Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tieu luan hoan chinh kt gs doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.5 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã sớm xác định: Giám sát là
hoạt động không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, diễn ra trong tất cả
các khâu của quy trình lãnh đạo quản lý. Nên từ Đại hội lần thứ III năm 1960 của
Đảng đã yêu cầu: Tăng cường công tác giám sát của Đảng đối với cán bộ, cơ quan
nhà nước; đến Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 khóa VIII, Đảng đã nhấn mạnh: “Sử
dụng đồng bộ hệ thống giám sát cán bộ, đảng viên nhất là sự giám sát của tổ chức
đảng”. Nhưng trong thực tế theo quy định của Điều Lệ Đảng các khóa VII, VIII,
IX thì các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp chủ yếu là thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, chưa nói đến công tác giám sát. Mà nhiệm vụ giám sát trong
Đảng mới được đưa vào Điều lệ Đảng từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; Bổ
sung cụ thể vào điều 30, 32 chương VII của Điều Lệ Đảng. Đó là cơ sở chính trị,
pháp lý quan trọng cho mọi tổ chức đảng và đảng viên chấp hành và chịu sự giám
sát của Đảng.
Trong giai đoạn đổi mới vừa qua, công tác giám sát đảng đã góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ đường lối, quan điểm, các nguyên tắc của Đảng; thúc đẩy
thực hiện các nhiệm vụ chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng; góp phần tăng cường, giữ gìn
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng... Nghị quyết hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng
Đảng hiện nay” đã khẳng định: Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong những
năm qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước
được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững; niềm tin của nhân dân với
Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng
thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng
cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân
dân tin tưởng. Đồng thời, từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng đến
nay, công tác kiểm tra, giám sát được quan tâm đúng mức. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra


các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, với trọng tâm
là: "Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
1


sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu".
Tuy nhiên, Đại hội XII cũng khẳng định, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ
mới cũng có không ít khó khăn, thách thức, nhất là: “Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có
chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không
chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công
ty... Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng;
làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một
nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Tình hình trên có
nhiều nguyên nhân, một trong những lý do dẫn đến tình hình trên là Đảng ta chỉ
mới quan tâm nhiều đến công tác kiểm tra mà chưa quan tâm nhiều đến công tác
giám sát. Chính vì chưa quan tâm đúng mức đến công tác giám sát nên chưa phòng
ngừa, ngăn chặn kịp thời các lỗi phạm, dẫn đến một số tổ chức đảng và đảng viên
suy thoái về tư tưởng chính trị; chủ nghĩa cá nhân phát triển, thoái hóa về phẩm
chất, đạo đức, lối sống; bệnh quan liêu, tham nhũng ngày càng nặng chưa được
khắc phục kịp thời;... Mặt khác, nếu Đảng không được giám sát chặt chẽ, rất dễ
lộng quyền, lạm quyền và tất nhiên dễ mắc phải các nguy cơ của một Đảng cầm
quyền là sai lầm về đường lối; xa dân và quan liêu, tham nhũng…
Để tiếp tục phát huy kết quả cũng như góp phần khắc phục những mặt hạn
chế, yếu kém trong công tác giám sát thời gian qua, nhằm đáp ứng những yêu cầu
của công cuộc đổi mới và công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, việc nghiên

cứu vấn đề “Thực trạng công tác giám sát trong Đảng giai đoạn hiện nay” là rất
cấp thiết. Nhất là, sau khi Đại hội XII của Đảng càng khẳng định giám sát là một
trong những chức năng lãnh đạo của Đảng và giao chức năng, nhiệm vụ giám sát
trong Đảng cho cấp uỷ đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp.

2


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN, NHẬN THỨC, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ
CÔNG TÁC GIÁM SÁT

1. KHÁI NIỆM, TẦM QUAN TRỌNG, MỤC ĐÍCH, CÁC QUAN
ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC GIÁM SÁT
CỦA ĐẢNG
1.1. Khái niệm giám sát và giám sát của Đảng
1.1.1. Khái niệm giám sát
Trong từ điển tiếng Việt, giám sát được hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm
đúng hoặc sai những điều quy định”, hoặc được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem
có thực hiện đúng những điều quy định không”. Giám sát còn được hiểu “là chức
quan thời xưa trông nom, coi sóc một loại việc nhất định”. Giám sát là một hoạt
động được thực hiện một cách liên tục nhằm thu thập và phân tích các thông tin, từ
đó giúp cho nhà quản lý biết chắc các hoạt động của dự án có được thực hiện đúng
tiến độ, kết quả theo kế hoạch đề ra không và kịp thời có các biện pháp can thiệp
cần thiết để khắc phục những khó khăn, vướng mắc nếu có. Quá trình giám sát còn
giúp các tổ chức kịp thời hỗ trợ việc ra quyết định tạo nền tảng cho việc đánh giá
và bài học kinh nghiệm. Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát”
có khác nhau nhưng chúng đều có chung một số đặc điểm sau đây:
- Giám sát luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời được
câu hỏi: ai (người hoặc tổ chức nào đó) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét,

kiểm tra và đưa ra những nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện
đúng hoặc sai những điều đã quy định. Đồng thời giám sát cũng luôn luôn gắn với
một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời được câu hỏi: giám sát ai, giám sát việc gì?
Điều này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ, nó phân biệt giữa kiểm tra và giám sát.
Kiểm tra thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có
thể đồng nhất với nhau, đó là việc tự kiểm tra của chủ thể hoạt động. Nói một cách
khác, chủ thể tự mình xem xét, đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc mình
đang làm. Nhưng giám sát thì không thể tự mình giám sát hoạt động của chính
mình. Giám sát là hoạt động của chủ thể ngoài hệ thống đối với đối tượng thuộc hệ
thống khác, tức là giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu giám sát không nằm
trong một hệ thống phụ thuộc nhau.
3


- Giám sát phải được tiến hành trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ của chủ thể
giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. Giám sát cũng phải được tiến hành trên
những căn cứ nhất định, nếu như không có những quy định này thì không có cơ sở
để chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát, đưa ra những nhận định về hoạt động
của đối tượng chịu sự giám sát.
- Trong hoạt động giám sát, cả chủ thể giám sát, đối tượng bị giám sát và nội
dung, tính chất hoạt động giám sát đều rất đa dạng.
Có hai loại hình giám sát tiêu biểu: giám sát mang tính chất quyền lực nhà
nước và giám sát không mang tính chất quyền lực nhà nước. Giám sát mang tính
chất quyền lực nhà nước là loại hình giám sát được tiến hành bởi chủ thể là các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ thống các cơ quan nhà
nước khác theo những nguyên tắc nhất định về sự phân công quyền lực nhà nước.
Các phương pháp, cách thức mà loại hình thức giám sát này áp dụng luôn luôn
mang tính quyền lực nhà nước và nó trực tiếp mang lại những kết quả có tính pháp
lý. Giám sát không mang tính chất quyền lực nhà nước – là loại hình giám sát
được tiến hành bởi các chủ thể phi nhà nước. Ở nước ta, đó là hoạt động giám sát

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận đối với bộ máy nhà
nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
1.1.2. Khái niệm giám sát của Đảng
Giám sát của Đảng là việc không phải hoàn toàn mới trong công tác Xây
dựng Đảng, vì Đảng ta đã sớm xác định: Giám sát là hoạt động không thể thiếu
trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, diễn ra trong tất cả các khâu của quy trình lãnh
đạo quản lý. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III năm 1960 của Đảng đã yêu cầu:
Tăng cường công tác giám sát của Đảng đối với cán bộ, cơ quan nhà nước ; đến
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 khóa VIII Đảng đã nhấn mạnh: “Sử dụng
đồng bộ hệ thống giám sát cán bộ, đảng viên nhất là sự giám sát của tổ chức đảng”.
Nhưng trong thực tế theo quy định của Điều lệ Đảng các khóa VII, VIII, IX thì các
cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp chủ yếu là thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, chưa nói đến công tác giám sát. Mà nhiệm vụ giám sát trong Đảng mới chỉ
được đưa vào Điều lệ Đảng từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X; bổ sung
cụ thể vào điều 30, 32 chương VII của Điều lệ Đảng. Đó là cơ sở chính trị, pháp lý
quan trọng cho mọi tổ chức đảng và đảng viên chấp hành và chịu sự giám sát của
Đảng. Nhằm phòng ngừa, ngăn chặn xẩy ra vi phạm, nói không là mới trong công
4


tác xây dựng Đảng, nhưng với các tổ chức cơ sở đảng trong việc xây dựng chương
trình và quá trình tổ chức thực hiện giám sát vẫn còn rất lúng túng. Chưa nắm rõ
khái niệm giám sát của Đảng và mục đích giám sát, nên có những cấp ủy viên,
thành viên của Ủy ban kiểm tra ở một số cấp không dám thực thi nhiệm vụ khi đã
được tổ chức có thẩm quyền phân công. Họ cho rằng một ủy viên Ủy ban kiểm tra
đâu dám giám sát đồng chí bí thư, các phó bí cấp ủy. Thậm chí còn có sự nhầm lẫn
giữa công tác giám sát với công tác kiểm tra vì một vấn đề cơ bản là nắm chưa thật
rõ sự giống và khác nhau của nó…
Để giúp cơ sở khắc phục được tình trạng trên, cần phải làm rõ được hai vấn
đề sau:

Một là, phải hiểu rõ được khái niệm giám sát của Đảng là gì? Giám sát của
Đảng là việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động nhằm kịp thời
tác động để đối tượng giám sát chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nhiệm vụ giám sát theo sự phân công.
Giám sát của Đảng có giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề.
Chủ thể và đối tượng giám sát: Chủ thể giám sát bao gồm: chi bộ, đảng uỷ
bộ phận, đảng uỷ cơ sở; cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ từ cấp trên cơ sở trở lên; uỷ
ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ.
Đối tượng giám sát bao gồm: chi bộ, đảng uỷ bộ phận, đảng uỷ cơ sở, cấp
uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, thường trực cấp uỷ từ cấp trên cơ sở trở lên; uỷ ban
kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ; ban cán sự đảng, đảng
đoàn; đảng viên.
Giám sát là việc làm thường xuyên, liên tục với mục đích nhằm chủ động,
phòng ngừa, ngăn chặn xẩy ra vi phạm; giám sát giúp đối tượng được giám sát
thực hiện đúng quy định, quy chế của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phòng ngừa,
ngăn chặn khuyết điểm là chính.
Hai là, các tổ chức đảng phải phân biệt rõ sự giống và khác nhau giữa giám
sát và kiểm tra. Do chưa phân biệt rõ được sự giống và khác nhau đó nên nhiều tổ
chức đảng, nhất là các đồng chí đứng đầu cấp ủy trong quá trình lãnh đạo của mình
đã có sự nhầm lẫn kể từ việc lên chương trình đến tổ chức thực hiện giám sát.

5


Công tác kiểm tra và giám sát có những điểm giống nhau: Kiểm tra và giám
sát đều là những hoạt động nội bộ đảng, do cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra
các cấp thực hiện. Nội dung của nó cũng giống nhau đều là việc chấp hành Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; đối tượng cũng nhằm vào tổ chức đảng và đảng viên; với mục đích thực

hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Như vậy, giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát của Đảng về cơ bản có
nhiều điểm giống nhau và có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, muốn
thực hiện tốt việc giám sát thì phải có theo dõi, xem xét tình hình hoạt động thực tế
của đối tượng bị giám sát. Ngược lại, muốn thực hiện tốt việc kiểm tra thì phải
giám sát. Giám sát từ xa là phục vụ kiểm tra tại chỗ. Càng làm tốt việc giám sát, thì
giúp cho việc kiểm tra càng trúng, càng đúng và chất lượng, hiệu quả của kiểm tra
càng cao.
1.2. Tầm quan trọng, mục đích của công tác giám sát
Giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Lãnh
đạo cũng có nghĩa là giám sát. Nếu buông lỏng việc giám sát thì cũng bằng không,
coi như không có lãnh đạo. Ngay từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III
(1960), Đảng ta đã xác định: phải tăng cường giám sát của Đảng đối với cán bộ và
cơ quan nhà nước, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với những
phần tử quan liêu gây tác hại nghiêm trọng cho Đảng và Nhà nước. Giám sát được
tiến hành thường xuyên, đúng nguyên tắc sẽ góp phần bảo vệ Cương lĩnh chính trị,
đường lối, chiến lược, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng được xác định đúng, quán
triệt đầy đủ và được tổ chức thực hiện tốt. Giám sát vừa góp phần nâng cao chất
lượng lãnh đạo, vừa làm cho sự lãnh đạo của Đảng gắn với thực tiễn hơn; đảm bảo
tính thống nhất tuyệt đối giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời nói và việc làm;
giúp cho các cấp lãnh đạo của Đảng khắc phục có hiệu quả bệnh quan liêu, chủ
quan, duy ý chí, thiếu trách nhiệm... Đồng thời, công tác giám sát được tiến hành
có nền nếp, đúng quy trình sẽ góp phần ngăn ngừa các biểu hiện mất đoàn kết, vô
kỷ luật; đảm bảo cho nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện nghiêm túc;
khắc phục tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Hiện nay Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, nắm giữ vận mệnh của đất
nước, dân tộc. Nhưng ở trong Đảng và bộ máy nhà nước tình trạng suy thoái về tư
6



tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng.
Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết
những vấn đề phức tạp nảy sinh. Nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng bị vi
phạm nghiêm trọng; tự phê bình và phê bình yếu kém, hình thức; quan hệ nội bộ,
có lúc bị đồng tiền và quyền lực chi phối.
Đảng lãnh đạo cả hệ thống chính trị nếu không được giám sát chặt chẽ rất dễ
lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn tới làm suy yếu và tan rã Đảng.
Công tác giám sát được tiến hành thường xuyên sẽ giúp cho tổ chức đảng
chủ động nắm chắc tình hình và đánh giá đúng hoạt động của tổ chức đảng, đảng
viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý; đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao; góp phần bổ sung,
sửa đổi các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn.
Đồng thời, phát huy ưu điểm; phát hiện hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm, kịp thời uốn
nắn, chấn chỉnh, khắc phục; cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của tổ chức
đảng, đảng viên từ khi còn manh nha. Và góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng; giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, bảo đảm sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng; ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức,
lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.
Từ sự phân tích trên có thể khẳng định: công tác giám sát là một khâu quan
trọng của quy trình lãnh đạo; là một chức năng, nội dung lãnh đạo chủ yếu của
Đảng; là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Công tác giám sát
là một tất yếu khách quan, cần thiết đối với mọi tổ chức đảng.
1.3. Các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác giám sát
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006), Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chính thức đưa khái niệm giám sát vào trong văn kiện, Điều lệ Đảng và đề ra
một số quan điểm về công tác giám sát, trong đó khẳng định:
Giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng, là

chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, trước hết là nhiệm
vụ của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ, do cấp uỷ trực tiếp tiến hành. Công tác
giám sát phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt

7


chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng. Tổ chức đảng và đảng
viên phải chịu sự giám sát của Đảng và giám sát của nhân dân.
Tăng cường công tác giám sát phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công tác
tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; phải thực hiện toàn diện, đồng
bộ, có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Thực hiện đồng
bộ giữa công tác giám sát và công tác kiểm tra; “giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra
phải có trọng tâm, trọng điểm” để chủ động phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát
hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm
ngay từ lúc mới manh nha.
Công tác giám sát phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính.
Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải kiên quyết xử lý nghiêm minh để răn
đe và giáo dục. Đề cao trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai
trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong
công tác giám sát.

Chương 2
NHỮNG PHÁT TRIỂN MỚI TRONG NHẬN THỨC, QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC GIÁM SÁT

Giám sát là công việc không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo và quản lý,
diễn ra trong tất cả các khâu của quy trình lãnh đạo và quản lý. Đảng ta đã rất quan
tâm đến công việc giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên và các cơ

quan trong hệ thống chính trị. Theo quy định của Điều lệ Đảng khoá VI, khoá VII,
khoá VIII, khoá IX, các cấp uỷ, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp chủ yếu mới
thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, còn chức năng, nhiệm vụ giám sát trong
Điều lệ Đảng chỉ quy định: “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân”, lại chưa được
quy định cụ thể để thực hiện. Nhưng thực chất các cấp uỷ (kể cả Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư), tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và
đảng viên đã và đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát. Riêng ủy ban kiểm
tra các cấp thì việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát với phạm vi, đối
tượng, nội dung còn hạn hẹp và chưa có nền nếp. Nhiệm vụ giám sát của các tổ
chức đảng trong các nhiệm kỳ trước đây tuy có làm nhưng không được quy định cụ
8


thể, không có chương trình, kế hoạch, khi tiến hành không theo một quy trình nào
và chưa có sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm... Trong thực tế, giám sát chưa thành
một nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của các tổ chức đảng. Điều 14, Chương III,
Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư
khoá IX quy định: “Uỷ ban Kiểm tra Trung ương chủ trì phối hợp với Ban Tổ chức
Trung ương, Văn phòng Trung ương và các cơ quan liên quan giúp Ban Chấp hành
Trung ương theo dõi việc thực hiện Quy chế này”. Theo khái niệm đã nêu ở trên thì
giám sát chính là theo dõi việc thực hiện những quy định, quyết định, quy chế mà
cấp uỷ đã giao cho uỷ ban kiểm tra.
Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát là của toàn Đảng, trong đó có
uỷ ban kiểm tra các cấp là cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám
sát trong Đảng. Bởi vì, trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền, một Đảng lãnh đạo
cả hệ thống chính trị mà không được giám sát chặt chẽ, rất dễ lộng quyền, lạm quyền
và làm giảm lòng tin của nhân dân, tất nhiên sẽ dẫn đến tiêu cực, tệ quan liêu, tham
nhũng. Đó là nguy cơ bên trong làm suy yếu, thậm chí làm tan rã Đảng. Đây là điều
cần được cảnh báo để chúng ta thấy rõ và kiên quyết tìm mọi biện pháp khắc phục
cho bằng được. Vì vậy, giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên là rất bức

thiết, nó xuất phát từ đòi hỏi khách quan của công tác xây dựng Đảng và yêu cầu của
giai đoạn cách mạng mới, bảo đảm cho Đảng ta, trước hết là các cơ quan lãnh đạo và
những người lãnh đạo của Đảng luôn kiên định về chính trị, giữ vững đường lối,
chính sách, quy định, nguyên tắc của Đảng, không để chệch hướng; xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt, ngăn ngừa suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức và lối sống. Do đó, trong giai đoạn cách mạng mới, cần phải
tăng cường công tác giám sát trong Đảng nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy
ra vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
Như vậy, về nguyên tắc giám sát, cần chú ý là chỉ có tổ chức đảng cấp trên
được quyền giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; đảng viên không được tự
ý giám sát, chỉ được tham gia giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm
quyền; tổ chức đảng cấp dưới không được giám sát tổ chức đảng cấp trên; tổ chức
đảng và đảng viên chịu sự giám sát của nhân dân bằng quy chế, quy định cụ thể.
Từ Đại hội X của Đảng đến nay, nhận thức của Đảng ta về công tác giám sát
càng hoàn thiện, đặc biệt Đảng ta đã xây dựng và ban hành Quy chế giám sát trong
Đảng (Ban hành kèm theo Quyết định số 68-QĐ/TW ngày 21-3-2012 của Bộ
Chính trị); Ủy Ban Kiểm tra Trung ương ban hành Hướng dẫn số 06HD/UBKTTW ngày 20/6/2012 thực hiện Quy chế giám sát trong Đảng.
9


2.1. Nguyên tắc giám sát
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng lãnh
đạo và tổ chức thực hiện công tác giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng. Cấp
uỷ, tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Đảng viên thực
hiện việc giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền. Tổ chức đảng
và đảng viên chịu sự giám sát của Đảng.
Việc giám sát phải dân chủ, khách quan, đúng nguyên tắc và quy định của
Điều lệ Đảng.
2.2. Chế độ giám sát:
Các chủ thể giám sát theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện giám

sát như sau: Lãnh đạo, chỉ đạo công tác giám sát; xây dựng phương hướng, nhiệm
vụ; chương trình, kế hoạch giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; hướng
dẫn, tổ chức thực hiện công tác giám sát thường xuyên và giám sát theo chương
trình, kế hoạch; kiểm tra, sơ kết, tổng kết thực hiện công tác giám sát.
2.3. Phạm vi giám sát của các tổ chức đảng
Đảng uỷ bộ phận, đảng uỷ cơ sở; cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ từ cấp trên
cơ sở trở lên giám sát các đối tượng và nội dung thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý
của mình. Uỷ ban kiểm tra các cấp giám sát các đối tượng và nội dung thuộc phạm
vi lãnh đạo, quản lý của cấp uỷ cùng cấp.
Các ban của cấp uỷ, văn phòng cấp uỷ, cơ quan uỷ ban kiểm tra (gọi chung
là cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ) giám sát các đối tượng và nội dung
thuộc phạm vi lĩnh vực phụ trách.
Chi bộ giám sát các đối tượng và nội dung thuộc phạm vi lãnh đạo của chi bộ.
2.4. Nội dung giám sát
- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ các cấp, ban
thường vụ cấp uỷ từ cấp trên cơ sở trở lên giám sát:
+ Đối với tổ chức đảng: Việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng,
của cấp uỷ cấp trên và cấp mình, pháp luật của Nhà nước; việc thực hiện các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, quy chế làm việc, chế độ công tác và việc
bảo đảm quyền của đảng viên; việc giữ gìn đoàn kết nội bộ, quản lý đảng viên, chỉ
đạo thực hiện quy định về những điều cán bộ, đảng viên không được làm; việc
10


chấp hành các quy định của Đảng, Nhà nước trong công tác tổ chức, cán bộ và giữ
mối liên hệ với quần chúng.
+ Đối với đảng viên: Việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
- Uỷ ban kiểm tra các cấp giám sát:
+ Đối với tổ chức đảng: Việc lãnh đạo, chỉ đạo: tổ chức thực hiện Cương

lĩnh chính trị. Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định,
quy chế, kết luận của Đảng, của cấp uỷ cấp trên và cấp mình, pháp luật của Nhà
nước; việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác toàn khoá hằng năm của cấp
uỷ, tổ chức đảng trên các lĩnh vực.
+ Đối với cấp uỷ viên và cán bộ diện cấp uỷ cùng cấp quản lý: Việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, của cấp uỷ cấp trên và cấp mình, pháp luật
của Nhà nước. Việc giữ gìn đạo đức, lối sống; về tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn
cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên; việc thực hiện chế độ kê
khai và công khai tài sản của cán bộ, đảng viên theo quy định của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
- Các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ các cấp giám sát:
+ Đối với tổ chức đảng: Việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thuộc lĩnh vực phụ trách và những nội dung do
cấp uỷ giao.
+ Đối với đảng viên: Việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
- Chi bộ giám sát mọi đảng viên trong chi bộ trong việc thực hiện nhiệm
vụ đảng viên. Đối với đảng viên là cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp
uỷ cấp trên quản lý, chi bộ giám sát cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và
việc thực hiện nghị quyết của chi bộ.
2.5. Phương pháp giám sát
- Giám sát trực tiếp:
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; cấp uỷ các cấp, ban
thường vụ cấp uỷ từ cấp trên cơ sở trở lên giám sát trực tiếp bằng cách: Thực hiện
đối thoại tại các kỳ hội nghị của cấp uỷ; nghe tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp báo
cáo; qua sinh hoạt kiểm điểm, tự phê bình và phê bình của các đồng chí Uỷ viên
11



Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, uỷ viên ban chấp hành, ban
thường vụ cấp uỷ các cấp; cử thành viên cấp mình dự các cuộc họp, hội nghị của đối
tượng giám sát. Các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, uỷ viên ban
thường vụ cấp uỷ từ cấp trên cơ sở trở lên gặp gỡ, trao đổi với đối tượng giám sát.
Uỷ ban kiểm tra các cấp giám sát trực tiếp bằng cách: Thành viên uỷ ban
kiểm tra dự các cuộc họp của cấp uỷ cùng cấp; Thành viên uỷ ban kiểm tra phụ
trách và cán bộ kiểm tra thường xuyên theo dõi lĩnh vực, địa bàn; dự các cuộc họp,
hội nghị của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, thường trực cấp uỷ, tổ chức đảng cấp
dưới; thành viên uỷ ban kiểm tra, cán bộ kiểm tra các cấp tham gia các đoàn công tác
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ cùng cấp. Các đồng chí
thành viên uỷ ban kiểm tra các cấp gặp gỡ, trao đổi với đối tượng giám sát; đôn
đốc, theo dõi đối tượng kiểm tra chấp hành kết luận kiểm tra, quyết định kỷ luật;
đối tượng giám sát chấp hành thông báo kết quả giám sát chuyên đề.
Các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ các cấp giám sát trực tiếp bằng
cách: Nghe các thành viên lãnh đạo cơ quan báo cáo kết quả thực hiện công việc
được giao; thực hiện tự phê bình và phê bình; nghe cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới,
các đơn vị tham mưu, giúp việc của cơ quan mình phản ánh, báo cáo kết quả thực
hiện nhiệm vụ; cử cán bộ của cơ quan theo dõi lĩnh vực, địa bàn; dự các cuộc họp,
hội nghị của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới. Các đồng chí
lãnh đạo các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ các cấp gặp gỡ, trao đổi với
đối tượng giám sát.
Chi bộ giám sát trực tiếp bằng cách: Theo dõi, đôn đốc đảng viên thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao; các đồng chí chi uỷ viên gập gỡ, trao đổi với đảng
viên. Kiểm điểm, tự phê bình và phê bình; bình xét, phân tích, đánh giá chất lượng
đảng viên.
- Giám sát gián tiếp bằng cách: Xem xét báo cáo hoạt động của tổ chức
đảng cấp dưới giữa hai kỳ hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ. Nghiên cứu các văn bản, báo cáo; thông
báo kết luận về các cuộc kiểm tra, giám sát, kết quả tự phê bình và phê bình, thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, tổ chức

đảng cấp dưới. Ý kiến trao đổi, phản ánh, kiến nghị, báo cáo kết quả thanh tra,
kiểm tra, giám sát của các tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trịxã hội; phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng. Xem xét đơn tố cáo của
12


đảng viên và quần chúng; khiếu nại của tổ chức, cá nhân đối với tổ chức đảng,
đảng viên.
2.6. Hình thức giám sát
- Giám sát thường xuyên: Thông báo cho đối tượng giám sát biết về thành
viên của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ
hoặc cán bộ được giao thực hiện nhiệm vụ giám sát. Thực hiện giám sát thường
xuyên bằng phương pháp giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp theo quy định tại
Điều 9 của Quy chế giám sát (Ban hành kèm theo Quyết định số 68-QĐ/TW ngày
21-3-2012 của Bộ Chính trị).
- Giám sát theo chuyên đề: Xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát
hằng năm và thông báo cho đối tượng giám sát. Thành lập đoàn (tổ) giám sát (gọi
chung là đoàn giám sát); xây dựng kế hoạch giám sát cụ thể đối với tổ chức đảng
hoặc đảng viên. Có văn bản yêu cầu đối tượng giám sát viết báo cáo và cung cấp
tài liệu liên quan đến nội dung giám sát. Đoàn giám sát nghiên cứu báo cáo, tài
liệu; làm việc với các tổ chức, cá nhân có liên quan; chuẩn bị dự thảo báo cáo kết
quả giám sát.
Chủ thể giám sát yêu cầu tổ chức đảng được giám sát hoặc tổ chức đảng có đảng
viên được giám sát tổ chức hội nghị để đối tượng giám sát báo cáo; đoàn giám sát trình
bày dự thảo báo cáo kết quả giám sát; hội nghị thảo luận. Thông báo kết quả giám sát
bằng văn bản đến tổ chức đảng, đảng viên được giám sát và tổ chức, cá nhân có
liên quan. Theo dõi, đôn đốc đối tượng giám sát thực hiện thông báo kết quả giám sát.
2.7. Xử lý kết quả giám sát
- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; cấp uỷ các cấp, ban
thường vụ cấp uỷ từ cấp trên cơ sở trở lên: Kịp thời nhắc nhở, lưu ý, cảnh báo bằng
các hình thức thích hợp theo thẩm quyền với đối tượng giám sát về những vấn đề

cần thiết; nhận xét, đánh giá kết quả giám sát; xem xét trách nhiệm của đối tượng giám
sát; xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý; yêu cầu đối
tượng giám sát sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm và khắc phục hậu quả (nếu có); đề
ra hoặc điều chỉnh các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, chức trách được giao; yêu cầu tổ chức đảng, đảng viên có
liên quan chỉ đạo đối tượng giám sát chấp hành thông báo kết quả giám sát. Qua
giám sát, quyết định kiểm tra chấp hành hoặc yêu cầu kiểm tra khi có dấu hiệu vi

13


phạm. Trực tiếp thực hiện hoặc chỉ đạo tuyên truyền, thông báo kết quả hoạt động
giám sát theo quy định của Đảng.
- Uỷ ban kiểm tra các cấp: Thực hiện như quy định tại các điểm a, b; c, đ của
khoản 1, Điều 11 nêu trên. Qua giám sát, quyết định kiểm tra chấp hành, kiểm tra khi
có dấu hiệu vi phạm. Tuyên truyền, thông báo kết quả hoạt động giám sát theo quy định
của Đảng.
- Các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ các cấp: Thực hiện như quy
định tại các điểm a, c, đ của khoản 1, Điều 11 nêu trên. Nhận xét, đánh giá kết quả
giám sát; đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý trách nhiệm của đối tượng
giám sát. Qua giám sát, quyết định kiểm tra chấp hành hoặc đề nghị kiểm tra khi có
dấu hiệu vi phạm. Đề nghị tổ chức đảng có thẩm quyền tuyên truyền, thông báo kết
quả hoạt động giám sát theo quy định của Đảng.
- Chi bộ: Kịp thời nhắc nhở, lưu ý, cảnh báo theo thẩm quyền đối với đảng
viên được giám sát. Nhận xét, đánh giá kết quả giám sát đối với đảng viên; xử lý
theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý. Yêu cầu đảng
viên được giám sát sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm và khắc phục hậu quả (nếu có).
Qua giám sát, quyết định kiểm tra chấp hành hoặc đề nghị kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm.
2.8. Thẩm quyền và trách nhiệm của chủ thể giám sát

- Thẩm quyền của chủ thể giám sát: Ban hành các văn bản về thực hiện
công tác giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng.
Cử đại diện lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng hoặc cán bộ theo dõi lĩnh vực, địa
bàn dự các cuộc họp, hội nghị của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, thường trực cấp
uỷ và các tổ chức đảng cấp dưới theo quy định; lập các đoàn giám sát để tiến hành
các cuộc giám sát; nắm tình hình liên quan đến đối tượng được giám sát. Yêu cầu
đối tượng giám sát, các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu,
trả lời, trao đổi về những nội dung liên quan đến việc giám sát; yêu cầu tổ chức
đảng quản lý đối tượng giám sát phối hợp thực hiện. Qua giám sát, chủ thể giám
sát nhận xét, đánh giá về ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân; rút kinh nghiệm
về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; bổ sung, sửa đổi, nhắc nhở, cảnh báo, kiến
nghị những vấn đề cần thiết.

14


Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ cấp dưới, ban thường vụ cấp uỷ từ cấp trên
cơ sở trở lên phát hiện đối tượng giám sát thực hiện không đúng nghị quyết chỉ thị,
quy định của Đảng, của cấp uỷ cấp trên và cấp mình, trái với pháp luật của Nhà
nước thì yêu cầu khắc phục, sửa chữa hoặc xử lý theo thẩm quyền; nếu thấy cần
thiết thì yêu cầu huỷ bỏ quyết định, quy định sai trái đó.
Uỷ ban kiểm tra được yêu cầu xem xét lại các quyết định của cấp uỷ, tổ chức
đảng cấp dưới trái với chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; thu hồi, huỷ bỏ quyết định của tổ chức đảng cấp dưới trái thẩm quyền
về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng.
Các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ phát hiện tổ chức đảng cấp
dưới hoặc đảng viên thực hiện không đúng nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng,
của cấp uỷ cấp trên, pháp luật của Nhà nước thì báo cáo cấp uỷ, ban thường vụ cấp
uỷ cùng cấp xem xét, xử lý.
Chi bộ nếu thấy đảng viên không thực hiện, thực hiện không đúng chức

trách, nhiệm vụ được giao, có thiếu sót, khuyết điểm thì kịp thời nhắc nhở, yêu cầu
đảng viên đó thực hiện đúng, chấn chỉnh, khắc phục hoặc báo cáo cấp có thẩm
quyền xem xét, giải quyết.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ các cấp cử cấp uỷ
viên trực tiếp chỉ đạo, giám sát tổ chức đảng cấp dưới sửa chữa, khắc phục yếu
kém, khuyết điểm, vi phạm.
- Trách nhiệm của chủ thể giám sát: Thực hiện việc giám sát thường
xuyên, giám sát theo chương trình, kế hoạch và giữ bí mật về nội dung văn bản, tài
liệu, cá nhân có liên quan đến việc giám sát; phát ngôn, thông tin theo đúng quy
định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Công tâm, khách quan khi thực hiện
giám sát; báo cáo, chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng có thẩm quyền về kết quả
giám sát của mình. Thông báo cho đối tượng giám sát về quyết định thành lập đoàn
giám sát, kế hoạch giám sát chuyên đề. Thông báo bằng văn bản kết quả giám sát
chuyên đề cho đối tượng giám sát; đề xuất, kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét,
sửa đổi, bổ sung những vấn đề cần thiết và tiếp tục theo dõi, đôn đốc đối tượng
giám sát chấp hành thông báo kết quả giám sát. Báo cáo kết quả giám sát với tổ
chức đảng có thẩm quyền và thông báo cho tổ chức đảng có liên quan. Chỉ đạo
hoặc tổ chức tuyên truyền, phổ biến công tác giám sát theo quy định của Đảng.
15


2.9. Trách nhiệm và quyền của đối tượng giám sát
- Trách nhiệm của đối tượng giám sát: Chấp hành nghiêm chỉnh Điều
lệ Đảng, các quy định của Đảng của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra cấp trên và cấp uỷ cấp
mình về công tác giám sát. Chấp hành các yêu cầu, quyết định của chủ thề giám sát
hoặc của tổ chức đảng có thẩm quyền. Cung cấp đầy đủ, kịp thời các văn bản, tài
liệu; tham dự đầy đủ các cuộc họp, buổi làm việc được triệu tập; báo cáo, trả lời,
trao đổi đầy đủ, trung thực với chủ thể giám sát về các nội dung được yêu cầu.
Thực hiện quyết định, thông báo, tiếp thu việc nhắc nhở, cảnh báo, các đề nghị
hoặc yêu cầu của chủ thể giám sát; nghiên cứu, xem xét để phát huy mặt mạnh;

khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém hoặc hậu quả gây ra và báo cáo
với chủ thể giám sát. Không được gây khó khăn, trở ngại; không được từ chối khi
có yêu cầu giám sát của tổ chức đảng có thẩm quyền; không để lộ bí mật nội dung
giám sát cho tổ chức, cá nhân không có trách nhiệm biết.
- Quyền của đối tượng giám sát: Được chủ thể giám sát thông báo trước
người được phân công giám sát thường xuyên; được nghe nhận xét, đánh giá về
bản thân hay tổ chức mà mình là thành viên. Được chủ thể giám sát thông báo
trước quyết định, kế hoạch giám sát theo chuyên đề. Trình bày ý kiến, giải trình và
bảo lưu ý kiến; được sử dụng bằng chứng chứng minh về các nội dung giám sát
thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chức trách của mình. Từ chối trả lời, cung
cấp thông tin, tài liệu không thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chức
trách của mình hoặc không liên quan đến nội dung giám sát hoặc thấy chủ thể giám
sát thực hiện không đúng nội dung, yêu cầu, trách nhiệm, thẩm quyền giám sát.
Được đề nghị, phản ánh, báo cáo với tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét lại nhân
xét, đánh giá đối với mình hoặc xem xét lại việc giám sát không đúng nội dung,
yêu cầu, trách nhiệm của chủ thể giám sát.
2.10. Trách nhiệm và quyền của tổ chức, cá nhân có liên quan đến công
tác giám sát
- Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan: Thực hiện nghiêm túc
các đề nghị hoặc yêu cầu của chủ thể giám sát thuộc chức năng, nhiệm vụ, chức
trách được giao. Cung cấp thông tin, tài liệu đầy đủ, khách quan, trung thực và chịu
trách nhiệm về những thông tin, tài liệu đó; không được từ chối hoặc đùn đẩy, né
tránh cung cấp thông tin, tài liệu về những vấn đề thuộc trách nhiệm, quyền hạn của
16


mình. Không tiết lộ, cung cấp thông tin, tài liệu giám sát cho các tổ chức, cá nhân
không có trách nhiệm biết.
- Quyền của tổ chức, cá nhân có liên quan: Được chủ thể giám sát thông
báo trước thời gian, nội dung làm việc với chủ thể giảm sát. Trao đổi với chủ thể

giám sát về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện các yêu cầu hoặc đề nghị
của chủ thể giám sát. Từ chối trả lời hoặc cung cấp thông tin, tài liệu không thuộc
phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chức trách của mình.
Chương 3
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN THỦ ĐỨC
VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIÁM SÁT
TRONG THỜI GIAN TỚI
Căn cứ Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ Quận lần thứ V (2015 –
2020) và năm 2016 về nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ xây dựng Đảng, ngay từ đầu
năm, Quận ủy Thủ Đức đã tập trung xây dựng và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển
khai chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy, của Ủy ban Kiểm tra từ Quận đến
cơ sở; xác định một số nhiệm vụ phương hướng tập trung kiểm tra, giám sát trong
năm, đề ra các chỉ tiêu nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng quy định;
tăng cường công tác tự kiểm tra, giám sát và lãnh đạo tổ chức kiểm tra, giám sát
việc triển khai khắc phục các hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình, phê
bình theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa
XI và khóa XII về xây dựng Đảng,… nhằm đẩy mạnh phòng ngừa, ngăn chặn sự
suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, tạo động lực thúc đẩy thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ năm
2016 và Nghị quyết Đại hội Đảng nhiệm kỳ V (2015 - 2020) đã đề ra.
3.1. Công tác giám sát của Quận ủy, Ban Thường vụ Quận ủy
Quận ủy đã triển khai 01 đoàn giám sát đối với 04 tổ chức Đảng và 04 đảng
viên thuộc diện Quận ủy quản lý (đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Quận ủy, Trưởng
ban Tuyên giáo làm trưởng đoàn và thành viên là trưởng hoặc phó các ban đảng).
Nội dung giám sát về việc thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 30/3/2007
của Ban Bí thư; Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW ngày 02/3/2012 của Ban Tổ chức
Trung ương; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Chính trị về
17



đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy định
số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư đối với tổ chức đảng và cá nhân…
Qua giám sát, Ban Thường vụ Quận ủy đã ghi nhận sự nỗ lực của các cấp
ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ công tác xây
dựng Đảng, duy trì nền nếp sinh hoạt, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và kịp
thời lưu ý việc nâng cao chất lượng, nội dung sinh hoạt chuyên đề theo quy định,
vai trò của cấp ủy, công tác quản lý đảng viên. Ngoài ra, Quận ủy đã tham gia báo
cáo tham luận “Cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành kiểm tra, giám sát thực hiện
quy định của Đảng và Nhà nước về kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập
tại các cơ quan, tổ chức đơn vị; kết quả xác minh tài sản, xử lý vi phạm về minh bạch
tài sản theo qui định của Đảng và Nhà nước” tại Hội nghị giao ban chuyên đề giữa
Thường trực Thành ủy và Thường trực Quận ủy.
3.2. Công tác giám sát của Ủy ban kiểm tra Quận ủy và Ủy ban kiểm
tra Đảng ủy cơ sở
3.2.1. Giám sát tổ chức đảng:
Ủy ban Kiểm tra Quận ủy và cơ sở triển khai quyết định giám sát chuyên đề
39 tổ chức đảng cấp dưới (giảm 02 tổ chức đảng so với cùng kỳ); trong đó: Ủy ban
Kiểm tra Quận ủy triển khai Quyết định giám sát 03/02 tổ chức đảng cấp dưới trực
tiếp (giảm 02 tổ chức đảng so với cùng kỳ), so với chỉ tiêu năm đề ra đạt 150%; ủy
ban kiểm tra đảng ủy cơ sở giám sát chuyên đề 36 chi bộ trực thuộc, không tăng so
với cùng kỳ.
Nội dung giám sát chủ yếu về việc chấp hành chỉ thị, quy định, kết luận của
Đảng; việc thực hiện quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình
và phê bình và đoàn kết nội bộ.
Qua kết quả giám sát tiếp tục chuyển sang triển khai quyết định kiểm tra khi
có dấu hiệu vi phạm 05 tổ chức Đảng (trong đó ủy ban kiểm tra Quận ủy 01 và ủy
ban kiểm tra cơ sở 04); kịp thời nhắc nhỡ và lưu ý 34 tổ chức đảng được giám sát
khắc phục các hạn chế, yếu kém.
Ngoài ra, Ủy ban Kiểm tra từ Quận đến cơ sở tập trung thực hiện nhiệm vụ

giám sát thường xuyên đối với các chi, đảng bộ cơ sở trực thuộc và đảng viên theo
quy chế phân công, đi cơ sở, tham dự các hội nghị, dự họp giao ban, thông qua báo
cáo, thông tin báo đài; trong đó tập trung giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; nghị quyết, chỉ thị, quy
định, quyết định kết luận của cấp trên và của cơ sở; việc thực hiện nguyên tắc tổ
18


chức và hoạt động của Đảng; thực hiện quy chế làm việc; chương trình, kế hoạch
công tác của các chi, đảng bộ cơ sở; về thực hiện học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện chủ đề nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nâng
cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị sau kiểm điểm Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng.
3.2.1. Giám sát đảng viên:
Ủy ban Kiểm tra Quận ủy và cơ sở triển khai quyết định giám sát chuyên đề
45 đảng viên (tăng 10 đảng viên so với cùng kỳ); trong đó: ủy ban kiểm tra Quận
ủy triển khai Quyết định giám sát 04/02 đảng viên, trong đó có 01 quận ủy viên và
03 cán bộ thuộc diện Quận ủy quản lý (tăng 01 đảng viên so với cùng kỳ), so với
chỉ tiêu chương trình năm đề ra thực hiện đạt 200%; Ủy ban Kiểm tra đảng ủy cơ
sở giám sát chuyên đề 41 đảng viên (tăng 09 đảng viên so với cùng kỳ), trong đó
có 19 đảng ủy viên, 16 chi ủy viên.
Nội dung giám sát: chủ yếu về việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được
giao; việc chấp hành quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ; việc chấp
hành chính sách pháp luật của Nhà nước; việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống;
việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng...
Qua kết quả giám sát tiếp tục chuyển sang triển khai quyết định kiểm tra khi
có dấu hiệu vi phạm 04 đảng viên trong đó ủy ban kiểm tra Quận ủy 01 và ủy ban
kiểm tra đảng ủy cơ sở 03); kịp thời nhắc nhỡ và lưu ý 41 đảng viên được giám sát
khắc phục các hạn chế, yếu kém.
3.3. Công tác giám sát của cấp ủy cơ sở

Các đảng ủy cơ sở đã tập trung triển khai giám sát 31 tổ chức đảng, 30 đảng
viên (trong đó có 01 đảng ủy viên, 24 chi ủy viên); có 15/18 đảng ủy cơ sở đã triển
khai kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên; 15/18 đảng ủy cơ sở triển khai giám
sát đối với tổ chức đảng và đảng viên.
3.4. Nhận xét, đánh giá
3.4.1. Ưu điểm
- Quận ủy và đảng ủy cơ sở đã tập trung, kịp thời xây dựng và triển khai
chương trình, các kế hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy; chất lượng các cuộc
kiểm tra, giám sát của cấp ủy ngày càng đi vào quy trình và hiệu quả cao hơn; ủy
ban kiểm tra quận và cơ sở đã tập trung bám sát sự chỉ đạo của cấp ủy cùng cấp và
của Ủy ban Kiểm tra cấp trên, triển khai tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ theo
19


Điều 32 Điều lệ Đảng quy định, hoàn thành đạt và vượt một số chỉ tiêu theo
chương trình năm đã đề ra, trong đó tập trung nhiệm vụ giám sát chuyên đề đối với
tổ chức đảng và đảng viên. ủy ban kiểm tra Quận và cơ sở đã tham mưu, tham gia
và phối hợp với các ban đảng, ban ngành tham mưu tốt cho cấp ủy cùng cấp thực
hiện nhiệm vụ theo Điều 30 Điều lệ Đảng, trong đó bám sát nội dung, thời gian
triển khai chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát năm của cấp ủy đã đề ra.
- Các cấp ủy và Ủy ban kiểm tra từ Quận đến cơ sở ngày càng thực hiện
đúng theo các quy trình đã được triển khai, hướng dẫn, từ đó giúp cho các cấp ủy,
ủy ban kiểm tra Quận ủy và cơ sở đạt hiệu quả cao hơn về nội dung và nâng cao
chất lượng khi thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát.
Đặc biệt là đối với cơ sở, kể cả chi bộ cơ sở đều có sự chuyển biến tích cực
về sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và tăng cường công tác giám sát theo
Điều lệ Đảng, số lượng, chất lượng các chương trình, kế hoạch và các cuộc giám
sát năm đối với cấp cơ sở đều có tăng lên; nội dung giám sát từng bước đi vào
trọng tâm, trọng điểm, giám sát có mở rộng, trong đó có tập trung giám sát việc
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; xây dựng đoàn

kết nội bộ; thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao; phẩm chất, đạo đức, lối sống;
chấp hành quy định về những điều đảng viên không được làm; về khắc phục tình
trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên sau
khi kiểm điểm tự phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI và khóa XII về
xây dựng Đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ gắn với tiếp tục đẩy mạnh
học tập, làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Quận ủy và các Đảng ủy cơ sở đã tập trung tăng cường, bổ sung kịp thời
nhân sự ủy ban kiểm tra; một số cấp ủy đảng cơ sở đã quan tâm trẻ hóa đội ngũ cán
bộ kiểm tra chuyên trách; tạo điều kiện, sắp xếp cho cán bộ làm công tác kiểm tra
tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị.
- Nhận thức của cấp ủy cơ sở từng bước có sự chuyển biến rõ hơn về vị trí,
vai trò và tầm quan trọng của công tác giám sát, xác định nhiệm vụ công tác giám
sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, tổ chức đảng vừa phải tiến hành công
tác giám sát vừa chịu sự giám sát của Đảng; từ đó đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ của cấp ủy và lãnh đạo, chỉ đạo ủy ban kiểm tra
triển khai hoàn thành tốt các nhiệm vụ theo Điều 32 Điều lệ Đảng quy định.

20


3.4.2. Hạn chế, thiếu sót
Nhận thức và quan tâm của cấp ủy, tổ chức đảng cơ sở đối với công tác
giám sát có nâng lên, nhưng chưa cao; một số chi, đảng bộ cơ sở, đồng chí Bí thư
chi bộ, đảng bộ vẫn còn một số chưa trực tiếp tham gia các đoàn giám sát theo
chương trình của cấp ủy, chủ yếu giao khoán cho đồng chí Phó Bí thư, Chủ nhiệm
Ủy ban Kiểm tra đảng ủy thực hiện; riêng đối với chi bộ cơ sở thuộc phòng, ban,
đoàn thể, đảng bộ cơ sở (trừ đảng bộ 12 phường), còn nặng về công tác chuyên
môn nhiều hơn, chưa tập trung lãnh đạo đúng mức cho công tác giám sát, một số
lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm chưa được quan tâm tăng cường công tác
giám sát; công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn hạn chế, nội dung kiểm tra, giám

sát chưa tập trung nhiều kiểm tra việc khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên sau khi kiểm điểm tự phê bình
theo Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) về xây dựng Đảng; giám sát những điều
đảng viên không được làm; việc nắm bắt diễn biến tư tưởng đảng viên chưa kịp
thời để phát sinh vi phạm, xin ra khỏi đảng, bỏ sinh hoạt bị xóa tên, nhất là ở số
đảng viên trẻ; tình hình đảng viên vi phạm so với năm 2015 có tăng, trong đó vi
phạm nhiều ở các lĩnh vực Nhà nước.
Về quy trình thực hiện công tác giám sát đã có ban hành, được tập huấn,
hướng dẫn nhưng một số cơ sở chưa chủ động cụ thể hóa quy trình thực hiện cho
cơ sở, chậm triển khai chương trình, các kế hoạch giám sát của cấp ủy, của Ủy ban
Kiểm tra ngay từ đầu năm; đối tượng giám sát chưa tập trung nhiều diện cấp ủy
cùng cấp và đảng viên là cán bộ do cấp ủy cùng cấp quản lý; xác định nội dung
giám sát còn chưa đúng, chưa tập trung những vấn đề phát sinh, tồn tại.
3.4.3. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót:
- Trước hết, nhận thức của một số cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên chưa

thật đầy đủ, đúng đắn về tầm quan trọng của công tác giám sát của Đảng. Ở một
số địa phương, lĩnh vực, một số cán bộ trong đó có cả cán bộ chủ chốt còn thiếu
gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; công tác quản lý Nhà nước có lúc có nơi bị buông lỏng, dẫn đến việc chấp
hành chính sách, pháp luật không nghiêm, thậm chí có vi phạm nhưng chậm được
phát hiện, chấn chỉnh, ngăn chặn và xử lý kịp thời.
- Trong thực hiện nhiệm vụ giám sát, nhiều nơi cấp uỷ vẫn phó thác cho

ủy ban kiểm tra thực hiện chưa phát huy được vai trò tham mưu của các ban tham
mưu và ủy ban kiểm tra giúp cấp uỷ thực hiện nhiệm vụ giám sát.
21


- Việc xây dựng các văn bản hướng dẫn về công tác giám sát chưa cụ thể.


Hoạt động giám sát chưa thành nền nếp, thiếu sơ kết, tổng kết. Trong Đảng vẫn
chưa có quy định cụ thể về nhiệm vụ giám sát cho các ban tham mưu và ủy ban
kiểm tra nên còn nhiều khó khăn, lung túng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ giám sát; nhiều nơi thực hiện tác giám sát còn hình thức,
chất lượng hiệu quả thấp, chưa góp phần ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm của
đảng viên và tổ chức đảng.
- Công tác giám sát đảng viên chưa được chú trọng đúng mức; đấu tranh

tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút; chất lượng
sinh hoạt đảng chưa bảo đảm theo quy định. Nhận thức của tổ chức đảng và đảng
viên được giám sát chưa đúng, chưa đầy đủ, còn mặc cảm, phản ứng, thiếu cộng
tác, thậm chí gây khó khăn cho việc giám sát.
3.4.4. Những bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn công tác giám sát tại các tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ
Thủ Đức, có thể rút ra một số bài học sau:
Một là: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ các cấp đối với công
tác giám sát của Đảng và trách nhiệm của cấp uỷ và đặc biệt là người đứng đầu
đối với công tác giám sát.
Hai là: Coi trọng việc sơ kết, tổng kết công tác giám sát của các tổ chức
đảng, đặc biệt là cấp uỷ phải đích thân tiến hành sơ kết, tổng kết công tác lãnh
đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác giám sát.
Chương 4
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC
KIỂM TRA, GIÁM SÁT TRONG THỜI GIAN TỚI
4.1. Về quan điểm chỉ đạo
Một là: Công tác giám sát là yêu cầu bức thiết, xuất phát từ đòi hỏi khách
quan của công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, bảo đảm cho
Đảng bộ, trước hết là các cơ quan lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng,
Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp luôn kiên định về chính trị,

vững vàng về đường lối, không chệch hướng. Các tổ chức đảng và đảng viên chịu
sự giám sát của Đảng.
22


Hai là: Nội dung giám sát tổ chức đảng được thực hiện toàn diện, giám sát
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quy chế, kết luận của cấp ủy cấp trên; chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc
quán triệt và chấp hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là
nguyên tắc tập trung dân chủ; việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên; thực hiện nhiệm
vụ chức trách được giao; việc giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và thực hiện nghĩa
vụ địa phương; việc giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân; việc thực hiện những
điều đảng viên không được làm; việc thực hiện chế độ kê khai và công khai tài sản
của cán bộ, đảng viên theo quy định.
Ba là: Công tác giám sát phải dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giám sỏt nói chung và giám sát trong Đảng
Cộng sản nói riêng; phải xuất phát từ các quy định của Đảng về giám sát. Công tác
giám sát có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng.
Giám sát là công việc, là nhiệm vụ trực tiếp và thường xuyên của toàn Đảng, trước
hết là nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, do cấp ủy trực tiếp tiến
hành. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát của Đảng và chịu sự giám sát
của nhân dân. Công tác giám sát là: "một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công
tác xây dựng Đảng"; "một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện"; "biện pháp
hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu",…
Bốn là: Công tác giám sát trong Đảng là công tác Đảng, là công việc của nội
bộ Đảng. Vì vậy, giám sát trong Đảng phải bảo đảm công khai, dân chủ, khách quan,
thận trọng, đúng các nguyên tắc, phương pháp và phương thức hoạt động của Đảng.
Năm là: Tăng cường công tác giám sát với nhận thức và yêu cầu mới: công
tác giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu
sút khi mới manh nha; phải tăng cường, chủ động giám sát về phẩm chất đạo đức
và kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, về nhận thức

và chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và việc chấp hành Điều lệ Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng, sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ
vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng; phòng ngừa, ngăn chặn suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, kịp thời phát hiện những nhân tố
mới để phát huy, bảo vệ quan điểm đường lối của Đảng, tránh các nguy cơ sai lầm
của đảng cầm quyền, nhất là trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, lãnh
đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội.
23


Sáu là: Kết hợp chặt chẽ giữa công tác giám sát với công tác kiểm tra trong
Đảng; công tác giám sát phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính,
khi phát hiệu các dấu hiệu vi phạm phải nhắc nhở nghiêm túc, nếu sai phạm phải tiến
hành kiểm tra, kết luận từng mức độ, hậu quả để xử lý nghiêm minh theo Điều lệ
Đảng, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Bảy là: Kết hợp chặt chẽ giữa giám sát trong Đảng với giám sát của cả hệ
thống chính trị và của nhân dân. Tăng cường công tác giám sát trong Đảng gắn với
vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng không làm thay hệ thống chính trị, mà
Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ luật pháp.
4.2. Giải pháp
4.2.1. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai việc xây dựng chương trình,
các kế hoạch kiểm tra, giám sát từ cấp quận đến cơ sở; tập trung nâng cao chất
lượng các cuộc giám sát và thi hành kỷ luật của cấp ủy, của Ủy ban Kiểm tra từ
quận đến cơ sở; tập trung nội dung công tác giám việc lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt,
triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015 2020, việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; tăng cường giám sát, chủ động nắm tình hình, kịp thời phát hiện và tổ
chức kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức đảng, đảng viên góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tổ chức đảng.

Tập trung đối với những tổ chức đảng và đảng viên có vấn đề phát sinh.
4.2.2. Tiếp tục tập trung giám sát việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy
định, quy chế của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nguyên tắc tập trung
dân chủ; thực hiện tiêu chuẩn đảng viên, cấp ủy viên, thực hiện chức trách nhiệm
vụ được giao; phẩm chất, đạo đức, lối sống; thực hiện những điều đảng viên, cán
bộ, công chức không được làm; chấp hành quy chế làm việc của cấp ủy; thực hiện
chế độ kê khai tài sản và thu nhập của của cán bộ, đảng viên; thực hiện khắc phục
những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 Khóa
XI và khóa XII về xây dựng Đảng, các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, quy định về những điều đảng viên không được làm, thực hiện
chức trách nhiệm vụ được giao; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07
tháng 6 năm 2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
24


viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; đoàn kết nội bộ; nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ… Đối tượng tập trung tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp, cấp ủy cùng cấp
và cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý.
4.2.3. Giám sát những tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý.
Đảng uỷ cơ sở có nhiệm vụ lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác giám sát tổ
chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý như đảng uỷ cấp trên cơ sở theo
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và do cấp uỷ cấp trên giao. Đảng uỷ bộ phận thực
hiện giám sát theo chức năng, nhiệm vụ và do đảng uỷ cơ sở giao. Nội dung, đối
tượng giám sát như của đảng uỷ cơ sở. Chi bộ giám sát đảng viên trong việc thực
hiện nhiệm vụ đảng viên
4.2.4. Lãnh đạo, chỉ đạo việc xem xét giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu
nại, tố cáo của tổ chức đảng và đảng viên theo thẩm quyền.
4.2.5. Lãnh đạo, chỉ đạo việc bổ sung nhân sự Ủy ban Kiểm tra Quận và cơ
sở đủ số lượng khi có luân chuyển, điều động, đảm bảo đủ tiêu chuẩn, đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ nhiệm kỳ 2015 - 2020.
4.2.6. Tổ chức lớp tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát cho các cấp
ủy chi, đảng bộ cơ sở, ủy ban kiểm tra đảng ủy, cấp ủy chi bộ trực thuộc đảng ủy.
4.2.7. Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và ban hành quy chế phối hợp giữa
Ủy ban kiểm tra Quận ủy với các Ban xây dựng Đảng của Quận ủy, các cơ quan có
liên quan trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm
kỳ 2015 - 2020.

KẾT LUẬN


25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×