mình.
+ Không khí lớp học vui, tò mò, chờ đợi, thích thú.
- Cách làm: đặt câu hỏi; đố vui; kể chuyện; đặt một tình huống; tổ chức trò
chơi . . .. Có thể thực hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ, hoặc cá nhân từng học sinh.
Bước 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm:
- Kết quả cần đạt:
+ Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiện có sẵn của học sinh để chuẩn bị học
bài mới.
+ Học sinh trải qua tình huống có vấn đề, trong đó chứa đựng những nội
dung kiến thức, những thao tác, kỹ năng để làm nảy sinh kiến thức mới.
- Cách làm: Tổ chức các hình thức trải nghiệm gần gũi với học sinh. Nếu là
tình huống diễn tả bằng lời văn thì câu văn phải đơn giản, gần gũi với học sinh. Có
thể thực hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ hoặc cá nhân từng học sinh.
Bước 3. Phân tích – Khám phá – Rút ra kiến thức mới
- Kết quả cần đạt:
+ Huy động vốn hiểu biêt, khái niệm hay quy tắc lý thuyết, thực hành mới.
+ Nếu là một dạng toán mới thì học sinh phải nhận biết được dấu hiệu, đặc
điểm và nêu được các bước giải dạng toán này.
- Cách làm:
+ Dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp học sinh
thực hiện tiến trình phân tích và rút ra bài học.
14
Có thể sử dụng các hình thức thảo luận cặp đôi, thảo luận theo nhóm, hoặc
các hình thức sáng tạo khác nhằm kích thích tính tò mò, sự ham thích tìm tòi,
khám phá, phát hiện của học sinh . . . Nên soạn những câu hỏi thích hợp giúp học
sinh đi vào tiến trình phân tích thuận lợi và hiệu quả.
Bước 4. Thực hành:
- Kết quả cần đạt:
+ Học sinh nhớ dạng cơ bản một cách vững chắc; làm được các bài tập áp
dụng dạng cơ bản theo đúng quy trình.
+ Học sinh biết chú ý tránh những sai lầm điển hình thường mắc trong quá
trình thực hiện các bài tập thực hành.
- Cách làm:
+ Thông qua quá trình thực hành làm các nọi dung rất cơ bản để học sinh
rèn luyện kĩ năng sử dụng máy tính, phần mềm, áp dụng các bước thực hiện khi
làm bài thực hành. Giáo viên quan sát, giúp học sinh nhận ra những khó khăn của
mình, nhấn mạnh lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện.
+ Tiếp tục ra các yêu cầu với mức độ khó dần lên phù hợp với khả năng của
học sinh; Giáo viên tiếp tục giúp các em giải quyết khó khăn bằng cách liên hệ lại
với các bước, cách làm, thao tác cơ bản đã rút ra ở trên.
+ Có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng cá nhân hoặc theo nhóm,
theo cặp đôi, theo bàn, theo tổ học sinh.
Bước 5. Vận dụng
- Kết quả cần đạt:
+ Học sinh củng cố, nắm vững các nội dung kiến thức trong bài đã học.
+ Học sinh biết vận dụng kiến thức đã học trong hoàn cảnh mới, đặc biệt
trong những tình huống gắn với thực tế đời sống hàng ngày.
+ Cảm thấy tự tin khi lĩnh hội và vận dụng kiến thức mới.
- Cách làm:
15
+ Học sinh thực hành, vận dụng từng phần, từng đơn vị kiến thức cơ bản
của nội dung bài đã học.
+ Giáo viên giúp học sinh thấy được ý nghĩa thực tế của các tri thức công
nghệ thông tin áp dụng cho thực tiễn. . . Từ đó khắc sâu kiến thức đã học.
+ Khuyến khích học sinh diễn đạt theo ngôn ngữ, cách hiểu của chính các
em. Khuyến khích học sinh tập phát biểu, tập diễn đạt bước đầu có lý lẽ, có lập
luận.
+ Tạo ra các chương trình, ngoại khóa, các kế hoạch nhỏ cho học sinh sáng
tạo, cảm nhận và vận dụng một cách linh hoạt vào các hoạt động trải nghiệm.
4.8. Quá trình học tập của học sinh khi áp dụng phương pháp tổ chức
mới.
Mọi ý tưởng áp dụng đổi mới phương pháp dạy học suy cho cùng đều là tìm
cách chuyển quá trình “thuyết trình” một cách áp đặt của người dạy thành quá
trình tự học, tự tìm tòi, khám phá của người học. Trong đó, sự trải nghiệm và tự
kiến tạo kiến thức cho bản thân của người học có vai trò hàng đầu. Những nổ lực
cá nhân của học sinh là trung tâm của quá trình giáo dục. Người học phải tự tạo
dựng sự hiểu biết của riêng mình là chủ yếu chứ không chỉ đơn giản là tiếp thu
một cách thụ động từ môi trường bên ngoài. Người giáo viên phải biết khéo léo
đặt vấn đề và tổ chức môi trường sư phạm cho học sinh tựu tìm tòi, khám phá,
phát hiện, trong đó coi trọng việc học hợp tác,làm việc theo nhóm để giải quyết
vấn đề.
Để tổ chức cho học sinh học tập, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện
theo quy trình 10 bước lên lớp như sau:
Bước 1. Em học tập theo nhóm;
Bước 2. Em ghi đầu bài vào vở;
Bước 3. Em bắt đầu thực hiện hoạt động cơ bản;
Bước 4. Kết thúc hoạt động cơ bản, em báo cáo với thầy cô giáo;
Bước 5. Em bắt đầu hoạt động thực hành:
16
- Em bắt đầu bằng hoạt động cá nhân,
- Em chia sẻ với bạn bên cạnh,
- Em trao đổi kết quả với các bạn trong nhóm, kiểm tra sửa lỗi cho
nhau;
Bước 6. Em bắt đầu hoạt động ứng dụng;
Bước 7. Em đánh giá cùng với thầy cô giáo;
Bước 8. Em đã hoàn thành bài học hay còn phải học lại phần nào.
Trên đây là một số vấn đề về lý luận của việc áp dụng một phần phương
pháp giảng dạy của mô hình trường học mới vào chương trình hiện tại. Để hiểu rõ
thêm những vấn đề đã nêu, tôi áp dụng vào một số tiết dạy cụ thể của môn Tin học
lớp 6 như sau:
17
4.9. Xây dựng giáo án minh họa:
Bài dạy số 1: (Chương trình Tin học lớp 6)
CHƯƠNG TRÌNH : PHẦN MỀM HỌC TẬP - Tiết 16
BÀI 8: QUAN SÁT TRÁI ĐẤT VÀ CÁC VÌ SAO TRONG HỆ MẶT TRỜI
I. Mục tiêu
1. Yêu cầu về KTKN
- Biết cách khởi động/thoát khỏi phần mềm.
- Biết sử dụng chuột để điều khiển nút lệnh quan sát để tìm hiểu về Hệ mặt
trời
- Có ý thức tự khám phá phần mềm, vừa làm vừa quan sát, không sợ sai
2. Yêu cầu về mức độ đối với các nội dung chính
- Thực hiện được việc sử dụng chuột để điều khiển các nút lệnh của phần
mềm để quan sát, khám phá Hệ mặt trời.
- Thực hiện được việc điều khiển khung nhìn để quan sát Hệ mặt trời; chuyển
động của Trái Đất và Mặt Trăng; hiện tượng nhật thực và nguyệt thực.
- Biết cách khám phá và có ý thức tự khám phá phần mềm mới dựa trên
những kiến thức, kĩ năng và thông tin đó như: phán đoán, thử và quan sát hiệu
ứng để tìm hiểu về chức năng các lệnh, các nút lệnh, thanh trượt.
3. Định hướng phát triển năng lực.
- Nhận biết, thao tác với phần mềm, thiết bị CNTT-TT
- Sử dụng CNTT-TT hỗ trợ học tập
- Đạo đức, hành vi phù hợp khi sử dụng CNTT-TT
- Giải quyết vấn đề thực tế dựa trên bài học từ đó có thể quan sát thực tế về
đêm để hiểu về không gian và hệ mặt trời.
II. Phương tiện chuẩn bị dạy và học.
+ Giáo viên: GA, SGK, SGV, phấn, Phòng máy.
+ Học sinh: SGK, vở, bút.
18
III. Tiến trình các hoạt động dạy và học.
1. Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số lớp thông qua bảng báo danh, học sinh tự giác
báo danh mình vào sổ báo danh tại phòng thực hành.
2. Kiểm tra bài cũ : 2 phút
? Nêu cách khởi động phần mềm Solar System 3D Simulaytor? Cho biết tính năng
cơ bản của phần phềm?
3. Bài mới.
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Hoạt động 1: Khởi động
- Phương pháp kĩ thuật: khai thác hình ảnh, máy chiếu học sinh quan sát.
- Năng lực hướng tới: Giúp học sinh tìm hiểu và giải quyết tình huống thông
qua kiến thức vốn có và vận dụng kĩ năng để giải quyết tình huống. Đồng thời
gọi mở cho kiến thức mới.
- Thời gian: 3’
GV! Nêu ra tình huống, Quan sát quá Tình huống: hiện tượng nhật thực,
trình giải quyết vấn đề của học sinh
hiện thực xảy ra như thế nào? Có thể
GV: Chia nhóm học học sinh để thực giải thích tại sao?
hiện cho hoạt động khởi động.
HS: Các nhóm hoạt động theo mô
hình nhóm 4 HS áp mặt, trao đổi hiện
GV: Gợi mở cho vấn đề vào bài
tượng...
Để giải quyết tình huống ta cần đi tìm
hiểu thông qua bài học.
Hoạt động 2: Kiến thức cơ bản
- Phương pháp kĩ thuật: Thuyết trình, hướng dẫn trực quan, khai thác hình ảnh,
máy chiếu học sinh quan sát.
- Năng lực hướng tới: vận dụng kĩ năng sử dụng phần mềm, năng lực hiểu biết
- Thời gian: 5’
GV! Ví dụ thực tiễn vào bài.
HS: nghe giảng.
GV: Chia nhóm học học sinh để thực 1. Khởi động phần mềm:
19
hiện, các bước để khởi động phần mền. + Nháy đúp chuột vào biểu tượng trên
? Từ các cách thực hiện việc khởi động màn hình nền desktop.
chương trình của các phần mềm đã HS: Thực hiện, kiểm chứng qua thực
học, liên hệ đến các cách thực hiện với tế.
chương trình
+ Start / All Program / Solar System
3D Simulaytor.
Hoạt động 3: Thực hành
- Phương pháp kĩ thuật: Hướng dẫn trực quan, khai thác hình ảnh, máy chiếu
học sinh quan sát.
- Năng lực hướng tới: Giúp HS vận dụng kiến thức về địa lí để học tốt môn Địa
lí, giải thích các hiện tượng trong tự nhiên.
- Thời gian: 30’
2. Thực hành.
GV: Nêu nội dung thực hành.
HS. Nghe, tìm hiểu, khám phá thông
+ Khởi động phần mềm: Solar qua phần mềm, liên tưởng tới các tình
System 3D Simulator.
huống xảy ra trong thực tiễn cuộc
+ Điều khiển khung nhìn thích sống, có những giải thích hợp lí, khoa
hợp để quan sát.
học.
+ Quan sát chuyển động của trái
đất, mặt trăng...
HS: Nghiên cứu phần mềm, tiếp nhận
+ Quan sát hiện tượng nhật thực: kiến thức.
Mặt trời – Mặt trăng – Trái đất.
HS: Thảo luận nhóm và phát biểu.
+ Quan sát hiện tượng Nguyệt HS: Nhóm trưởng làm nhiệm vụ phân
thực: Mặt trời – Trái đất – Mặt trăng.
tích kết quả của thành viên nhóm, lấy
HS: nghe, hiểu và thực hiện.
ý kiến nhóm và thống nhất.
GV: Hướng dẫn học sinh thực hiện các HS: nghe, hiểu và ghi chép.
thao thác.
Yêu cầu hs quan sát sự chuyện động
của trái đất quanh mặt trời
20
? Nêu vấn đề về hiện tượng ngày và
đêm?
Hiện tượng ngày và đêm:
Trái đất tự quay quanh mình 24h/
GV: Nhận xét, kết luận.
vòng và quay quanh mặt trời. Vì vậy
khi vị trí nào của trái đất được mặt
trời chiếu sáng thì đó là ban ngày,
nửa kia không được chiếu sáng thì là
ban đêm.
? Yêu cầu học sinh quan sát hiện tượng HS: Thực hiện. Các nhóm tham gia
nhật
thực. thảo luận, nhóm trưởng làm việc,
thống nhất phương án của thành viên
tổ.
Hiện tượng nhật thực:
Nhật thực là khi mặt trời, mặt trăng
và trái đất thẳng hàng và mặt trăng ở
giữa.
GV: Hướng dẫn các nhóm học sinh
quan sát, giải thích.
Khi đó một số nơi trên trái đất sẽ
không thấy mặt trời vào ban ngày do
? Tại sao lại có hiện tượng nguyệt mặt trăng che khuất. Vì vậy mà vị trí
thực?
đó tối.
HS: Quan sát trên phần mềm và phát
biểu.
Hiện tượng nguyệt thực:
21
Nguyệt thực xảy ra khi mặt trời, mặt
trăng, trái đất thẳng hàng, trái đất ở
giữa. Khi đó ở nửa bên này mặt trăng
dần bị che khuất và biến mất, rồi lại
xuất hiện trở lại.
HS: Dựa vào thông tin phần mềm
GV: Nhận xét, bổ sung.
+ phát biểu.
? Từ phần mềm hãy cho biết tại sao HS: Thảo luận, phát biểu.
trăng khi tròn khi khuyết?
- Chi tiết tìm hiểu trong phần mềm.
......
HS: Dựa vào thông tin phần mềm
+ phát biểu.
HS: Thảo luận, phát biểu.
4. Củng cố. (3 phút)
- Phần mềm cho ta biết tổng quan về trái đất và các hiện tượng trong tự nhiên.
- Thực hiện với các nút lệnh điều khiển để quan sát, tìm hiểu hệ mặt trời, trái đất.
? Tại sao lại có hiện tượng nguyệt thực?
? Tại sao lại có hiện tượng ngày và đêm?
? Hãy cho biết trái đất nặng bao nhiêu?
? Độ dài quỹ đạo quanh mặt trời?
5. Câu hỏi và hướng dẫn về nhà. (2 phút)
- Học bài theo SGK và vở ghi.
- Vận dụng hỏi bố mẹ, anh chị về các hiện tượng thiên nhiên xảy ra liên quan đến
hoạt động quay, chuyển động, lực hút của mặt trời, mặt trăng, trái đất.
- Xem lại cách khởi động chương trình, các nút lệnh điều khiển cơ bản. Tiết sau ôn
tập.
22
Bài dạy số 2: (Chương trình Tin học lớp 6)
BÀI 6: HỌC GÕ MƯỜI NGÓN (TIẾT 1)
I. Mục tiêu
Học xong bài này học sinh biết :
+ Hiểu đc bàn phím máy tính, ích lợi của việc gõ bàn phím bằng mười ngón, tư
thế ngồi…
+ Nắm đc quy trình thực hiện của bàn phím, việc lợi ích của việc gõ mười ngón
& cấu trúc chung của máy tính như thế nào, ...
+ Rèn cho HS tác phong khi ngội máy tính
* Năng lực hướng tới:
- Hiểu được bản chất, vai trò của khoa học máy tính trong thế giới hiện đại
và những nguyên lí cơ bản của khoa học máy tính.
- Kĩ năng, hiểu biết về phần mềm, thiết bị CNTT-TT
- Sử dụng thuật ngữ CNTT-TT phù hợp trong giao tiếp.
- Thể hiện hành vi đạo đức và xã hội tích cực khi sử dụng CNTT-TT.
- Vận dụng cho bản thân, gia đình và bạn bè khi ngồi gõ phím và làm việc
với máy tính.
II. Phương tiện chuẩn bị dạy và học.
+ Giáo viên: GA, SGK, SGV, phấn, Phòng máy.
+ Học sinh: SGK, vở, bút.
III. Tiến trình các hoạt động dạy và học.
1. Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số lớp thông qua bảng báo danh, HS tự đánh dấu
vào khu vực báo danh của tổ mình một cách tự giác.
2. Kiểm tra bài cũ : Gọi 2 HS lên bảng: 10’
HS 1: - ? Chuột có tác dụng gì? Hãy nêu các thao tác chính với chuột?
HS 2: - ? Em hiểu thế nào là phần mềm hệ thống, phần mềm ứng dụng? Cho
VD?
23
3. Bài mới. 28’
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
- Hoạt động 1: Khởi động, gợi mở nội dung bài học
- Phương pháp kĩ thuật: khai thác hình ảnh, máy chiếu học sinh quan sát.
- Năng lực hướng tới: Giúp học sinh tìm hiểu và giải quyết tình huống thông qua
kiến thức vốn có và vận dụng kĩ năng để giải quyết tình huống. Đồng thời gọi
mở cho kiến thức mới.
- Thời gian: 5’
GV! Hướng dẫn HS vào nội Lớp trưởng lên thực hiện vai trò điều khiển hoạt
dung khởi động.
động khởi động theo nội dung giáo viên đưa ra.
MÁY TÍNH KÌ DIỆU
? Bàn phím là thiết bị vào hay
ra thông tin?
HS: Tham gia trò chơi, tìm kiếm kiến thức sẵn
? Bàn phím gồm mấy hàng có để trả lời.
phím?
HS khác: Quan sát, theo dõi, tìm kiếm kiến thức
mới để giải quyết tình huống.
* GV nxét & kết luận, vào bài
Hoạt động 2: Hình thành kiến thức - Tìm hiểu bàn phím máy tính
- Phương pháp kĩ thuật: khai thác hình ảnh, máy chiếu học sinh quan sát.
- Năng lực hướng tới: Giúp học sinh tìm hiểu và giải quyết tình huống thông qua
kiến thức vốn có và vận dụng kĩ năng để giải quyết tình huống, tiếp nhận kiến
thức mới.
- Thời gian: 10’
1. Bàn phím máy tính.
GV! Thuyết trình vào bài.
HS: nghe, hiểu.
- Yêu cầu tìm hiểu cá nhân
phần 1: Bàn phím máy tính.
HS: nghiên cứu tài liệu – trao đổi nhóm đôi,
GV: Có bàn phím mẫu quan quan sát bàn phím mẫu
sát
24
GV: Các đại diện nhóm đôi
báo
cáo,
nhận
xét
các
nhóm ...
? Bàn phím là thiết bị vào hay
ra thông tin?
H. Là thiết bị đưa thông tin vào.
H. Bàn phím bao gồm tất cả 6 hàng.
? Bàn phím gồm mấy hàng
phím?
H. Khu vực chính của bàn phím có 5 hàng
? Khu vực chính của bàn
chính.
phím có mấy hàng chính?
H. Đc chia làm 3 nhóm chính.
? Bàn phím đc chia làm mấy
nhóm chức năng chính?
? Phím có gai là phím nào?
? Trong bàn phím hàng nào
H. Là phím F & J hay còn gọi là phím xuất phát.
H. Hàng phím cơ sở là quan trọng nhất.
H. Đó là các phím điều khiển, phím đặc biệt
như: Ctrl, Alt, Shift…
quan trọng nhất?
? Cho biết những phím điều
khiển?
HS nghe & tự ghi chép thông tin vào vở.
Bàn phím bao gồm tất cả 6 hàng.
* GV nxét & kết luận.
- Khu vực chính của bàn phím có 5 hàng chính.
- Hàng phím cơ sở là quan trọng nhất.
- Bàn phím được chia làm 3 nhóm chức năng
chính:
+ Nhóm phím chức năng: Shift, End…
+ Nhóm phím chính là các chữ cái từ: a đến z.
+ Nhóm phím cuối cùng là các chữ số từ: 0 đến
9.
- Hoạt động 3: Tìm hiểu lợi ích của việc gõ phím bằng 10 ngón
- Phương pháp kĩ thuật: khai thác hình ảnh, máy chiếu học sinh quan sát.
25