Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
ĐỀ TÀI: “Khủng hoảng thị trường tín dụng thứ cấp
(cho vay dưới chuẩn) - Bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam"
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ TÍN DỤNG THỨ CẤP
1.1 Khái niệm
1.1.1Tín dụng
Cho vay, còn gọi là tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài
chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên
cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. Do hoạt động này
làm phát sinh một khoản nợ nên bên cho vay còn gọi là chủ nợ, bên đi vay gọi là con nợ.
Do đó, tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên, một bên là người cho vay, và một
bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời
gian cho vay, lãi suất phải trả,
Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo
lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá
trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.
1.1.2 Tín dụng thứ cấp
Tín dụng thứ cấp là loại tín dụng dành cho những người được xác định là có thu
nhập thấp hoặc có độ tín nhiệm thấp nên không có điều kiện tiếp cận tín dụng trên thị
trường tín dụng hạng nhất. Nó còn được gọi là tín dụng "hạng B", để phân biệt với tín
dụng "hạng A" (hay tín dụng ưu tiên, tín dụng hạng nhất) dành cho những người vay có
độ tín nhiệm cao. Tín dụng thứ cấp thấy chủ yếu ở Hoa Kỳ.
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 1
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
Tín dụng thứ cấp hay còn được gọi là cho vay dưới tiêu chuẩn (subprime lending).
Thuật ngữ “dưới tiêu chuẩn - subprime” ở đây liên quan đến vị thế tín dụng của người
vay. Tín dụng thứ cấp có nhiều loại, hướng tới các mục đích đi vay khác nhau của người
vay, như để mua nhà (tín dụng nhà ở thứ cấp), mua ô tô, mở thẻ tín dụng.
Những người được vay dưới chuẩn thường là những người nghèo, không có công
ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoăc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt
trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến
hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ
dành cho những đối tượng trên chuẩn.
Cụm từ “nợ dưới chuẩn” ra đời xuất phát từ đạo luật Tái Phát Triển Cộng Đồng
(Community Reinvestment Act) – CRA. Đạo luật tái phát triển cộng đồng được Quốc
hội Mỹ ban hành vào năm 1977. Đạo luật này yêu cầu các tổ chức tài chính nhận tiền gửi
phải đồng thời cung cấp các dịch vụ tài chính tương tự như cho vay, đầu tư đến tất cả
những người dân nằm trong khu vực địa lý - cách mỗi chi nhánh ngân hàng ít nhất từ 3
đến 5 dặm. Trong trường hợp các ngân hàng lớn có nhiều chi nhánh, thì khu vực địa lý ở
đây có thể trải rộng ra toàn hạt hoặc thậm chí cả một bang. Trước khi đạo luật này được
ban hành, nhiều ngân hàng đã đưa những người dân có thu nhập thấp và những người da
màu khỏi danh sách được cung cấp các sản phẩm cho vay, đầu tư và các dịch vụ ngân
hàng - thực trạng này còn được gọi là “redlining”. Và vào những năm 70, các nhà chính
trị ở Chicago và trên toàn nước Mỹ đã tạo áp lực lên các ngân hàng, yêu cầu thực hiện
các giao dịch ngân hàng với cả những bộ phận dân cư này. Kết quả, đạo luật này ra đời
đã giúp đỡ những người dân nghèo tiếp cận được với các dịch vụ ngân hàng, cho phép
họ kết nối được với các dòng chảy tài chính thông qua việc đăng ký tài khoản, đầu tư
trang thiết bị, mua sắm xe hơi nhà cửa Khoản tín dụng cung cấp cho bộ phận dân cư
này còn được gọi với cái tên là “nợ dưới chuẩn”.
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 2
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
Khoản tín dụng cam kết theo mục tiêu của CRA ngày càng tăng lên và ngày càng
có nhiều ngân hàng tham gia vào. Nguyên nhân tăng trưởng của cam kết CRA có thể
được rút ra từ 2 vấn đề thực tế sau:
Các khoản cho vay theo CRA mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho các tổ chức tài
chính: lý do của việc này đã quá rõ, khoản cho vay nợ dưới chuẩn đầy rủi ro, vì vậy nó
đòi hỏi một mức lãi suất cao hơn. Do đó, nó đã mang lại một nguồn thu nhập đáng kể
cho các ngân hàng.
Các ngân hàng xem khoản cam kết CRA là một cơ hội để cạnh tranh với đối thủ.
Các cam kết CRA là cách để các ngân hàng thể hiện là họ quan tâm và đáp ứng nhu cầu
của người dân nghèo - một biện pháp để quảng bá tên tuổi và hình ảnh. Nó tạo ra một
hiệu ứng tích cực trong mắt của công chúng và cả trên các phương tiện thông tin đại
chúng.
1.1.3 Thị trường tín dụng thứ cấp
Là thị trường cho vay thế chấp, tín chấp dưới chuẩn (subprime mortgages), là thị
trường mà ở đó người có vốn (ngân hàng, tổ chức tín dụng) cho khách hàng vay là
những người có lịch sử (quá khứ) tín dụng xấu. Theo đó, chủ nợ nhận thức rõ rằng chất
lượng khoản cho vay của mình là xấu; rủi ro tín dụng được bù đắp chủ yếu bằng lãi suất
cho vay cao và còn bằng tài sản thế chấp.
1.1.4 Cho vay thế chấp nhà đất dưới tiêu chuẩn (subprime housing
mortgage):
Là một trong những loại hình thuộc lĩnh vực cho vay dưới tiêu chuẩn và đặc biệt
phát triển mạnh từ đầu thế kỷ 21, trở thành một “ngành công nghiệp ở Mỹ”. Nói như vậy
có nghĩa là hình thức thế chấp nhà đất trở thành một loại hình kinh doanh đầy lợi nhuận
không chỉ với ngân hàng cho vay mà còn với cả dân đầu cơ địa ốc. Một điều đặc biệt là
hầu hết các ngân hàng, tổ chức tín dụng ở Mỹ cho vay dưới hình thức này đều chấp nhận
đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Như vậy, trước hết ta có thể thấy nguy cơ
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 3
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
rủi ro là rất cao do đối tượng của nó là nhà đất vốn thường xuyên rơi vào chu kỳ đóng
băng.
Nhờ nền tài chính bong bóng, các tổ chức tài chính ở Mỹ và các nước Tây Âu đã
kiếm được rất nhiều tiền. Tiền phải đẻ ra tiền, đó là bản chất của kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Để tăng năng lực đầu tư tài chính, các ngân hàng đầu tư đã liên kết với các công
ty địa ốc sản xuất ra hàng trăm ngàn căn hộ (nhà ở) bán trả góp cho người tiêu dùng, với
sự bảo lãnh của ngân hàng.
Chẳng hạn như một gia đình nào đó mua một căn hộ với giá 100, anh ta được
ngân hàng cấp cho một hạn mức tín dụng có giá trị 100 trong một khoảng thời gian, có
thể là 10 năm, 20 năm, hoặc 30 năm, với lãi suất thả nổi. Hạn mức tín dụng được cấp
tương ứng với giá của căn hộ khi mua, do đó khi giá bất động sản tăng thì hạn mức tín
dụng cũng tăng tương ứng.
Giả sử giá căn hộ đó lên đến 150, khoản hạn mức tín dụng tăng thêm 50 đó người
mua nhà có quyền đưa vào các mua sắm khác, như mua sắm ôtô chẳng hạn. Như vậy,
thời kỳ địa ốc tăng giá, từ một ngôi nhà có thể bảo đảm cho người tiêu dùng có nhiều
khoản vay khác. Chính sách tín dụng tiêu dùng này đã được các ngân hàng ở Mỹ khuyến
khích, phát triển rất mạnh. Nhưng từ 2 năm trở lại đây, giá bất động sản không ngừng
giảm xuống, giá trị của các căn hộ ngày càng thấp hơn các khoản tín dụng đã cấp. Hạn
mức tín dụng giảm xuống thì ngân hàng thu hồi nợ, nhưng người mua nhà không có khả
năng thanh toán. Hàng chục ngàn gia đình Mỹ hoặc bị tịch thu nhà, hoặc tự động trả nhà
để thoát khỏi công nợ. Cùng với lạm phát gia tăng, các công ty bất động sản ứ đọng hàng
trăm ngàn căn hộ đã xây, các ngân hàng mất vốn
1.2 Cơ chế cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn
Theo truyền thống, một người đi vay phải trình ngân hàng đơn xin vay vốn. Đơn
này được xem xét bởi một nhân viên tín dụng và việc xem xét này phải được thể hiện rõ
ràng bằng văn bản. Đồng thời, người vay phải đưa ra các giấy tờ liên quan đến thu nhập,
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 4
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
tiểu sử nghề nghiệp, tài sản và các khoản nợ. Ngân hàng có thể đồng ý cho vay thế chấp
với lãi suất cố định trong suốt 30 năm hoặc cho vay thế chấp theo lãi suất có thể tự điều
chỉnh ARM. Đa số người đi vay chọn hình thức vay theo lãi suất cố định.
Vào những năm 1980, khi số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, các ngân
hàng cho rằng thủ tục cho vay theo kiểu truyền thống quá cồng kềnh và kém hiệu quả.
Do vậy, họ bắt đầu áp dụng cơ chế tính điểm tín dụng cho khách hàng. Mỗi công dân Mỹ
đều có một mức điểm tín dụng, từ 300 đến 850, nhằm phản ánh lịch sử thanh toán cá
nhân. Có ba tổ chức tín dụng thu thập thông tin về hồ sơ thanh toán của từng khách hàng.
Các ngân hàng lấy điểm trung bình của ba tổ chức này để quyết định mức tín nhiệm tín
dụng phù hợp. Mặc dù người đi vay vẫn phải đưa ra những giấy tờ về thu nhập, tiểu sử
nghề nghiệp, tài sản nhưng có thể đơn giản hơn. Các nhân viên tín dụng thực hiện các
quyết định cho vay chủ yếu dựa trên điểm tín dụng.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, khi sự bùng nổ của giá nhà đất trở nên
đỉnh điểm, số lượng các giấy tờ đã được giảm thiểu tới mức thấp nhất. Các khoản vay
này còn được gọi là “không giấy tờ” bởi vì chúng hầu như không được bảo đảm bằng bất
kỳ giấy tờ nào. Điểm tín dụng trở thành tiêu chuẩn duy nhất. Nếu điểm tín dụng của một
cá nhân thấp thì khoản vay mang hình thức dưới chuẩn (Đây là khoản vay với chất lượng
thấp hơn so với khoản vay đạt chuẩn, vốn được cho vay với đầy đủ các giấy tờ cần thiết).
Để bù đắp lại rủi ro cao, những khoản vay này là những khoản vay với lãi suất cao hoặc
người đi vay phải vay theo lãi suất ARM với lãi suất ban đầu thấp sau đó được điều
chỉnh dần lên những mức cao hơn.
Các nhà môi giới khi dàn xếp các khoản vay kết hợp lại và chuyển giao cho một
công ty tài rủi ro này cũng yêu cầu khoản phí cao. Như vậy,hoạt động của toàn hệ thống
được thúc đẩy bởi khối lượng tín dụng cao, tiêu chuẩn tín dụng thấp, lãi suất và phí cao.
Hầu hết những người cho vay không nhận ra cái bẫy họ đang bước vào. Đồng thời, nhiều
người đi vay đã lợi dụng sự dễ dãi của môi trường cho vay để đầu cơ. Họ không mua nhà
để ở mà chỉ để giữ một thời gian rồi bán lại cho người khác nhằm kiếm lời
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 5
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
1.3 Chu trình các khoản vay tín dụng thứ cấp
Một người muốn mua nhà thì người đó phải có điều kiện tín dụng “Credit”. Nếu
người này có tình trạng tín dụng tốt họ sẽ được hưởng lãi suất ưu tiên “Prime rate”. Và
để nâng cao doanh số của mình các ngân hàng chấp nhận một số người chưa đủ điều kiện
tín dụng đựơc vay nhưng phải trả lãi cao hơn và điều này chính là “sub-prime” (lãi suất
thứ cấp). Các ngân hàng cho vay bất động sản trực tiếp được gọi là Mortgage
originators .Và theo quy định về giám sát ngân hàng (basle2) thì các ngân hàng phải đảm
bảo một tỷ lệ nợ xấu nhất định để đảm bảo cho hoạt động của mình. Nếu ngân hàng cho
vay sub-prime nó phải giữ những món nợ này trên sổ sách của nó (mortgage) thì nó
không thể cho vay thêm. Để cân bằng và đảm bảo tỷ lệ nợ an toàn, các ngân hàng cho
vay địa ốc có thể bán lại các khoản nợ này cho các tổ chức chuyên về địa ốc như “Fannie
Mae” và “Freddie Mac” để chuyển các khoản nợ trên sổ sách của họ sang sổ sách của
các tổ chức này. Và từ đây bắt đầu lây lan ra hệ thống tài chính toàn thế giới khi các
ngân hàng trên thế giới đầu tư vào các loại chứng khoán này.
Các ngân hàng dám mạnh tay thực hiện những nghiệp vụ cho vay này với một
tâm lý ỷ lại do đã có sự bảo đảm ngấm ngầm từ chính phủ mà hiện thân lúc bấy giờ là
hai công ty Fannie Mae và Freddie Mac. Sở dĩ tồn tại hai công ty này vì để hỗ trợ cho
vay tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ cho lập Hiệp hội quốc gia tài trợ bất động sản (Federal
National Mortgage Association - gọi tắt là Fannie Mae) và Tập đoàn cho vay quốc gia
(Federal Home Loan Mortgage Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hoạt động chính
của hai công ty này là mua lại những món vay nợ thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt là
các khoản vay thế chấp “dưới chuẩn” (subprime mortgage) của các ngân hàng rồi dùng
bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” (Mortgage-backed
Securities) bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Lúc
này các món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hoá” thành sản phẩm tài chính thông dụng có
thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ
Bắt đầu từ những ngân hàng cho vay bất động sản trực tiếp (mortgage
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 6
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
originators), người dân đi vay mua nhà được phân loại thành dưới chuẩn (subprime), cận
chuẩn (Alt-A), chuẩn (prime), và được nhà nước bảo đảm (cụ thể là được Fannie Mae
hay Freddie Mac bảo đảm). Trong số này, các khoản vay dưới chuẩn (subprime) chỉ
chiếm 600 tỷ trong tổng số gần 10 ngàn tỷ tín dụng bất động sản dân dụng trực tiếp. Từ
tổng số tín dụng này, các công ty tài chính "chứng khoán hóa" (securitize) thành một loại
công cụ tài chính có thể mua bán được gọi là RMBS (residential mortgage backed
securities) – Chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp. Các nhà đầu tư khi mua
RMBS sẽ được bảo đảm và trả lãi bằng chính nguồn thu từ các khoản cho vay mua nhà ở
nói trên. Như vậy, đến level này mức độ rủi ro cũng chỉ nằm trong phạm vi 600 tỷ nếu
toàn bộ subprime mortgage bị mất giá trị hoàn toàn. Ngoài ra còn có các khoản vay
ALT-A (cận chuẩn),Prime (chuẩn).
Số RMBS này được gộp với các loại chứng khoán tín dụng khác như cho vay bất
động sản thương mại, vay thẻ tín dụng, vay mua xe hơi, vay tiền học đại học, để trở
thành một loại chứng khoán có tài sản thế chấp nói chung ABS (asset backed securities).
Từ đây, các công ty tài chính chế tạo ra một loại công cụ tài chính mới gọi là CDO
(collateralized debt obligations)- Giấy nợ được đảm bảo bằng tài sản thế chấp bằng cách
kết hợp các ABS vào thành các portfolio rồi chia nhỏ các portfolio này theo các mức độ
rủi ro từ cao đến thấp: senior, mezzanine and equity. Ví dụ, người ta bỏ 100 ABS có
nguồn gốc từ subprime mortgages, auto loans, credit card loans v.v. vào một portfolio.
Sau đó người ta bán 100 CDO được đảm bảo bằng portfolio này và phân thành 3 nhóm.
Nhóm CDO đầu tiên có mức độ rủi ro thấp nhất sẽ có giá cao nhất và cổ tức thấp nhất
(senior), sau đó đến nhóm CDO thứ hai (mezzanine), và cuối cùng là CDO thuộc hạng
equity có rủi ro cao nhất và giá thấp nhất.
Ở đây các công ty phát hành CDO có thể mua bảo hiểm cho các ABS cấu thành
portfolio từ các công ty bảo hiểm uy tín (đây là một trong nhiều hình thức của các công
ty phát hành CDS). Nếu công ty bảo hiểm có credit rating –mức tín nhiệm cao (ví dụ
AAA) thì các ABS và kéo theo là CDO cũng sẽ có credit rating cao, tất nhiên sẽ bán
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 7
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
được giá hơn. Những công ty bảo hiểm lớn trong thị trường này là MBIA, Ambac, và cả
AIG.
Đến một lúc nào đó các nhà đầu tư đều lầm tưởng rằng các CDO là ít rủi ro và
nhu cầu của nó trở nên quá lớn. Nhưng ABS thì có hạn dù các ngân hàng và các
mortgage brokers đã tìm mọi cách để người Mỹ trở thành "con nợ" (subprime chẳng hạn)
để tăng lượng ABS. Thế là người ta quyết định thay ABS trong các portfolio để tạo ra
CDO bằng chính các CDO, nghĩa là CDO của CDO. Rồi sau đó là CDO của CDO của
CDO. Những loại CDO được xây dựng từ các portfolio cấu thành từ các CDO khác này
gọi là sythetic CDO, để phân biệt với cash CDO là các CDO truyền thống cấu thành từ
ABS.
Hình1 :Mô tả về chu trình các khoản vay tín dụng thứ cấp
Những năm 2000-2001 nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu đi vào suy thoái. Tỷ lệ người
thất nghiệp tăng ngày càng cao. Để kích thích nền kinh tế chính phủ đã phải cắt giảm lãi
suất và nới lỏng tiền tệ. Chính phủ các bang cũng nới lỏng mức chuẩn tín dụng cho
người dân có cơ hội mua nhà của riêng mình. Và điều này đã có hiệu quả kích thích nền
kinh tế tăng trưởng. Nhưng với lợi nhuận cao kết hợp với lòng tham đã dẫn đến lạm
dụng việc cho vay nợ dưới chuẩn. Các thủ tục thẩm định thực hiện bởi các đại lý cho vay
diễn ra hết sức lỏng lẻo và việc tiếp cận vốn tín dụng mua nhà trở nên nhanh chóng, dễ
dàng hơn bao giờ, cộng thêm sự yếu kém của các tổ chức xếp hạng các công cụ này đã
đẩy cả hệ thống tài chính đến bên bờ vực thẳm.
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 8
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
(Nguồn : FED)
1.4Đặc điểm của tín dụng thứ cấp
1.4.1 Độ rủi ro cao
Hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn có những tính chất sau:
- Tài sản hình thành từ nguồn tín dụng đi vay được sử dụng làm tài sản thế chấp.
- Hạn mức cho vay cao.
- Thời hạn cho vay dài.
- Lãi suất cao.
Trong khi khả năng chi trả và điểm tín dụng của người đi vay không được xét
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 9
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
theo quy định. Do vậy, khi thị trường suy thoái, những người thu nhập thấp và thu nhập
khiêm tốn không có điều kiện để trả nợ.
1.4.2 Quá trình phân bổ rủi ro rộng
Hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn có quá trình phân bổ rủi ro rộng do ngân
hàng chỉ còn là đơn vị trung gian cho vay, sau đó chuyển nhượng khoản vay cho công ty
cho vay thế chấp để công ty phát hành “trái phiếu tái thế chấp” (Mortgage-backed
Securities) chuyển nhượng rộng rãi trên thị trường chứng khoán. Dưới hình thức này,
người cho vay thực (người nắm giữ “trái phiếu tái thế chấp”) và người đi vay không biết
nhau.
1.4.3Tính thanh khoản cao
Tín dụng thứ cấp có tính thanh khoản cao do những món nợ đã được “trái phiếu
hoá” thành sản phẩm tài chính thông dụng có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ.
1.5 Tác động của tín dụng thứ cấp
Với những đặc điểm trên, tín dụng thứ cấp có những tác động sau:
1.5.1 Tích cực
- Đa dạng lựa chọn tài chính cho người đi vay thế chấp.
- Tạo tính thanh khoản cao cho tổ chức cho vay tín dụng.
- Gia tăng giá trị thị trường tài sản cầm cố.
1.5.2Tiêu cực
Tồn tại những rủi ro mang tính hệ thống.
Khi thị trường tài sản thế chấp suy thoái, các tổ chức tài chính, ngân hàng nắm giữ
nhiều “trái phiếu tái thế chấp” ngoài việc “tự lỗ” còn bị người gửi tiền hoảng loạn đòi rút
tiền hàng loạt, trong khi các ngân hàng khác cũng dè dặt cho vay (trong thị trường liên
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 10
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
ngân hàng) dẫn đến mất khả năng thanh khoản. Một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều
ngân hàng khác phá sản gây ra hiệu ứng domino.
Thị trường tín dụng thứ cấp này liên thông chặt chẽ với thị trường tài chính do
“chứng khoán hóa” tài sản cầm cố là nguồn tài trợ chủ yếu cho hoạt động cho vay dưới
chuẩn.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CUỘC KHỦNG HOẢNG
TÍN DỤNG THỨ CẤP Ở MỸ NĂM 2007 VÀ TÌNH HÌNH
TÍN DỤNG DƯỚI CHUẨN TẠI VIỆT NAM
2.1Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ 2007 :
Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của Mỹ bắt nguồn từ sự quản lý lỏng lẻo
trong cho vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng tham của thị trường. Chứng khoán hóa là
một công cụ tài chính thông minh song đã bị lợi dụng vào việc xấu gây nên hậu quả khôn
lường. Các nhà đầu tư cần thấu hiểu các rủi ro trước khi mua các sản phẩm tài chính
phức tạp nhằm tránh những tổn thất nặng nề. Đây là những bài học không thừa cho bất
cứ quốc gia nào trong quá trình hội nhập và phát triển.
2.1.1Nguyên nhân sâu xa :
Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là
sự suy sụp của thị trường bất động sản. Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là
phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có
một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động
sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên
cao; khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá
nhà xuống thấp. Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất động
sản :
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 11
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
- Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ
liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi
suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua nhà do
các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của
Fed, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản).
Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên
tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
- Thứ nhì, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy
giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay
tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty
được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản
cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo
đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho
các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns
và Merrill Lynch.
- Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành
các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản
không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên
cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư,
có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc.
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô
cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của
chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở
nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản
vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên
mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay.
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 12
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều
người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể
được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn
dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với
lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba năm sau lãi suất mới sẽ được ấn định
theo thời điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành phần được cho vay với
loại lãi suất dưới chuẩn (subprime rate).
Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành
cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001
lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Fannie Mae đã mạnh tay hơn
trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều
hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers.
Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại MBS của các nhà đầu tư vẫn cao bởi vì cho tới
trước năm 2006 thì thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ bong bóng. Hơn
nữa, họ cũng phần nào được trấn an khi vẫn có thể mua thong thả các hợp đồng bảo hiểm
CDS từ các công ty bảo hiểm và đầu tư khác. Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm
càng mạnh tay hơn trong việc bán CDS ra thị trường, bất chấp khả năng bảo đảm của
mình.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản
liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 (năm bắt
đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà
sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và
khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời.
Do đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản.
2.1.2 Cách thức tạo khủng hoảng :
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 13
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn được thực hiện thông qua một công cụ tài chính
hiện đại rất khá tinh vi được gọi là nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation). Chứng
khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tại Mỹ song thực sự phát triển mạnh từ thập
kỷ 90.
Về bản chất, chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng
các tài sản sẵn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các
loại chứng khoán nợ. Nói một cách khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng
khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài
sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên
quan tới danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa.
Ngày nay, các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng bao
gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương mại, các khoản
phải thu thương mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ dưới
chuẩn, các trái phiếu hạng đầu cơ (high-yield bond) hay các khoản cho vay bất động sản
thương mại.
Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất thiết phải
nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khác một cách dễ dàng
thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài sản đảm bảo.
Chính điều này là cơ sở để các ngân hàng đầu tư đã tự tin bơm vốn vào hoạt động cho
vay nợ dưới chuẩn một cách dễ dàng.
Quá trình này được thực hiện một cách cơ bản như sau :
Trước tiên, ngân hàng đầu tư tạm ứng nguồn vốn cho các công ty tài chính chuyên
về cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn. Các công ty tài chính thực hiện cho vay mua
nhà thông qua mạng lưới các đại lý cho vay. Các đại lý cho vay là người làm việc trực
tiếp với khách hàng, thẩm định tín dụng theo các mẫu hồ sơ chuẩn của công ty tài chính
và chuyển hồ sơ cho công ty tài chính phê duyệt. Sau khi phê duyệt, công ty tài chính sẽ
làm thủ tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải ngân.
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 14
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
Các công ty tài chính sẽ gom các khoản cho vay lại thành một danh mục tín dụng
gồm nhiều khoản vay và bán lại cho ngân hàng đầu tư mà thực chất là thanh toán số tiền
ngân hàng đầu tư đã cung ứng trước cho công ty tài chính.
Sau khi đã mua danh mục tín dụng dưới chuẩn, các ngân hàng đầu tư thực hiện
chứng khoán hóa chúng. Danh mục tín dụng được bán sang cho một công ty có mục đích
đặc biệt (special purpose vehicle) do ngân hàng đầu tư lập lên và công ty này phát hành
chứng khoán nợ cho nhà đầu tư.
Công ty đặc biệt này không có vốn, không có nhân viên mà chỉ có tài sản là danh
mục cho vay và công nợ là các trái phiếu phát hành. Tất cả các hoạt động như theo dõi,
thu đòi nợ và thanh toán gốc, lãi trái phiếu đều được thuê ngoài cho công ty dịch vụ
(thường chính là công ty tài chính thực hiện cho vay). Trong điều kiện lý tưởng, khi các
danh mục cho vay được thu hồi toàn bộ và thanh toán hết nợ trái phiếu cho nhà đầu tư thì
công ty đặc biệt này hoàn thành nhiệm vụ và được giải thể.
Chứng khoán nợ phát hành tạm gọi là trái phiếu được đảm bảo bởi danh mục cho
vay thế chấp mua nhà (mortgage backed obligations). Trái phiếu được phân ra thành
nhiều gói (tranche) được định mức tín nhiệm với các hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro
khác nhau và cuống lãi suất khác nhau, ví dụ gói A, gói B và gói Z.
Gói A với hệ số tín dụng cao nhất được thanh toán toàn bộ gốc đầu tiên. Sau khi
thanh toán hết gốc của gói A, sẽ đến lượt gói B và cuối cùng là gói Z. Gói Z là gói đặc
biệt không được định mức tín nhiệm, có mức độ rủi ro tín dụng cao nhất do đó có tính
chất như cổ phiếu. Nếu danh mục tín dụng hoạt động tốt, gói Z sẽ hưởng nhiều lợi nhuận
nhất và ngược lại. Nguyên tắc phân chia dòng tiền cho các trái chủ được gọi là nguyên
tắc thác nước tức là nước chảy từ trên xuống dưới.
Như vậy các nhà đầu tư có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình thành từ
chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Đây cũng chính là động lực kích
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 15
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho
vay dưới chuẩn.
Chứng khoán hóa đã trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả được các
ngân hàng đầu tư quốc tế nắm bắt kịp thời để thực hiện cho vay nợ dưới chuẩn. Nếu như
trước đây các ngân hàng thương mại với nguồn vốn hữu hạn của mình từ tiền gửi của
khách hành dùng để cho vay thế chấp mua nhà thì giờ đây, nguồn vốn này trở nên dường
như bất tận.
Các ngân hàng đầu tư quốc tế thi nhau bơm vốn cho các công ty tài chính chuyên
làm nhiệm vụ cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn hoặc thành lập các công ty cho vay
của riêng mình. Hàng loạt chủ thể tham giao vào quy trình cho vay và chứng khoán hóa
như ngân hàng đầu tư, công ty tài chính, môi giới cho vay, công ty định mức tín nhiêm,
công ty quản lý, đều thu được những khoản thu nhập kếch sù.
Ngân hàng đầu tư có lẽ là người hưởng lợi nhiều nhất. Cho vay thế chấp mua nhà
dưới chuẩn có lãi suất rất cao, do đó ngân hàng đầu tư vừa thu lãi từ cung cấp vốn cho
công ty tài chính, vừa thu lãi từ nghiệp vụ chứng khoán hóa. Lãi cao sẽ giúp việc đóng
gói thêm thực hiện dễ dàng, và đây là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư lao vào thị trường
mua các gói trái phiếu chứng khoán hóa đầy rủi ro.
Lợi nhuận cao kết hợp với lòng tham đã dẫn đến lạm dụng việc cho vay nợ dưới
chuẩn. Các thủ tục thẩm định thực hiện bởi các đại lý cho vay diễn ra hết sức lỏng lẻo và
việc tiếp cận vốn tín dụng mua nhà trở nên nhanh chóng, dễ dàng hơn bao giờ hết.
Những người có thu nhập thấp, đặc biệt là dân định cư đầu tiên có cơ hội mua nhà. Cho
vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn lan nhanh ra toàn nước Mỹ. Giá bất động sản tăng
nhanh chóng.
Nếu như cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn mới bắt đầu hình thành từ những
năm đầu 90 và phát triển rất chậm thì trong 5 năm gần đây con số này gia tăng một cách
kỷ lục. Năm 2002, doanh số cho vay dưới chuẩn cung cấp cho thị trường khoảng 200 tỷ
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 16
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
USD, năm 2003 là 320 tỷ, năm 2004 là 550 tỷ, năm 2005-2006 con số này đạt gần 700 tỷ
USD hàng năm, chiếm khoảng 25% thị phần cho vay thế chấp mua nhà toàn nước Mỹ.
Kết quả là khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi suất tăng tạo nên gánh
nặng trả nợ với những người thu nhập thấp, thất nghiệp gia tăng thì rủi ro cho vay nợ
dưới chuẩn bị ảnh hưởng nhanh nhất.
Không trả được nợ, hàng loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát mại tài sản.
Cleveland (Ohio) là thành phố đầu tiên châm ngòi cho cuộc khủng hoảng lan rộng ra
toàn nước Mỹ và thế giới. Theo số liệu thống kê, khoảng 1/10 số nhà tại Cleveland bị thu
hồi để phát mại. Những người nhập cư với giấc mơ mua nhà lại trở về tay trắng. Giá nhà
tại Mỹ giảm thảm hại trong Qúy 3 năm 2007, mức tồi tệ nhất từ cuộc khủng hoảng tài
chính năm 1930.
Ngay lập tức, Cục dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương Châu Âu phải
bơm số vốn khổng lồ vào thị trường. Từ tháng 9/2007, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã liên
tục 5 lần cắt giảm lãi suất chiết khấu đồng USD từ 5,25%/năm xuống mức hiện tại 3%/
năm. Đây là những biện pháp rất mạnh nhằm cứu vãn nền kinh tế Mỹ khỏi cuộc khủng
hoảng này.
2.1.3 Hậu quả của cuộc khủng hoảng :
Hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng cho nước Mỹ và thế giới là rất lớn. Thị
trường bất động sản và thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề. Thị trường trái
phiếu hình thành từ chứng khoán hóa bị mất khả năng thanh khoản. Ngành xây dựng Mỹ
đóng góp 15% GDP có thể phải cắt giảm một nửa sản lượng và cắt 1-2 triệu công việc.
Các khoản cho vay thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài sản đảm từ
những ngôi nhà bị sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại (mark to market) của các
gói trái phiếu phát hành bị giảm giá không phanh, đặc biệt là các gói trái phiếu có rủi ro
cao (gói Z). Các nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa nợ dưới
chuẩn là người chịu hậu quả nặng nề. Dự báo số tổn thất do giảm giá trị trái phiếu cho
toàn thị trường lên tới khoảng 220 tỷ – 450 tỷ USD.
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 17
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
Hàng loạt ngân hàng đầu tư trót nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro mà chưa kịp
chuyển giao cho thị trường đã phải ghi nhận các khoản tổn thất lên đến hàng trăm tỷ
USD như Citi (21 tỷ USD), Merrill Lynch (25 tỷ USD), UBS (18 tỷ USD), Morgan
Stanley (10 tỷ USD), JP Morgan (2,2 tỷ USD), Bear Stearns (2 tỷ USD), Lehman
Brothers (1,5 tỷ USD), Goldman Sachs (1,3 tỷ USD). Tổng thiệt hại tài chính của các
ngân hàng đầu tư trong năm 2007 ước tính lên tới gần trăm tỷ USD. Citi và Merrill
Lynch phải cầu viện tăng vốn khẩn cấp từ các quỹ đầu tư Châu Á. Hàng ngàn nhân viên
phố Wall bị sa thải.
Không chỉ thiệt hại về giảm giá trái phiếu, mảng kinh doanh béo bở từ chứng
khoán hóa của các ngân hàng đầu tư cũng bị tạm ngưng hoạt động. Cổ phiếu các ngân
hàng đầu tư rớt thảm hại trong 6 tháng cuối năm 2007. Với tổn thất nặng nề này, các ông
chủ phố Wall lần lượt phải ra đi, cụ thể là các ông chủ UBS, Citigroup, Merrill Lynch và
Bear Stearns.
2.2 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới và Việt Nam:
2.2.1 Đối với thế giới:
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy
thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất khẩu ở
Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và Hong Kong
rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại.
Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động nghiêm trọng
cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức trở thành
khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu
vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng
trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày
thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ, nên
cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá dầu
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 18
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ. Kinh tế các khu vực
trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản xuất và tiêu dùng giảm
cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại.
Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra đã làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp
phần dẫn tới giá lương thực tăng cao trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo
thành một cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn cầu. Nhiều thị trường chứng khoán trên
thế giới gặp phải đợt mất giá chứng khoán nghiêm trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh
mục đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy
Sĩ đã khiến cho các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn
cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở một số nước buộc họ
phải xin trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tiền tệ khi
won liên tục mất giá từ đầu năm 2008
2.2.2 Đối với nền kinh tế Việt Nam
Mặc dù cuộc khủng hoảng không tác động mạnh đến hệ thống tài chính của Việt
Nam do hệ thống tài chính Việt Nam dường như chưa hội nhập chung với hệ thống tài
chính toàn cầu, chúng ta chỉ mới mở cửa tài khoản vốn vào mà hầu như chưa mở cửa
dòng ra, do vậy lượng tiền Việt Nam đầu tư ra bên ngoài dường như không đáng kể và
dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam chưa nhiều, song nền kinh tế nói chung vẫn bị ảnh
hưởng lớn.
- Tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế :
Ở Việt Nam, tốc độ tăng trưởng cũng sẽ chậm lại và thất nghiệp gia tăng. Dự kiến
lúc đầu tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008 sẽ đạt khoảng 6,7%, thấp hơn chỉ tiêu
đã được Quốc hội thông qua là 7%. Tuy nhiên, thực tế năm 2008, tốc độ này chỉ đạt
6,23%, mức thấp nhât trong 9 năm qua. Khủng hoảng tác động tới mọi tầng lớp dân cư
của Việt Nam, trong đó tầng lớp công nhân lao động chịu ảnh hưởng trực tiếp. Sản xuất
bị thu hẹp, số người thất nghiệp sẽ tăng, thu nhập bị giảm sút.
- Tác động tới xuất khẩu của Việt Nam :
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 19
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
Xuất khẩu của Việt Nam đã bị ảnh hưởng khá nhiều từ cuộc khủng hoảng trên đây.
Kinh tế Mỹ suy thoái đã có tác động tới xuất khẩu của Việt Nam, do Mỹ là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Suy thoái hay tăng trưởng kinh tế chậm lại ở Mỹ sẽ
làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, giảm thu nhập và sức mua của người dân Mỹ. Yếu tố này kết
hợp chính sách đồng Đô la yếu nhằm giảm thâm hụt cán cân thương mại hiện nay của
chính phủ Mỹ sẽ khiến xuất khẩu của nhiều nước vào Mỹ giảm.
Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ xuất khẩu
sang Mỹ. Trong 9 tháng đầu năm 2008, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt
16,7%, thấp hơn khá nhiều so với mức 26,7% của năm 2007. Tỷ trọng của thị trường Mỹ
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã giảm, từ 24% của năm 2007 xuống còn
17,7% trong 9 tháng đầu năm 2008.
Cũng cần phải đặt tình hình thương mại của Việt Nam trong mối quan hệ Trung
Quốc - Mỹ: Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc. Sức tiêu dùng của
người dân Mỹ giảm sẽ tác động tiêu cực đối với hàng Trung Quốc xuất sang Mỹ. Tiêu
dùng tại Mỹ giảm sẽ khiến hàng Trung Quốc rẻ hơn và cạnh tranh hơn với hàng Việt
Nam tại thị trường Mỹ. Đồng thời, khi hàng Trung Quốc tiêu thụ ở Mỹ giảm đi, nó sẽ
chuyển hướng sang các thị trường khác tìm đầu ra mới, có thể đưa vào tiêu thụ tại Việt
Nam nhiều hơn, gây áp lực lớn cho nền kinh tế Việt Nam.
Đồng thời, cuộc khủng hoảng đã và đang gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu
Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và châu Âu. Đây là những thị trường xuất khẩu quan
trọng của Việt Nam. Do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các
thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam cũng sẽ có xu hướng giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm, chỉ còn 16,5%, trong khi năm 2007 là 18%.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế cũng đã gây ra những biến động
chưa từng có về giá cả xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của nhiều
doanh nghiệp. Trong nửa đầu năm 2008, giá hàng hóa trên thị trường thế giới leo thang,
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 20
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
gây áp lực tăng chi phí nhập khẩu và đẩy nhập siêu lên cao. Từ cuối tháng 7/2008, giá
hàng trên thị trường thế giới bắt đầu bước vào một đợt thoái trào mạnh, đặc biệt từ tháng
9/2008. Theo đó, xuất khẩu chịu ảnh hưởng nặng. Những biến động của giá cả trên đây
đã đánh đổ hầu hết các dự báo và tính toán của doanh nghiệp, cũng như hoạch định, dự
kiến của nhà điều hành chính sách. Điều này càng gây thêm khó khăn cho xuất khẩu của
Việt Nam.
Tình hình trên đã đưa đến kết quả là xuất khẩu cả năm 2008 chỉ đạt khoảng 64 tỉ
USD, tăng 31,8% so với năm 2007. Xuất khẩu đã giảm không chỉ về số lượng các đơn
hàng, mà cả về giá bán của hàng hóa xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp trong nước, nhất là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn do tiêu thụ hàng hóa giảm và thiếu vốn
đầu tư. Thâm hụt tài khoản vãng bị nới rộng đồng thời các dòng vốn đổ vào (FDI, FPI,
kiều hối) lại ít đi sẽ làm cán cân thanh toán trở nên xấu đi.
- Đối với thị trường tài chính :
Tác động này được thể hiện thông qua việc các khoản nợ ngắn hạn của các doanh
nghiệp Việt Nam gặp khó khăn khi lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng.Tình
trạng cạn kiệt tín dụng trên thế giới đã xảy ra đúng vào lúc tín dụng dành cho khu vực
doanh nghiệp dân doanh ở Việt Nam khan hiếm và lãi suất vay được duy trì ở mức tương
đối cao gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp. Tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân
hàng gia tăng.
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có bị ảnh hưởng nhưng cũng không đáng
kể do sự liên kết giữa thị trường Việt Nam với thế giới là không cao. Điều đáng lo ngại
là nguồn tín dụng thế giới bị hạn chế do tác động của cuộc khủng hoảng làm cho hoạt
động đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm, việc phát hành và huy động vốn trên thị
trường quốc tế là khó khăn và chi phí tăng cao. Việc huy động vốn gián tiếp vào thị
trường chứng khoán cũng khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an
toàn.
2.3. Thực trạng tín dụng dưới chuẩn tại Việt Nam
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 21
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
2.3.1 Tình hình tín dụng dưới chuẩn trong hệ thống ngân hàng Việt Nam :
Trong mấy năm gần đây, tốc độ tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam luôn ở mức
khá cao, các năm 2009 và 2010 tăng trưởng tín dụng đều vào khoảng 30% đến gần 40%
so với năm trước đó, cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng GDP cùng thời kỳ.
Số liệu từ một đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến cuối
tháng 11/2010, nợ dưới chuẩn toàn ngành ngân hàng là 51.085 tỷ đồng, chiếm 2,42%
tổng dư nợ toàn hệ thống, nhưng đáng lưu ý, nợ nhóm 5 (“có khả năng mất vốn”) chiếm
một nửa trong số này.
Đến 30/11/2010, dư nợ cho vay toàn hệ thống đạt 2,108 triệu tỷ VND, tăng 3,15%
so với tháng trước và bình quân 11 tháng qua, mỗi tháng dư nợ tăng 2,15%.
Nếu phân loại toàn hệ thống thành 5 khối và so sánh số liệu tương đối của tháng
11 với tháng 10/2010 thì dư nợ cho vay của khối ngân hàng thương mại cổ phần tăng cao
nhất với 4,35%, tương đương 47.998 tỷ đồng (VND tăng 4,71%; ngoại tệ tăng 2,91%).
Tương tự: khối ngân hàng thương mại liên doanh tăng 2,42%, tương đương 776 tỷ
đồng (VND tăng 3,66%, ngoại tệ tăng 1,02%); khối ngân hàng thương mại nhà nước
tăng 2,1%, tương đương 13.958,66 tỷ đồng (VND tăng 2,1%, ngoại tệ tăng 2,06%); khối
ngân hàng nước ngoài tăng 0,76%, tương ứng tăng 1.254 tỷ đồng (VND giảm 2,78%,
ngoại tệ tăng 2,05%). Khối tổ chức tín dụng phi ngân hàng tăng 0,44%, tương đương
tăng 334 tỷ đồng (VND tăng 0,17%, ngoại tệ tăng 1,3%).
Đáng chú ý, trong khi 4 khối còn lại nợ xấu đều giảm thì khối ngân hàng thương
mại cổ phần có nợ xấu tăng 5,71%, tương đương 1.130 tỷ đồng.
Cũng từ các số liệu trên, có thể thấy rằng, dư nợ ngoại tệ của tháng 11 tăng chậm
hơn dư nợ nội tệ, nhưng khối ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng
vẫn có mức tăng dư nợ ngoại tệ cao.
Như vậy, khi đến hạn trả nợ, những đơn vị có dư nợ ngoại tệ tăng cao không thể
lơ là nếu khách hàng chây ỳ trả nợ, nhất là trong điều kiện rủi ro tỷ giá như hiện nay.
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 22
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, tổ chức tín dụng phân loại nợ theo 5
nhóm. Trong đó, nợ nhóm 3 là “nợ dưới tiêu chuẩn”, nhóm 4 là “nợ nghi ngờ” và nhóm
5 là “có khả năng mất vốn”. Cũng theo số liệu trên thì tính đến cuối tháng 11/2010, nợ
không đủ tiêu chuẩn trở lên (từ nhóm 3 đến nhóm 5) toàn ngành ngân hàng là 51.085 tỷ
đồng, chiếm 2,42% tổng dư nợ toàn hệ thống, tăng 0,16% so với tháng trước.
Phân tích cơ cấu nợ dưới chuẩn toàn hệ thống, thấy rằng, nợ nhóm 5 chiếm tỷ
trọng gần 50%, tăng 8,7% so với tháng trước đó, trong khi nợ nhóm 3 và 4 giảm.
Đặc biệt, nợ nhóm 5 hiện đang trở thành vấn đề đau đầu với một số ngân hàng.
Từ những con số trên, một chuyên gia tài chính cho rằng, mặc dù nợ dưới chuẩn
toàn ngành không cao nhưng có mấy điểm cần lưu ý :
Thứ nhất, đối với vấn đề phân loại nợ thì hiện nay ngoại trừ BIDV và một vài
ngân hàng khác phân loại theo điều 7, còn phần lớn đều phân loại nợ theo điều 6. Sự
khác biệt của điều 7 và 6 ở chỗ, nếu phân loại theo điều 7 thì chuẩn mực cao hơn dẫn đến
nợ xấu có thể cao, còn phân loại theo điều 6 thì ngược lại.
Như vậy, các tổ chức tín dụng phải hết sức xem xét nợ xấu của mình, nhất là khi
chuẩn mực phân loại mới chỉ áp dụng theo điều kiện của Việt Nam, để từ đó hướng việc
phân loại nợ tiệm cận dần với thông lệ quốc tế và những đòi hỏi của nguyên tắc Basel.
Thứ hai, khối nhà nước và khối cổ phần trong hệ thống ngân hàng giữ tỷ trọng dư
nợ tín dụng rất lớn, và nếu nợ dưới chuẩn của hai khối này giảm xuống thì tỷ trọng nợ
xấu toàn ngành sẽ giảm rất mạnh. Bởi lẽ, tính đến cuối tháng 11/2010, nợ nhóm 5 toàn
ngành chỉ chiếm 1,19% tổng dư nợ và gần 50% tổng nợ dưới chuẩn, thì khối nhà nước
chiếm tới 60,12% tổng nợ nhóm 5.
Còn đối với khối cổ phần thì tính đến 30/11/2010 nợ nhóm 5 chỉ chiếm 0,73%
tổng dư nợ (tăng 6,19% so với tháng trước), nhưng chiếm 33,43% nợ nhóm 5 toàn ngành
và có tới 38/39 đơn vị có nợ nhóm 5. Cá biệt chỉ có ngân hàng Bảo Việt không có nợ
nhóm 5.
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 23
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
Thứ ba, trong điều kiện hiện nay, khi sức sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp
chưa hoàn toàn bình phục thì việc tiếp tục đẩy mạnh tín dụng là điều mà các tổ chức tín
dụng phải hết sức lưu ý. Và các cổ đông cũng nên chia sẻ những khó khăn này với ban
điều hành các ngân hàng. Bởi xét đến cùng, tăng trưởng tín dụng nhưng đồng vốn không
được hấp thụ như mong đợi mà lẩn khuất ở những nơi không tạo ra của cải và việc làm,
thì chỉ khiến gia tăng nợ xấu mà thôi.
2.3.2 Nguyên nhân :
- Vấn đề mô hình của hệ thống ngân hàng
Theo Khoản 2, Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành
năm 1997 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004 thì các loại hình ngân hàng ở Việt Nam
bao gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Nhưng dưới gốc độ lập
pháp thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng về chức năng của từng
loại ngân hàng. Đặc biệt, chưa có một văn bản pháp quy nào được ban hành để điều
chỉnh hoạt động của ngân hàng phát triển và NHĐT - là những hoạt động kinh doanh
ngân hàng có rủi ro cao nhất. Chính sự mập mờ này đã tạo điều kiện cho các NHTM, các
CTTC “lấn sân”. Và trên thực tế, nhiều NHTM và các CTTC đã “không ngần ngại” đầu
tư vào bất động sản và chứng khoán đã mang lại không ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp
phần không nhỏ vào việc đẩy nền kinh tế đi đến lạm phát thời gian qua.
- Sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đặc
biệt là các CTTC
Cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta đã có trên 80 ngân hàng thương mại và trên
20 công ty tài chính. Phần lớn các CTTC đều có nguồn góc vốn góp từ các tập đoàn kinh
tế, các tổng công ty nhà nước lớn. Với vai trò tạo vốn và điều hoà vốn giữa các thành
viên trong tập đoàn, tổng công ty, cho nên CTTC dễ dàng bỏ qua những chuẩn mực cần
thiết của hoạt động tín dụng trong việc tài trợ vốn cho các thành viên, các dự án của tập
đoàn và tổng công ty. Điều này không những làm cho rủi ro tín dụng tăng lên mà còn
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 24
Tiểu luận Tài chính tiền tệ GVHD:TS Diệp Gia Luật
làm tăng nguy cơ “hiệu ứng dây chuyền” khi thị trường tiền tệ hoặc lĩnh vực kinh doanh
chính của tập đoàn, tổng công ty có biến động mạnh. Việc có quá nhiều ngân hàng (trong
đó, có khoản 25% ngân hàng có hiệu quả kinh doanh hạn chế) và các CTTC sẽ dẫn đến
hai nguy cơ lớn là khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh ổn định và khả năng
quản trị ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay.
- Tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín dụng khá cao cũng
đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không nhỏ.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hễ giá bất động sản tăng lên thì thông thường nó là
hệ quả của (hoặc đi kèm với) một cơn sốt cung tín dụng trong ngành ngân hàng hoặc sự
nới lỏng chính sách tiền tệ, hay sự dư dả thanh khoản trên thị trường tiền tệ. Sau đó, nếu
chính sách tiền tệ bị thắt chặt hoặc giá bất động sản tụt giảm thì rủi ro tín dụng sẽ tăng
mạnh. Quan hệ giữa giá bất động sản và dư nợ cho vay bất động sản vì thế phải được
giám sát chặt chẽ. Bản chất của cho vay cầm cố là cho vay trong một thời hạn dài, đi
kèm với lãi suất thấp, cũng có thể sẽ ảnh hưởng mạnh đến các ngân hàng nếu lãi suất
tăng lên mạnh. Hơn nữa, mức độ cạnh tranh tăng lên cũng sẽ dẫn đến sự dễ dãi trong tiêu
chuẩn cho vay, là điều mà khi giá bất động sản tụt giảm sẽ làm tăng mạnh mức độ rủi ro
tín dụng mà các ngân hàng phải đối mặt.
Trong trường hợp của Việt Nam, giá bất động sản đã tăng chóng mặt cho đến tận
đầu năm nay. Nguồn gốc của bong bóng bất động sản bắt nguồn từ tình trạng dư dả tín
dụng trên thị trường tiền tệ do chính sách tiền tệ nới lỏng của Ngân hàng Nhà nước, đi
kèm với nó là sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán, với một lượng lợi nhuận
khổng lồ đã được những nhà đầu tư chứng khoán thành công rút ra khỏi thị trường chứng
khoán đổ vào thị trường bất động sản, bên cạnh những tác nhân khác như sự thông
thoáng hơn về môi trường kinh doanh cho các nhà đầu tư phát triển bất động sản. Lạm
phát bắt đầu tăng từ năm trước cũng là một yếu tố kích thích cơn sốt đầu tư vào bất động
sản như một công cụ để phòng tránh lạm phát trong bối cảnh lãi suất tiền gửi VND và
USD ở mức thực âm.
HVTH: Nhóm 3-Lớp Đ11-CHKT K20 25