Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm văn 9 THCS : Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống và nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.07 KB, 21 trang )

TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Nội dung chương trình Ngữ Văn 9 – THCS và thực tế giảng dạy, bản thân
nhận thấy mục tiêu cơ bản của phân môn Tập làm văn 9 là củng cố và rèn kĩ năng
làm văn nghị luận cho học sinh. Thực tế làm văn nghị luận là rất cần thiết cho mỗi
người, bởi làm văn nghị luận là rèn luyện tư duy bằng ngôn ngữ, cách diễn đạt
chính xác, cách dùng từ đúng chỗ, cách thuyết phục người khác. Chính vì vậy,
nghị luận xã hội đã trở thành một bộ phận chính thức trong cấu trúc đề thi tuyển
sinh vào trung học phổ thông cũng như đề thi học sinh giỏi các cấp. Vì vậy ngay
từ đầu năm học 2015 -2016, tôi đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu , xây dựng cho
mình một kế hoạch cụ thể để thực hiện nội dung đề tài và bước đầu thu được kết
quả tốt.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Thời gian: Năm học 2015 – 2016
- Đối tượng : Khối 9 - THCS
3. Nội dung sáng kiến :
+ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến : Mục đích của đề tài là đưa ra một
hướng đi, một cách làm phù hợp nhằm phát huy điểm mạnh của nội dung chương
trình, sách giáo khoa đó là tích hợp kiến thức, phát huy tính tích cực chủ động,
sáng tạo của học sinh, rèn các kĩ năng tạo lập văn bản, đặc biệt là văn bản nghị
luận xã hội.
+ Khả năng áp dụng của SK
- Áp dụng trong giờ dạy chính khóa và các giờ dạy ôn thi cho học sinh lớp 9.
- Giáo viên cần nắm chắc yêu cầu, mục tiêu chung của môn học, nguyên tắc
dạy học tích cực, phát triển năng lực cho học sinh


- Nắm chắc các kĩ năng của văn nghị luận và yêu cầu riêng của hai kiểu bài :
“Nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống” và “Nghị luận về một vấn đề tư tưởng
đạo lí”.
- Học sinh phải tích cực học tập thực hành theo hướng dẫn của giáo viên.


+ Chỉ ra lợi ích thiết thực của SK : Đề tài đã đưa ra một hướng đi phù hợp
trong rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Sáng kiến có tính khả thi và áp dụng được trong quá trình giảng dạy nhằm
nâng cao kĩ năng làm văn cho học sinh.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
Tổ chuyên môn, Nhà trường tiếp tục tổ chức các chuyên đề, các buổi hội
thảo giúp giáo viên có điều kiện học hỏi, trao đổi về những vấn đề chuyên môn,
được rèn luyện, nâng cao tay nghề, có thêm kinh nghiệm bổ ích trong rèn kĩ năng
cho học sinh.


1. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN
Qua nghiên cứu, tìm hiểu nội dung chương trình Ngữ Văn 9 – THCS và
thực tế giảng dạy, bản thân nhận thấy mục tiêu cơ bản của phân môn Tập làm văn
9 là củng cố và rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh. Trong đó, phần văn
nghị luận xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là vừa củng cố kĩ năng làm văn
nghị luận các em đã được làm quen từ lớp 7, lớp 8; giúp các em có kĩ năng xây
dựng luận điểm, luận cứ, lập luận và cụ thể về hai dạng bài: Nghị luận về một sự
việc hiện tượng đời sống và Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. Qua đó, các
em được thực hành sử dụng các thao tác cần thiết để tạo lập các kiểu văn bản được
học, phục vụ cho việc học tập trong nhà trường cũng như trong đời sống gia đình,
xã hội. Đồng thời có năng lực vận dụng các thao tác tư duy để so sánh, phân tích
tổng hợp, rút ra kết luận, từ đó có quyết định hành động phù hợp với các vấn đề
gặp trong cuộc sống, có kĩ năng sống thực. Thực tế làm văn nghị luận là rất cần
thiết cho mỗi người, bởi làm văn nghị luận là rèn luyện tư duy bằng ngôn ngữ,
cách diễn đạt chính xác, cách dùng từ đúng chỗ, cách thuyết phục người khác.
Chính vì vậy, đã từ lâu nghị luận xã hội đã trở thành một bộ phận chính thức trong
cấu trúc đề thi tuyển sinh vào trung học phổ thông cũng như đề thi học sinh giỏi
các cấp.

Xuất phát từ mục tiêu chung cũng như yêu cầu kĩ năng cụ thể của môn học,
từ tầm quan trọng của kiểu văn bản, tôi nhận thấy việc rèn luyện kĩ năng làm văn
nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 là một yêu cầu bức thiết. Vì vậy ngay từ đầu
năm học 2015 -2016, tôi đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu , xây dựng cho mình một
kế hoạch cụ thể để thực hiện nội dung đề tài và bước đầu thu được kết quả tốt.
Trong khuôn khổ của đề tài tôi mong muốn được trao đổi với các đồng
nghiệp về phương pháp rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận cho học sinh lớp 9 mà
tôi đã áp dụng trong năm học này bước đầu đạt kết quả.
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.Mục đích của đề tài:


Mục đích của đề tài là đưa ra một hướng đi, một cách làm phù hợp nhằm
phát huy điểm mạnh của nội dung chương trình, sách giáo khoa đó là tích hợp kiến
thức, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, rèn các kĩ năng tạo
lập văn bản, đặc biệt là văn bản nghị luận xã hội. Đồng thời trao đổi cùng các
đồng nghiệp những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá
trình dạy- học, rèn kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận xã hội cho học sinh.
Nhiệm vụ cơ bản của đề tài này là rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội
cho học sinh lớp 9- THCS nhằm từng bước nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị
luận nói chung, nghị luận xã hội nói riêng; nâng cao chất lượng các văn bản nghị
luận xã hội được học sinh tạo lập trong quá trình học tập và thi cử.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Văn nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn 9 với hai dạng bài: Nghị
luận về một sự việc, hiện tượng đời sống ; Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo
lí.
2.2.Áp dụng với học sinh lớp 9- THCS
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu nghị luận: Tiến hành nghiên cứu các tài liệu có
tính chất lí luận gợi ý, định hướng về nội dung kiến thức và cách thức rèn kĩ năng

làm văn nghị luận xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tiến hành nghiên cứu, thiết kế bài dạy
và ứng dụng trong những bài học, tiết học cụ thể, thông qua cách học và các bài
văn nghị luận xã hội mà học sinh tạo lập.
- Phương pháp tổng kết, so sánh, đối chứng: Tổng kết, so sánh các bài viết
có vận dụng đề tài và chưa vận dụng đề tài; theo dõi, đánh giá hoạt động học tập
của học sinh, khảo sát kết quả học tập.
3.CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
3.1.Cơ sở lí luận
Một trong những mục tiêu cụ thể của bộ môn Ngữ Văn là giúp cho học sinh
có kĩ năng nghe, nói, đọc, có kĩ năng sử dụng tiếng Việt vào việc giao tiếp, tạo lập
văn bản. Biết cách sử dụng các thao tác cần thiết để tạo lập kiểu văn bản được học,


phục vụ cho việc học tập của nhà trường cũng như trong đời sống gia đình, xã hội.
Đồng thời có năng lực vận dụng các thao tác tư duy để so sánh, phân tích, tổng
hợp, rút ra kết luận, từ đó có quyết định hành động phù hợp với các vấn đề gặp
phải trong cuộc sống, có kĩ năng sống.
Tìm hiểu chương trình Ngữ Văn THCS, ta có thể thấy học sinh được làm
quen và rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận ở cả hai vòng( vòng 1: lớp 7, vòng 2:
lớp 8,9). Và đặc biệt trong chương trình Ngữ Văn 9, học sinh được tìm hiểu và rèn
kĩ năng ở cả hai dạng bài: Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống và Nghị
luận về một tư tưởng, đạo lí. Đây là hai dạng bài nghị luận có vị trí quan trọng
trong chương trình, bắt buộc học sinh phải thực hành tạo lập trong kì thi học sinh
giỏi cũng như thi chuyển cấp vào Trung học phổ thông.
Nghị luận xã hội trong trường trung học nói chung, trường THCS nói
riêng xoay quanh các vấn đề về tư tưởng, đạo lí, lối sống gần gũi đối với học sinh,
với tuổi trẻ ; những sự việc, hiện tượng tốt hoặc xấu trong đời sống xã hội .Trong
các bài văn đó yêu cầu học sinh phát biểu những suy nghĩ nghiêm túc, chín chắn
của mình về một vấn đề có ý ghĩa xã hội đặt ra cho mình, lứa tuổi mình. Nghĩa là

học sinh cần phải bày tỏ tư tưởng, đó phải là những loại tư tưởng:
+ Phù hợp với đạo lí, lẽ phải, thể hiện trách nhiệm của người viết đối với đất
nước, gia đình, xã hội, con người
+ Phải thể hiện nhiệt tình xây dựng , vun đắp cho xã hội ngày một tốt đẹp;
lên án, phê phán các hành vi trái đạo đức, trái lẽ phải, có hại cho đất nước, xã hội
và văn hóa Việt Nam
+ Có cơ sở khách quan, được mọi người đồng tình, góp phần tỏa sáng một
ván đề có ý nghĩa thực tế
Tư tưởng ấy cũng cần được trình bày:
+ Rõ ràng, trong sáng.
+ Tự nhiên, chân thật, phù hợp với vốn sống, cách suy nghĩ.
Đồng thời bài văn nghị luận xã hội còn thuyết phục người đọc bởi tình cảm
và lời văn. Đó là những tình cảm chân thành, nhiệt huyết được trình bày bởi lời
văn trong sáng, được diễn đạt bằng một cách giản dị mà hấp dẫn.


Để tạo được một văn bản nghị luận xã hội đáp ứng được những yêu cầu trên
đối với học sinh lớp 9, nhất là học sinh vùng nông thôn, quả là một vấn đề không
đơn giản; nó đòi hỏi sự gia công, đầu tư nghiêm túc của người dạy.
Trong khi đó, theo phân phối chương trình Ngữ văn cho một trong hai dạng
bài văn 9 , các em có 6 tiết dành cho việc tìm hiểu lí thuyết và cách làm văn nghị
luận xã hội, 1 tiết chương trình địa phương phần Tập làm văn, chỉ có duy nhất cho
việc thực hành viết bài trên lớp( không kể bài chương trình địa phương viết ở
nhà). Như thế, cơ hội rèn kĩ năng làm bài văn của học sinh là quá ít chưa đủ giúp
các em củng cố lí thuyết, thành thạo kĩ năng tạo lập văn bản. Vì vậy, việc rèn
luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 là nhiệm vụ mỗi giáo
viên bộ môn phải quan tâm và giải quyết.
3.2.Cơ sở thực tiễn
Có thể nói trong những năm qua, vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy
luôn được giáo viên quan tâm, áp dụng. Vì thế, chất lượng các giờ dạy –học Ngữ

văn đang từng bước có những chuyển biến đáng kể ; số học sinh say sưa ,yêu
thích môn học đã dần tăng lên, đặc biệt là khi công nghệ thông tin được ứng dụng
rộng rãi . Nhưng chất lượng bộ môn chỉ thực sự được nâng cao, phát triển một
cách bền vững khi nó được quan tâm , đầu tư một cách đầy đủ, giáo viên tìm được
phương pháp, hướng dạy phù hợp ở tất cả các dạng bài , kiểu bài ; học sinh nắm
được kiến thức cơ bản và kĩ năng tạo lập các kiểu văn bản. Tuy nhiên , thực tế cho
thấy không ít giáo viên còn lúng túng trong việc rèn kĩ năng làm văn cho học sinh,
đặc biệt là làm văn nghị luận xã hội ; một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến
chất lượng giảng dạy bộ môn, còn né tránh những vấn đề khó, do đó việc rèn kĩ
năng kiểu này cho học sinh còn hạn chế .
Về phía học sinh, trong các em hiện nay cũng đang xuất hiện một số xu
hướng khá phổ biến, đó là : nhiều học sinh thích học các bộ môn tự nhiên mà ngại
hoặc không thích học văn, đặc biệt là học sinh rất “sợ” phải làm văn nghị luận xã
hội . Nói đến là văn nghị luận là các em thường ngại ngùng , thấy khó , khô khan ,
ít hứng thú . Tâm lí đó khiến các em học và làm văn nghị luận chưa đạt kết quả
cao . Hơn nữa , vốn sống của các em còn ít , nhiều em chưa có thói quen quan tâm


đến những vấn đề xã hội bức xúc đang diễn ra hàng ngày ; những kĩ năng cơ bản ,
đặc trưng của kiểu bài học sinh vận dụng lung túng , cho nên chất lượng các văn
bản nghị luận xã hội do các em tạo lập còn thấp .
Mặt khác, trong khi các tài liệu về tham khảo văn nghị luận văn học rất
phong phú, đa dạng, học sinh dễ tìm kiếm thì ngược lại sách , tài liệu tham về văn
bản nghị luận xã hội lại khan hiếm cho nên học sinh khó có cơ hội được mở mang,
học hỏi …
Xuất phát từ những khó khăn, vướng mắc nêu trên, trong năm học này, tôi
đã đi sâu nghiên cứu, tìm và đúc rút giải pháp cụ thể trong rèn kĩ năng làm văn
nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 và bước đầu thu được kết quả khả quan.
4. CÁC GIẢI PHÁP
4.1.Ý tưởng chung

Để thực hiện đề tài, tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu nội dung chương trình, sách
giáo khoa để thấy được những yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn
nói chung. Trên cơ sở đó tìm hiểu yêu cầu kiến thức và kĩ năng kiểu bài nghị luận
xã hội và giúp học sinh nắm bắt, vận dụng trong tạo lập văn bản .
4.2. Các giải pháp cụ thể
Mục tiêu chung của phân môn Tập làm văn là tên cơ sở cung cấp các kiến
thức về các phương thức biểu đạt – các kiểu bài, học sinh được rèn luyện tạo lập
các kiểu văn bản theo yêu cầu . Học sinh chỉ có vân dụng tốt các kĩ năng vào giải
quyết các đề bài cụ thể khi đã nắm chắc kiến thức . Vì vậy, để học sinh có kĩ năng
làm bài, giáo viên đồng tình phải chú ý cả hai nhiệm vụ: Củng cố kiến thức và
thực hành rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
4.2.1.Củng cố kiến thức về bản chất của văn nghị luận.
Trong nội dung 6 tiết tìm hiểu lí thuyết và cách làm hai kiểu bài : nghị luận
về một sự việc , hiện tượng đời sống và Nghị luận về vấn đề tư tưởng ,đạo lí , học
sinh đã được tìm hiểu các kiến thức cụ thể như : Khái niệm kiểu bài , yêu cầu nội
dung và hình thức , các bước làm bài … nên ở đề tài này tôi không đề cập đến
những kiến thức trên.


Trong chương trình THCS, học sinh được tìm hiểu về phương thức lập luậnvăn nghị luận từ lớp 7, có củng cố và nâng cao ở lớp 8,9. Vì thế những kiến thức
cơ bản về đặc trưng kiểu bài nghị luận rất cần thiết phải được hệ thống hóa một
cách đầy đủ , trên cơ sở đó học sinh mới có thể rèn luyện kĩ năng viết bài. Để học
sinh có cái nhìn khái quát và nắm chắc kiến thức một cách có hệ thống, trước khi
đi vào rèn các kĩ năng cụ thể giáo viên cần củng cố các kiến thức cơ bản về đặc
trưng của văn nghị luận. Tuy củng cố kiến thức không phải mục tiêu cơ bản nhưng
lại là cơ sở để học sinh rèn kĩ năng viết bài.
Và nghị luận xã hội mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của văn nghị luận
nói chung, đó là luận điểm, luận cứ và lập luận . Vì vậy, trong củng cố kiến tức về
kiểu bài , nhất thiết giáo viên cần phải củng cố các yếu tố đặc trưng này.
* Luận điểm :

-Luận điểm trong văn nghị luận là những ý kiến tư tưởng, quan điểm chính
mà người viết ( nói ) nêu ra để khẳng định một luận đề . Luận điểm được coi là
những điểm sáng, con mắt, là linh hồn, là xương sống của bài văn nghị luận .
-Luận điểm cần phải chính xác, đúng đắn, có ý nghĩa, rõ ràng, thuyết phục,
phù hợp với yêu cầu giải quyết vấn đề và làm sáng tỏ luận đề .
- Các luận điểm trong văn nghị luận vừa liên kết vừa phân biệt rành mạch
với nhau, được sắp xếp theo một trình tự hợp lí : luận điểm nêu trước phải chuẩn
bị cho luận điểm sau, luận điểm nêu sau phải hỗ trợ cho luận điểm nêu trước .
* Luận cứ :
- Luận cứ là những lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ, làm cơ sở cho luận điểm .
- Trong bài văn nghị luận, luận cứ có thể là lí lẽ của người viết đưa ra nhằm
làm sáng tỏ cho luận điểm. Lí lẽ ấy có thể là lời giải thích, suy nghĩ, cảm nhận,
nhận xét, lý giải … về các khía cạnh của vấn đề .
- Luận cứ còn là những dẫn chứng cụ thể ( nhân chứng, số liệu, câu chuyện,
tình huống xảy ra trong thực tế , những trải nghiệm trong cuộc sống của bản thân
…)
- Luận cứ cần cụ thể, chính xác, tiêu biểu, sát hợp với luận điểm .
* Lập luận


- Lập luận là cách trình bày lí lẽ và dân chứng – luận cứ để dẫn đến luận
điểm .
- Lập luận được coi là chặt chẽ khi giữa các luận điểm và luận cứ có sự liên
kết với nhau : lí lẽ sau kế thừa thành quả của lí lẽ trước làm cơ sở cho lí lẽ sau
theo một trình tự hợp lí, không thể bác bỏ .
- Lập luận sẽ có sức lôi cuốn người đọc nếu biết sắp xếp các luận điểm, luận
cứ khiến cho toàn bộ bài văn là một dòng chảy liên tục .
- Khi lập luận cần xây dựng mối liên hệ lô gíc giữa luận điểm với lí lẽ, dẫn
chứng nhằm khẳng định, chứng minh cho luận điểm của toàn bài .(Cần giải thích
nội dung, trả lời các câu hỏi theo thứ tự: Là gì ? Vì sao? Như thế nào?). Chuỗi liên

kết các vấn đề ấy là lập luận .
Để học sinh nắm chắc kiến thức về khái niệm và yêu cầu của luận điểm ,
luận cứ là lập luận như trên ,giáo viên cần giúp học sinh ôn lại kiến thức đã học
trong chương trình Ngữ văn 7,8 ở nhà ; đồng thời trên lớp giáo viên cần có những
câu hỏi củng cố khái quát ,dẫn dắt phù hợp giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức .
Ví dụ :
? Em hiểu luận điểm trong văn bản nghị luận là gì ? Vai trò của luận điểm trong
văn nghị luận là gì ?
? Trong bài văn nghị luận, luận điểm cần đạt được yêu cầu nào.
? Mối quan hệ giữa các luạn điểm trong văn bản nghị luận
? Luận cứ là gi? Vai trò của luận cứ trong bài nghị luận ?
Những kiến thức nêu trên là những đặc trưng cơ bản của văn nghị luận mà các
em được học trong chương trình Ngữ Văn 7,8. Vậy nên , việc làm này sẽ củng cố
những kiến thức mà học sinh có thể “đánh rơi” trong quá trình học . Việc củng cố
những kiến thức cơ bản đặc trưng trên nhất thiết phải được tiến hành một cách
khoa học hệ thống trước khi yêu cầu học sinh thưc hành. Như vậy các em có thể
tiến hành tạo lập văn bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
4.2.2. Cách thức rèn luyện kĩ năng
Như trên đã nói, trong nội dung các tiết tìm hiểu lí thuyết của hai dạng bài
trên, học sinh đã được tìm hiểu cụ thể các kĩ năng : Tìm hiểu đề, tìm ý ; làm dàn ý;


viết bài; đọc và sửa văn bản theo quy trình tạo lập văn bản nói chung. Vì thế trong
khuôn khổ bài này, tôi không trình bày cách rèn các kĩ năng chung ấy mà chỉ đi
sâu vào các kĩ năng riêng của văn nghị luận .
Vậy, trước một vấn đề được đặt ra ở đề bài nghị luận xã hội, làm thế nào để
xây dựng luận điểm? Cách tổ chức luận cứ và lập luận như thế nào là hiệu quả?
Đó chính là nội dung và yêu cầu của việc rèn kĩ năng mà tôi sẽ trình bày sau đây:
* Xây dựng và trình bày luận điểm
+ Xây dựng luận điểm

Như chúng ta đã biết, luận điểm là những điểm sáng, con mắt của bài nghị
luận. Vì thế, tìm được là đã tìm ra phương hướng nội dung baì viết.
Để tìm được luận điểm cho bài văn nghị luận xã hội thì việc đâù tiên, quan
trọng nhất học sinh phải làm là: từ vấn đề nêu ra từ đầu bài, đặt và trả lời câu hỏi
làm rõ vấn đề .
Việc xây dựng các câu hỏi tìm luận điểm trong bài văn nghị luận xã hội phụ
thuộc vào đặc trưng của hai dạng bài: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí, Nghị luận
về một sự việc hiện tượng đời sống .
- Đối với Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống:
Các câu hỏi cần đi theo tình tự sau: Thực trạng của sự việc, hiện tượng;
Nguyên nhân của thực trạng; Các giải pháp khắc phục hoặc phát huy.
- Đối với Nghị luận về một tư tưởng đạo lí .
Các câu hỏi cần đi theo trình tự sau: Giải thích, chứng minh tư tưởng, đạo
lí; Chỉ ra chỗ đúng (chỗ sai) của tư tưởng ; Khẳng định quan điểm, tư tưởng của
người viết .
Các câu hỏi xây dựng luận điểm trong bài văn nghị luận xã hội cần đáp ứng
những yêu cầu sau:
- Trúng vấn đề nêu ra trong đề bài.
- Làm rõ được bản chất của vấn đề.
-Thể hiện được tư tưởng, suy nghĩ của bản thân về vấn đề.
- Tuân theo trình tự hợp lí, lôgic.
+Trình bày luận điểm:


Có thể nói, trong bài văn nghị luận nói chung, nghị luận xã hội noí riêng,
luận điểm chính là yếu tố mang lại sự sống còn cho bài văn.Việc trình bày luận
điểm trong bài văn nghị luận là vô cùng quan trọng .Trình bày luận điểm là xây
dựng các câu văn diễn đạt tư tưởng của người viết. Hay nói cách khác , luận điểm
được nêu khái quát dưới dạng một câu văn. Câu văn thể hiện tập trung nhất luận
điểm, tư tưởng của người viết được gọi là câu chủ đề.

Câu chủ đề diễn đạt luận điểm cần phải đạt các yêu cầu cơ bản sau:
- Có tính khái quát.(Vừa đủ bao quát nội dung ý nghĩa các câu trong đoạn )
- Ngắn gọn, rõ ràng, có đủ chủ ngữ , vị ngữ.
- Nội dung tường minh, đơn nghĩa.
Ví dụ:
Dạng bài
-Nghị luận
về một hiện
tượng đời
sống.

Đề bài
Luận điểm
Tác hại của -Thực trạng của tệ
tệ
nạn nạn nghiện ma túy
nghiện ma hiện nay.
túy
-Nguyên nhân của
tệ nạn ma túy.
-Tác hại của nghiện
ma túy đối với cá
nhân người nghiện.
-Tác hại của tệ tiêm
chích ma túy với gia
đình người nghiện.
-Tác hại của tệ nạn
tiêm chích ma túy
với xã hội.


-Tiêm chích ma túy
là một tệ nạn cần
bài trừ
Nghị luận Lòng khoan -Thế nào là khoan
về một vấn dung trong dung

Câu chủ đề
-Thực trạng nghiện ma túy hiện
nay diễn ra rất nghiêm trọng
trong dời sống xã hội.
-Ta thấy có rất nhiều nguyên
nhân khác nhau dẫn đến tệ nạn
ma túy.
-Trước hết, tiêm chích ma túy
gây tác hại nghiêm trọng cho
chính người nghiện.
-Không chỉ với cá nhân người
nghiện, tiêm chích ma túy còn
gây hậu quả nghiêm trọng cho
cả gia đình.
-Không chỉ vậy, tệ nạn tiêm
chích ma túy còn gây hậu quả
khôn lường đối với xã hội.
(Hoặc : Không chỉ đối với cac
nhân, gia đình người nghiện tệ
nạn tiêm chích ma túy còn gây
hậu quả khôn lường đối với xã
hội.
-Chúng ta cần kiên quyết bài trừ
tệ nạn nghiện ma túy ra khỏi đời

sống cộng đồng.
-Lòng khoan dung là một đức
tính cao đẹp, đáng quý của con


đề tư tưởng cuộc sống
đạo lí

-Biểu hiện của long
khoan dung ?

người.
-Trong cuộc sống hằng ngày
long khoan dung được biểu hiện
qua những cách ứng xử việc làm
cụ thể.
-Lòng khoan dung có ý nghĩa
rất lớn đối với cuộc sống mỗi
người và cả đời sống xã hội .

-Vì sao con người
cần có long khoan
dung?(ý nghĩa của
long khoan dung
trong cuộc sống)
-Mỗi người cần rèn -Để cuộc sống này trở nên tốt
luyện lòng khoan đẹp hơn, mỗi người chúng ta
dung như thế nào ? cần phải rèn luyện lòng khoan
dung.
Có lẽ xây dựng và trình bày luận điểm là yêu cầu khó khăn nhất đối với

học sinh, là khâu mà học sinh thấy vướng nhất khi đứng trước một đề văn nghị
luận.
Giúp học sinh rèn kĩ năng xây dựng và trình bày luận điểm là việc làm quan
trọng nhất trong các kĩ năng làm văn nghị luận nói chung. Bởi vì khi đã tìm ra
luận điểm cũng có nghĩa là học sinh đã tìm ra phương hướng cho bài viết. Vì thế
cách đặt và trả lời câu hỏi như trên để xây dựng, trình bày luận điểm là một cách
làm đúng hướng, hiệu quả.
Việc làm trên sẽ giúp cho bài nghị luận của học sinh đảm bảo yêu cầu quan
trọng hàng đầu là: nghị luận đúng hướng. Đó là cơ sở để xây dựng luận cứ và lập
luận.
Chú ý: Khi hướng dẫn học sinh trình bày luận điểm thành câu chủ đề, càn
phải lưu ý mối liên kết giữa các luận điểm – các câu chủ đề.
*Xây dựng, trình bày luận cứ và lập luận
+ Tìm luận cứ
Như chúng ta đã biết, luận diểm có vai trò đặc biệt quan trọng trong bài
nghị luận, nhưng nếu không có luận cứ thì luận điểm cho dù là đúng đắn cũng
không thể đứng vững, không được sáng tỏ, không thể thuyết phục người đọc. Vì
vậy, bên cạnh việc rèn kĩ năng xây dựng và trình bày luận điểm, ta cần phải rèn
cho học sinh kĩ năng phát hiện, sắp xếp các luận cứ.


Khi trình bày tư tưởng, quan điểm (tán thành hay không tán thành đều phải
có lí do xác đáng; điều gì đúng, điều gì sai phải được chỉ cụ thể, nêu dẫn chứng
thuyết phục). Vì thế, khi tìm luận cứ, cần chú ý đến các mặt, các phương diện, các
khía cạnh, phạm vi của vấn đề (bản thân, gia đình, xã hội; hoặc tình cảm, vật chất,
…)
Để có đủ luận cứ làm sáng tỏ cho mỗi luận điểm, người viết cần biết đặt và
trả lời các câu hỏi xoay quanh luận điểm ấy trên các phương diện. Luận cứ bao
gồm cả lí lẽ và dẫn chứng.
Luận cứ trong bài nghị luận cần phải đạt các yêu cầu sau:

- Cụ thể, xác thực
- Sát hợp với luận điểm
- Tiêu biểu, toàn diện
- Trình bày theo trình tự hợp lí.
Ví dụ :
Luận điểm
Vì sao con người cần
có lòng khoan dung?
(Ý nghĩa của lòng
khoan dung trong
cuộc sống)

Câu hỏi tìm luận cứ
- Khoan dung là đức tính
như thế nào của con
người?
- Trong thực tế có ai có
hoàn hảo không?

- Khi khoan dung cho
người khác thì sẽ bản thân
mình sẽ ra sao?
- Người nhận được sự
khoan dung, độ lượng của
người khác sẽ sống như
thế nào?
- Tác hại của tệ nạn * Người nghiện ma túy bị
ma túy đói với cá gây hại ở những mặt nào?
nhân người nghiện
- Sức khỏe?


Luận cứ
- Khoan dung là đức tính tốt
đẹp, đáng quý của con người.
- Trong thực tế cuộc sống,
không ai là hoàn hảo, ai cũng
có thể mắc khuyết điểm, cần
được sự thông cảm, khoan
dung của người khác.
- Khi khoan dung, độ lượng
với khuyết điểm, sai lầm của
người khác, ta sẽ cảm thấy
long mình nhẹ nhõm, thanh
thản hơn.
- Người nhận được sự khoan
dung, độ lượng của người
khác sẽ cảm nhận được sự cao
thượng, thầm biết ơn người đã
khoan dung cho mình . Vì vậy,
sẽ sống tốt hơn.
- Người nghiện ma túy, sau
một thời gian, sức khỏe sẽ bị
giảm sút nghiêm trọng: người
gày gò, ốm yếu, da xanh, giảm


khả năng lao động
-Kinh tế?
- Mỗi năm, người nghiện ma
túy phải tiêu tốn rất nhiều tiền

bạc. Không có sức lao động và
vì thế không có thu nhập
- Đạo đức?
- Nghiện ma túy còn dẫn đến
-Nêu một vài dẫn chứng băng hoại về đạo đức, lối
cụ thể?sống. Khi cần mua thuốc hút,
chích, người nghiện có thể làm
bất cứ việc gì để có tiền, kể cả
giết người, cướp của.
Việc tìm luận cứ đáp ứng đầy đủ yêu cầu đặt ra sẽ làm cho luận điểm được
sáng tỏ, tạo cơ sở cho luận điểm có thể đứng vững.
Với học sinh , qua việc làm trên, các em sẽ có kĩ năng, thói quen xem xét,
tìm hiểu vấn đề trên nhiều phương diện, nhiều mặt, nhiều khía cạnh.
+ Tổ chức luận điểm, luận cứ - lập luận
Việc làm nay có vai trò đặc biệt quan trọng trong kĩ năng làm văn nghị luận.
Bởi vì luận điểm chính là linh hồn của bài văn nghị luận. Tổ chức luận điểm, luận
cứ là kĩ năng đưa tư tưởng, quan điểm của người viết đến với người đọc- giúp bài
văn đến đích: thuyết phục người đọc.
Nếu luận điểm và luận cứ là những cái cụ thể, đếm được, hình dung được
thì lập luận là cái khái quát, trừu tượng. Lập luận là cách trình bày lô gíc giữa
luận điểm với lí lẽ, dẫn chứng nhằm khẳng định, chứng minh cho luận điểm, tức là
xây dựng mối liên hệ lô- gíc giữa luận điểm với lí lẽ, dẫn chứng nhằm khẳng định,
chứng minh cho luận điểm toàn bài. Vì vậy giúp học sinh hiểu và chủ động biết
cách lập luận trong bài viết là rất cần thiết và cũng là việc làm không đơn giản.
Lập luận trong bài nghị luận xã hội được thể hiện ở hai phạm vi : Trong từng
đoạn và toàn bài.
Lập luận trong từng đoạn:
Lập luận trong từng đoạn thể hiện qua việc sắp xếp luận cứ và câu chủ đề.
Để giúp học sinh hiểu cách lập luận trong một đoạn văn, tôi đã chọn cách làm
đi từ lập luận cụ thể trong một đoạn văn, rồi từ đó rút ra kĩ năng.

Ví dụ:
?Trong đoạn văn nghị luận trên, người


viết trình bày luận điểm nào?
-Ý nghĩa của lòng khoan dung trong
cuộc sống .
?Luận điểm ấy được thể hiện tập trung
ở câu nào.
-Câu 1: Có thể nói, lòng khoan dung có
ý nghĩa rất lớn trong cuộc sống.
?Trong đoạn văn trên, người viết dùng
mấy luận cứ? Mỗi luận cứ có nhiệm vụ
gì.
-Dùng bốn luận cứ.
-Mỗi luận cứ làm rõ một ý nghĩa của
lòng khoan dung trong cuộc sống.
? Nhận xét của em về cách lập luận
trong đoạn.
Lập luận rất chặt chẽ theo nối diễn dịch.

Khoan dung là đức tính tốt đẹp, đáng
quý của con người, nó có ý nghĩa rất
lớn trong đời sống. Bởi vì , trong thực
tế cuộc sống, không ai là hoàn hảo, ai
cũng có thể mắc khuyết điểm , cần được
sự thông cảm, khoan dung của người
khác. Khi khoan dung, độ lượng với
khuyết điểm, sai lầm của người khác ta
sẽ cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm ,

thanh thản hơn. Người nhận được sự
khoan dung, độ lượng của người khác
sẽ cảm nhận được sự cao thượng , thầm
biết ơn người đã khoan dung cho mình,
do đó sẽ sống tốt hơn. Khi mọi người
đều sống khoan dung, độ lượng thì mối
quan hệ giữa người với người sẽ nhân
ái, chan hòa, xã hội vì thế mà tốt đẹp
hơn lên.
Như vậy, qua bài tập trên, học sinh sẽ hiểu được một cách cụ thể, rõ ràng

thế nào là lập luận trong phạm vi đoạn văn. Trong một đoạn văn nghị luận, có thể
sử dụng cách lập luận diễn dịch, quy nạp hoặc tổng- phân- hợp.Trên cơ sở đó học
sinh có thể thực hành viết đoạn văn nghị luận theo yêu cầu của giáo viên một cách
khá dễ dàng.
Lập luận trong toàn bài: Lập luận toàn bài chính là cách tổ chức, sắp xếp hệ
thống luận điểm nhằm làm sáng rõ cho vấn đề.
Đây là kĩ năng được thực hiện cụ thể trong bước lập dàn ý và viết bài.
Ví dụ: Tổ chức luận điểm- lập luận trong toàn bài với hai đề cụ thể sau:
- Lòng khoan dung trong cuộc sống.
- Tác hại của tệ nạn nghiện ma túy.
Vấn đề nghị luận
Lập luận toàn bài ( sắp xếp hệ thống luận điểm )
Lòng khoan dung trong cuộc -Thế nào là lòng khoan dung?
sống
-Biểu hiện của lòng khoan dung?
-Vì sao con người cần có lòng khoan dung? ( ý
nghĩa của lòng khoan dung trong cuộc sống )
-Mỗi người cần rèn luyện lòng khoan dung như thế
nào?

Tác hại của tệ nạn nghiện ma -Thực trạng của tệ nạn nghiện ma túy hiện nay.
túy
-Nguyên nhân của thực trạng nghiện ma túy.


-Tác hại của tệ nạn ma túy đối với cá nhân người
nghiện.
-Tác hại của tệ nạn ma túy với gia đình người
nghiện.
-Tác hại của tệ nạn ma túy đối với xã hội.
-Tiêm chích ma túy là tệ nạn cần được bài trừ.
Trong rèn luyện cho học sinh kĩ năng này, giáo viên phải giúp học sinh hiểu
được vai trò riêng của từng luận điểm; thấy được ý nghĩa của trình tự, mối quan hệ
của các luận điểm trong toàn bài . Đồng thời giáo viên cũng phải giúp các em thấy
được trong bài văn nghị luận, việc lựa chọn trình tự lập luận phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: nội dung vấn đề nghị luận, yêu cầu cụ thể của đề bài, chủ quan của người
viết để từ đó lựa chọn cách lập luận phù hợp và hiệu quả.
Lập luận trong một bài văn nghị luận xã hội đòi hỏi khá cao về tư duy lô
gic, khái quát, tổng hợp. Vì vậy, học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi rèn luyện kĩ
năng này. Có thể nói, việc làm trên đây đã phần nào giúp học sinh hình dung cụ
thể về lập luận và thực hành lập luận đạt kết quả.
* Các kĩ năng khác
+Trình bày tình cảm
Tình cảm trong bài văn nghị luận: Bài nghị luận không chỉ thuyết phục bởi
lí mà còn thuyết phục bởi tình, tình cảm trong bài văn nghị luận phải là những tình
cảm chân thành, xuất phát từ những rung động của người viết ( với người đọc, với
vấn đề đem bàn luận
Để thể hiện, bộc lộ tình cảm, người viết có thể sử dụng các kiểu câu, dấu
câu phù hợp; có thể biểu cảm trực tiếp hoặc gián tiếp; đồng thời cần chú ý đến
ngôi nhân xưng-chỗ đứng của người nghị luận. Tùy theo vấn đề nghị luận cũng

như yêu cầu , mệnh lệnh đưa ra trong đề bài mà người viết mà người viết dùng các
từ: tôi, ta,chúng ta,…
+ Trình bày lời văn
Tư tưởng, quan điểm của người viết trong bài văn nghị luận đế với người
đọc bằng lời văn, qua lời văn. Vì vậy để thuyết phục người đọc, lời văn trong bài
văn nghị luận xã hội của học sinh cần đạt các yêu cầu sau:


- Tự nhiên, linh hoạt như đang trao đổi với các bạn cùng lứa tuổi, trang lứa;
tránh lên gân, bắt chước giọng người lớn.
- Giản dị, sinh động
- Trong sáng, dễ hiểu ( tránh dùng những từ ngữ xa lạ, đặc biệt là những từ
mà mình không hiểu hoặc đưa ra những từ nước ngoài vào bài văn khi cần thiết )
- Diễn đạt một cách hình ảnh, có màu sắc tu từ.
Nói tóm lại, yêu cầu đầu tiên và bắt buộc của rèn các kĩ năng làm văn nghị
luận xã hội là rèn kĩ năng xây dựng trình bày luận điểm, luận cứ và lập luận. Đây
là con đường khoa học để giúp học sinh củng cố kiến thức, thực hành các kĩ năng.
5.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Qua thực tế vận dụng đề tài trong quá trình giảng dạy của bản thân tôi đã
thu được những kết quả nhất định.
Để kiểm nghiệm kết quả của đề tài của tôi đã khảo sát chất lượng hai lớp do
mình phụ trách( lớp 9A chưa áp dụng đề tài, lớp 9B chưa áp dụng đề tài. )
- Phương pháp kiểm chứng: khảo sát bằng câu hỏi kiểm tra 10’.
*Đề khảo sát:
Hãy xây dựng luận điểm cho đề tài sau:
Trong tác phẩm “Cố hương”, nhà văn Lỗ Tấn có viết: “… Kì thực trên mặt
đất làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Từ quan niệm đó của
nhà văn, em hãy nêu suy nghĩ của mình về con đường mà mỗi người cần phải lựa
chọn cho mình trong cuộc đời.
Yêu cầu cần đạt:

Tìm được các luận điểm:
- Giải thích khái niệm con đường .
- Suy nghĩ về con đường mà mỗi người lựa chọn.
-Ý nghĩa của việc lựa chọn con đường đúng đắn và hậu quả của “lầm đường
lạc lối”.
- Liên hệ bản thân về quá trình hình thành con đường cuộc đời.
*Kết quả khảo sát:
- Qua chấm bài khảo sát tôi thu được kết quả sau:


Lớp
9A
(37)
9B
(37)

Giỏi

Khá

TB

Yếu

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

4

10,8

13

35,2

14

37,8

6

16,2

7

18,9


17

45,9

10

27,1

3

8,1

Kêt quả khảo sát cho thấy, ở lớp áp dụng đề tài học sinh nắm kiến thức cơ
bản tốt hơn, vận dụng kĩ năng thuần thục hơn. Do đó chất lượng bài kiểm tra cao
và đồng đều hơn so với lớp chưa áp dụng đề tài. Điều đó chứng tỏ đề tài Rèn
luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 mà tôi đã trình bày, trao
đổi ở trên là phù hợp và hiệu quả.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận.
1.1.Đánh giá chung:
Do khuôn khổ của đề tài mà tôi chưa trình bày bao quát được đầy đủ các
vấn đề liên quan đến rèn luyện các kĩ năng khác cho học sinh trong quá trình làm
văn nghị luận xã hội như: kĩ năng tìm hiểu đê,tìm ý, làm dàn ý; liên kết câu, đoạn
văn nghị luận trong bài viết… Nhưng có thể khẳng định đề tài mà tôi trình bày ở
trên đã thực hiện được nhiệm vụ cơ bản đó là: đưa ra một cách làm, một hướng đi


phù hợp trong rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9, góp
phần nâng cao hiệu quả tạo lập các văn bản nghị luận trong nhà trường nói chung.

Từ đó, từng bước nâng cao chất lượng dạy-học phần Tập làm văn ở THCS; cùng
đồng nghiệp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình rèn kĩ năng làm
văn nghị luận cho học sinh. Đồng thời đề tài còn phát huy được điểm mạnh của
nội dung chương trình, sách giáo khoa đó là tích hợp kiến thức, phát huy tính tích
cực chủ động, sáng tạo của hoc sinh trong quá trình học tập, tăng thời lượng thực
hành, hướng các em tới những vấn đề mà cả xã hội thường quan tâm, rèn kĩ năng
sống cho học sinh…
1.2. Điều kiện áp dụng đề tài:
Để đề tài áp dụng có hiệu quả, theo tôi cần có một số điều kiện sau:
+ Nhà trường : Do thời lượng thực hiện đề tài khó có thể tiến hành trong các
giờ học chính khóa nên nhà trường cần tổ chức dạy ôn thi cho học sinh lớp 9 ngay
từ trong năm học.
+ Giáo viên:
- Phải nắm chắc yêu cầu, mục tiêu của môn học nói chung, phân môn Tập
làm văn nói riêng; nguyên tắc dạy học tích hợp nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh.
- Nắm chắc những đặc trưng, yêu cầu về kĩ năng chung của văn nghị luận,
thấy được những đặc trưng , yêu cầu riêng của các dạng văn nghị luận xã hội:
Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.
- Chọn lựa các vấn đề nghị luận có ý nghĩa xã hội nhưng gần gũi, quen
thuộc với học sinh; nắm bắt kịp thời những vấn đề bức xúc nhạy cảm trong xã hôi.
- Chuẩn bị bài, chuẩn bị đồ dùng chu đáo, sử dụng hợp lí có hiệu quả các
phương tiện dạy học hiện đại. Có những bài tập, ví dụ mẫu để học sinh tham
khảo ,học tập.
- Kết hợp nhiều phương pháp, biện pháp dạy học, phối hợp rèn nhiều kĩ
năng, quan tâm đến các đối tượng học sinh.
+ Học sinh:


-Có vốn sống phong phú; biết quan tâm những vấn đề gần gũi trong cuộc

sống; nắm bắt kịp thời những sự việc, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống hàng
ngày.
- Chuẩn bị chu đáo, tích cực học tập, thực hành kĩ năng.
- Có phương pháp, kĩ năng học tập khoa học, phù hợp, hiệu quả.
- Tự giác tham gia các hoạt động học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Sau mê, yêu thích những môn học.
1.3. Bài học kinh nghiệm:
Từ việc áp dụng đề tài bước đầu thu được kết quả tôi tự rút ra những bài học
kinh nghiệm sau :
- Giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, sách giáo khoa, yêu
cầu của đổi phương pháp dạy học, nắm chắc yêu cầu rèn kĩ năng làm văn nghị
luận xã hội, cho học sinh.
- Đầu tư thời gian, nghiên cứu, chuẩn bị bài, chuẩn bị đồ dùng, phương tiện
dạy học chu đáo.
- Kết hợp rèn luyện các kĩ năng của kiểu bài với các kĩ năng tạo lập văn bản
nghị luận nói chung.
1.4. Điểm còn hạn chế của đề tài và hướng phát triển tiếp theo:
Trong quá trình áp dụng vào thực tế giảng dạy, rèn kĩ năng cho học sinh ,
tôi thấy đề tài có một số hạn chế sau:
- Trong tìm hiểu các kĩ năng của kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh không
được thực hành nhiều ở trên lớp, vì vậy việc rèn kĩ năng của kiểu bài còn gặp
nhiều khó khăn.
- Khó khăn về thời gian thực hiện đề tài qua những tiết học chính khóa.
Để khắc phục các điểm hạn chế trên, theo tôi cần có sự phối hợp, đầu tư,quan tâm
của các nhà quản lí giáp dục, của cả giáo viên, học sinh để hướng tới một mục tiêu
chung là không ngừng nâng cấp chất lượng tạo lập các văn bản nghị luận xã hội
trong nhà trường, đáp ứng mục tiêu của môn học cũng như yêu cầu của xã hội.
2. Khuyến nghị và đề xuất



Tổ chuyên môn, Nhà trường tiếp tục tổ chức các chuyên đề, các buổi hội
thảo giúp giáo viên chúng tôi có điều kiện học hỏi, trao đổi về những vấn đê
chuyên môn, được rèn luyện và nâng cao tay nghề, có thêm những kinh nghiệm bổ
ích trong rèn kĩ năng làm văn cho học sinh.Tiếp tục phổ biến, trao đổi rộng rãi
những đề tài, SK có chất lượng, hiệu quả để nhiều giáo viên có thể áp dụng trong
quá trình giảng dạy. Do thời gian và năng lực có hạn, trong phạm vi, khuôn khổ
của một đề tài, chắc chắn vấn đề tôi nêu ra không thể tránh khỏi khiếm khuyết, rất
mong nhận được và chân thành cảm ơn sự góp ý của các đồng nghiệp để đề tài
hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



×