Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng tới năng suất lao động của công nhân trong ngành xây dựng dân dụng ở những công trình có vốn nhà nước tại thành phố bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 156 trang )

CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu chung:
Theo quyết định số 83/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre đến năm 2020, với các nội dung chủ yếu:
“Phát huy nội lực và sử dụng tốt mọi nguồn lực, tập trung khai thác có hiệu quả các
tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển kinh tế - xã hội nhanh, hiệu quả và
bền vững, gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; tiếp
tục thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững tỉnh Bến Tre đến 2020 gắn
với định hướng chiến lược biển Việt Nam đến 2020 nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của Tỉnh theo hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa, tăng dần tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội, nền công nghiệp
công nghệ cao; tích cực ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển nông nghiệp
tạo ra các sản phẩm mũi nhọn có giá trị cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước, tiến tới hình thành các vùng nông nghiệp công nghệ cao.
Trong giai đoạn 5 năm cuối của kỳ quy hoạch, tăng cường đầu tư mạnh vào lĩnh
vực phúc lợi xã hội nhằm từng bước tiến đến phát triển kinh tế - xã hội toàn diện và
đồng bộ.
Mục tiêu phát triển:
Xây dựng Bến Tre đến năm 2020 có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội tương xứng
với các địa phương trong Vùng; thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình.
Tiếp tục phát huy lợi thế vị trí tiếp giáp vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và thế
mạnh về phát triển kinh tế vườn, kinh tế biển để từng bước nâng cao đời sống vật
chất tinh thần của nhân dân, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, văn hóa - xã hội và
nguồn nhân lực; đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tăng cường liên kết phát triển nhất là
với các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng

1



điểm phía Nam”. (CÔNG BÁO/Số 73 + 74 ngày 28-01-2011)
“Tại Nghị quyết số 04, Đảng bộ tỉnh Bến Tre tiếp tục khẳng định tập
trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011-2015 và
định hướng đến năm 2020. Đây là nội dung được kế thừa và phát triển từ tất cả các
kỳ đại hội Đảng và Nghị quyết của tỉnh Đảng bộ trước đây. Điều đó cho thấy, nhân
lực là vấn đề cực kỳ quan trọng trong tất cả các giai đoạn lịch sử.
Bến Tre từ một tỉnh nghèo đã vươn lên thành một trong những tỉnh có mức tăng
trưởng tương đối cao trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Sau hơn 20 năm
miệt mài tìm cách vươn lên, Bến Tre đã thoát khỏi danh sách những tỉnh có số hộ
nghèo cao trong cả nước, trở thành tỉnh có thu nhập khá và là một trong những tỉnh
có chỉ số phát triển cao trong các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Không riêng ở lĩnh vực kinh tế mà trên tất cả các lĩnh vực, Bến Tre đều có những
bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Sự phát triển đồng đều đó đã đưa vị
thế của Bến Tre ngày càng cao hơn. Đó là nhờ trong suốt quá trình từ khi đổi mới
đến nay, Đảng bộ tỉnh luôn quan tâm và chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài.
Trên cơ sở báo cáo của Tỉnh ủy Bến Tre, nguồn nhân lực của tỉnh khá dồi dào, chất
lượng được nâng lên. Toàn tỉnh có trên 740.000 người đang làm việc trong nền kinh
tế, chiếm khoảng 86% tổng số người trong độ tuổi lao động. Trong đó, có trên
26.300 người là cán bộ, công chức, viên chức, chiếm trên 3% tổng số người trong
độ tuổi lao động. Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động có
nhiều tiến bộ (trên 80% lao động có trình độ học vấn hết lớp 9; 40% lao động đã
qua đào tạo, trong đó có 15% lao động được đào tạo nghề).
Tuy nhiên, nguồn nhân lực của Bến Tre vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển của
nước ta do chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút. Lao động chưa qua đào tạo
chiếm tỷ lệ khá cao (trên 50%), chất lượng còn thấp, chưa đảm bảo nhu cầu cung

2



ứng lao động cho các khu công nghiệp và phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế; công
nhân lành nghề chưa nhiều, khả năng tiếp cận thị trường và cạnh tranh lao động còn
yếu. Cơ cấu lao động trong các ngành nghề, lĩnh vực, địa phương chưa hợp lý, trình
độ ngoại ngữ của người lao động và cán bộ, công chức còn hạn chế...
Để giữ vững những thành quả đã đạt được, đồng thời tạo ra những bước phát triển
mạnh mẽ và bền vững hơn, Bến Tre phải đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào
tạo và quản lý đào tạo nghề từ nội dung chương trình, cơ sở vật chất, trang thiết bị
cùng những chính sách khuyến khích để người tài phát huy tốt nhất năng lực, sở
trường. Mục tiêu mà Nghị quyết đề ra là phải nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo
trong nền kinh tế của tỉnh từ 40% năm 2010 lên 50% vào năm 2015 và 60% vào
năm 2020. Trong đó, tỷ lệ lao động được đào tạo ở khu vực I chiếm 52,52%; khu
vực II chiếm 20,58%; khu vực III chiếm 26,9% vào năm 2015. Đến năm 2020 tỷ lệ
tương ứng là 49%; 22,6%; 28,4%”. ( Báo Đồng Khởi, 2015)
1.1.1 Thực trạng ngành xây dựng Việt Nam hiện nay
“ Hoạt động xây dựng năm nay tuy còn gặp một số khó khăn trong công tác quy
hoạch, năng lực quản lý và công tác giải phóng mặt bằng nhưng cũng có những
yếu tố thuận lợi: Chính sách lãi suất ngân hàng điều chỉnh giảm đã giúp cho các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tiếp cận được vốn vay, giá vật liệu xây dựng tiếp
tục ổn định cùng với sự ấm lên của thị trường bất động sản tạo điều kiện thuận lợi
cho việc triển khai các dự án, công trình. Nhiều dự án phát triển nhà ở được hoàn
thành và bàn giao trong năm cùng với hoạt động xây dựng nhà ở trong dân tăng
khá cao đã góp phần nâng cao giá trị sản xuất của ngành.
Giá trị sản xuất xây dựng năm 2015 theo giá hiện hành ước tính đạt 974,4
nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 82,1 nghìn tỷ đồng, chiếm
8,4%; khu vực ngoài Nhà nước 830,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 85,2%; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài 61,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,4%. Trong tổng giá trị sản
xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở đạt 374,2 nghìn tỷ đồng; công
trình nhà không để ở đạt 156,7 nghìn tỷ đồng; công trình kỹ thuật dân dụng đạt

3



318,2 nghìn tỷ đồng; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 125,3 nghìn tỷ
đồng.
Giá trị sản xuất xây dựng năm 2015 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 777,5
nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm 2014, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt
66,9 nghìn tỷ đồng, tăng 6,4%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 660,8 nghìn tỷ đồng,
tăng 12,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 49,8 nghìn tỷ đồng, tăng
7,2%.Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở tăng
12,4%; công trình nhà không để ở giảm 5,6%; công trình kỹ thuật dân dụng tăng
20,1%; hoạt động xây dựng chuyên dụng tăng 11,7% ”.
( Báo cáo Tổng cục thống kê 2015).
Tốc độ tăng so với
năm trước (%)

Tổng số
Nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản
Công nghiệp và xây
dựng
Dịch vụ
Thuế sản phẩm trừ trợ
cấp sp

Đóng góp của
các khu vực vào
tăng
trưởng
năm
2015

(Điểm
phần
trăm)

Năm
2013

Năm
2014

Năm
2015

5,42

5,98

6,68

6,68

2,63

3,44

2,41

0,40

5,08


6,42

9,64

3,20

6,72

6,16

6,33

2,43

6,42

7,93

5,54

0,65

Bảng 1.1 Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
các năm 2013, 2014 và 2015 ( Nguồn Báo cáo Tổng cục thống kê 2015).
1.1.2 Thực trạng năng suất lao động
“Năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế năm 2015 theo giá hiện hành ước
tính đạt 79,3 triệu đồng/lao động (Tương đương khoảng 3657 USD/lao động).
Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2015
ước tính tăng 6,4% so với năm 2014.


4


Năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua đã có sự cải thiện đáng kể theo
hướng tăng đều qua các năm, bình quân giai đoạn 2006-2015 tăng 3,9%/năm,
trong đó giai đoạn 2006-2010 tăng 3,4%/năm; giai đoạn 2011-2015 tăng
4,2%/năm. Năng suất lao động năm 2015 tăng 23,6% so với năm 2010, tuy thấp
hơn so với mục tiêu đề ra là tăng 29%-32%, nhưng tốc độ tăng năng suất lao động
thời kỳ này cao hơn thời kỳ 2006-2010 góp phần thu hẹp dần khoảng cách tương
đối so với năng suất lao động của các nước ASEAN.
Tuy nhiên, năng suất lao động của nước ta hiện nay vẫn còn ở mức thấp so với
các nước trong khu vực và không đồng đều giữa các ngành và lĩnh vực. Khoảng
cách tương đối về năng suất lao động tuy đã giảm đáng kể, nhưng khoảng cách
tuyệt đối (chênh lệch mức năng suất lao động) giữa Việt Nam với các nước
ASEAN có trình độ phát triển cao hơn như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Inđô-nê-xi-a lại gia tăng.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do: Cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch,
lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, trong khi năng suất lao động ngành
nông nghiệp ở nước ta còn thấp. Máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc
hậu; chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động chưa đáp ứng yêu cầu.
Trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều bất cập,
tăng trưởng chủ yếu dựa vào đóng góp của yếu tố vốn và lao động, đóng góp của
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) còn thấp. Ngoài ra, còn một số “điểm
nghẽn” và “rào cản” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính chưa được khắc
phục” (Báo cáo Tổng cục thống kê 2015).
Mặc dù trong những năm qua, năng suất lao động của Việt Nam có tăng lên đáng
kể nhưng khoảng cách về năng suất lao động của nước ta so với nhiều nước
trong khu vực đang ngày càng bị nới rộng. Đây là yếu tố cản trở đáng ngại đối
với khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta, đặc biệt là
khi Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương và

Cộng đồng kinh tế ASEAN . Nếu không có những nỗ lực đặc biệt trong việc nâng

5


cao năng suất lao động trong thời gian tới, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.3 Thực trạng năng suất lao động ngành xây dựng Việt Nam
Theo số liệu sơ bộ năm 2015 của Tổng cục Thống kê (GSO), ngành xây dựng đã
trực tiếp và gián tiếp tạo việc làm cho trên 3,43 triệu lao động (chiếm 5,2% lực
lượng lao động cả nước); và đóng góp 5,4% vào GDP, đứng thứ 5 (sau ngành
nông nghiệp, sản xuất, thương mại và khoáng sản).
Theo dự báo của viện chiến lược phát triển,trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia ( Bộ kế hoạch đầu tư), đến năm 2020 tổng nhu cầu năng lực sẽ là
tăng hơn 12 triệu người so với năm 2011. Trong đó khối ngành công nghiệp - xây
dựng có nhu cầu lớn nhất với hơn 8 triệu người. Quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, ngành xây dựng được dự báo tăng số lượng lao động cao nhất.
Năm

GDP xây dựng

Lao động ngành xây Năng suất

Chỉ số năng suất

( giá so sánh 2010) dựng ( nghìn người)

lao động

lao động


2005

91.523

1.980

46,23

100,0%

2009

106.441

2.594

48,74

105,4%

2010

139.162

3.108

44,78

96,9%


2011

138.305

3.221

42,94

92,9%

2012

142.800

3.272

43,65

94,4%

2013

151.125

3.258

46,38

100,3%


Bảng1.2Thống kê lao động ngành xây dựng.Nguồn: Tổng cục thống kê ( GSO)
Với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội ngày càng mạnh mẽ, ngành xây dựng cần tiên
phong đi trước mở đường cho công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đáp ứng
sự phát triển. Do đó ngành xây dựng cần tập trung ,một nguồn nhân lực dồi giàu có
trình độ lẫn tay nghề để đáp ứng được nhu cầu trên. Bên cạnh đó ngành xây dựng

6


cũng phải tập trung tìm các giải pháp để cải thiện và nâng cao năng suất lao động
của đội ngũ nhân lực.
1.1.4 Công nhân xây dựng
Công nhân là người lao động phổ thông, theo nghĩa rộng là người kiếm sống bằng
cách lao động chân tay, bằng cách của mình - cung cấp lao động để lãnh tiền
công của người sử dụng lao động, để nỗ lực tạo ra sản phẩm cho người chủ và
thường được thuê với hợp đồng làm việc để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể .
Công nhân xây dựng là người lao động làm việc trong ngành xây dựng, với các
dụng cụ hỗ trợ lao động như dụng cụ cầm tay, dụng cụ điện, máy móc thiết
bị,…thực hiện các công việc đặc thù của ngành xây dựng.
1.1.5 Công trình có vốn nhà nước
Vốn nhà nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước; công trái quốc gia, trái phiếu
chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn
vay ưu đãi của các nhà tài trợ;vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh; vốn vay
được bảo đảm bằng tài sản củaNhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp
nhà nước; giá trị quyền sử dụngđất. ( Điều 4, Luật Đấu thầu 43/2013/QH13).
Công trình có vốn nhà nước là công trình được đầu tư xây dựng từ các nguồn vốn
của nhà nước.
1.1.6 Tình hình hoạt động xây dựng tại tỉnh Bến Tre.
Toàn tỉnh Bến Tre hiện nay có khoảng 50 công ty xây dựng đang hoạt động trong

các lĩnh vực thiết kế, tư vấn giám sát, thi công xây dựng,..tập trung nhiều nhất là ở
thành phố Bến Tre.
Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh còn nhỏ lẻ, các công trình cấp 3 như trường
học, bệnh viện, bưu điện, ngân hàng,…có vốn đầu tư thấp.
Do trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nên chính quyền tỉnh
đang đầu tư nhiều vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đường xá, khu công nghiệp đồng thời

7


cũng đầu tư nhiều vào lĩnh vực kiên cố hóa trường lớp nhằm đào tạo nguồn nhân
lực cho tỉnh.
Việc đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động có ý nghĩa rất
lớn nhằm hiểu rõ hơn các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân
đồng thời tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy tăng năng suất lao động. Là một
người dân Bến Tre, sinh ra, lớn lên và được làm việc trên quê hương mình, tác giả
muốn đóng góp một phần nào đó thông qua luận văn này để góp phần tăng năng
suất lao động cho công nhân tại địa phương, cũng như thúc đẩy quá trình phát triển
tỉnh nhà. Thành phố Bến Tre là một thành phố trẻ, đang phát triển từng ngày, là nơi
tập trung nhiều công trình quy mô của Tỉnh, với rất nhiều công nhân, kỹ sư xây
dựng đang làm việc , vì vậy luận văn này chọn đề tài “ Các nhân tố ảnh hưởng tới
năng suất lao động của công nhân trong ngành xây dựng dân dụng ở những
công trình có vốn nhà nước tại Thành phố Bến Tre “.
1.2. Xác định vấn đề nghiên cứu:
 Lý do nghiên cứu:
- Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân
ngành xây dựng dân dụng ở những công trình có vốn nhà nước tại Thành phố
Bến Tre hiện nay chưa được quan tâm.
 Các câu hỏi nghiên cứu:
- Các nhân tố ảnh hưởng tới năng suất lao động của công nhân ngành xây dựng

dân dụng ở những công trình có vốn nhà nước tại Thành phố Bến Tre là gì?
- Có thể áp dụng các nhân tố tìm ra được để thúc đẩy quá trình tăng năng suất
lao động trong công nhân không?
- Sử dụng các phương pháp nào để tìm ra các nhân tố ? Phương thức tiến hành ra
sao? Kiểm tra lại như thế nào để chắc rằng các nhân tố tìm được là đúng và
khách quan nhất?

8


- Giải pháp nào giúp cải thiện năng suất lao động của công nhân ngành xây dựng
dân dụng? Các bước thực hiện ra sao?
1.3. Các mục tiêu nghiên cứu:
 Nhận dạng các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động (NSLĐ) của công
nhân xây dựng ngành xây dựng dân dụng ở những công trình có vốn nhà
nước tại Thành phố Bến Tre.
 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân xây
dựng dân dụng ở những công trình có vốn nhà nước tại Thành phố Bến Tre .
 Đề xuất các giải pháp nâng cao NSLĐ của công nhân ngành xây dựng dân
dụng ở những công trình có vốn nhà nước tại Thành phố Bến Tre .
1.4. Phạm vi nghiên cứu :
1.4.1 Quan điểm phân tích: Phân tích và thảo luận theo quan điểm khách
quan của các chuyên gia để tìm ra các phương pháp đánh giá các nhân tố ảnh hưởng
tới năng suất lao động của công nhân đang làm việc trong các công trình có vốn nhà
nước tại Thành phố Bến Tre.
1.4.2 Không gian nghiên cứu: tập trung vào các kỹ sư ngành xây dựng dân
dụng đang làm việc trong các công trình có vốn nhà nước tại Thành phố Bến Tre, từ
đó lấy ý kiến và đưa ra nhận định khách quan và phân tích vấn đề mà người làm
luận văn đặt ra.
1.4.3 Đối tượng nghiên cứu: kỹ sư ngành xây dựng dân dụng đang làm

việc tại Thành phố Bến Tre.
1.5 Ý nghĩa của nghiên cứu
Hiện nay đã có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về nhân tố ảnh hưởng đến
năng suất lao động của công nhân ngành xây dựng. Nối bước theo những nghiên
cứu trước đây , luận văn này mong muốn tìm hiểu sâu thêm về những nhân tố ảnh
hưởng đến năng suất lao động của công nhân xây dựng dân dụng ở những công

9


trình có vốn nhà nước tại Thành phố Bến Tre, qua đó mang lại một số đóng góp hữu
ích về mặt lý luận và thực tiễn và cả cho cộng đồng cụ thể như sau:
-Về mặt lý luận:
Kết quả nghiên cứu làm cơ sở đánh giá cho các nhà quản lý nhân lực, tạo bước đà
cho các nghiên cứu tương tự trên các tỉnh thành khác trong cả nước, nhằm tìm hiểu
sâu hơn về nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân trong ngành
xây dựng dân dụng.
-Về mặt thực tiễn:
Phân tích và đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng tới năng suất lao động của
công nhân, qua đó giúp các nhà quản lý xây dựng hiểu được ảnh hưởng của các
nhân tố đó đến năng suất lao động của công nhân.
Đề xuất một số giải pháp cải thiện điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị , môi
trường lao động,… để nâng cao năng suất lao động của công nhân ngành xây dựng
dân dụng trong các công trình có vốn nhà nước tại Thành phố Bến Tre.
Lập ra những tiêu chuẩn cơ bản (dựa trên các yếu tố vừa phân tích) để đánh giá
hiệu suất lao động của công nhân, giúp nhà quản lý xây dựng chọn lựa nhân công
phù hợp.
-Đóng góp cho cộng đồng:
Nghiên cứu đề xuất những giải pháp để cho người công nhân có được chế độ làm
việc tốt hơn, an toàn hơn , có thu nhập phù hợp hơn, và năng suất lao động tăng lên.

Nghiên cứu góp phần giúp các công trình xây dựng đẩy nhanh tiến độ, quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ngày một phát triển.
1.6 Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Giới thiệu , gồm xác định vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phạm
vi nghiên cứu, ý nghĩa nghiên cứu, cấu trúc luận văn.
Chương 2: Tổng quan trình bày các khái niệm, lý thuyết,mô hình sử dụng , các

10


nghiên cứu tương tự.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu, trình bày quy trình nghiên cứu, thu thập dữ
liệu, công cụ nghiên cứu, phân tích dữ liệu,khảo sát thử nghiệm và mã hóa dữ liệu.
Chương 4; Kết quả nghiên cứu trình bày kết quả nghiên cứu,rút ra nhận xét
Chương 5: Kết luận và kiến nghị.

11


CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN
2.1 Các khái niệm, kiến thức và mô hình sử dụng:
2.1.1 Khái niệm năng suất lao động:
Theo Karl Marx thì năng suất lao động là “sức sản xuất của lao động cụ thể có
ích”. Năng suất lao động thể hiện kết quả hoạt động sản xuất có ích của con người
trong một đơn vị thời gian nhất định.
Theo quan niệm truyền thống: năng suất lao động là tỷ số giữa đầu ra và đầu
vào, là lượng lao động để tạo ra đầu ra đó. Năng suất lao động được đo bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hoặc bằng lượng thời gian
lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Theo quan điểm tiếp cận mới về năng suất lao động do Uỷ ban năng suất của

Hội đồng năng suất châu Âu đưa ra: năng suất lao động là một trạng thái tư duy. Nó
là một thái độ nhằm tìm kiếm để cải thiện những gì đang tồn tại. Có một sự chắc
chắn rằng ngày hôm nay con người có thể làm việc tốt hơn ngày hôm qua và ngày
mai tốt hơn ngày hôm nay. Hơn nữa đó đòi hỏi những cố gắng không ngừng để
thích ứng với các hoạt động kinh tế trong những điều kiện luôn thay đổi, luôn ứng
dụng những lý thuyết và phương pháp mới. Đó là sự tin tưởng chắc chắn trong quá
trình tiến triển của loài người.
Như vậy, với quan niệm truyền thống, năng suất lao động chỉ thuần tuý thể
hiện mối tương quan giữa “đầu ra” và “đầu vào”. Nếu đầu ra lớn hơn đạt được từ
một đầu vào thì có thể nói năng suất lao động cao hơn. Quan niệm truyền thống đề
cập về mặt tĩnh và chủ yếu nhấn mạnh về mặt số lượng. Còn theo quan niệm mới thì
năng suất lao động được hiểu rộng hơn, đó là tăng số lượng sản xuất đồng thời với
tăng chất lượng đầu ra. Điều này có nghĩa là sử dụng một lượng lao động để sản
xuất một khối lượng lớn các đầu ra có cùng chất lượng hoặc chất lượng cao hơn.
Với quan niệm như vậy, năng suất có thể hiểu là trả ít hơn và nhận nhiều hơn mà
không tổn hại đến chất lượng. Năng suất lao động không chỉ phụ thuộc vào số
lượng mà còn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, đặc điểm của đầu ra và tính hiệu

12


quả trong sản xuất. Trong thời kỳ đầu của sự phát triển, khi nền kinh tế còn thấp
kém, năng suất và chất lượng được xem trong mối quan hệ trao đổi bù trừ, để có
chất lượng người ta phải hy sinh năng suất và ngược lại, để có năng suất cao phải hy
sinh chất lượng. Nhưng ngày nay, năng suất và chất lượng đã trở thành đồng hướng
thống nhất với nhau. Năng suất lao động cao phải tạo ra những sản phẩm và dịch vụ
có các đặc tính kinh tế kỹ thuật và chức năng sử dụng thoả mãn nhu cầu của khách
hàng và những đòi hỏi của xã hội, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn tài
nguyên, ít gây ô nhiễm và không lãng phí trong quá trình sản xuất.
Từ những quan niệm trên, có thể chỉ ra rằng: Năng suất lao động là hiệu quả

sản xuất của lao động có ích trong một đơn vị thời gian. Tăng năng suất lao động
không chỉ đơn thuần là chỉ tiêu phản ánh lượng sản phẩm sản xuất ra mà nó phải chỉ
ra được mối quan hệ giữa năng suất– chất lượng– cuộc sống– việc làm và sự phát
triển bền vững.
2.1.1.1 Định mức lao động:
Định mức lao động là lượng lao động hao phí được quy định để hoàn thành một đơn
vị sản phẩm (hoặc một khối lượng công việc) đúng tiêu chuẩn chất lượng trong
những điều kiện tổ chức sản xuất, kĩ thuật, tâm - sinh lí và kinh tế - xã hội nhất
định. Được biểu hiện dưới các hình thức: định mức thời gian, định mức sản lượng,
định mức phục vụ. Định mức lao động thường được xây dựng theo các phương
pháp truyền thống như phương pháp thống kê - kinh nghiệm; phương pháp phân
tích (chụp ảnh ngày lao động, bấm giờ hoặc tính toán phân tích căn cứ vào các công
thức kĩ thuật); phương pháp Tâylơ, vv.
Trong sản xuất, số lượng lao động cần thiết được xác định dưới dạng các mức lao
động thông qua định mức lao động. Mức lao động trở thành trước đó lao động và
thực chất của định mức lao động là quá trình xác định các mức lao động.
Định mức lao động là việc xác định các hao phí lao động cần thiết để hòan thành 1
công việc, bước công việc hoặc sản xuất ra một đơn vị sản phẩm trong điều kiện tổ

13


chức kĩ thuật nhất định đối với người lao động có trình độ lành nghề và mức độ
thành thạo công việc phù hợp với yêu cầu của công việc, của sản xuất.
2.1.1.2 Các phương pháp xây dựng định mức lao động:
Chất lượng của mức lao động phụ thuộc rất lớn vào phương pháp định mức lao
động. Trong thực tiễn sản xuất thường áp dụng chủ yếu phương pháp tổng hợp và
phương pháp phân tích.
Nhóm phương pháp tổng hợp
KN: Là nhóm phương pháp chủ yếu dựa vào kết quả nghiệm thu sản phẩm hoặc

kinh nghiệm để xác định mức lao động cho toàn bộ bước công việc.
Các phương pháp:
Phương pháp thống kê
Là phương pháp xây dựng mức dựa vào các tài liệu thống kê về thời gian hao phí
thực tế để hòan thành bước công việc( giống hoặc tương tự) ở thời kỳ trước. Lượng
thời gian( sản lượng) được xác định là mức lao động thường lấy giá trị trung bình.
Ví dụ: Số lượng thời gian tiêu hao để đóng một thùng các tông đựng đồ hộp của 6
công nhân bậc 3/5 như sau:
Người thứ nhất: 15 phút
Người thứ 2: 20 phút
Người thứ 3: 15 phút
Người thứ 4: 16 phút
Người thứ 5: 13 phút
Người thứ 6: 22 phút
Vậy thời gian tiêu hao bình quân = (15 + 20 + 15 + 16 + 13 + 22)/ 6= 16,83 phút.
Định mức thời gian tiêu hao trung bình tiên tiến là:

14


(16,83 + 15 + 15+ 16 + 13)/ 5 = 15,17 phút
Phương pháp kinh nghiệm
Là phương pháp xây dựng mức dựa vào kinh phí chủ quan đã tích lũy được của cán
bộ định mức, giám đốc phân xưởng hoặc công nhân có thâm niên trong sản xuất.
Phương pháp dân chủ bình nghị
Là phương pháp xác định bằng cách cán bộ định mức dự tính bằng thống kê hoặc
kinh nghiệm rồi đưa ra cho công nhân cùng thảo luận quyết định.
Định mức bằng phương pháp tổng hợp giản đơn, tốn ít thời gian trong thời điểm
ngắn có thể xây dựng được hàng loạt mức.
Nhược điểm của phương pháp này là: mức xây dựng không chính xác, kế hoạch

không chính xác với từng nơi các điều kiện tổ chức sản xuất, tổ chức lao động còn
thấp và áp dụng cho những công việc không ổn định.
2.1.1.3 Các phương pháp xác định:
* Phương pháp phân tích tính toán
Xây dựng mức lao động theo phương pháp này là xây dựng mức bằng cách phân
chia và nghiên cứu tỉ mỉ các bước công việc và từng bộ phận hợp thành của nó, xác
định các nhân tố ảnh hưởng tới thời gian hao phí, trên cơ sở đó áp dụng phương
pháp hòan thiện quá trình lao động, loại trừ những tồn tại của quá trình sản xuất, tổ
chức lao động không phù hợp. Qua việc tính tóan và nghiên cứu thời gian hao phí
cho từng yếu tố và từ đó xác định mức lao động cho cả bước công việc.
Là phương pháp xây dựng mức lao động dựa vào tài liệu tiêu chuẩn hoặc chứng từ
kỹ thuật, các công thức tính tóan thời gian hao phí, các nhân tố ảnh hưởng tới thời
gian hao phí.
* Trình tự xây dựng mức theo phương pháp:
-Phân tích và nghiên cứu kết cấu bước công việc, xác định các nhân tố ảnh hưởng
tới thời gian hao phí để thực hiện công việc và các bộ phận của bước công việc.

15


-Dự kiến điều kiện tổ chức kỹ thuật hợp lý, nội dung và trình tự hợp lý để thực hiện
các bộ phận của bước công việc.
-Dựa vào tài liệu tiêu chuẩn để xác định thời gian hao phí cần thiết cho từng bộ
phận của bước công việc và các loại thời gian trong ca làm việc như thời gian chuẩn
kết, thời gian tác nghiệp, thời gian nghỉ ngơi và nhu cầu cần thiết.
Từ những nội dung trên xây dựng mức thời gian hoặc mức sản lượng.
* Phương pháp phân tích khảo sát
Là phương pháp xây dựng mức dựa vào các tài liệu nghiên cứu, khảo sát tại nơi làm
việc bằng chụp ảnh , bấm giờ hoặc kết hợp cả chụp ảnh và bấm giờ. Qua khảo sát
bằng chụp ảnh hoặc bấm giờ thực tế nơi làm việc, ta thu được tài liệu phản ánh trên

toàn bộ hoạt động của công nhân, thiết bị trong ca làm việc. Nó cho phép nghiên
cứu từng công đoạn, từng thao tác, phát hiện các thời gian hao phí và nguyên nhân
gây lãng phí. Trên cơ sở đó xác định kết cấu các loại thời gian, mức sản lượng,
thông qua đó hoàn thiện tổ chức sản xuất, tổ chức lao động phát hiện những sang
tạo, phổ biến kinh nghiệm sản xuất rộng rãi trong toàn bộ xí nghiệp. Mức xây dựng
theo phương pháp này có độ chính xác cao, tuy nhiên nó đòi hỏi cán bộ định mức
phải có nghiệp vụ và tốn nhiều thời gian.
* Phương pháp so sánh điển hình
Là phương pháp xây dựng mức dựa trên những hao phí công việc điển hình.
Trình tự xây dựng:
-Phân tích các chi tiết ra công thành các nhóm có đặc trưng giống nhau, mỗi nhóm
có một chi tiết điển hình.
-Xây dựng quy trình công nghệ hợp lý để gia công chi tiết điển hình.
-Áp dụng một trong hai phương pháp trên để xây dựng mức cho chi tiết điển hình.

16


Mức thời gian (sản lượng) của một chi tiết bất kỳ trong nhóm đều xác định bằng
cách so sánh với mức thời gian (sản lượng) của chi tiết điển hình.
Căn cứ vào thời gian hao phí để hoàn thành từng bộ phận công việc trong quá trình
gia công một chi tiết mà xác định hệ số điều chỉnh mức lao động của chi tiết ấy so
với mức điển hình. Việc xác định sai lệch được thực hiện thử và qua nhiều lần, sau
đó so sánh quy đổi mức và chi tiết điển hình ra mức của chi tiết trong nhóm.
Mức xây dựng theo phương pháp này nhanh, tốn ít công sức nhưng độ chính xác
thường không cao bằng hai phương pháp trên. Áp dụng cho loại hình sản xuất
những sản phẩm tương tự nhau.
Nguồn nhân lực là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất. Nguồn nhân lực
của một quốc gia được xây dựng từ lực lượng lao động. Lực lượng lao động đông là
điều kiện tạo ra nguồn nhân lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, không phải có lực

lương lao động dồi dào là có nguồn nhân lực phát triển mạnh.
Nguồn lực con người được hiểu là tổng hoà trong thể thống nhất giữa hữu cơ,
giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động
xã hội của con người. Quá trình thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn
lực con người thành vốn con người. Con người trong quá trình sản xuất vừa phát
triển cao về trí tuệ, khoẻ mạnh về thể chất, giàu có về tinh thần, trong sáng về đạo
đức
2.1.2 Khái niệm các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động :
Năng suất lao động là yếu tố trung tâm chịu tác động của nhiều nhân tố khác
nhau. Toàn bộ những nhân tố tác động đến đầu ra và đầu vào đều là những nhân tố
tác động đến năng suất lao động.
2.1.2.1 Yếu tố gắn liền với sự phát triển và sử dụng tư liệu sản xuất
Các yếu tố này bao gồm : Khoa học, kỹ thuật, công nghệ sản xuất, năng lượng,
nguyên vật liệu, cơ sở hạ tầng
(Giáo trình Thống kê lao động . PTS Phan Công Nghĩa.Tr82)

17


Trong đó khoa học kỹ thuật, công sản xuất có vai trò quan trọng trong việc nâng
cao năng suất lao động, đây là yếu tố mạnh mẽ nhất làm tăng năng suất lao động.
Trình độ kỹ thuật của sản xuất được biểu hiện thông qua tính năng của công cụ sản
xuất, trình độ sáng chế và sử dụng các đối tượng lao động, các quá trình công nghệ
sản xuất. Ngày nay, ai cũng thừa nhận máy móc hiện đại là yếu tố mạnh mẽ làm
tăng năng suất lao động. Thật vậy sự phát triển của lực lượng sản xuất thường bắt
đầu từ sự thay đổi của công cụ sản xuất, lấy máy móc thay thế cho lao động thủ
công, lấy máy móc hiện đại thay thế cho máy cũ.
Tính năng nâng cao trình độ sáng chế và sử dụng các đối tượng lao động được thể
hiện ở chỗ : Nó ứng dụng rộng rãi các nguyên vật liệu mới, có những tính năng cao
hơn, giá rẻ hơn, tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm lao động, trong một đơn vị thời

gian sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn. Nõ không chiụ tác động các giới hạn sinh lý
như con người, cho nên khả năng tăng năng suất lao động lớn.
Một nguyên nhân làm cho năng suất lao động xã hội ở Việt Nam còn thấp là do
trình độ ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất còn thấp, lao động thủ công còn
nhiều.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân có ý nghĩa rất lớn đối với phát
triển sản xuất và tăng năng suất lao động. Cơ sở vật chất kỹ thuật đó biểu hiện thông
qua các ngành năng lượng, cơ khí, luyện kim, hoá học, giao thông vận tải và hệ
thống thông tin, liên lạc. Đó là các yếu tố gắn với sự phát triển kinh tế, muốn tăng
nhanh năng suất lao động xã hội cần phải đặc biệt quan tâm.
2.1.2.2 Yếu tố gắn liền với con người và quản lý con người
Các yếu tố gắn với bản thân người lao động
Lao động là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất tác động đến năng suất lao động .
Năng suất lao động của mỗi quốc gia, ngành và doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào
trình độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, năng lực của đội ngũ lao động.
Trình độ văn hoá : là sự hiểu biết cơ bản của người lao động về tự nhiên và xã
hội.Trình độ văn hoá tạo ra khả năng tư duy và sáng tạo cao. Người có trình độ văn
hóa sẽ có khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa

18


học kỹ thuật vào sản xuất, đồng thời trong quá trình làm việc họ không những vận
dụng chính xác mà còn linh hoạt và sáng tạo các công cụ sản xuất để tạo ra hiệu quả
làm việc cao nhất.
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết khả năng thực hành về chuyên môn nào đó ,có
khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Sự hiểu
biết về chuyên môn càng sâu, các kỹ năng, kỹ xảo nghề càng thành thạo bao nhiêu
thì thời gian hao phí của lao động càng được rút ngắn từ đó góp phần nâng cao năng
suất lao động

Trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn có ảnh hưởng lớn đối với năng suất lao
động của con người.Trình độ văn hoá tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách
nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Còn sự hiểu biết về
chuyên môn càng sâu, các kỹ năng, kỹ sảo nghề càng thành thạo bao nhiêu thì thời
gian hao phí của lao động càng được rút ngắn từ đó góp phần nâng cao năng suất.
Trình độ văn hoá và chuyên môn của người lao động không chỉ giúp cho người lao
động thực hiện công việc nhanh mà góp phần nâng cao chất lượng thực hiện công
việc.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khoa học ngày càng phát triển với tốc độ nhanh,
các công cụ đưa vào sản xuất ngày càng hiện đại, đòi hỏi người lao động có trình độ
chuyên môn tương ứng. Nếu thiếu trình độ chuyên môn người lao động sẽ không
thể điều khiển được máy móc, không thể nắm bắt được các công nghệ hiện đại.
Tình trạng sức khoẻ: Trạng thái sức khoẻ có ảnh hưởng lớn tới năng suất lao động.
Nếu người có tình trạng sức khoẻ không tốt sẽ dẫn đến mất tập trung trong quá trình
lao động, làm cho độ chính xác của các thao tác trong công việc giảm dần, các sản
phẩm sản xuất ra với chất lượng không cao, số lượng sản phẩm cũng giảm , thậm
chí dẫn đến tai nạn lao động.
Thái độ lao động : Thái độ lao động là tất cả những hành vi biểu hiện của người lao
động trong quá trình tham gia hoạt động sản xuất và kinh doanh. Nó có ảnh hưởng
quyết định đến khả năng, năng suất và chất lượng hoàn thành công việc của người

19


tham gia lao động. nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu khác nhau, cả khách quan và chủ
quan nhưng chủ yếu là:
- Kỷ luật lao động: Là những tiêu chuẩn quy định hành vi cá nhân của lao động mà
tổ chức xây dựng nên dựa trên những cơ sở pháp lý và các chuẩn mực đạo đức xã
hội. Nó bao gồm các điều khoản quy định hành vi lao động trong lĩnh vực có liên
quan đến thực hiện nhiệm vụ như số lượng, chất lượng công việc, an toàn vệ sinh

lao động, giờ làm việc, giờ nghỉ ngơi, các hành vi vi phạm pháp luật lao động, các
hình thức xử lý vi phạm kỷ luật…
- Tinh thần trách nhiệm: Được hình thành dựa trên cơ sở những ước mơ khát khao,
hy vọng cảu người lao động trong công việc cũng như với tổ chức. Trong tổ chức,
nếu người lao động thấy được vai trò, vị thế, sự cống hiến hay sự phát triển, thăng
tiến của mình được coi trọng và đánh giá một cách công bằng, bình đẳng thị họ cảm
thấy yên tâm, phấn khởi, tin tưởng vào tổ chức, Đây là cơ sở để nâng cao tính trách
nhiệm, sự rèn luyện, phấn đấu vươn lên, cố gắng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ,
năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động
- Sự gắn bó với doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp ngoài mục đích lao động để kiếm
sống họ còn coi tổ chức như một chỗ dựa vững chắc về vật chất và tinh thần. Nếu
quá trình lao động và bầu không khí trong tập thể lao động tạo ra cảm giác gần gũi,
chan hoà, tin tưởng lẫn nhau giữa những người công nhân, tạo cảm giác làm chủ
doanh nghiệp, có quyền quyết định đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh,
tạo ra tính độc lập tự chủ sáng tạo, được quan tâm chăm lo đến đời sống và trợ giúp
khi gặp khó khăn… thì ngươi lao đốngẽ có lòng tin, hy vọng, sự trung thành và gắn
bó với doanh nghiệp.
- Cường độ lao động cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao
động vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ người lao động và từ đó ảnh hưởng tới
năng suất lao động.
2.1.2.3 Các yếu tố gắn với tổ chức lao động

20


Trình độ và khả năng tổ chức lao động của mỗi doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ
tới năng suất lao động thông qua việc xác định phương hướng phát triển, phân công
lao động, chế độ tiền lương, tiền thưởng, tổ chức phục vụ nơi làm việc.
Phân công lao động: “Là sự chia nhỏ toàn bộ các công việc được giao cho từng
người hoặc tưng nhóm người lao động thực hiện”

(Giáo trình Tổ chức lao động Khoa học.NXb Giáo dục 1994. tr.74)
Về bản chất thì đó là quá trình gắn từng người lao động với những nhiệm vụ phù
hợp với khả năng của họ. Thực chất của phân công lao động là sự tách biệt, cô lập
các chức năng lao động riêng biệt và tạo nên các quá trình lao động độc lập và gắn
chúng với từng người lao động, đấy chính là sự chuyên môn hoá (cho phép tạo ra
những công cụ chuyên dùng hợp lý và hiệp tác lao động có tác dụng to lớn trong
việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng năng suất lao động
Tiền lương, tiền thưởng : Đây là một yếu tố quan trọng góp phần tạo động lực thúc
đẩy người lao động làm việc nâng cao năng suất lao động. Tiền lương ảnh hưởng
trực tiếp đến mức sống của người lao động. Phấn đấu nâng cao tiền lương là mục
đích của hết thảy mọi người lao động.mục đích này tạo động lực để người lao động
phát triển trình độ và khả năng lao động của mình.
- Tiền lương: “Là số lượng tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động
theo giá trị sức lao động đã hao phí trong những điều kiện xã hội nhất định trên cơ
sở thoả thuận của hai bên trong hợp đồng lao động”
(Theo bài giảng của PGS.TS Trần Xuân Cầu)
Số tiền này nhiều hay ít còn phụ thuộc vào năng suất lao động, hiệu quả làm việc,
trình độ hay kinh nghiệm làm việc trong quá trình lao động. Nhưng cái mà người
lao động các loại hàng hoá dịch vụ cần thiết mua được từ số tiền đó, chính là tiền
lương thực tế. Tiền lương phản ánh đóng góp nhiều cho xã hội và càng thể hiện giá
trị xã hội trong cuộc sống của người lao động. Do vậy tiền lương thoả đáng sẽ là
động lực để người lao động làm việc hiệu quả và đạt năng suất lao động cao

21


- Tiền thưởng: Là số tiền mà người sử dụng lao động thưởng cho người lao động
trong những điều kiện đặc biệt theo sự thoả thuận của hai bên hoặc theo sự tự
nguyện của bên sử dụng lao động trong các trường hợp như: Khi công nhân hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, tiết kiệm được nguyên vật liệu, có những sáng kiến sáng

tạo trong hoạt động lao động… Nếu tiền thưởng đảm bảo gắn trực tiếp với thành
tích của người lao động, gắn với hệ thống chỉ tiêu được nghiên cứu, phân loại cụ thể
và mức thưởng có giá trị tiêu dùng trong cuộc sống thì tiền thưởng sẽ là công cụ để
người sử dụng lao động kích thích sự hăng say, gắn bó, sự tích cực, tinh thần trách
nhiệm, năng suất và hiệu quả của người lao động
Ngoài tiền lương, tiền thưởng các phúc lợi xã hội cũng góp phần thúc đẩy nâng cao
năng suất lao động. Phúc lợi xã hội là phần thù lao gián tiếp đượctrả dưới dạng các
bổ trợ về cuộc sống cho người lao động. Phúc lợi có thể là tiền, vật chất hoặc những
điều kiện thuận lợi mà người sử dụng lao động cung cấp cho người lao động trong
những điều kiện bắt buộc hay tự nguyện để động viên hoặc khuyến khích và đảm
bảo anh sinh cho người lao động. Phúc lợi đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo cũng như góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, từ
đó thúc đẩy và nâng cao năng suất lao động.
Tổ chức phục vụ nơi làm việc: Nơi làm việc là không gian sản xuất được trang bị
máy móc thiết bị, phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết để người lao động hoàn
thành các nhiệm vụ sản xuất đã định, là nơi diễn ra các quá trình lao động. Nơi làm
việc là nơi thể hiện rõ nhất khả năng sáng tạo và nhiệt tình của người lao động.Tổ
chức phục vụ nơi làm việc là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lao động của con
người. Nơi làm việc được tổ chức một cách hợp lý và phục vụ tốt góp phần bảo đảm
cho người lao động có thể thực hiện các thao tác trong tư thế thoải mái nhất. vì vậy
tiến hành sản xuất với hiệu quả cao, nâng cao năng suất lao động
Thái độ cư xử của người lãnh đạo :Lãnh đạo là việc định ra chủ trương, đường lối,
nguyên tắc hoạt động của một hệ thống các điều kiện môi trường nhất định.Lãnh

22


đạo là một hệ thống cá tổ chức bao gồm người lãnh đạo, người bị lãnh đạo,mục đích
của hệ thống, các nguồn lực và môi trường.
Người lãnh đạo là một trong các yếu tố quan trọng của hệ thống lãnh đạo,là người

ra mệnh lệnh, chỉ huy điều khiển những nguời khác thực hiện các quyết định đề ra
nhằm đảm bảo giải quyết tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tổ
chức hoạt động và hoàn thiện bộ máy quản lý. Người lãnh đạo có vai trò rất quan
trọng trong tổ chức, họ quản lý tập thể bằng quyền lực và uy tín của mình. Quyền
lực là những quyền hạn của người lãnh đạo trong khuôn khổ quyền hạn của nhà
nước hoặc tập thể trao cho người lãnh đạo.Uy tín là khả năng thu phục các thành
viên dưới quyền, nó gắn liền với những phẩm chất tài và đức của người lãnh đạo.
Phong cách, phương pháp cũng như thái độ của người lãnh đạo quyết định đến sự
phát triển của các tổ chức. Với phong cách uy quyền tức là người lãnh đạo hành
động độc đoán, khi ra quyết định không tham khảo ý kiến của bất kỳ ai, dẫn đến
việc ra lệnh cứng nhăc, không tôn trọng ý kiến của tập thể thì nhân viên thường
không làm việc tự giác và độc lập, không phát huy được tính sáng tạo và hứng thú
trong lao động, cuối cùng có tác động xấu đến tập thể. Với phong cách dân chủ tự
do tức là người lãnh đạo trao quyền chủ động sáng tạo, độc lập tối đa và tự do hành
động cho nhân viên để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cung cấp những thông tin
cần thiết để họ có ý kiến đóng góp và tham gia vào quá trình xây dựng, phát triển tổ
chức. Việc lựa chọn phong cách này hay phong cách lãnh đạo khác có một ý nghĩa
quan trọng đối với việc cũng cố giáo dục tập thể lao động. Mỗi phong cách lãnh đạo
có đặc thù riêng và thích ứng với từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.Phong cách
lãnh đạo khác nhau tạo ra thái độ của người lãnh đạo khác nhau. Thái độ của người
lãnh đạo ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ giữa người lãnh đạo với tập thể, đóng
vai trò to lớn trong việc xây dựng và cũng cố tập thể vững mạnh từ đó ảnh hưởng
tới hiệu quả làm việc và năng suất lao động .Vì vậy người lãnh đạo phải hiểu rõ bản
chất và vận dụng các phong cách lãnh đạo trong những hoàn cảnh cụ thể, chính xác
và hiệu quả.

23


Bầu không khí của tập thể: Tập thể lao động là nhóm người mà tất cả các thành viên

trong quá trình thực hiện những trách nhiệm của mình hợp tác trực tiếp với nhau,
luôn có sự liên quan và tác động qua lại lẫn nhau. Mức độ hoạt động, hoà hợp về
các phẩm chất tâm lý cá nhân của mọi người trong tập thể lao động được hình thành
từ thái độ của mọi người đối với công việc, bạn bè, đồng nghiệp và người lãnh đạo
tạo nên bầu không khí của tập thể. Trong tập thể lao động luôn có sự lan truyền cảm
xúc từ người này sang người khác, nó ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái tâm lý, thái
độ đối với lao động , với ngành nghề và với mỗi thành viên. Từ đó ảnh hưởng tới
năng suất lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.1.2.4 Các yếu tố thuộc về môi trường lao động
Môi trường tự nhiên
Thời tiết và khí hậu có ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động. Nó tác động
đến năng suất lao động một cách khách quan và không thể phủ nhận. Thời tiết và
khí hậu của các nước nhiệt đới khác với các nước ôn đới và hàn đới, do đó ở các
nước khác nhau có những thuận lợi và khó khăn khác nhau trong sản xuất. Và ở mỗi
một ngành sản xuất thì nó tác động khác nhau. Trong nông nghiệp thì độ phì nhiêu
của đất, của rừng, của biển khác nhau sẽ đưa lại năng suất khác nhau.Trong công
nghiệp khai thác mỏ thì các vấn đề như hàm lượng của quặng, độ nông sâu của các
vỉa than, vỉa quặng, trữ lượng của các mỏ đều tác động đến khai thác, đến năng suất
lao động. Con người đã có nhiều hoạt động nhằm hạn chế các tác động có hại của
thiên nhiên đến sản xuất và đạt được kết quả rõ rệt như trong dự báo thời tiết, trong
diệt trừ côn trùng phá hoại mùa màng .. Tuy nhiên, vẫn chưa khắc phục được hết. vì
thế yếu tố thiên nhiên là yếu tố quan trọng, cần phải đặc biệt tính đến trong các
ngành như nông nghiệp, khai thác và đánh bắt hải sản, trồng rừng, khai thác mỏ và
một phần nào trong ngành xây dựng.
Điều kiện lao động
Quá trình lao động của con người bao giờ cũng diến ra trong môi trường sản xuất
nhất định, mỗi môi trường khác nhau lại có các nhân tố khác nhau tác động đến

24



người lao động, mỗi nhân tố khác nhau lại có mức độ tác động khác nhau, tổng hợp
các nhân tố ấy tạo nên điều kiện lao động.các nhân tố tích cực tạo ra điều kiện thuận
lợi còn nhân tố tiêu cực tạo ra điều kiện không thuận lợi cho con người trong quá
trình lao động. “ Điều kiện lao động là tổng hợp các yếu tố của môi trường làm việc
tác động tới sức khoẻ và khả năng thực hiện công việc của người lao động”. cụ thể
là cường độ chiếu sáng, độ ẩm, tiếng ồn, độ rung, bụi, các chất độc hại ảnh hưởng
tới con người. Nếu nơi làm việc có điều kiện làm việc không tốt như quá sáng hoặc
quá tối sẽ ảnh hưởng đến thị giác của người lao động, giảm khả năng lao động.
Hoặc nơi làm việc có môi trường bị ô nhiễm, mức độ an toàn không cao, ảnh hưởng
đến sức khoẻ của người lao động. Mặt khác, làm cho người lao động có cảm giác
không yên tâm nên không chuyên tâm vào công việc, làm giảm năng suất lao động.
2.2 Một số lý thuyết nghiên cứu:
2.2.1 Thuyết hai nhân tố ( Two – factor theory)
Theo (Ngô Minh Triết và Lưu Trường Văn , 2010), Frederick Herzberg cố gắng
giải thích sự động viên con người theo cách hoàn toàn khác. Ông chia các yếu tố
động viên làm việc làm hai nhóm là yếu tố duy trì và nhóm yếu tố động viên.
Nhóm yếu tố duy trì có tác dụng duy trì trạng thái tốt nhưng không làm cho con
người làm việc tốt hơn. Các yếu tố này bao gồm chính sách và quản trị công ty,
giám sát, điều kiện làm việc, lương bổng , quan hệ với đồng nghiệp, cuộc sống cá
nhân, quan hệ với nhân viên, vị trí và an toàn công việc. Khi các yếu tố này được
thỏa mãn, đôi khi những người công nhân lại coi đó là điều tất nhiên.Nhưng nếu
không có chúng họ sẽ trở nên bất mãn và do đó sản xuất bị giảm sút.
Nhóm thứ hai là những yếu tố có tác dụng động viên thật sự bao gồm thành quả
công việc, sự công nhận, công việc hấp dẫn, trách nhiệm và phát triển nghề nghiệp.
Nhiều nghiên cứu đã đưa ra kết quả không ủng hộ sự phân chia hai nhóm nhân tố
như trên của Herzberg cũng như bác bỏ việc cho rằng các nhân tố duy trì không
mang lại sự thõa mãn trong công việc. Thực tế cho thấy rằng các nhân tố thuộc hai
nhóm đều có ảnh hưởng ít nhiều đến sự thỏa mãn trong công việc. Tuy nhiên, thông
qua lý thuyết của Herzberg ta cũng có thể thấy được tầm quan trọng của nhân tố


25


×