Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

tiểu luận khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.83 KB, 7 trang )

Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh

Tiểu luận
Khủng hoảng tín dụng dưới
chuẩn ở Mỹ
Nguyễn Thiện Nhân
Lê Ngọc Thanh
Nguyễn Hồng Quân
Phạm Thùy Ngân
Trần Nguyễn Trường Phúc
Phạm Quang Chương
Lê Như Phượng
Nguyễn Văn Hậu
Thòng Quan Phượng
Giảng viên hướng dẫn

PGS.TS. Bùi Thị Mai Hoài

Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2016


Khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ

Tháng 2 năm 2016
Đã gần 8 năm trôi qua kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nổ ra trên phạm
vi toàn cầu. Đây là một trong những cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ và
thế giới, nó đã làm thay đổi cục diện hệ thống ngân hàng Mỹ với sự sụp đổ của hàng loạt
ngân hàng, tiêu biểu là Lehman Brothers, cũng như các định chế tài chính phi ngân hàng khác.
Nhưng nguyên nhân của cuộc khủng hoảng ấy lại bắt nguồn từ "Khủng hoảng tín dụng dưới
chuẩn" ở Mỹ. Ngày 08/02/2007, HSBC công bố tỷ lệ nợ xấu năm 2006 tăng 20% so với dự báo
do khủng hoảng thị trường bất động sản Mỹ. Khi đó, nhiều người bình thường mới biết tới


cụm từ “tín dụng dưới chuẩn”. Vậy "Tín dụng dưới chuẩn" là gì và vì đâu mà nó châm ngòi
cho cuộc khủng hoảng được xem là giai đoạn đáng nhớ nhất trong lịch sử tài chính thế giới với
sức ảnh hưởng trên diện rộng?

1

Tín dụng dưới chuẩn là gì?

Tín dụng dưới chuẩn (hay còn được gọi là nợ dưới chuẩn) được hiểu là các khoản cho vay các
đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo,
không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng
không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán
nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn
chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn.
Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất
cũng rất hấp dẫn trong bối cảnh lãi suất cho vay tương đối thấp trong những năm đầu của
thập niên 2000. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện đối với các sản phẩm cho vay thế chấp
mua nhà (mortgage), thế chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín dụng... Các đối tượng tín dụng dưới
chuẩn phần lớn là dân nhập cư vào Mỹ.

2
2.1

Nguồn gốc của khủng hoảng
Môi trường lãi suất thấp

Vào đầu thập niên 2000, khi nền kinh tế Mỹ bước vào giai đoạn suy thoái, FED đưa ra chính
sách cắt giảm lãi suất để thúc đẩy tiêu dùng. Đến năm 2002, nền kinh tế đã thực sự phục hồi
nhưng những lo ngại về sự suy thoái tiếp tục trong tương lai vẫn khiến chủ tịch FED lúc bấy
giờ là Alan Greenspan trì hoãn việc tăng lãi suất trong lúc các định chế tài chính đặc biệt là

ngân hàng mong muốn tìm nguồn cho vay với lãi suất cao hơn.

2.2

Nguồn tiền mặt phong phú

Đáp lại chính sách tiền tệ nới lỏng của FED, lượng cung tiền trong nền kinh tế Mỹ đã tăng
mạnh. Khối lượng cho vay của tất cả các loại hình tín dụng ngân hàng đã tăng liên tục, thúc
1


Nhóm 5 - FNC02

2

đẩy quá trình mở rộng tiền tệ đang diễn ra.
Sự gia tăng của khối lượng tín dụng còn được thúc đẩy bởi dòng vốn nước ngoài chảy vào
ổn định. FED không hề thực hiện bất kỳ một biện pháp nào để “trung hòa hóa” tác động của
dòng vốn vào đối với cung tiền vì họ tin rằng nền kinh tế vẫn đang trong quá trình phục hồi.
Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế vào cuối năm 2002, thu nhập cá nhân và lợi nhuận
của công ty đều tăng lên đáng kể.

2.3

Giá nhà tăng liên tục

Giá nhà tăng một phần nhờ vào các khoản cho vay lãi suất thấp và nguồn tiền mặt dồi dào.
Trong bối cảnh giá nhà tăng liên tục, người dân đổ xô mua nhà vì họ tin rằng giá nhà sẽ còn
tăng cao hơn nữa ngay cả khi căn nhà chưa được xây xong và đưa vào sử dụng vì họ không
hẳn mua để ở mà là mua đi bán lại để kiếm lời. Các nhà môi giới cho vay thế chấp nôn nóng

đẩy nhanh và kết thúc các giao dịch nhằm thu về các khoản phí và chuyển sang các giao dịch
kế tiếp. Về sau, người ta mới nhận ra rằng nhiều người mua nhà thế chấp đủ tiêu chuẩn lại bị
hướng vào nhóm đối tượng vay nợ dưới chuẩn bởi vì những người bán trung gian được hưởng
phí cao hơn từ loại này.
Do đó đối tượng vay tín dụng dưới chuẩn để mua nhà tăng rất mạnh vì bị thu hút bởi các
"lời khuyên" từ giới môi giới và các khoản vay với lãi suất linh hoạt (ARM)1

2.4

Nhận thức sai về rủi ro

Những người mua nhà không cảm nhận được rủi ro bởi vì sự gia tăng liên tục của giá nhà cho
phép họ trả nợ rất dễ dàng bằng cách vay thêm. Những người cho vay cũng không duy trì các
khoản nợ của họ trong sổ sách mà bán chúng cho các ngân hàng đầu tư để những ngân hàng
này biến chúng thành những tài sản được chứng khoán hóa và bán cho các nhà đầu tư chứng
khoán. Do vậy, những người cho vay thế chấp đã liên tục có được tiền mặt và tiếp tục tạo ra
các khoản nợ tương tự, đẩy giá nhà lên cao hơn và một chu trình mới lại bắt đầu.
Cho đến khi nhận ra những gì đang diễn ra trong thực tế thì rủi ro đã biến thành khủng
hoảng

2.5

Rạn nứt xuất hiện

Nền kinh tế Mỹ đã bước vào năm thứ 4 tăng trưởng liên tục và những dấu hiệu lạm phát gia
tăng mạnh đã xuất hiện. Một loạt các chỉ số giá khác cũng gia tăng. FED đã phản ứng lại bằng
cách liên tục tăng lãi suất.
Chính sách tiền tệ thắt chặt của FED đã làm cho lãi suất ARM tăng cao. Lãi suất tăng gây
bất ngờ đối với những người vay nợ dưới chuẩn. Do tình trạng tài chính eo hẹp, nhiều người
đã không đủ khả năng thanh toán. Tỷ lệ nợ quá hạn và vỡ nợ bắt đầu tăng mạnh. Điều này

trái ngược với việc các nền tảng cơ bản của nền kinh tế vẫn tốt bởi lãi suất mặc dù có khuynh
hướng tăng nhưng vẫn ở mức thấp trong lịch sử.
Cuối năm 2006, Ownit Mortgage Solution Inc, đứng hạng 11 trong số những tổ chức tín
dụng cho vay dưới chuẩn, đóng cửa. Đây là điều khá bất ngờ do trước đó Merrill Lynch & Co
đã mua số cố phẩn thiểu số ở Ownit. Đến ngày 02/04/2007, tập đoàn tài chính New Century,
khi đó là hãng cho vay dưới chuẩn lớn nhất tại Mỹ, đệ đơn xin phá sản. Đến lúc bấy giờ, những
rạn nứt đã xuất hiện ngày càng rõ ràng hơn bao giờ hết.
1

Lãi suất ARM lại rất thấp với thời hạn từ 3 đến 5 năm. Chính vì vậy, nó đã thu hút được những người mua
có thu nhập thấp. Tuy nhiên, các khoản tiền lãi phải trả hàng tháng đã tăng dần theo thời gian do lãi suất cho
vay được điều chỉnh lên những mức cao hơn.


Nhóm 5 - FNC02

3

3

Cách thức tạo ra khủng hoảng

Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn được thực hiện thông qua một công cụ tài chính hiện đại rất
khá tinh vi được gọi là nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation). Chứng khoán hóa cho phép
chuyển đổi các khoản nợ với mức rủi ro cao sang mức rủi ro thấp (AAA 2 ). Về bản chất, chứng
khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài sản sẵn có trên bảng cân
đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các loại chứng khoán nợ. Nói một cách
khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng
tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư
mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quan tới danh mục tài sản đảm bảo được đem ra

chứng khoán hóa.
Ngày nay, các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng bao gồm các
khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương mại, các khoản phải thu thương
mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ dưới chuẩn, các trái phiếu hạng
đầu cơ (high-yield bond) hay các khoản cho vay bất động sản thương mại.
Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất thiết phải nắm giữ rủi
ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khác một cách dễ dàng thông qua việc phát
hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài sản đảm bảo. Chính điều này là cơ sở để
các ngân hàng đầu tư đã tự tin bơm vốn vào hoạt động cho vay nợ dưới chuẩn một cách dễ
dàng.
• Đầu tiên, các công ty tài chính chuyên về cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn được
ngân hàng đầu tư tạm ứng một nguồn vốn, sau đó các công ty này bắt đầu cho vay mua
nhà thông qua đại lý. Các đại lý trực tiếp làm việc với khách hàng, thẩm định hồ sơ và
chuyển các hồ sơ này cho công ty tài chính phê duyệt. Sauk hi phê duyệt, công ty tài
chính làm thủ tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải ngân.
• Các khoản cho vay này được công ty tài chính gom lại thành một danh mục tín dụng và
được bán lại cho ngân hàng đầu tư ban đầu.
• Các ngân hàng đầu tư thực hiện chứng khoán hóa các danh mục tín dụng đã mua. Danh
mục tín dụng được bán sang cho một công ty có mục đích đặc biệt, công ty này phát
hành chứng khoán nợ cho nhà đầu tư.
• Chứng khoán nợ phát hành tạm gọi là trái phiếu được đảm bảo dựa trên danh mục cho
vay thế chấp mua nhà. Trái phiếu được phân ra thành nhiều gói được định mức tín nhiệm
với các hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khác nhau.
• Nhà đầu tư bắt đầu có nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu mà được hình thành theo cách
trên. Điều này tạo ra động lực kính thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ
chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho vay dưới chuẩn.
• Các ngân hàng đầu tư quốc tế bắt đầu tăng cường việc bơm vốn cho công ty tài chính
chuyên làm nhiệm vụ cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn hoặc thành lập các công ty
vay của riêng mình.
• Các ngân hàng hưởng lợi lớn từ khoản lãi suất thu được từ nhiều nguồn. Lợi nhuận cao

đã dẫn đến việc lạm dụng việc cho vay nợ dưới chuẩn: Việc thẩm định thủ tục cho vay
diễn ra hết sức lỏng lẻo, việc tiếp cận vốn tín dụng dễ dàng hơn bao giờ hết ; cho vay thế
chấp mua nhà lan rộng toàn nước Mỹ, giá bất động sản tăng.
2

Quy chuẩn xếp hạng của các tổ chức tín dụng nổi tiếng trên giới, tiêu biểu là Standard & Poor


Nhóm 5 - FNC02

4

• Nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi suât tăng tạo gánh nặng lớn cho người trả nợ.
Hàng loạt người vì không trả được nợ bị xiết nợ và phát mại tài sản.

4

Diễn biến cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn ở
Mỹ

Chứng khoán hóa đã trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả được các ngân hàng
đầu tư quốc tế nắm bắt kịp thời để thực hiện cho vay nợ dưới chuẩn. Nếu như trước đây các
ngân hàng thương mại với nguồn vốn hữu hạn của mình từ tiền gửi của khách hành dùng để
cho vay thế chấp mua nhà thì giờ đây, nguồn vốn này trở nên dường như bất tận.
Các ngân hàng đầu tư quốc tế thi nhau bơm vốn cho các công ty tài chính chuyên làm
nhiệm vụ cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn hoặc thành lập các công ty cho vay của riêng
mình. Hàng loạt chủ thể tham giao vào quy trình cho vay và chứng khoán hóa như ngân hàng
đầu tư, công ty tài chính, môi giới cho vay, công ty định mức tín nhiêm, công ty quản lý, đều
thu được những khoản thu nhập lớn.
Ngân hàng đầu tư có lẽ là người hưởng lợi nhiều nhất. Cho vay thế chấp mua nhà dưới

chuẩn có lãi suất rất cao, do đó ngân hàng đầu tư vừa thu lãi từ cung cấp vốn cho công ty
tài chính, vừa thu lãi từ nghiệp vụ chứng khoán hóa. Lãi cao sẽ giúp việc đóng gói thêm thực
hiện dễ dàng, và đây là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư lao vào thị trường mua các gói trái phiếu
chứng khoán hóa đầy rủi ro.
Lợi nhuận cao kết hợp với lòng tham đã dẫn đến lạm dụng việc cho vay nợ dưới chuẩn. Các
thủ tục thẩm định thực hiện bởi các đại lý cho vay diễn ra hết sức lỏng lẻo và việc tiếp cận vốn
tín dụng mua nhà trở nên nhanh chóng, dễ dàng hơn bao giờ hết. Những người có thu nhập
thấp, đặc biệt là dân định cư đầu tiên có cơ hội mua nhà. Cho vay thế chấp mua nhà dưới
chuẩn lan nhanh ra toàn nước Mỹ. Giá bất động sản tăng nhanh chóng.
Nếu như cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn mới bắt đầu hình thành từ những năm đầu
90 và phát triển rất chậm thì trong 5 năm gần đây con số này gia tăng một cách kỷ lục. Năm
2002, doanh số cho vay dưới chuẩn cung cấp cho thị trường khoảng 200 tỷ USD, năm 2003 là
320 tỷ, năm 2004 là 550 tỷ, năm 2005-2006 con số này đạt gần 700 tỷ USD hàng năm, chiếm
khoảng 25% thị phần cho vay thế chấp mua nhà toàn nước Mỹ.
Từ năm 2006, biểu hiện khủng hoảng đã xuất hiện với sự gia tăng nợ xấu và số tổ chức cho
vay phá sản, giá trị các khoản vay dưới chuẩn tiếp tục tăng lên trong bối cảnh lãi suất tăng
cao và bong bóng bất động sản bắt đầu xì hơi
Khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi suất tăng tạo nên gánh nặng trả nợ với
những người thu nhập thấp, thất nghiệp gia tăng thì rủi ro cho vay nợ dưới chuẩn bị ảnh hưởng
nhanh nhất.
Không trả được nợ, hàng loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát mại tài sản. Cleveland
(Ohio) là thành phố đầu tiên châm ngòi cho cuộc khủng hoảng lan rộng ra toàn nước Mỹ và
thế giới. Theo số liệu thống kê, khoảng 1/10 số nhà tại Cleveland bị thu hồi để phát mại. Những
người nhập cư với giấc mơ mua nhà lại trở về tay trắng. Giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại trong
Qúy 3 năm 2007, mức tồi tệ nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1930.
1. Ngày 24/10/2007, Merrill Lynch công bố thua lỗ 8,4 tỷ USD, mức cao nhất trong lịch
sử ngân hàng trăm năm tuổi này, do đổ quá nhiều tiền vào thị trường tín dụng thế chấp
dưới chuẩn.
2. Ngày 16/3/2008, JP Morgan Chase mua lại Bear Stearns với giá 2 USD/cổ phiếu, khi
quỹ đầu tư này bán tháo tài sản (về sau cổ phiếu này tăng lên 10 USD). Cục dự trữ liên

bang Mỹ đã hỗ trợ 30 tỷ USD cho thương vụ này để giúp Bear thoát khỏi kết cục phá
sản.


Nhóm 5 - FNC02

5

3. Ngày 7/9/2008, Fannie Mae và Freddie Mac được chính phủ Mỹ tiếp quản để tránh sụp
đổ. Đây là hai tập đoàn chiếm một nửa thị trường tín dụng thế chấp bất động sản Mỹ.
4. Ngày 14/9/2008, Bank of America mua lại Merrill Lynch với giá 50 tỷ USD.
5. Ngày 14/9/2008, không may như Merrill Lynch, Lehman Brothers không tìm được người
mua và phải đệ đơn xin phá sản.
6. Ngày 16/9/2008, lần thứ hai trong lịch sử, giá trị tài sản của một quỹ thị trường tiền tệ
giảm xuống mức dưới 1 USD/cổ phiếu. Giới đầu tư Mỹ ồ ạt rút tiền khỏi các quỹ vốn
được coi là siêu an toàn này. Khi đó, 140 tỷ USD đã bị rút khỏi các quỹ này.
Cục dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương Châu Âu phải bơm số vốn khổng lồ
vào thị trường. Từ tháng 9/2007, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã liên tục 5 lần cắt giảm lãi suất
chiết khấu đồng USD từ 5,25%/năm xuống mức hiện tại 3%/ năm. Đây là những biện pháp
rất mạnh nhằm cứu vãn nền kinh tế Mỹ khỏi cuộc khủng hoảng này.

5

Hậu quả của cuộc khủng hoảng

Hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng cho nước Mỹ và thế giới là rất lớn. Thị trường bất
động sản và thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề. Thị trường trái phiếu hình thành
từ chứng khoán hóa bị mất khả năng thanh khoản. Ngành xây dựng Mỹ đóng góp 15% GDP
có thể phải cắt giảm một nửa sản lượng và cắt 1-2 triệu công việc.
Các khoản cho vay thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài sản đảm từ những ngôi

nhà bị sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại (mark to market) của các gói trái phiếu
phát hành bị giảm giá không phanh, đặc biệt là các gói trái phiếu có rủi ro cao. Các nhà đầu
tư nắm giữ trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa nợ dưới chuẩn là người chịu hậu quả
nặng nề. Dự báo số tổn thất do giảm giá trị trái phiếu cho toàn thị trường lên tới khoảng 220
tỷ – 450 tỷ USD.
Hàng loạt ngân hàng đầu tư trót nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro mà chưa kịp chuyển giao
cho thị trường đã phải ghi nhận các khoản tổn thất lên đến hàng trăm tỷ USD như Citi (21 tỷ
USD), Merrill Lynch (25 tỷ USD), UBS (18 tỷ USD), Morgan Stanley (10 tỷ USD), JP Morgan
(2,2 tỷ USD), Bear Stearns (2 tỷ USD), Lehman Brothers (1,5 tỷ USD), Goldman Sachs (1,3
tỷ USD). Tổng thiệt hại tài chính của các ngân hàng đầu tư trong năm 2007 ước tính lên tới
gần trăm tỷ USD. Citi và Merrill Lynch phải cầu viện tăng vốn khẩn cấp từ các quỹ đầu tư
Châu Á. Hàng ngàn nhân viên phố Wall bị sa thải.
Không chỉ thiệt hại về giảm giá trái phiếu, mảng kinh doanh béo bở từ chứng khoán hóa
của các ngân hàng đầu tư cũng bị tạm ngưng hoạt động. Cổ phiếu các ngân hàng đầu tư rớt
thảm hại trong 6 tháng cuối năm 2007. Với tổn thất nặng nề này, các ông chủ phố Wall lần
lượt phải ra đi, cụ thể là các ông chủ UBS, Citigroup, Merrill Lynch và Bear Stearns.
Khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính có
quy mô và mức độ nghiêm trọng nhất kể từ cuộc khủng hoảng năm 1930, làm chao đảo nền tài
chính toàn cầu, dẫn đến sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng lớn và các tổ chức tín dụng trên
thế giới, gây nên tình trạng thất nghiệp tràn lan, trở thành nỗi ám ảnh đối với kinh tế thế giới
suốt một thời gian dài

6

Kết luận

Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của Mỹ bắt nguồn từ sự quản lý lỏng lẻo trong cho
vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng tham của thị trường. Chứng khoán hóa là một công cụ tài



Nhóm 5 - FNC02

6

chính thông minh song đã bị lợi dụng vào việc xấu gây nên hậu quả khôn lường. Các nhà đầu
tư cần thấu hiểu các rủi ro trước khi mua các sản phẩm tài chính phức tạp nhằm tránh những
tổn thất nặng nề. Đây là những bài học không thừa cho bất cứ quốc gia nào trong quá trình
hội nhập và phát triển.
Chắc chắn vấn đề cho vay dưới chuẩn sẽ tồn tại (dưới góc độ cơ chế đánh giá rủi ro tín
dụng của hệ thống ngân hàng) với những mức độ nghiêm trọng khác nhau. Mặc dù hiện nay
các ngân hàng có thể vẫn an tâm với mức độ mất khả năng chi trả thấp trong số các con nợ
của họ nhưng cần lưu ý rằng tổng dư nợ trong hệ thống ngân hàng vẫn đang tăng lên mạnh.
Một khi nhu cầu về bất động sản bão hòa hay tụt giảm và các khoản cho vay bất động sản đến
hạn thanh toán, số nợ mất khả năng thu hồi có thể sẽ trở nên quá lớn vượt ra khỏi tầm kiểm
soát, đẩy ngành ngân hàng vào tình trạng bất ổn nghiêm trọng. Do đó, các cơ quan chức năng,
cũng như bản thân các ngân hàng cần có những biện pháp, chính sách phù hợp để không xảy
ra các tác động xấu do vỡ nợ cho vay dưới chuẩn.

Tài liệu
[1] Michel G. Crouhy, Robert A. Jarrow, Stuart M. Turnbull, The Subprime Credit Crisis of
07
[2] Frederic S. Mishkin, The economics of Money, Banking and Financial Markets, Pearson
Addison Wesley
[3] Mặc San, Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ: Từ A đến Z, Vneconomy
/>[4] Phạm Toàn Thiện, Khủng hoảng thế chấp cho vay nhà dưới chuẩn ở Mỹ: Bài học và một
số kiến nghị
[5] Vnexpress Kinh doanh
/>[6] Wikipedia
/>



×